Độc đáo pho tượng Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Nấp

TP - Được tạo tác bằng đồng, pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh mới được phát hiện ở Phủ Nấp - Phủ Quảng Cung (Vỉ Nhuế, Ý Yên, Nam Định) có thể xem là một trong những tác phẩm độc đáo nhất trong hệ thống các điêu khắc thờ Mẫu ở Việt Nam.


Hơn thế nữa pho tượng này
còn là tác phẩm ghi nhận những giá trị lịch sử và văn hóa của vùng đất gần đây được các nhà khoa học phát hiện là nơi “giáng trần” đầu tiên của Bà.

Pho tượng ba chìm bảy nổi

Phủ Quảng Cung, hay còn gọi là Phủ Nấp thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, cách Phủ Dày khoảng 7km, từng được biết đến qua thư tịch cổ là nơi giáng sinh đầu tiên Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một trong những thánh nữ thuộc hàng Tứ Bất Tử của Việt Nam.

Như trên câu đối của phủ chính Tiên Hương ở Phủ Dày có ghi: “Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế, vu Vân Cát, vu Nga Sơn ngũ bách dư niên quang thực lục/ Lịch triều ba cổn, vi đế nữ, vi đại vương, vi chúng mẫu, ức niên van cổ điện danh bang” (Ba kiếp giáng trần, ở Vỉ Nhuế, ở Vân Cát, ở Nga Sơn, đến nay đã hơn năm trăm năm sự tích sáng ngời trong sử sách/ Các triều phong tặng là con vua, là đại vương, là Thánh Mẫu, Ngàn năm vạn thủa rạng non sông).
Tuy nhiên, từ trước tới nay người ta lại chỉ biết đến những địa điểm mà tín ngưỡng thờ bà đã trở nên phổ biến cuốn hút hàng ngàn hàng vạn con nhang đệ tử hành hương về đất Mẫu như Phủ Dày, hay đền mẫu Sòng Sơn, Thanh Hóa, mà lại không biết đến một địa danh không kém phần quan trọng đó là Phủ Nấp.

Khu đền phủ cổ xưa đã từng bị bị san phẳng để xây dựng ao cá, những hiện vật, đồ thờ cũng đã bị thất tán gần hết. Pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh bằng đồng kể trên còn may mắn được đưa vào Ủy ban nhân dân xã Yên Đồng cất giữ.

Không ít lần pho tượng này đã trở thành vật dụng để phơi vắt áo quần hoặc dùng để kê đặt. Xót xa trước tình cảnh trên, rất nhiều người dân ở đây đã xin với chính quyền xã cấp lại đất để dựng lại đền.

Đến năm 1994 thì một căn nhà ba gian hai chái đã được dựng lên từ sự vận động tiền của trong dân gian và pho tượng thánh mẫu Liễu Hạnh mới được đem đi sơn thếp và trả lại hậu cung thờ bà như trước đây.

Thật là may mắn là pho tượng được làm bằng đồng, nên mặc cho trải qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử ngôi đền, nhưng tác phẩm này vẫn còn nguyên vẹn.

Pho tượng tạc Mẫu Liễu Hạnh ngồi xếp bằng rất khoan thai, trong trang phục giản dị, nét mặt bình thản, và có phần thôn dã. Đôi mắt bà hơi nhìn xuống như đang tập trung vào nội tâm, hai tay bà đặt trên hai đầu gối trong tư thế ấn quyết.

Theo tiến sĩ Vũ Huy Trác trong Quảng Cung Linh Từ phả ký thì pho tượng đồng này do vợ chồng Lạng Giang Phạm Đại nhân hưng công vào những năm 70 của thế kỷ XVIII. Rất có thể pho tượng này là sản phẩm của nghề đúc đồng thuộc làng nghề đúc đồng truyền thống Tống Xá, thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên.

Đây cũng là nơi nổi tiếng với những sản phẩm đúc đồng tinh xảo. Trên pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, những chi tiết như búi tóc, vành tai và đặc biệt là đôi bàn tay được tạo tác trong thế ấn quyết rất hiện thực và mạch lạc thì chỉ những làng nghề đúc đồng có tay nghề cao mới có thể làm được.

Không sớm như đạo Phật hay Đạo giáo, hệ thống các điêu khắc thờ Mẫu ở Việt Nam có niên đại khá muộn, mà sớm nhất cũng chỉ bắt đầu từ khoảng thế kỷ XVII thịnh hành và nở rộ trong thế kỷ XVIII và các thế kỷ tiếp theo với những sự thay đổi tiếp biến liên tục.

Đây cũng là thời điểm các đền phủ được nhập vào các chùa theo truyền thuyết Liễu Hạnh được Thích Ca Mâu Ni giải cứu, rồi qui y Phật Pháp sau trận Sòng Sơn đại chiến. Sự xuất hiện hình thức tiếu tượng của các vị Thánh trong Đạo Mẫu, mà trước đó dường như là không có, như tạo ra một thế cân bằng đối với các ban bệ thờ Phật ở thượng điện.

Cũng đồng thời vào giai đoạn này, các tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã được tạc và đưa vào thờ ở ngôi vị cao nhất của điện thờ Mẫu. Tuy nhiên các điêu khắc này cũng sớm được công thức hóa, như việc tạc Mẫu Liễu Hạnh thường là một người phụ nữ phúc hậu, ngồi trên ngai, hai đầu gối song song, một tay ấn quyết, mặc áo màu đỏ và đội một cái vương miện lộng lẫy.

Kiểu cách này, không chỉ được áp dụng với tượng Liễu Hạnh mà được áp dụng với phần lớn điêu khắc Thánh Mẫu (như Mẫu Thoải, Mẫu Địa, Mẫu Thượng Ngàn), với điểm khác nhau duy nhất là màu sắc các trang phục.

Chúa Liễu giữa đời thường

Trở lại với pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh được thờ trong hậu cung của Phủ Nấp, thì có thể nói đây là một pho tượng mang tính chất rất đặc biệt.

Tác phẩm này không chỉ đơn giản là bức tượng khắc họa lên một hình Thánh Mẫu với những tính cách chung chung như hàng loạt các tượng Thánh Mẫu kể trên, mà dường như mô tả một nhân vật có thật và rất gần với những điêu khắc tượng hậu được tạc thờ rất phổ biến trong các ngôi chùa Việt có cùng niên đại thế kỷ XVIII.

Bà có dáng ngồi xếp bằng rất nghiêm cẩn, các nếp áo được tạc một cách giản dị với hai lớp áo choàng ở ngoài và một chiếc yếm đào phía bên trong làm pho tượng trở nên sống động gần gũi.

Không chỉ vậy, trên đầu, bà cũng không đội chiếc vương miện lộng lẫy rất thường gặp. Ở đây chỉ đơn thuần có một chiếc chụp tóc búi cao, khiến gương mặt Thánh Mẫu trở nên rất đời thường.

Điều này cho thấy cái khéo của các nghệ nhân dân gian khi tạc pho tượng này đã có sự liên hệ chặt chẽ giữa hình thức và vị thế của pho tượng đặt tại Vỉ Nhuế, Phủ Nấp, nơi giáng trần lần đầu tiên của Liễu Hạnh vào một gia đình thường dân.

Theo Quảng Cung Linh Từ phả chí do đệ nhị giáp tiến sĩ Quốc Tử Giám Tế tửu Khiếu Năng Tĩnh (người xã Châu Mỹ, huyện Đại An, nay là huyện Nghĩa Hưng, Nam Hà, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn, năm Tự Đức thứ 33, 1880) Tiên chúa Giáng sinh ngày 6/3 ở gia đình ông Phạm Đức Chính, thôn Quảng Nạp vào năm Thiệu Bình nguyên Niên (1434) được đặt tên là Phạm Thị Nga hay Phạm Tiên Nga).

Bà có nhan sắc nhưng không chịu lấy chồng, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, cứu giúp người nghèo tu sửa đền chùa. Ngày 2/3 năm Quý Tỵ niên hiệu Hồng Đức (1473) tiên chúa về trời, thọ 40 tuổi. Tác phẩm Cát Thiên tam thế thực lục (bản khắc gỗ 98 trang, hiện còn lưu giữ ở Ý Yên) cũng ghi chép nội dung tương tự.

Bức tượng đồng tạc Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong dáng vẻ một thôn nữ với đầy đủ tính chất dung dị và đời thường của nhân vật này được đặt ở Phủ Nấp đã cho thấy cái thâm ý của người xưa khi tạo tác một tác phẩm nghệ thuật.

Trang Thanh Hiền