Lâu lắm rồi diễn đàn ko có những cuộc trao đổi sôi nổi về vấn đề tính cách con người theo Phật đạo. Hôm nay tôi xin mạo muội nói nên cách nhìn của mình về 3 chữ Tham- Sân- Si. Do kiến thức còn nông cạn, nên mong mọi người góp ý...

1- Tham là gì ?
- Xin thưa, đó là lòng ham muốn, dục vọng của con người.
2- Sân là gì ?
- Đấy là sự nóng giận, khi thấy điều sai trái, bất công. [dù là với kẻ khác hay chính bản thân mình]
3- Si là gì ?
- Là đam mê, bất kể hình thức nào cũng thế.

Mối liên hệ của chúng nằm ở đâu ?

Xin thưa, nằm nơi điểm chung của chúng: Là một Trạng-Thái của Tâm-Thức.

Như các bạn khác đã trình bày theo kinh nghiệm mà đức phật truyền đạt lại: Tham là nguồn gốc, Sân - Si là nhánh ngọn. Dứt bỏ được Nguồn Gốc ắt nhánh ngọn phải úa tàn.

Căn bản xưa là: Giới-Định-Huệ. Cũng chung một mục tiêu là nâng Tâm-Thức của một con người lên một tầng số cao hơn. Theo Tịnh Độ, hành giả trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật, Thiền tông thì ngoài ra còn có một số hình thức quán tưởng giúp con người thoát khỏi vọng tưởng, tạp niệm.

+ Giới, giúp con người tự kiềm chế bản thân, để đạt đến
Định.

+ Khi tâm thức đã ổn Định, thì Huệ mới có cơ hội nảy sinh.

+ Huệ như là đóa hoa thanh khiết viên mãn, thật khó thể tỏa ngát hương thơm mà không tàn tạ trước bao sóng gió bão bùng của nội tâm.

Tuy nhiên, với một quan điểm rộng ra hơn một chút, thì tu hành luyện đạo, không phải là diệt tam độc: Tham-Sân-Si. và Tham-Sân-Si cũng không phải là tam độc, mà là những nguyên tố rất cần thiết cho cuộc sống, và cũng cần để giúp con người đạt đến hoàn thiện tâm thức, thực sự giải thoát khỏi những phiền não của cõi thế gian này.

Theo quan điểm ấy, tu hành luyện đạo là học cách mở rộng, chuyển hóa và sử dụng tính Tham-Sân-Si vốn có của mỗi người sao cho nó hữu ích thay vì hữu hại.

Thử hỏi: Nếu ngày ấy, đức Phật không vì có sự tham quá sức tưởng tượng đo lường của con người trần thế, đến độ lòng tham ý thúc giục Ngài nỗ lực mưu cầu Hạnh Phúc cho cả 8 vạn 4 ngàn loài chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, thì ông có nhọc lòng mài miệt nơi chốn rừng sâu heo hút bóng người, đầy dã thú sài lang hung hãn và quỷ quái tinh ma ?
Đó là bước cốt yếu để chuyển hóa tính tham, nhằm đem đến lợi quả trong công cuộc tu hành.
Từ cái nền tảng đó, Đức Phật đã đề ra giới thứ nhất cho cả tăng lữ và tu sĩ tại gia, đó là: Không-Sát-Sinh.

Giới này có ý nghĩa như thế nào ư ? Rất đơn giản, nó giúp con người thanh khiết hóa nội tâm. Xa là không nảy lên cái ý sát hại đồng loại, gần là tránh tước đoạt mạng sống của các loài sức vóc nhỏ bé và yếu ớt hơn mình rồi dùng làm thực phẩm. Khi có ý nghĩ sát hại kẻ khác, trước hết nội tâm kẻ ấy bị xáo động dữ dội. Sau khi kế hoạch thành công, lại bị lương tâm giày vò, giằng xé mãi không yên. Còn với việc sát hại các loài sinh vật yếu kém hơn để ăn, thì tuy không làm cho người thường cảm thấy cắn rứt trong lòng. Nhưng nó âm thầm làm nội tâm kẻ ấy bị tạp nhiễm những thói xấu thấp hèn của loài vật bị họ sát hại. Những thói xấu ấy thực chất cũng không phải là điều đáng chê trách ở chúng, bởi đó là vì cấp bực tiến hóa đến đấy thì chúng phải thể hiện như thế. ví như khi bạn hỏi một đứa bé 3 tuổi, chưa bước vào trường lớp bao giờ về các công thức toán học phức tạp thì hẳn những đứa có thể trả lời được có lẽ không đến 0,00001 %.

Mà những con người bị lương tâm giày vò hẳn không có thời khắc nào có thể gọi là hạnh phúc, dẫu có đầy đủ cả những thứ mà người trong thiên hạ đều thèm muốn, hắn cũng không thể yên lòng hưởng thụ chúng, mà mãi nơm nớp lo âu.

Còn kẻ đã thâm nhiễm thói quen nuông chiều, buông thả cho dục vọng của thể xác kéo lôi, dễ sa ngã gây tội lỗi dẫn đến kết cuộc nói trên. Đó là chưa kể tần số rung động nặng nề của chúng sẽ khiến con người vất vả hơn trong quá trình chuyển hóa tâm thức lên một tầng số cao hơn.

Cuối cùng, mục đích chính là nâng cao tần số tâm thức, mở rộng các giới hạn vượt khỏi định mức mà con người bình thường bị bó hẹp bên trong. Chuyển hóa từ chỉ thương mình thành thương cha mẹ + anh chị em = gia đình, bạn bè + làng xóm láng giềng + dân tộc = xã hội. Từ tham cái lợi ích bé nhỏ cho cá nhân thành lòng bác ái, yêu thương và muốn đem cái lợi ích ấy đến với tất cả chúng sinh, đổi từ lòng ích kỷ, vị kỷ thành tính vị tha. Tham như thế thì không còn là độc nữa, mà đã thăng hoa thành một thứ thuốc quý, chữa cho con người mọi thứ tâm bệnh vốn có trên thế gian này. Khi đã dứt tâm bệnh, an định và trí huệ bừng lên dẫn đến có lúc cả những chứng thân bệnh nan y cũng được chữa lành.

Sân, cũng sẽ vô cùng hiệu nghiệm khi đem nó chữa cho bản thân mình tính yếu hèn, cải biến những lỗi lầm cố hữu đã thành thói quen. Nó giúp ta có quyết tâm thay đổi khi mình mắc những lầm sai.

Si, sẽ vô cùng tuyệt diệu, nếu được chuyển thành tâm say mê tu học hay là người thường nhân cũng là cải sửa và hoàn thiện bản thân hơn, công hiến và dựng xây cuộc sống của mình và của mọi người sao cho ngày một thắm tươi hơn thuở trước.

Phương pháp này, tuy không có yêu cầu gay gắt bằng cách thiền quán hay niệm phật. Nhưng dường như nó vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, mặc dù nó dễ đưa con người đến với niềm chân phúc tuyệt đối hơn mọi phương pháp khác. Có lẽ là do nó tuy sẽ giúp con người tìm được chân phúc trong từng khoảnh khắc của cuộc sống nhiệm mầu, nhưng bên cạnh đó, nó khiến con người ta không thể an hưởng nó cho chỉ riêng mình. Mà thúc giục con người phải nỗ lực hành động bằng tất cả trái tim và điều kiện hiện có để đem nó vào từng mỗi ngõ ngách của cuộc đời, cống hiến cho nhân quần xã hội.

Có lẽ thay cho những gai góc, sóng gió và bão bùng trong nội tâm như phương pháp tu học cổ truyền, thì ở đây nó hóa thành gai chông bén nhọn nhuộm thắm máu hồng của người hành giả trên con đường hành đạo_con đường đem lạc phúc đến với tất cả quần sinh.

Tuy vậy, nếu gọi là một phương pháp tân kỳ thì hơi quá, chẳng qua nó cũng chỉ là một phép tu xưa, nhưng ít người rèn luyện đó thôi (ít đây là nói phóng chừng, không chính xác đâu nhé).

Hy vọng tất cả các bạn đều sẽ gặt hái nhiều thành công trên con đường tu học, con đường tìm và đem lạc phúc cho mình, cho người.