kết quả từ 1 tới 12 trên 12

Ðề tài: Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Đai Đen Avatar của laduykhanh
    Gia nhập
    Feb 2008
    Nơi cư ngụ
    Tu viện Drikung Kagyupa
    Bài gởi
    540

    Mặc định Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni

    Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni Bằng Âm Phạn

    Arya Sarva Tathagata Adhisthana Hrdaya Guhya Dhatu Karanda Mudra Nama Dharani


    Namas Triya-dhvikanam Sarva Tathagatanam.
    Om Bhuvi Bhavana Vare Vacale Vacatai. Curu Curu, Dhara Dhara, Sarva Tathagata Dhatu Dhare Padmam-bhavati Jaya Vare Mudre Smara. Sarva Tathagata Dharmacakra-pravartana. Vajra Bodhi-manda Alam-kara Alam-krte. Sarva Tathagata Adhisthite Bodhaya Bodhaya, Bodhi Bodhi, Buddhya Buddhya, Sam-bodhani Sam-bodhaya. Cala Cala Calantu Sarvavaranani. Sarva Papa Vigate Huru Huru Sarva Soka Vigate. Sarva Tathagata Hrdaya Vajrani. Sam-bhara Sambhara, Sarva Tathagata Guhya Dharani Mudre. Buddhi Su Buddhi. Sarva Tathagata Adhisthita Dhatu Garbhe Svaha. Samaya Adhisthite Svaha. Sarva Tathagata Hrdaya Dhatu Mudre Svaha. Su-pratisthita Stupe Tathagata Adhisthite Huru Huru Hum Hum Svaha. Om Sarva Tathagata Usnisa Dhatu Mudrani. Sarva Tathagatam Sad-dhatu Vi-bhusita Adhisthite Hum Hum Svaha.


    Kinh Nhứt Thiết Như Lai Tâm
    Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp
    Ấn Đà-La-Ni
    Phật Lịch 2541
    Như thật tôi nghe, một thời đức Phật ở tại nước Ma-Già-Đà trong vườn vô cấu ao bửu quang-minh, cùng đại Bồ Tát và đại Thanh Văn, Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thác Bà, A-Tu-La, Ca-Lâu-La, Khẩn-Na-La, Ma-Hầu-La-Già, người cùng phi nhân.v.v. vô lượng trăm ngàn trước sau đoanh vây nhiểu.
    Lúc bấy giờ trong chúng có đại Bà-la-môn tên là Vô Cấu Diệu Quang, đa văn thông huệ, mọi người ưa mến, thường tu hành thập thiện, quý kính tam bảo, tâm lành ân trọng, trí huệ vi tế, thường hằng muốn cho hết thảy chúng sanh được viên mãn lợi lành, giàu lớn phong nhiêu.
    Bấy giờ Bà-la-môn Vô Cấu Diệu Quang từ tòa đứng dậy, qua đến chổ Phật, nhiểu Phật bảy vòng, đem các hương hoa phụng dâng Thế Tôn Diệu y vô giá, chuỗi ngọc anh-lạc, trân châu quý giá dâng lên đức Phật, đảnh lễ hai chân rồi lui ngồi một bên mà thưa thỉnh rằng: " Cúi mong Đức Thế-Tôn và cùng các đại chúng, ngày mai buổi sáng, đến vào nhà con, thọ sự cúng dường cửa con."
    Lúc bấy giờ Đức Thế-Tôn lặng thinh hứa khả và Vô Cấu Diệu Quang Bà-la-môn biết Phật thọ thỉnh liền trở về nhà, ngay trong đêm ấy rộng bày thi thiết trăm vị ăn uống cao lương mỹ vị, lau quét điện đường, treo các tràng phan, bảo cái, đến sáng xong rồi cùng các quyến thuộc cầm các hương hoa và các âm nhạc đến chổ Đức Như-Lai mà bạch Phật rằng :
    " Đã đến giờ cúi mong Ngài giáng lâm." Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nhỏ nhẹ dặn dò, an ủi Bà-la-môn Vô Cấu Diệu Quang kia và bảo khắp đại chúng và tuyên bố rằng :
    "Các ông đều nên qua đến nhà Bà-la-môn kia để nhiếp thọ sự cúng dường vì muốn cho Bà-la-môn này được đại lợi ích."
    Nói thời ấy, Đức Thế-Tôn liền từ tòa đứng dậy, vừa đứng khỏi tòa, từ thân Phật tuôn ra các thứ hào-quang sáng, các sắc mầu nhiệm xen nhau chiếu soi làm kinh-động mười phương và kỉnh giác hết thảy nhiên hậu mới đi. Lúc ấy Bà-la-môn đem lòng thành kính, cầm các hương hoa mầu nhiệm, cùng các quyến thuộc và thiên long bát bộ, Thích Phạm, Tứ Vương đi trước sửa sang đường sá phụng dẫn Như-Lai.
    Bấy giờ Đức Thế-Tôn, trước đường không xa, đến trong một khu vườn gọi là Phong tai. Trong vườn kia, có một cổ tháp xưa hư nát, rơi rớt, gai gốc mọc đầy, cỏ cây che lấp, cửa nẻo gạch ngòi vùi lấp đường như gò đất. Bấy giờ Đức Thế-Tôn dòi gót, bước qua chỗ tháp. Trên tháp phóng đại hào quang chiếu sáng rực rỡ, nơi trong đất phát ra tiếng khen ngợi rằng : "Lành thay, lành thay, Thích Ca Mâu Ni ngày nay đã làm cực thiện cảnh giới lại nữa Bà la-môn : ông nơi lành". Bấi giờ Đức Thế-Tôn lể tháp mục kia, nhiểu quang ba vòng, cởi y trên thân phủ lên tháp ấy, đôi mắt rơi lệ, khóc rồi ngài mỉn cười. Đương khi ấy mười phương chư Phật xem thấy cũng đều rơi lệ và phóng hào quang đến chiếu nơi tháp ấy. Thấy thế Đại chúng kinh ngạc đổi sắc, cùng nhau cầu Phật giải điều nghi ấy. Bấy giờ Kim Cang Thủ Bồ Tát cũng đều rơi lệ oai quang hừng hẩy như lủa đỏ, cầm chày múa quanh, qua đến chỗ Phật, bạch Đức Thế-Tôn rằng : "Nhơn duyên này thế nào mà hiện ánh tướng hào quang ấy? Cớ chi Đức Như Lai rơi lệ như thế? Mười phương chư Phật cũng lại có điềm hào quang tướng sáng hiện tiền. Cúi mong Đức Như-Lai đối với đại chúng này mà giải nghi cho." Bấy giờ Đức Phật dạy:
    "Này Kim Cang Thủ: Đại toàn thân xá lợi của Như Lai tích chứa trong bảo tháp này. Tất cả Như Lai vô lượng cu chi Tâm Đà-La-Ni mật ấn pháp yếu nay ở tại trong ấy. Này Kim Cang Thủ : vì có pháp yếu này ở tại trong đó cho nên tháp này biến làm trùng điệp câu chi trăm nghìn thân Như Lai nhóm từ trong đó. Cho đến tám vạn bốn nghìn pháp uẩn cũng tại trong đó, ngàn vạn cu chi Như Lai đảnh tướng cũng ở trong đó trùng điệp như hạt mè nối nhau. Do việc mầu nhiệm ấy cho nên chổ tháp này có đại thần nghiệm thù thắng oai đức, hay mản tác cả vui mừng lành tốt trong thế gian."
    Bấy giờ đại chúng nghe Phật ngài nói đều xa lìa được trần cấu, dứt các phiền nảo, đắc pháp nhản tịnh bao nhiêu chúng bấy giờ được lợi ích khác nhau. Có người chứng được tu đà hoàn quả, A-na-hàm, A la hớn quả, có kẻ chứng được Bích-chi Phật, Bồ Tát, A-bệ-bạc-trí ( Bồ-tát bất thối ) Tác-bà nhả trí ( Nhất thiết trí ) rồi lại có vị chứng được Sơ-địa Nhị-địa cho đến Thập-địa, hoặc có vị đầy đủ sáu Ba-la-mật. Bà-la-môn kia cũng lìa được trần cấu và chứng ngủ thần thông. Bấy giờ Kim Cang Thủ thấy việc đặc biệt ít có này bạch đức Phật rằng: "Thật mầu nhiệm thay, thật là lạ thay! Chỉ nghe việc này mà còn chứng hoạch công đức thù thắng như thế, huống nữa nghe được thâm lý, chí tâm khởi lòng tin thì đắc biết bao là công đức!". Phật dạy: "Này ông Kim Cang Thủ, ông hãy lắng nghe:
    Đời sau nếu có kẻ trai lành người gái tín và bốn bộ đệ tử của ta: Phát tâm chép viết một cuốn kinh này, tức là đồng bằng chép viết chín mươi chín trăm nghìn vạn cu chi hết thảy kinh điển của Như Lai đã nói và cũng được tất cả các đức Như Lai gia trì hộ niệm thương yêu như đôi tròng mắt, cũng như mẹ hiền thương con trẻ. Nếu người đọc tụng một quyển kinh này liền bằng đọc tụng quá khứ, hiện tại, vị lai kinh diển của chư Phật. Do như thế đó nên chín mươi chín trăm nghìn vạn cu chi hết thảy Như Lai ứng chánh đẳng giác kín khắp không chổ hở cũng như hạt mè trùng điệp đến đây. Ngày đêm hiện thân gia trì cho người tu hành. Vô số hằng hà sa hết thảy các đức Như Lai như thế trước tụ tập chưa đi, số sau trùng điệp mà đến, phút chốc đi rồi trở lại, thí như cát nhỏ ở tại dòng nước xoáy không lúc nào dừng nghỉ. Nếu có người lấy hương hoa, tràng hoa hay y phục mầu nhiệm trang nghiêm đầy đủ để cúng dường kinh này, cũng như trước mười phương chín mươi chín trăm nghìn vạn cu chi Như Lai kia mà cúng dường hương hoa của chư thiên. Y phục trang nghiêm đầy đủ bảy báu chứa đầy núi tu di đem cúng dường. Phước lành hai bên đều giống nhau không khác."

    Lúc bấy giờ, thiên long bát bộ, người cùng phi nhơn nghe lời nói ấy rồi, mỗi mỗi đều ôm lòng hy hửu lạ thay cùng nhau nói lên rằng: "Lạ thay oai đức đống đất củ này thần lực của Như Lai đã gia trì cho nên có thần biến." Kim Cang Thủ lại bạch Đức Phật rằng: "Kính thưa Thế-Tôn, vì nhân duyên gì mà thất bảo tháp lại hiện làm đống đất?"
    Phậy dạy: "Này Kim Cang Thủ! Đây không phải là đống đất mà là thù diệu đại bảo tháp vậy. Do nghiệp quả của các chúng sanh kém thiếu cho nên ẩn che mà không hiện. Do tháp ẩn chư toàn thân Như Lai không thể hủy hoại, chẳng lẻ Kim Cang tạng thân của Như Lai mà có thể hoại sao? Sau khi ta diệt độ, đời mạc pháp gặp thời bức bách, nếu có chúng sanh nào tập hành phí pháp đáng đọa địa ngục, không tin tam bão, không trồng căn lành, vì nhơn duyên đó nên Phật pháp phải ẩn mất. Tuy thế mà tháp cũng vẫn bền chắc không hoại diệt. Tất cả thần lư6c của Như Lai đã gia trì, chúng sanh vô trí bị hoặc chướng che lấp, luống uổng trân bảo mà không biết xử dụng. Vì việc ấy cho nên ta rơi lệ, các Đức Như Lai kia cũng đều rơi lệ.: Lại nữa Phật dạy: "Này Kim Cang Thủ! Nếu có chúng sanh chép viết kinh này để trong tháp, tháp đó tức là Kim Cang Tạng suất đổ ba của hết thảy Như Lai, cũng là Tâm-Đà-La-Ni bí mật gia trì, suất đổ ba của hết thảy Như Lai tức là chín mươi chín trăm ngàn vạn cu chi Như Lai. Suất đổ ba cũng là Phật đảnh, Phật nhản tức là hết thảy Như Lai đại thần lực gia hộ.
    Nếu trong Phật tượng, trong tháp nhiều từng mà an trí kinh này, tức như tượng kia do bảy báu mà thành linh nghiệm ứng tâm không nguyện gì mà không viên mản. Với tháp báu ấy dùng tán cái lọng tàn, hoặc màng trướng, hoặc luân đường, hoặc mâm đồng cúng dường, hoặc chuông, hoặc linh trang sức tùy sức bày biện bốn bên, hoặc thổ hoặc mộc, hoặc đá hoặc gạch do oai lực của kinh tự thành thất bảo. Hết thảy Như Lai đối với kinh điển này thêm phần oai lực cho tháp kia.
    Lấy lời thành thật gia trì không ngừng nghỉ. Nếu có hữu tình đối với tháp này dùng một cây hương, một cành hoa lể bái, cúng dường thì tám chục ức kiếp trọng tội thảy đều tiêu diệy, sống khỏi tai ương, chết sanh cỏi Phật. Nếu cò hữu tình đáng đọa Địa-ngục A-tỳ; nếu đối với tháp này một phen lể bái, một lần hửu nhiểu cửa địa ngục đóng bít, đường Bồ-đề mở thông. Nơi chổ tháp và hình tượng thần lực của tất cả Như Lai đã gia hộ. Chổ ấy không bị gió bảo, chớp nhán sấm sét làm hại, không bị độc xà, rắn rít bồ cạp, độc trùng, độc thú làm tổn thương, không bị sư tử, voi điên, cọp beo, dã cang, ong nhện làm thương hại, cũng không bị dược xoa, la sát, bộ đa ma, tỳ xá gia, ly mỵ, vọng lượng điên cuồng lo sợ, cũng không bị tất cả bịnh lạnh nóng, bịnh ghẻ lở, ghẻ ung thư, ghẻ phỏng, ghẻ hờm, lác hủi làm nhiểu bịnh. Nếu có người tạm thấy tháp này thì có thễ trừ các tai nạn. Chổ ấy cũng không có người ngựa, lục súc, đồng tử, đồng nữ, các hoạn dịch bịnh, không bị hoạch tử yểu vong, không bị trộm cướp oán thù xâm hại, cũng không bị lo buồn đói khát thiếu thốn, ếm mị trù rủa. Không thể rình tìm hảm hại. Tứ đại Thiên vương cùng các quyến thuộc ngày đêm hộ vệ. Hai mươi tám bộ đại dược xoa tướng, Nhựt nguyệt ngủ tinh, trang vân tuệ tinh ngày đêm hộ trì. Tất cả long vương cho thêm tinh khí, thuận thời mưa xuống, tất cả các chư thiên cùng đao lợi thiên ba thời giáng đến để mà cúng dường. Tất cả chư thiên ba thời vân tấp, ca ngâm triều nhiểu lể tạ chiêm ngưởng. Thích đề hoàn nhơn cùng các thiên nữ ngày đêm ba thời giáng xuống cùng dường. Chổ kia tức là hết thảy Như Lai hộ niệm gia trì. Vì trong tháp dể kinh này nên được như thế. Nếu có người làm tháp lấy đất đà, cây, vàng bạc, đồng chì, chép thần chú nầy để trong ấy, vừa an trí rồi tháp kia tức thành bảy báu, trên dưới thềm bực lộ bày dù lọng, chuông linh, luân đường thuần là bảy báu. Tháp kia là hình tướng bốn phương Như Lai, do pháp yếu đó nên hết thảy Như Lai kiên trụ hộ trì ngày đêm không rời. Tháp bảy báu kia là Diệu Bảo Tàng toàn thân xá lợi. Vi Oai lực của thần chú vọt cao, cao đến cung A-Ca-Ni trà thiên mà trong chổ tháp đứng trơ trọi. Tất cả chư thiên ngày đêm chiêm ngưởng thủ hộ cúng dường. Kim Cang Thủ thưa rằng: "Vì nhơn duyên gì mà tháp này thú thắng công đức như thế?" Phật dạy: "Phải biết là nhờ thần lực bảo kiếp ấn Đà-La-Ni này" Kim Cang Thủ thưa rằng: "Cúi mong Đức Như Lai thương xót chúng con nói Đa-La-Ni ấy."
    Phật dạy: "Hãy lắng nghe suy nghĩ, chớ nên quên làng! Hiện tại vị lai hết thày Như Lai quang nghi phân thân qua khứ chư Phật toàn thân xá lợi đều ở tại Bảo Kiếp ấn Đà-La-Ni, là chổ ba thân của các đức Như Lai cũng ở tại trong ấy."
    Lúc bấy giờ đức Thế-Tôn liền nói Đà-La-Ni rằng:
    Na Ma Tác Đát Lị Dã, Địa Vĩ Ca Nẩm Tát Bà Đát Tha Nghiệt Đa Nẩm Úm Bộ Vĩ Bà Phạ Na Phạ Lị, Phạ Dã Lê, Phạ Dã Trai, Tô Rô Tô Rô Đà Ra Đà Ra Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa, Đà Đổ Đà Lê Bát Na Mẩm Bà Phạ Đế Nhạ Dã Phạ Lê. Mẩu Đát Lê Tát Ma Ra Đát Tha Nghiệt Đa. Đạt Ma Chước Ca Ra Bát La Mật Lật Đa. Na Phạ Nhật La Mạo Địa Mản Noa, Lăng Ca Ra, Lăng Hật Rị Đế Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa Địa Sắc Sỉ Đế. Mạo Đà Giả, Mạo Đà Giả, Mậu Địa Mâu Địa, Một Đình Giả Một Đình Giả. Sám Mạo Đà Nể Sám Mạo Đà Giả, Giả Lả Giả Lả. Giả Nại Đô Tát Phạ Phạ Ra Nỏa Nể, Tát Phạ Bá Ba Vĩ Nghiệt Đế. Hô Rô, Hộ Rô Tát Phạ Thú Ca Nhị Nghiệt Đế. Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa. Hất Rị Ra, Tam Bà Ra, Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa. Ngu Hế Giả Đà Ra ni Mẩu Niết Lê, Ra Một Duệ, Tô Một Đệ, Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa Hật Phạ Hạ. Tô Bát La Để Sắc Sỉ Đa Tát Đổ Bế Đát Tha Nghiệt Đa Địa Sắc Sỉ Đế. Hộ Rô Hộ Rô Hồng Hồng Ta Phạ Ha.
    Úm Tát Phạ, Đát Tha Nghiệt Đa, Ổ Sắc Xỉ Sa Đà Đổ Mẩu Nải Ra, Ni Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đơn Ta Đà Đổ Vỉ Bộ, Sử Đa Địa Sắc Sỉ Đế Hồng Hồng Ta Phạ Ha. ( Tụng 7 hoặc 21 lần )
    Lúc bấy giờ, Phật nói thần chú ấy rồi, chư Phật Như Lai, từ trong đống đất phát ra tiếng khen rằng: "Lành thay ! Lành thay ! Thích Ca Thế Tôn, vì lợi ích chúng sanh không nơi nương tựa mà xuất thế trong đời ác trược để diễn nói pháp sâu mầu, pháp yếu như thế cửu trụ ở thế gian, nhiều lợi ích rộng lớn, an ổn khoái lạc."
    Bấy giờ Phật dạy Kim Cang Thủ rằng: "Hãy lắng nghe pháp yếu như thế, thần lực vô cùng, lợi ích vô biên, thí như trên cây có treo ngọc Như ý Bảo châu thường mưa tất cả trân bảo, mãn tất cả mong cầu. Ta nay chỉ lược một phần trong vạn phần, ông nay nên nhờ trì vì lợi ích hết thảy. Nếu có người ác chết đọa địa ngục, thọ khổ vô gián, không có ngày ra khỏi, nếu có con cháu của người ấy xưng tên của vong nhơn, tụng thần chú ở tren vừa mản bảy biến, thì ở địa ngục nước đồng sôi, hòn sắc nóng bổng nhiên biến thành ao nước mát. Có tám thứ công đức, liền sanh hoa sen đỡ chân người ấy, tàng báu che đầu. Cửa địa ngục phá nát, đạo bồ đề khai mở, hoa sen kia bay thẳng về thế giới Cực Lạc, Nhứt thiết chủng trí tự nhiên hiện phát, vui sướng vô cùng, được ngôi vị bổ xứ.
    Lại có chúng sanh tội báo sâu nặng trăm bệnh chiêu nhóm đến thân, tâm thần đau khổ bức bách. Tụng thần chú này hai mươi mốt biến, trăm bệnh vạn nảo một thời tiêu diệt, thọ mạng diên trường phước đức vô lậu.
    Nếu có người vì nghiệp đời trước xan tham cho nên sanh trong nhà bần cùng áo không đủ che thân, cơm không đủ no miệng, ốm gầy xấu xí, mọi người ghét mắng. Người ấy xấu hổ vào núi bẻ những hoa thơm đặc biệt, hoặc mài cây mục để lấy hương thơm, qua đến tháp ( tháp để kinh này ) lể bái cúng dường, nhiểu quanh bảy vòng rơi lệ hối lổi. Do sức thần chú và oai Đức của tháp diệt được quả báo nghèo cùng, thoạt đến giàu sang bảy báu tuông như mưa không còn thiếu thốn. Lúc này chỉ nên cúng dường Phật pháp và bố thí cho kẻ nghèo cùng, nếu còn xan lẩn tích chứa thì tài bảo tử nhiên mất.
    Nếu có người vì muốn trồng căn lành tùy phần tạp tháp hoặc bùn hoặc sành, tùy sức bày biện lớn như trái yêm ma cao bốn lớng tay, chép viết thần chú an để trong tháp kia.
    Khi an để xong đem hương hoa dâng, lể bái cúng dường, nhờ chú lực kia và lòng tín thành từ trong tháp nhỏ xuất ra mùi đại hương thơm kia trùm che như mây trời, hào quang chu biến khắp pháp giới. Mùi thơm xông ngát, ánh sáng chiếu diệu, rộng lành Phật sự đã được công đức như trên đã nói.
    Tóm lại mà nói, không có nguyện gì mà không viên mãn. Nếu có bốn chúng để tử, trai lành gái tín trong đời pháp, vì đạo vô thượng tận lực tạo tháp an trí thần chú, chổ được công đức nói không thể hết.
    Nếu có người cầu phước đến chổ tháp kia đem một cành hoa thơm, một nén hương quí, lể bái cúng dường, nhiểu quanh hành đạo, do công đức ấy quan chức quyến cao không cầu mà tự đến, sống lâu giàu có không mong mà tự tăng, oan gia trộm cướp không đánh mà tự chạy, oán niệm trù rủa không ếm mà trở về gốc. Dịch bệnh tà khí không lánh mà tự tránh, chổn hiền vợ thảo không cầu mà tự được, trai hiền, gái đẹp không cầu mà tự sanh. Tất cả sở nguyện tùy ý đẩy đủ.
    Nếu những loài chim quạ, sẻ, tu hú, cú, bồ câu lâm li, chó sói, dã can, muổi mòng, kiến, ruồi chạm đến hình tháp, đạp cỏ trên nền tháp, liền phá được các hoặc chướng, giác ngộ vô minh, liền nhập vào cỏi Phật lảnh thọ pháp tài, huống là những người hoặc thấy hình tháp, hoặc nghe tiếng chuông khua, hoặc nghe danh tháp kia tội chướng thảy đều tiêu diệt, sở cầu như ý, hiện đòi an ổn, hậu sanh cực lạc, hoặc có người tùy sức lấy một hòn đá kê chổ tháp bi. nghiêng do công đức này, tăng phước diên trường thọ mạng, sau khi mạng chết thành chuyển luân vương.
    Nếu sau khi ta diệt độ, bốn chúng để tử đối nơi trước tháp, muốn cứu giúp cỏi khổ thì nên cúng dường hương hoa, chí tâm phát nguyện tụng niệm thần chú, vân vân, cú cú phóng đại quang chiếu xuất đến tam đồ khổ sở đều tiêu, chúng sanh ấy thoát khổ, mần Phật liền sanh, tùy ý vãng sanh mười phương tịnh độ.
    Nếu có người đi thẳng lên chót núi cao chí tâm tụng chú, tầm mắt phóng đến chổ nào như núi, hang, rừng, đồng suối, hồ sông, biển, trong ấy đã có những loài lông mao, lông vũ, vảy, vi sừng gạt đều tan hoặc chướng, giác ngộ vô minh hiển hiện ba món Phật tánh, rốt ráo an ở trong cỏi đại niết bàn.
    Nếu cùng người trì chú qua đến đạo lộ hoặc gió thổi chạm y, hoặc chân đạp trên dấu chân người kia, hoặc chỉ thấy mặt, hoặc tạm lời nói nhau, hết thảy người được gặp như thế trọng tội đều tiêu diệt, tất địa viên mãn.
    Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Kim Cang Thủ rằng: "Nay kinh điển bí mật thần chú này giao pho cho các ông, hãy tôn trọng hộ trì lưu bố trong thế gian, khiến cho sự truyền thọ đối với chúng sanh không được đoạn tuyệt."
    Kim Cang Thủ thưa rằng: "Con nay may mắn được Đức Thế-Tôn giao phó, cúi mong Đức Thế-Tôn, chúng con vì muốn báo thâm trọng ân đức của Đức Thế-Tôn, ngày đêm hộ trì lưu bố, tuyên dương hết thảy cho dân gian.
    Nếu có chúng sanh viết chép thọ trì, nhớ niệm không quên mất, chúng con sẽ sai khiến Thích, Phạm, tứ vương, long thần bát bộ ngày đêm thủ hộ không tạm bỏ rơi người trì chú này."
    Phật dạy: "Lành thay Kim Cang Thủ! ông vì tất cả chúng sanh ở đòi vị lai rộng làm đại lợi ích cho nên hộ trì pháp này khiến không đoạn dứt."
    Bấy giờ Đức Thế-Tôn nói bảo kiếp ấn Đa-La-Ni, rộng làm Phật sự. Nhiên hậu qua nhà Bà-la-môn kia thọ các món cúng dường, khiến thòi bấy giờ nhơn thiên thâu hoạch được đại phước đức.
    Bấy giờ đại chúng tỳ khưu, tỳ khưu ny, ưu bà tắc, ưu bà di, thiên long, dạ xoa, càn thác bà, a-tu-la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, người cùng phi nhơn v.v.... đều đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.



    Đây là thần chú bảo khiếp ấn đà la ni .
    Nên in ra và bỏ vào tháp ...




    Nguyện cho tất cả chúng sanh biết được lợi lạc vô biên của Thần chú này .
    Last edited by laduykhanh; 14-08-2008 at 09:01 AM.
    Lama Drikung Konchog Tinley
    :yb663:Namo Gurube:yb663:

    Thiền quán mà chẳng học Pháp thì như leo núi mà chẳng có chân.
    Học Pháp mà chẳng thực hành thì là bơ bị chua đáng bỏ.

    Y!: laduykhanh

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •