Lần đầu tiên tham gia vào diễn đàn này, mình xin chia sẽ cùng quí bạn một bài viết nhỏ mà qua đó mình muốn gửi gấm nhiều tâm sự về cõi vô hình. Ngưỡng mong các bạn cùng xem và góp ý.

--------------
Tôi xin phép kể lại câu chuyện sau đây, câu chuyện đã thay cách nhìn của tôi rất nhiều về con người, về những linh hồn và tất cả chúng sanh trong vũ trụ này.

Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Vào thuở ấy có 2 vị tu sĩ rất đạo hạnh, tu hành tinh tấn, phước đức nhiều, đông đệ tử và uy tín rất cao. Với lòng kính yêu và sùng bái, học trò đã dần dần mang lại sự giàu sang và quyền thế cho hai Thầy, đã đưa thầy họ đến chỗ tự cao, ngã mạn, phạm nhiều giới luật và luật pháp. Rồi cuối cùng hai vị thầy đã bị chính quyền thời bấy giờ bắt giam vào ngục tối.

Nơi tù lao, trong sôi sục căm hờn và ước muốn trả thù, hai ông đã nguyền rủa những ai đã đẩy mình vào tình cảnh thê thảm thế này. Hai ông đã nhờ những đệ tử thân tín cuối cùng mang hết của cải vật chất đã thu gom được, cúng dường cho những người đang tu tập và xin họ cầu nguyện rằng: “cầu cho vị thí chủ này đạt thành tâm nguyện.”

Việc chúc cho thí chủ đạt thành tâm nguyện là chuyện rất thường nên không một ai biết rằng chính lời cầu nguyện xuất phát từ những đức hạnh và định lực thâm sâu của họ đã mau chóng giúp cho 2 ông đạt thành tâm nguyện kinh khủng: “Hai ta nguyện đời sau sẽ làm quỉ vương để trả mối hận này”.

Sau cái chết, hai vị thánh tăng năm xưa bây giờ trong bộ mặt của những con quỉ dữ với sức mạnh vô song của lòng thù hận điên cuồng. Hai con quỉ này đi đến đâu thì làng mạc nơi đó nhuốm màu chết chóc và đọa lạc. Chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai… bắt đầu lan tràn khắp nơi.

Sư tổ đời thứ 3 sau Đức Phật, trong đại định nghe chấn động tâm can. Ngài liền quan sát thế gian, thấy 2 con quỉ đang gieo rắc tai họa khắp nơi. Động lòng từ bi và quán thấy nhân duyên của mình với 2 người này, Ngài bèn rời khỏi sơn động để đi nhiếp phục 2 con quỉ này.

Một cuộc đọ sức giữa hai thế lực thiện ác đã diễn ra. Ánh sáng của sự giác ngộ, của lòng đại bi và định lực kiên cố đã từ từ cảm hóa và nhiếp phục được 2 con quỉ vương hung tợn. Họ sụp người cúi lạy và sám hối với tổ sư. Sự cố chấp đã buông xuống, từ đó họ đi theo sư tổ để tu tập. Câu chuyện đến đây chấm dứt nhưng tôi đoán rằng chẳng bao lâu sau, họ cũng sẽ trở thành những vị thánh đức với lòng đại bi và trí huệ sáng suốt. Họ sẽ trở lại với con người trong một hình thức khác của một tâm thức Giác ngộ và tràn ngập yêu thương.

Câu chuyện này đã đánh thức tôi về tâm bình đẳng và lòng yêu thương trọn vẹn, bớt đi sự phân biệt giữa các chúng sanh dù họ đang mang hình thái của sự tàn ác, dã man, dù họ là chúng sanh hữu hình hay vô hình. Chuyện nầy cũng nhắc tôi nhớ đến hình ảnh đáng yêu của một vị bồ tát tên “Thường Bất Khinh”, một tiền thân của đức Phật. Ngài “Thường Bất Khinh” đi đến đâu, gặp ai, lớn nhỏ, giàu nghèo, cao hạ gì Ngài cũng cúi đầu rất thành kính. Ngài biết rằng “bản thể” của mỗi chúng sinh là “Một Vị Phật”, chỉ bởi mê lầm mà còn lặn hụp trong các nẻo thiện ác liên miên đó thôi.

Cái gọi là thiện ác, tốt xấu, âm dương… luôn chuyển hóa không ngừng. Trong cực âm đã bắt đầu sanh dương và cực dương đã sanh âm. Người Tây Tạng cũng thường mô tả việc nầy một cách giản dị qua những vở kịch dân gian: từ những nhân vật cực thiện, đại diện cho lòng từ bi và trí huệ, vừa mới đó, trong trang phục và bộ mặt của bồ tát Văn Thù, dỡ bỏ cái lớp nặt nạ này xuống là hiện ra khuôn mặt hung tợn của một quỉ vương trong điệu múa điên cuồng, rồi động tác “lột mặt nạ” ấy lập lại, bỗng chốc từ khuôn mặt hung thần biến thành một khuôn mặt nhân từ của một bồ tát.

Cách đây vài năm, tôi có dịp viếng thăm một trại tù, khi ấy tôi nghe trong tôi bừng lên một sự thức tỉnh. Nhìn những tù nhân trong khuôn mặt đăm đăm, sự hung dữ, ánh mắt sáng quắc như thể muốn nuốt trọn người đối diện, tôi như đọc được một nội tâm dữ dội đang gào thét từ trong sâu thẳm tâm hồn họ. Tư thế của họ không bao giờ thong dong tự tại mà luôn sẵn sàng chiến đấu và giành giật. Những người khác thì trông buồn rười rượi, ánh mắt nhuốm đầy một nỗi oan khiên nào đó của quá khứ tàn nhẫn và bất công. Số phận đã xô đẩy cuộc đời họ vào chốn lao tù mà họ không làm sao thoát được. Họ dúi vội vào trong tay tôi những mảnh giấy nhỏ để bộc bạch về một thân phận đau thương bị người ta hãm hại và vu oan rồi đẩy họ vào chốn tù đầy. Họ không những thiếu thốn về vật chất mà sự “hỗn loạn” của những tâm thức đang liên miên gào thét, oán hờn… cũng không cho phép họ tìm thấy được một tia sáng hạnh phúc nào trên cõi đời. Trong cái năng lượng nặng trược, âm u và giận dữ lan tỏa khắp nơi, họ không có cơ may nào để tìm thấy một dòng năng lượng của yêu thương, hay một tấm lòng cảm thông nào cả. Có lẽ suốt cuộc đời họ chưa bao giờ được cảm giác an toàn, bình yên và đầy đủ. Tất cả những điều kiện ấy làm sao họ có khả năng thức dậy được tình người? Làm sao họ có khả năng làm một con người bình thường có nhân cách và đạo đức? Tôi cảm thấy mình thật may mắn; may mắn làm sao khi tôi sinh ra mà không bị bỏ rơi giữa chợ đời để tranh giành từng miếng cơm manh áo, tôi may mắn vì được giáo dục đàng hoàng biết điều hay lẽ phải, tôi may mắn được sáng đạo khi biết sự thật về nguồn gốc của khổ đau để tự cứu lấy mình. Nhưng còn họ thì sao? Tôi hoang mang mãi cho đến khi thấy họ luyến tiếc từ giã chúng tôi để trở vào trại, tôi chỉ biết lặng lẽ cúi đầu đảnh lễ và cầu xin ánh sáng, niềm vui đến với họ…

Hình ảnh trên làm tôi liên tưởng đến những cảnh giới vô hình tương tự: những cảnh giới của địa ngục tối tăm, những cảnh giới tràn ngập sự thù hận, oán hờn của những tà ma, quỉ mị, cảnh giới của những linh hồn lang thang phiêu bạt không một nơi nương tựa, cảnh giới của những tâm thức chưa bao giờ hiểu được ánh sáng và niềm vui. Tôi thể nhập vào những tư tưởng của sự thù hận, của sự tối tăm bị vây hãm bởi bốn vách tường tư tưởng trong cơn điên loạn, hoang mang, sầu não… để nghe lòng mình đang bị dày xéo và không tìm thấy một tia sáng nhỏ nhoi, không một lối thoát. Tôi chợt hiểu rằng mình cũng là một phần của họ và họ cũng không xa rời bản thể của mình. Lúc đó, tôi chỉ thầm ngưỡng mộ và ước gì mình có đủ dũng khí để nói lên lời đại nguyện như Ngài Địa Tạng bồ tát: “Địa ngục không rỗng thề không thành Phật”. Xin đảnh lễ và cầu nguyện cho tất cả linh hồn được nhìn thấy ánh sáng và mở tâm.

Thân ái,
zerokun