Tuy Chúa Thánh Thần đã tác động trong vũ trụ và trong Giáo hội từ lâu lắm rồi, nhưng Ngài ít được thần học (cách riêng trong Giáo hội la tinh) nói đến, trừ khi bàn về bí tích Thêm sức và bảy ơn ban cho các tín hữu. Từ những năm sau công đồng Vaticano II, nhờ đối thoại với thần học Đông phương cũng như nhờ phong trào canh tân Thánh Linh, một thiên trong thần học đã được khai trương, gọi là Pneumatologia, để học hỏi về Thánh Linh trong tương quan giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như về tác động của Ngài trong lịch sử. Ta có thể coi thông điệp Domium et Vivificantem của Đức Gioan Phaolo II (18-5-1986) như một mốc đánh dấu sự tiến triển đó. Trước đó 5 năm, Đức Thánh Cha đã thúc đẩy tổ chức một Hội nghị Thần học quốc tế quy tụ các học giả Công giáo, Chính thống, Tin lành tại Vatican (từ ngày 22-26/3/1982) để kỷ niệm 1600 năm công đồng Constatinopoli đã tuyên xưng Đức Chúa Thánh Thần “là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”.

Bài này sẽ tìm hiểu Thánh Kinh đã nói gì về Chúa Thánh Thần, tiếp đó, là sự tiến triển của đức tin của Hội thánh về Thánh Thần, và sau cùng, là những nét suy tư chính về Thánh Thần trong lịch sử cứu rỗi.

A. CÁC BẢN VĂN KINH THÁNH

Cần lưu ý về cách sử dụng từ ngữ. Cách đây không lâu lắm, trong các sách kinh có danh xưng “đức Phiritô Săngtô”; chắc rằng các thừa sai ngoại quốc đã cảm thấy khó tìm ra một từ ngữ chính xác để dịch. Nhiều Kitô hữu đã chẳng lầm lẫn “thiên thần” với “Thánh Thần” đó ư, phương chi là người ngoài Công giáo? Hiện nay có tới ba danh từ để dịch Spiritus Sanctus: Thánh Thần, Thánh Linh, Thần khí. Tuy nhiên, khi mà chữ Spiritus không còn viết hoa nữa thì lại được dịch là “tinh thần”; còn tĩnh từ Spiritualis được dịch là “thiêng liêng, tâm linh”. Thực ra, trong các tiếng Do thái, Hy lạp, Latinh, những tư tưởng vừa nói đều có liên hệ rất mật thiết với nhau. Trong bài này, xin tạm dùng tiếng “Thánh Thần” vì đã quen thuộc tuy biết rằng nó không chính xác lắm.

I. Cựu ước

Trong Việt ngữ có nhiều danh từ khác nhau để dịch “Spiritus Sanctus”. Thực ra, sự đa dạng ấy không phải chỉ vì tiếng Việt còn thiếu sót từ ngữ thần học chuyên môn, cho bằng tại vì chính bản chất mầu nhiệm của thực tại mà chúng ta đang nghiên cứu. Không ai thấy được hình thú của Thánh Thần ra sao cả! Ngài được ví như “gió”, bởi vì chúng ta chỉ nhận thấy được qua hậu quả tác động (tựa như cành lá rung, hoặc cảm giác mát mẻ) chứ không ai thấy được hình thù của gió như thế nào! Vì lý do, Kinh thánh dùng rất nhiều hình ảnh khác nhau để diễn tả Thánh Thần, hay tiếng Do thái của Cựu ước, một danh từ phổ thông hơn hết là ruah (378 lần), được dùng trong ba bối cảnh như sau:

- trong khung cảnh thiên nhiên, ruah có nghĩa là gió, khí;

- trong khung cảnh của đời sống con người, ruah có nghĩa là hơi thở;

- sau cùng, ruah cũng được áp dụng cho chính Thiên Chúa.

1) Trong khung cảnh thiên nhiên, “ruah” có nghĩa là gió, một thực tại khá huyền bí, bởi vì không những nó chỉ đem cơn mát dịu khi trời oi ả, nhưng khi gắn với cuồng phong bão tố, nó còn được coi như khí cụ nằm trong tay Chúa (Tv 104,4; 135,7; Gb 10,13), được Thiên Chúa dùng để cứu vớt dân Ngài (như làn gió chắn nước khi Israel vượt qua biển đỏ: Xh 14,21; Ds 11,31; Is 63,11-14), hay để trừng phạt dân (Ed 13,11). Chính vì thế, gió được coi như biểu tượng của việc Thiên Chúa xuất hiện bày tỏ oai phong của Ngài (Ed 1,4; 1V 19,9; Đn 7,2). Vũ trụ này được tạo dựng nên nhờ làn gió của Ngài (St 1,2; Tv 33,6); nhất là con người sống được là cũng là nhờ hơi gió mà Ngài thổi vào (St 2,7; Tv 104,29-30; Gb 33,4; Gv 12,7).

2) Trong con người, “ruah” ám chỉ ba thực thể:

a/ hơi thở, sinh khí (Tv 31,6; 78,39; 146,4; Gb 9,18; 12,10) 17,1; 19,17; Gv 3,21). Dĩ nhiên sinh khí là do Chúa ban; nếu Chúa rút lại là con người chết (Tv 104, 29-30).

b/ Theo nghĩa tâm lý, ruah có nghĩa là: chí khí, tinh thần (Cn 16,18; 29,23).

c/ Theo nghĩa thiêng liêng, ruah ám chỉ trung tâm nơi mà con người quyết định mọi tư tưởng hành vi; ta có thể tạm dịch là: tâm thần, thần trí, lòng dạ. Kinh thánh cũng dùng một từ ngữ tương đương là “con tim” (Ed 18,31; 36,26). Việc canh tân trở lại với Chúa hệ tại việc thay lòng đổi dạ qua việc phú ban thần trí mới (Tv 51,12-14).

3) Từ khung cảnh thiên nhiên và nhân sinh vừa nói, chúng ta thấy rằng sức sống của vũ trụ và của con người được coi như là tác động của Thiên Chúa. Vì thế, việc biểu thị Thiên Chúa như ruah, (làn gió, hơi thở) xem ra khá tự nhiên. Và đây là khung cảnh thứ ba: ruah Yahweh, được dịch là “Thần Khí”. Tác động của Ngài không chỉ giới hạn vào sức sống tự nhiên ban cho vạn vật và cho con người, nhưng còn được áp dụng cách riêng vào lịch sử cứu rỗi của Israel. Trên đây chúng ta đã nói tới việc Thiên Chúa ra tay cứu Israel nhờ làn gió rẽ nước trên Biển Đỏ. Ngài còn can thiệp vào lịch sử của dân Israel khi “thổi dậy” các vị cứu tinh dân tộc từ các thủ lãnh Maisen (Ds 11,16.25). Giosuê (Ds 27,27.18), các anh hùng (thí dụ: Is 30,1; Mk 3,8; Ed 3,12; 8,3; 11,1.24). Ngoài ra, các ngôn sứ cũng loan báo thời cánh chung như là thời của thần khí: thần khí Chúa không những sẽ đáp xuống vị Cứu tinh tương lai (Is 11,2), thánh hiến người đầy tớ trung tín của Giavê (Is 42,1-7; 61,1-3), nhưng mà toàn dân Chúa cũng sẽ được tràn đổ thần khí Chúa (Ed 36,26; Gioel 3,1-2), nhờ đó họ sẽ sống thân mật với Chúa (Gr 31,31-34).

II. Tân ước

Các bản văn Tân ước được viết bằng tiếng Hylạp. Danh từ “ruah” trong tiếng Do thái được dịch ra là pneuma, Tuy nhiên, ý nghĩa của riêng pneuma vẫn còn được duy trì theo lối nói của tư tưởng Do thái (hơi thở, sức sống do Chúa ban), chứ không phải là theo tư tưởng triết học Hy lạp (quan niệm “pneuma” là cái gì thiêng liêng, không có hình tượng đối nghịch với vật chất hữu hình). “Pneuma” cũng được xét tới trong những khung cảnh khác nhau: hoặc trong cuộc đời tại thế của đức Giêsu hay là sau biến cố Phục sinh; lúc thì xét tới tác động nơi con người khi thì xét từ phía Thiên Chúa. Nói chung, mỗi tác giả Tân ước trình bày một khía cạnh khác nhau của Pneuma: Phúc âm nhất lãm nói nhiều tới tác động của Thánh Thần trong sứ mạng ngôn sứ và cứu tinh của đức Giêsu khi còn tại thế; còn Gioan, Phaolô và Tông đồ công vụ sẽ nhấn mạnh nhiều hơn tới Thánh Thần như hồng ân được ban cho Hội thánh và các tín hữu do hậu quả của mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh của đức Kitô.

1. Phúc âm nhất lãm

1) Ngay từ chương 1. Marcô muốn làm nêu bật sự hiện diện của Thánh Thần nơi tác vụ của đức Giêsu nói lời giảng cũng như việc làm (1,8.10.12): Thánh Thần hướng dẫn đức Giêsu trong cuộc giao tranh với ma quỷ (3,22-30) và giúp các môn đệ khi gặp thử thách.

2) Matthêo thì nói tới việc Thánh Thần can thiệp ngay từ khi đức Giêsu thụ thai trong lòng đức Maria (1,18-20). Đức Giêsu là vị cứu tinh đầy tràn Thánh Thần (12,18t), như Isaia (42,1) đã báo. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà đức Giêsu đánh đuổi Satan (12,28), và sai các môn đệ rao giảng Tin mừng cho muôn dân (28, 19).

3) Luca là tác giả nói nhiều hơn cả đến Thánh Thần trong cuộc đời của đức Giêsu, từ khi thụ thai (1,35), cũng như trong suốt cuộc đời. Bài giảng ra mắt tại hội đường Nadareth (4,14) cho thấy lời Is 61 được ứng nghiệm nơi đức Giêsu: “Ngài được Thánh Thần tấn phong sao đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo”. Ngoài tác động của Thánh Thần được biểu lộ qua việc trừ quỷ. Luca còn nói tới Thánh Thần tác động trong lời cầu nguyện (10,21) và chính đức Giêsu khuyên các môn đệ khi cầu nguyện thì hãy xin Cha trên trời ban Thánh Thần cho (11,13). Ngoài ra Thánh Thần được hứa ban để trợ giúp cho các môn đệ khi phải làm chứng cho đức Kitô (12,12). Luca sẽ tiếp tục đề tài này trong Tông đồ công vụ.

4) Ngoài những đặc trưng của mỗi thánh sử. Phúc âm nhất lãm còn có những điểm trùng hợp khi nói tới tác động của Thánh Thần trong cuộc đời của đức Giêsu vào những khung cảnh sau đây:

- Khi đức Giêsu lãnh phép rửa ở Hòa Giang, Thánh Thần đáp xuống trên Ngài (Mc 1,10; Cv 10,38), chứng tỏ vai trò của vị cứu tinh và tôi tớ mà các ngôn sứ đã tiên báo (Is 11,2; 42,1): Ngài được xức dầu và được sai đi để mang tin mừng giải phóng cho người nghèo.

- Thánh Thần dẫn đức Giêsu lên hoang địa để đương đầu với thần dữ (Mc 12; Mt 4,1; Lc 4,1). Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ, lật ngược lại tình thế ban đầu khi mà tổ phụ Adong đã bị ma quỷ lường gạt. Từ cuộc chiến thắng trên hoang địa, nhờ sức mạnh của Thánh Thần, đức Giêsu tiếp tục cuộc chiến đấu chống lại sự đô hộ của Satan trên thế giới, nhất là nơi con người (Mc 1,27; Mt 4,10; 12,28; 16,23; Lc 11,20). Luca cũng cho biết là ma quỷ chuyên rình rập để tung ra cuộc giao chiến quyết tử vào hồi tử nạn (Lc 22,53).

- Thánh Thần hướng dẫn tất cả sứ mạng của đức Giêsu truyền giảng Tin mừng (Lc 4,16-30); đức Giêsu quả thực là ngôn sứ bởi vì lời giảng của Ngài có uy lực (Mc 1,22.27). Luca còn nói tới tác động của Thánh Thần trong việc cầu nguyện của đức Kitô (3,21-22; 10,21) và trở thành đối tượng của lời cầu mai sau của các môn đệ.

2. Gioan

Gioan một đàng nói tới Thánh Thần như hồng ân được ban từ Thập giá của đức Kitô, đàng khác cũng nói tới Thánh Thần như Trạng Sư, Đấng an ủi từ Cha đến.

1/ Thánh Thần như ơn ban từ Thập giá và sự phục sinh của đức Kitô

Vào lúc đức Giêsu chịu phép rửa ở Hòa Giang, Gioan đã mô tả rằng Thánh Thần từ trời đáp xuống và ngự lại trên Ngài giống như trong đền thờ (1,32; x. Ds 14,10); hơn thế nữa đức Giêsu lại có thể ban phát Thánh Thần cách dồi dào (1,34), bởi vì Ngài trở nên nguồn mạch Thánh Thần (7,37-38). Điều này được thực hiện vào giờ Thập giá (19,30.34) và vào lúc Phục sinh (20,28). Thực vậy, vào lúc đức Giêsu tắt thở trên thập giá (Mc 17,37: ễpnéuen). Gioan mô tả như là “trao ban thần khí” (paredoken to pneuma, 19.30). Tiếp theo đó, một người lính đã thọc thủng vào cạnh sườn của đức Giêsu, lập tức máu và nước chảy ra (19,34). Chính lúc đó “mọi sự đã hoàn tất”, nghĩa là Thánh Thần, nước hằng sống được ban cho nhân loại từ Thập giá (7,37-39). Điều này được bộc lộ qua cử điệu của đức Kitô Phục sinh đã hà hơi trên các tông đồ: Ngài trút ban Thánh Thần cho họ để tha tội (20,22-23), tương tự như Thiên Chúa đã hà hơi và tạo dựng vũ trụ lúc khai nguyên (St 2,7). Gioan muốn trình bày Thánh Thần như là “Hồng ân” (Donum), được đức Kitô trao tặng cho các môn đệ, để ở lại với họ và trong họ (14,17.20).

2/ Thánh Thần Đấng An ủi

Trong cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với các môn đệ tại nhà Tiệc ly, ở các chương 14-16, Gioan đã trình bày tỉ mỉ hơn vai trò của Thánh Thần nơi các tín hữu, cũng như mối liên hệ giữa Thánh Thần với Chúa Cha và với đức Kitô.

a) Đặc biệt, không những Thánh Thần được gọi là “Thần khí thánh thiện” (Spiritus Sanctus: 14.26) mà còn là “Thần khí của chân lý” (Spiritus veritatis: 14,17; 15,26; 16,13; x.1Ga 4,6). Ngài được gọi là thần khí của chân lý, bởi vì thần khí là chân lý (1Ga 5,6; x. 4,23.24); Ngài đến giúp cho chúng ta tin nhận đức Kitô là chân lý (Ga 14,16), hướng dẫn các môn đệ đào sâu hơn lời của đức Kitô. Thánh Thần sẽ không dạy chân lý nào khác những gì đức Kitô đã dạy, nhưng sẽ giúp cho các môn đệ nhớ lại lời của đức Kitô, nghiền ngẫm thấm thía hơn(16,12-15). Một danh hiệu khác của Thánh Thần là Paraclitus (có nghĩa là: trạng sư, bầu cử). Vai trò của Thánh Thần sẽ là biện hộ cho đức Kitô trước tòa án thế gian khi họ kết tội Ngài cách oan uổng phải chết trên thập giá, hay khi họ từ chối không chấp nhận tin Ngài (16,8). Dĩ nhiên Thánh Thần cũng sẽ đứng bên cạnh các môn đệ trong công cuộc làm chứng tá cho đức Kitô (Ga 15,26-27; 16,27).

b) Thánh Thần được đức Giêsu sai đến với các môn đệ để tiếp tục sứ mạng của mình. Như vậy Thánh Thần là một vị khác việt với đứ Kitô, cũng như khác biệt với Chúa Cha (Thánh Thần xuất phát từ Cha: Ga 15,26).

3. Tông đồ công vụ

Trong sách Tông đồ công vụ, Luca đã trình bày vai trò của Thánh Thần trong đời sống của Hội thánh với những nét tương tự như tác động của Thánh Thần trong đời sống của Đức Giêsu trong Phúc âm. Cũng như trước đây Thánh Thần đã đáp xuống đức Giêsu vào lúc chịu phép rửa (Lc 3,21-22) để sai đi rao giảng Tin mừng cho hết mọi dân (Lc 4,16.25-27); nay Thánh Thần cũng đáp xuống Hội thánh vào dịp lễ ngũ tuần (Cv 2,1-4) để rao giảng Tin mừng dành cho hết mọi dân (Cv 2,14.39). Đối với người Do thái, lễ ngũ tuần tưởng niệm giao ước là chính Thánh Thần được ban trong khung cảnh không kém uy nghi như trên núi Sinai (chớp sáng và lưỡi lửa Cv 2,2-3, gợi lại cảnh sấm chớp mô tả ở Xuất hành chương 19-20). Thánh Thần được ban như hồng ân của đức Kitô phục sinh (Cv2,33, nhằm hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa (Cv 1,4; Lc 24,49). Thánh Thần được ban khi các môn đệ họp nhau cầu nguyện (Cv 1,14; 2,1). Sách Công vụ còn nói tới nhiều lần Thánh Thần đã đến vào lúc cộng đồng đang cầu nguyện (4,31; 10,44-47).

Thánh Thần không những chỉ được ban vào lúc khai sinh cộng đoàn Hội thánh tại Giêrusalem, tại Êphêsô (19,5-6) và các nơi khác, nhưng Ngài còn đi kèm Hội thánh trong cuộc sống, khi hướng dẫn những bước đường truyền giáo (8,29.39) mở rộng tới biên cương mới (ch. 10; 15,28; 16,6), đặc biệt là những chuyến hành trình truyền giáo của Phaolô (13,2.4; 16,6; 20,22.23.28; 21,4.11); Thánh Thần hỗ trợ Hội thánh để làm chứng cho đức Kitô bất chấp những đe loi, bắt bớ (1,8; 4,31; 5,32; 15,8; 28,31).

4. Phaolô

Trong các tác giả Tân ước, Phaolô là người nói nhiều nhất về Thánh Thần, với những khía cạnh cũng rất độc đáo. Thực vậy, một đàng Phaolô đã gắn liền Thánh Thần với đức Kitô phục sinh; đàng khác, Phaolô đã đề cập rất nhiều tới vai trò của Thánh Thần trong đời sống của Hội thánh và của các Kitô hữu.

1/ Thánh Thần với đức Kitô.

Phaolô nhiều lần nói tới Thánh Thần (hay thần khí) của đức Kitô (Rm 8,9; Pl 1,19). Từ ngữ ấy có nghĩa là gì: phải chăng là tinh thần của đức Kitô? hay là Đức Kitô cũng là Thần khí (Đức Kitô với Thánh Thần cũng là một)? Theo các nhà chú giải, cần phải trở về với bối cảnh của Cựu ước đã có từ ngữ “Thần khí của Thiên Chúa” để nói tới sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi. Thánh Phaolô đã nhìn thấy sự can thiệp của Thần khí Chúa cách đặc biệt vào lúc Thiên Chúa cho đức Kitô phục sinh (Rm 8,11; 14,1; 1Cr 15,45), nhờ đó đức Kitô có thể ban thần khí cho ta. Nói khác đi, chính nhờ sự phục sinh, đức Kitô đã nhận lãnh được thần khí của Chúa để ban cho ta, nhờ đó ta có thể sống trong đức Kitô, đang khi chờ đợi sẽ được sinh giống như đức Kitô.

2/ Thánh Thần với Hội thánh

Như đã thấy trong Tông đồ công vụ, Phaolô đã được Thánh Thần hướng dẫn trong suốt cuộc hành trình truyền giảng Tin mừng. Phaolô đã nhìn nhận như vậy trong các thư gửi cho các giáo đoàn: lời lẽ của Phaolô không văn hóa bóng bẩy dựa theo thuật hùng biện nhưng là dựa trên quyền năng của Thánh Thần (1 Tx 1,5; 1Cr 2,4-5). Hơn thế nữa, Thánh Thần không những chỉ đi kèm theo lời giảng của Phaolô nhưng Thánh Thần còn đến với những người đón nhận Tin mừng mà Phaolô rao giảng. Nói cách khác Thánh Thần cũng tác động nơi các cộng đồng Kitô hữu nữa. Sự hiện diện sinh động của Thánh Thần được thể hiện qua các linh ân và đặc sủng, được Phaolô mô tả chi tiết trong những chương 12-14 của thư thứ nhất gửi Corintô.

Tuy nhiên Thánh Thần không những chỉ tác động trong Hội thánh qua những đặc ân phi thường mà thôi. Thực ra, như Phaolô đã nói rõ, những đặc sủng được Thánh Thần ban cho Hội thánh với mục tiêu là xây dựng cộng đoàn (1 Cr 12,7). Thánh Thần là nguyên ủy của sự thông hiệp trong Hội thánh: Ngài kiến tạo Hội thánh để trở thành một đền thờ (1 Cr 3,16), cung điện cho Thiên Chúa ngự (Ep 2,22); Ngài kết hợp hết mọi phần tử thành một thân thể trong đức Kitô của Ngài không phải chỉ phát lộ qua những đặc ân ngoạn mục, nhưng còn qua những công tác sâu đậm tác dụng trong thâm tâm của mỗi tín hữu.

3/ Thánh Thần với các Kitô hữu

Thực vậy, Thánh Thần đến với các tín hữu để canh cải họ ngay từ con tim, khi Ngài biến đổi họ từ thân phận nô lệ (Gl 4,7) sang tình trạng tự do của con cái Chúa (Gl 5,1), nhờ thế họ không còn phải sợ hãi trước mặt Chúa nữa; trái lại, tràn đầy tin tưởng họ có thể thốt lên: Abba, cha ơi (Rm 8,15; Gl 4,6). Thánh Thần đến giúp ta cầu nguyện cho xứng đáng (Rm 8,26-27). Thánh Thần trở nên một nguyên ủy mới tác động trong cuộc đời của ta, biến ta thành thụ tạo mới (Gl 6,15; 1 Cr 5,25) khiến ta đi theo Thánh Thần chứ không hành động theo xác thịt nữa (Gl 5,18-21). Đời sống mới được biểu lộ qua bác ái yêu thương (Gl 5,13) và những hoa trái của Thánh Thần: vui vẻ, bằng an, nhẫn nại, từ thiện, nhân hậu, trung tín, hiền lành, tự chủ. Như vậy, toàn thể đời ta sẽ trở thành một cuộc phụng thờ Thiên Chúa (Pl 3,3). Thánh Thần ngự trong ta là bảo chứng cho ơn cứu rỗi toàn diện, tức là ơn phục sinh mai hậu (Rm 8,23; 2Cr 5.5: Ep 1,14).

Kết luận

Có thể nói không dễ gì mà tìnm được một danh hiệu duy nhất có thể cô đọng tất cả những đặc tính của Thánh Thần. Tuy nhiên, Tân ước khẳng định một số danh hiệu mà sau này Hội thánh lấy lại, trong các tín biểu.

- Ngài là thần khí ban sự sống (x. Ga 6,63; Rm 8,2), vì là tác nhân ban sinh lực cho vũ trụ và cho con người ngay từ hồi tạo dựng. Hơn thế nữa, sức sống mà Ngài mang lại không chỉ giới hạn vào lãnh vực tự nhiên; sức sống ấy còn khơi dậy các ngôn sứ để loan báo tin mừng, giải phóng con người khỏi hết quyền lực của tối tăm, tội lỗi, sự chết.

- Ngài là thần khí của sự thánh thiện, tức là “Thánh Thần”, vì ban cho con người sự thánh thiện của Chúa, nguyên ủy thánh hóa nhân loại.

- Ngài là thần khí của tình yêu và hợp nhất, vì đã đổ tràn tình yêu xuống tâm hồn ta, ghi khắc giao ước vào thâm tâm con người, giúp cho con người hiểu biết Chúa hơn. Ngài là nguyên ủy hợp nhất trong các cộng đoàn Hội thánh, liên kết các tín hữu nên một với đức Kitô.

- Ngài cũng là thần khí của tự do và chân lý, vì đã giải thoát con người khỏi hết mọi ách nô lệ hay sợ hãi: tội lỗi, đau khổ, chết chóc.