HIỆN TƯỢNG TÂM LINH VÀ THẾ GIỚI MA THUẬT QUANH TA

Từ khi loài người xuất hiện trên quả đất, hiện tượng tâm linh và lĩnh vực ma thuật đã bắt đầu phát triển. Các nhà khảo cổ, các nhà sử học và nhân chủng học đã khám phá ra nhiều bằng chứng về sự phát minh và phát triển của ma thuật thuở loài người còn sống theo kiểu ăn lông ở lỗ. Các dấu tích về các vật dụng để thờ cúng, từ đá và xương cốt hay các hình vẽ trên các vách đá trong cách hoạt động cho thấy, sinh hoạt thời hỗn mang đó của loài người đã có những buổi lễ tôn vinh thần linh ma quỷ. Lúc bấy giờ cũng phát sinh các pháp sư, thầy phù thủy đầy uy lực và uy quyền.

Một số nhà khảo cổ và nhân chủng học cho giống người Neantherdale là văn minh nhất. Nhưng các khám phá sau đó lại cho thấy giống người Cromangnon có nhiều đặc điểm tiến hóa cao về lĩnh vực đời sống tâm linh, qua các bằng chứng cổ xưa từ các hình vẽ trên vách đá các buổi lễ thờ cúng, và các hình ảnh về ma thuật đầy màu sắc. Đặc biệt là người chết được đem chôn theo các nghi lễ đầy vẻ huyền bí.

Lý luận của một nhà nghiên cứu về nhân chủng học, dân tộc học thường cho rằng khi con người còn man dã chưa tìm ra được lửa thì mỗi khi màn đêm xuống, nỗi lo sợ đã đổ ập lên người họ, rồi khi sống trong các hang động và tìm được lửa thì những hình ảnh chập chờn ma quái lại càng khiến họ sợ sệt hơn thêm, qua những hình ảnh lạ lùng. Và ma quỷ phát sinh nhiều hơn thêm qua trí tưởng tượng họ. Về thần linh thì sấm sét, núi lửa, động đất là những nguyên nhân làm họ tin tưởng đến sức mạnh vô hình nào đó, sức mạnh của các thần linh.

Ngày nay loài người đã sống văn minh hơn nhưng vẫn còn một số vùng hoang vắng được xem như tận cùng của quả đất, nơi có vài bộ lạc còn sống cuộc đời man dã giống như thời đại đồ đá của loài người trước đây. Điều kỳ lạ là nhiều nhà thám hiểm đã len lỏi tận cùng các vùng xa xôi hẻo lánh để tiếp xúc với loài người được xem là sơ khai, họ bắt gặp được nhiều điều kỳ diệu mà các phù thủy ở đó đã thực hiện. Một thí dụ điển hình là nhóm nhà báo của Paris Match nổi tiếng của Pháp đã lặn lội tiến vào một nơi được xem là sống biệt lập với thế giới loài người tại một hoang đảo xa xôi tận Thái Bình Dương. Trên đường đi có một ký giả bị té ngã khi đi qua một con suối và bị gãy chân phải khiêng cáng. Khi đoàn ký giả này tới thì thấy một người đàn ông ngồi yên lặng, trên người chỉ một miếng da thú quấn ngang hạ bộ mà thôi. Người đàn ông ra dấu đặt người ký giả bị gãy xương nằm xuống trên một miếng da gấu, hai bên đặt hai bó đuốc bằng gỗ thông, xong ông đưa tay lên trời huơ huơ mấy cái, vừa huơ tay vừa đọc một tràng thổ ngữ kỳ lạ rồi bất ngờ chỉ vào người bị gãy xương và ra hiệu ngồi dậy. Lạ lùng thay, người ký giả này tự nhiên không còn đau đớn nữa và đứng dậy một cách tự nhiên. Người đàn ông sau khi ra tay cứu giúp người ký giả bị nạn liền quay qua bên cạnh chỉ vào một cái thùng sắt sét rỉ ra dấu như ngầm bảo: các ông hãy đem vật này ra khỏi nơi đây! Rồi lặng lẽ đi vào một cái hang sâu đầy rêu và rễ cây che phủ. Cùng lúc đó dân trong bộ lạc đứng nhìn từ xa trên các gộp đá cũng thoăn thoắt chạy vào hang động. Đoàn ký giả quan sát kỹ cái thùng sắt thì thấy ngoài thùng có chữ mờ nhạt về dấu hiệu quân đội Đức. Có lẽ vật này từ một máy bay Đức bị lạc hướng đã rơi xuống trong thời thế chiến thứ II và dân trong bộ lạc không muốn giữ lại những gì từ thế giới đầy vật chất bên ngoài. Sự lẩn tránh của họ đã nói lên điều đó. Đoàn ký giả không tìm ra được người nào trong bộ lạc, tất cả ẩn tránh không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Các hang động đều đóng kín bởi các khối đá lớn. Các ký giả Pháp suy đoán rằng người đàn ông ngồi chờ họ là trưởng bộ lạc hoặc nhà phù thủy. Điều kỳ lạ là không hiểu nhờ đâu mà ông ta biết được đoàn ký giả này sẽ đến và trong đoàn có người bị tai nạn gãy chân để chuẩn bị trước mọi thứ cần thiết. Ngoài ra phương cách trị gãy xương như vậy rõ ràng vượt khỏi tính cách khoa học của ngành Y khoa hiện đại nhưng kết quả lại hoàn toàn thành công. Phải chăng cư dân ở đây chữa trị chỉ bằng hiện tượng siêu linh huyền bí? William Hals Rivers (1864-1992), nhà nghiên cứu nổi tiếng về văn minh của các bộ tộc hoàng gia, đặc biệt là các vùng hoang đảo thuộc các Châu Đại Dương đã cho rằng nhiều nơi tuy cư dân thưa thớt, man dã nhưng đời sống tâm linh lại rất cao. Theo Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương (1989) thì có những thổ dân chữa bệnh không cần thuốc như tại Phi Luật Tân, nhiều nhà phẫu thuật đã dùng loại năng lực thuộc lãnh vực tâm linh để giải quyết thành công các ca phẫu thuật, có người cho rằng họ là con cháu của những người thuộc bộ lạc Kahyna đã mai một. Có lẽ thiên nhiên quá gần gũi với họ đã hòa tâm hồn vào vũ trụ cùng với biển cả bao la, lại không bị vật chất ràng buộc nên trí óc họ sáng và dễ thu nhận những sự kiện huyền diệu thuộc lãnh vực tâm linh chan hòa trong vũ trụ tự nhiên. Theo Rives thì nhiều bộ tộc có lắm người truyền cho nhau tư tưởng qua không gian như hiện tượng telepathic (thần giao cách cảm). Phải chăng điều nhận xét của nhà nghiên cứu lỗi lạc Rivers đã chứng minh rõ ràng qua chuyến thám hiểm của đoàn ký giả Pháp vừa kể trên.

Năng lượng tinh thần

Những nhà khoa học tiên phong xâm nhập thế giới huyền bí để nghiên cứu tìm hiểu xem năng lượng tinh thần là phần quan trọng trong vấn đề nghiên cứu hiện tượng siêu hình. Theo họ não bộ người là một cái bình Ác-quy siêu đẳng và huyền bí rất nhiều. Bộ não người phát sóng và thu sóng, phát điện và thu điện trong tự nhiên vũ trụ. Tuy nhiên sự vận hành, thu phát, chuyển biến còn tùy ở cơ thể người mang bộ não. Dưới mắt nhà khoa học họ không chỉ tập chú vào các vị Lạt ma, các nhà tu hành nơi các hang động thâm sâu hay trong các đạo viên khuất sau rặng tuyết sơn mà nghiên cứu toàn thể bộ não người. Lý do là những con người không trải qua quá trình tu luyện nào cả nhưng vẫn có được một năng lượng tinh thần rất lớn, họ có thể nhìn xuyên qua vách tường, xuyên qua sắt thép, xuyên qua khoảng cách rất xa. Có người còn dùng năng lượng tinh thần để làm cháy đồ vật hay làm cho các hạt nảy mầm, có người sử dụng năng lượng tinh thần để chữa bệnh hay chuyển di tư tưởng, tiếp nhận ý nghĩ của người khác v.v... Nga từ lâu đã thành lập viện nghiên cứu óc não. Viện này quy tụ nhiều nhà khoa học lỗi lạc. Họ hy vọng việc nghiên cứu bộ óc sẽ khám phá ra những điều mới lạ, đồng thời mở được cả cánh cửa Huyền môn để vào thế giới mà từ lâu loài người thường cho là thế giới vô cùng huyền bí. Bề ngoài thế giới chỉ biết được mục đích của việc nghiên cứu này ở Moscow là tìm hiểu sự liên hệ giữa bộ óc và thiên tài, năng khiếu của một con người như thế nào. Nhưng tàng ẩn bên trong là những nghiên cứu có liên quan đến các sự kiện vượt ra ảnh hưởng của trường vật lý của quả đất mà con người đang sống. Những sự kiện mà từ lâu con người bán tín bán nghi như ma quỷ, sự xuất hồn hay nhập hồn, sự thông linh, suy đoán tương lai, sự đọc, hiểu tư tưởng kẻ khác hay nghe, thấy từ khoảng cách rất xa theo kiểu thiên lý nhĩ, thiên lý nhãn... Hoa Kỳ cũng không bỏ qua lãnh vực nghiên cứu vừa kể. Viện nghiên cứu óc não của họ được trang bị đầy đủ các loại máy móc tối tân với vô số các nhà bác học lỗi lạc tập trung nghiên cứu. Nơi đây các bộ não được lưu trữ không những là của các danh nhân thế giới sau khi qua đời mà còn là của những con người bình thường nhưng có khả năng kỳ diệu về thấu thị, về chuyển di tư tưởng, chữa bệnh qua khoảng cách, nhìn xuyên suốt không gian v.v... Ví dụ như bộ não của Edgar Cayce người Hoa Kỳ, ông chỉ là một người bình thường như bao người khác nhưng vào năm 35 tuổi ông tự nhiên thấy rõ được quá khứ xa xăm của những người bị bệnh ngồi hay nằm trước mặt ông và khi đó ông đi vào giấc ngủ thôi miên.

Năm 1945, ông Cayce biết trước mình sắp qua đời nên ngỏ ý tặng viện nghiên cứu óc não bộ óc của mình để các nhà khoa học tại đây nghiên cứu. Các khám phá từ lâu cho biết bán cầu não phía bên trái là cơ sở quan trọng của tư tưởng trừu tượng, nơi đây có thể là phần quan trọng cho các hoạt động thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí. Mới đây, các nhà khoa học còn tìm thấy một cơ phận kỳ diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh: đó là tuyến tùng quả (Pineal gland) nằm trong hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995 đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian dài. Theo các nghiên cứu về óc não thì sau khi con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm, năng lượng của bộ não của họ cũng chỉ mới sử dụng một hay hai phần mười mà thôi. Năng lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng mã phát mà các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu của viện nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng gọi là mã phát chính là sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết.

Nhiều người bình thường như bao người khác, họ không phải là các đại sư đã hằng bao năm khổ hạnh tu luyện trong các hang động, rừng sâu núi thẳm hay các phù thủy lừng danh nhưng đôi khi lại có năng lực kỳ diệu phát sinh từ bộ não.

Tâm linh huyền bí nơi xứ đỉnh trời

Từ xưa đến nay có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và tài tử về hiện tượng siêu hình, đã đi sâu vào những nơi mà họ cho là trung tâm của các sự kiện huyền bí, để chứng kiến tận mắt những hiện tượng lạ lùng không thể giải thích được. Thời ấy các nhà khoa học và dân tộc nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Ricers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. E, Osborne Harold... đặc biệt là một người đàn bà, một nữ văn sỉ tên là Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của đỉnh trời là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận chỗ những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới Tây phương mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong hang động, nơi mà Trời và Đất gần như hòa nhau thành một.

Điểm đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư đều có khả năng cao về nhận thức, bộ não luôn luôn được trong sáng nên họ có thể hiểu nhau qua không gian hơn là biểu lộ bằng lời nói hay hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác mà nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng biết trước được những gì mà người khác đang dự tính trong đầu. Ngoài ra những vị này còn có khả năng kỳ diệu là phân tích vầng màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ ai để từ đó biết được ý tưởng tốt hay xấu mà người đó đang dự định. Năng lực của con mắt thứ ba: Thần nhãn hay Huệ nhã.

Trở lại vấn đề khả năng thông hiểu ý tưởng kẻ khác cũng như thấy rõ và phân biệt vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây Tạng có được thì đó lại là sự kiện có vẻ bình thường đối với người dân Tây Tạng. Lý do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã được cha mẹ kể cho nghe chuyện cổ tích về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ này thì thời xưa ấy, người Tây Tạng ai cũng có một nhãn lực đặc biệt, nhãn lực này không phải từ đôi mắt thông thường của con người mà là từ một con mắt thứ ba này mà người xưa gọi là Thần nhãn hay nói theo kinh điển là Huệ nhãn. Về sau, vì con người bị lôi kéo dần vào đường vật chất, ích kỷ, tham lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không còn trong sạch, sáng suốt. Cuối cùng như tấm gương bị bụi mờ che kín, con mắt thứ ba trở thành u tối không còn sử dụng được nữa. Các nhà nghiên cứu về Huệ nhãn đã bắt gặp trong giới động vật hình ảnh trung thực nhất về con mắt thứ ba một cách rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy hiện một cấu tạo giống như cấu tạo mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và võng mạc... Ngay cả loài cá, lưỡng thê, bò sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích con mắt thứ ba. Khi khảo sát bộ xương của loài khủng long thời tiền sử, các nhà cổ sinh vật học cũng chú ý tới một chỗ lõm nơi phần sọ của loài bò sát khổng lồ này và đã đoán nơi đây là vị trí của một cơ quan thị giác hay nói theo suy tưởng của sự kiện đang bàn là "con mắt thứ ba". Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp các loài động vật thời cổ không những thấy mà còn biết thêm hay cảm nhận trước được tình trạng chung quanh như mưa, gió nhất là các vật thể nằm khuất ở vị trí phía trên đầu. Những khám phá mới đây nhất (vào năm 1996) từ một số nhà khoa học đã cho biết là trong não người có một cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân hóa tố đặc biệt với một lượng rất nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm cầu nguyện với tất cả thành tâm hay vào các giai đoạn con người ở tình trạng nguy biến, thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó là tuyến Tùng quả (Pineal gland). Khi phân hóa tố của tuyến đi vào máu thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ mà lúc bình thường không có được. Các nhà sinh vật học còn khám phá ra rằng tuyến Pineal gland còn có liên quan tới bộ phận mà người Tây Tạng gọi là con mắt thứ ba.

Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si mê mờ, quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì mới có được Huệ nhãn. Chính phần lớn các vị Đại sư Tây Tạng, những người ẩn cư nơi vùng núi cao tuyết giá hay trong các Đạo viện thâm nghiêm là có thể có năng lượng thượng thừa ấy mà thôi. Tuy nhiên theo các vị đại sư thì không phải tất cả các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần nhãn hay Huệ nhãn như ta tưởng, vì muốn có được Thần nhãn thì người đó phải hội đủ các điểm cần yếu như đã nói trên mà còn phải có Thần lực đặc biệt kết hợp với các pháp môn tu luyện cao siêu mới được. Phép tu luyện cao siêu đó có mục đích là để khai mở Huệ nhãn. Một khi đã có Huệ nhãn rồi thì dù ngồi tĩnh tọa trong viện, nơi núi cao hay trong rừng sâu vẫn có thể thấy được những gì xảy ra ở khoảng cách rất xa, hay chuyển di tư tưởng đến một nơi nào đó cho ai.

Tại Tây Tạng, nơi nhiều Đạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi bắt được tư tưởng của nhau rồi thì khoảng cách tĩnh tạo giữa hai người này sẽ ở vị trí xa hơn. Cứ thế mà về lâu về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng cho nhau qua khoảng cách rất xa: hoặc từ đạo viện này đến đạo viện khác, từ hang động này đến hang động khác... Theo bà Alexandra David Neel thì nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ im lìm hoang vắng nhưng lại là nơi các nguồn tư tưởng của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi.