Dân Việt ta biết uống rượu từ thời thượng cổ, chẳng phải là học của Trung Hoa như sách Lĩnh Nam chích quái chép: “ Hồi quốc sơ, dân ta lấy vỏ cây làm áo... dùng gạo Tri làm rượu...” Chữ nôm “rượu” và chữ Hán “tửu”, nghe âm rất tương cận như ảnh hưởng nhau nhưng chưa biết chữ nào có trước đấy! Dân thiểu số Trường sơn ngày nay vẫn lấy một loại rễ cây giã ra làm diếu tố lên men cho rượu cần.



Cứ như sử sách như An Nam chí lược, Văn Hiến thông khảo, rượu được dùng trong cung vua khi tiệc yến như chuyện Cù thái hậu bầy tiệc ruợu để ám hại tướng Lữ Gia, hay chuyện vua Lê Hoàn và vua Trần Anh Tông ghiền ruợu.

Theo cuốn Việt Nam phong tục mà Phan Kế Bính viết vào đầu thế kỷ 20: “Rượu thì nấu toàn bằng gạo nếp, ủ men rồi cất ra. Trong thứ rượu ấy hoặc ướp thêm hoa sen, hoa cúc, hoa hồng, hoa cau, hoặc hoa nhài v.v.. gọi là ruợu hoa; hoặc tẩm với các vị thuốc bắc gọi ra rượu thuốc. Rượu hoa quí nhất là rượu sen, rượu cúc, mà rượu thuốc quí nhất là rượu sâm nhung.” ( tr. 353)

Về rượu hoa, tôi nghĩ chỉ riêng rượu hoa cau là có vẻ đặc thù Việt Nam, vì các thứ hoa khác thì Ta với Tầu đều có. Còn hoa cau thì chỉ Việt Nam mới có sẵn và có nhiều vì tục ăn trầu cau của ta; trồng cau cốt lấy trái ăn, ít ai dám hy sinh lấy hoa cau mà cất rượu, nên rượu hoa cau trở nên quí ( cũng như trong Nam, ăn đuông dừa thì chỉ có dân giàu chịu chơi mới dám ăn vì phải đốn nguyên cây mà chặt lấy cái tù hũ dừa!). Theo Lê Quí Đôn, Việt Nam là xứ sản xuất nhiều cây thuốc nên Trung Hoa thường phải mua của ta. Nếu Trung Hoa mua dược thảo sống về bào chế ra thuốc chín hay thuốc Bắc, thì Việt Nam dùng dược thảo dưới dạng tươi hoặc phơi sấy gọi là thuốc Nam. Người mình đương nhiên cũng có truyền thống ngâm rượu về các thổ sản tùy theo vùng như rượu mơ, rượu mít, rượu vỏ cam... Còn ngâm những toa thuốc hay ngâm những thú vật, chim chóc hay rắn rít thì nguồn gốc theo tôi quả là đã theo ảnh hưởng của Y dược Trung Quốc. Tôi thấy thông thường người ta ngâm rượu thuốc với sâm nhung, các thứ cao ( như hổ cốt, ban long...)...



Tục ăn rắn và uống rượu rắn:

Ở Việt Nam, tục uống rượu với máu rắn xảy ra thường ở miền Nam vì rắn miền Bắc hiếm hơn. Sách Thoái thực ký văn của Trương Quốc Dụng từng làm tri phủ ở Tân Bình ( Gia định) đời Minh Mạng chép rằng: “Tục Nam kỳ lấy rắn hổ mang làm món ăn quí, thường dùng đi lễ quan trên và đãi khách. Lấy máu nó hòa với ruợu uống bảo là trị phong thấp”

[ Chú thích thêm: Trong khi dân Bắc kỳ thường chỉ biết ăn rắn do các chú nấu ở tiệm cao lâu qua món Long Hổ hội( nấu một con rắn cạp nong đen , một con mèo đen tuyền cùng với chân giò heo thêm vài vị thuốc bắc thì đọc cuốn hồi ký trên, ta mới thấy dân Nam rất độc đáo ly kỳ hơn trong sự làm rắn hay tự nuôi lấy rắn “ống tre” để ăn như sau: “ Bỏ đầu và đuôi năm tấc ( 20 phân) cho là độc ở đấy. Có nhà nuôi rắn ấy dùng ống tre vài lóng, một đầu để mắt, đầu kia để trống bỏ rắn vào, bịt lại . Đằng mắt tre xuyên một lỗ nhỏ, giã hành thun tẩm que tre để vào lỗ. Rắn sợ hành co mình lại, một tuần sau thay que tre cũng tẩm hành mà đẩy vào thêm, rắn càng co mãi, lâu dần ngắn bằng con chạch, vẩy trắng ra, rất béo ngon” ( trích Đất lề quê thói của Nhất Thanh) ]

Hiện nay, coi cuốn video Thú ăn chơi miền Nam, chúng ta thấy đoạn phim mổ lấy mật rắn hòa rượu như quán Tri Kỷ hay làm trước đây.

Cách thức ngâm rượu những loại rắn thì tôi đã thấy ở vùng Hoa Nam và ở Hongkong, như tôi đã thấy những thẫu rượu rắn ở Quế Lâm. Miền Hoa Bắc vì khí hậu lạnh nên không có nhiều rắn để người ta ăn thịt, mổ lấy mật hòa rượu uống ngay hay ngâm rượu. Trung Quốc Trà Tửu Từ điển ( TQTTTĐ) có kê ra Ô Xà tửu và Xà Đảm tửu (dùng mật của 3 thứ rắn Nhãn kính xà, Kim Hoàn xà, Ngân Hoàn xà, nói là công hiệu khu phong, khử thấp, minh mục, ích can, cường cân tráng cốt.)

Tại sao rắn độc lại dùng làm thuốc? Theo Bản thảo cương mục, rắn thuộc hướng đông nam nên ứng vào phong, tác dụng vào can và thận. Do đó, ăn rắn và uống rượu rắn dân Á Đông tin là trị phong thấp, đau xương và rút gân. Mật rắn quí vì thuộc về hành Mộc, khí Phong, ứng với tạng Can phủ Đảm, nên bao nhiêu tinh chất của rắn cô đọng trong túi mật. Đó là luận thuyết theo Y lý khí hóa của Đông phương; trong con mắt của người bình dân ít học thì sự lý luận bắt nguồn vào sự quan sát thực tại gọi là Théorie des Signatures - Thuyết Thự danh- nghĩa là bản chất sự vật thế nào thì hình hài của nó hiện ra thế ấy như chữ ký vậy: rắn bò sở dĩ thoăn thoắt uyển chuyển chính là nhờ khớp xương lưng nó mềm mại, và dẻo dai. Hiện nay, người ta đã thực nghiệm chế những thuốc trị đau khớp với thuốc Chondroitin và Glucosamine lấy từ sụn xương lưng của cá mập, cá nhám ( Kình ngư). Vi cá được coi là trân phẩm quí giá trong các món súp , món nhồi bồ câu và nhân bánh Trung thu vì sự tin tưởng trên.



Rượu ngâm hà nàm và tử hà xa:

Chuyện lấy hà nàm (bào thai) loài thú không phải là chuyện lạ ở miền, nhất là những vùng săn bắn hay bẫy được thịt rừng. Hà nàm thông thường là hà nàm nai. Người ta ác khẩu đồn rằng các cán bộ cao cấp thích tẩm bổ bằng “ hà nàm người”. Điều này thì tôi có nghe nhưng không rõ, chứ những lá nhau người ( sách thuốc gọi là “tử hà xa” vì hình tròn như lá sen) thì với tư cách là một bác sĩ sản phụ khoa, tôi xác nhận là có. Mỗi phiên trực nhà thương ở Bệnh viện Quảng đông vào hai năm 1978 - 1980, tôi được thủ trưởng Nam giao cho những lon Guigoz và dặn lấy những lá nhau con so tốt cất cho anh ấy để ngâm rượu và để “hữu nghị” với những cửa hàng ăn uống mà đổi lấy đường, bột ngọt và thịt cá. Lá nhau chứa kích thích tố Chrionic Gonadotrophin nên có một dạo dân ta có phong trào uống xia rô nhau và cấy nhau theo phương pháp Filatov của Nga. Trong thời gian tôi làm bác sĩ khoa sản, tôi được biết nhà thương Quảng Đông phân loại nhau người như sau: loại A là nhau con so, loại B là nhau con thứ 2 mà mẹ khỏe mạnh, nhau lấy ra trọn vẹn ( hai loại A và B được đem chế xia rô), còn loại C là nhau con rạ thì đem làm thực phẩm nuôi heo. Chuyện lấy những thai nhi chết để nuôi heo thì không có như tin đồn.



Dùng hà nàm thú vật làm thuốc có công hiệu không? Trước đây ở Liên xô, người ta nói rằng bác sĩ Bogomoletz đã dùng hà nàm người để làm thuốc cho chủ tịch Staline. Hư thực thế nào tôi không rõ, chứ điều sau thì tôi xác nhận là có thực: ở bệnh viện Quảng Đông thì máu của các sản phụ khi người ta sổ nhau được hứng rồi giao cho những ao cá bác Hồ để nuôi cá làm cá sanh đẻ nhiều, điều này cũng lô- gíc vì máu này chứa nhiều chất : ngoài kích thích tố chorionic gonado trophin., máu đẻ còn chứa những chất hữu cơ như hồng huyết tố, chất sắt v.v... Thành ra ruợu hà nàm thú vật trên nguyên tắc là một thứ ruợu bổ, nhưng không ai dám nói những hàm chất tươi sống của nó có bị tiêu hủy vì ngâm rượu không? Theo sách Trung quốc Trà Tửu từ điển, rượu ngâm hà nàm nai gọi là Lộc thai tửu.

Về bộ phận sinh dục của thú vật, dân nhậu miền Nam còn có rượu ngâm hòn dái dê ( Ngọc dương tửu)! Ngoài ra, tiệm thuốc bắc bán rất đắt món Hải cẩu thận ( gồm dương vật và ngọc hoàn của hải cẩu _ Callorhinus ursinus) trị chứng hư lao, liệt sinh lý, yếu bại lưng gối. Món Đông trùng hạ thảo ( Cordyceps) cũng là một dược liệu quí trị liệt dương, di tinh , đau lưng gối bán rất mắc



Rượu ngâm bìm bịp:

Dân Nam coi rượu bìm bịp là một rượu quí vì trị nhức mỏi và cứng gân cốt. Theo cây bút đồng quê miền Nam Lê Bảo Trân cho biết, chim bìm bịp ( Centropus sinensis thuộc gia đình Cuckoos) thường làm tổ trên những cây bần hay bụi dừa nước, lông màu xanh, đầu mầu đà, ăn cá, mỗi khi nước lớn thường kêu như câu ca dao:

Bìm bịp quê nước lớn anh ơi,

Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.

Dân quê thường hay mò vô tổ của bìm bịp, bẻ gẫy chân những bìm bịp non xong rồi rình cho mẹ chúng tha những cây thuốc về trị bệnh để bắt chim non về ngâm rượu vì người ta tin tưởng rằng trong bọc chứa của chúng còn chứa những cây thuốc có đặc tính tiếp cốt thần kỳ vừa được bìm bịp mẹ mớm cho.



Ruợu ngâm bao tử nhím:

Nhím là loài hay bới đào để ăn rễ những cây thuốc mọc sâu dưới đất, nên dân miền Nam cũng bắt nhím mổ lấy bao tử ngâm rượu cho rằng rất tốt. Con nhím chữ Nho là Hào trư ( nhím chồn) và Thích vị ( nhím chuột), nhưng tôi tra cứu trong Tuệ tĩnh toàn tập của thiền sư Nguyễn Bá Tĩnh ( Viện Y Dược học dân tộc - TP/HCM) thì không thấy nói đến dùng bao tử nhím mà chỉ nói thịt của nhím chồn tiêu cổ trướng ( bụng báng nước), trị nhiệt phong ; còn da nhím chuột ( nhím gai)giết được trùng bệnh trĩ, đau lưng, đau bụng (nguyên nhân?) chứng bôn đồn (?). Sách thuốc Tầu không thấy nói về rượu ngâm bìm bịp và bao tử nhím như Việt Nam.



Rượu ngâm chuột xạ con

Theo Lê Bảo Trân, miền Nam có người ngâm chuột xạ con mà không nói trị bệnh gì. Tôi chú ý rằng cuốn Từ điển về trà rượu của Tầu ( TQTTTĐ) dẫn trên không thấy nói đến ruợu bìm bịp, bao tử nhím ... có lẽ là đặc thù của dân miền Nam Việt . Phải chăng đất Tầu không có sẵn những thú cầm điểu này. Về loại rắn, rít thì bên Trung quốc, miền Hoa Bắc lạnh lẽo hoặc rất hiếm hay không có, còn vùng Giang Nam - cái nôi phát sinh giống Bách Việt - nhất là Quảng Đông, Quảng Tây với khí hậu loại bán-nhiệt-đới thì lại tương đối sẵn những thú vật như ta nên họ mới có chuyện ăn rắn, chó và chuột như ta thấy qua những sách và phim ảnh Trung Quốc. Về chuột, có món Trúc Thử ( chuột ăn rễ bụi tre). Còn rượu thuốc vùng Hoa Nam thì ê hề rượu rắn, rượu tắc-kè, rượu cà cuống ( Long sất tửu - rượu rận rồng!)...



Ruợu ngâm Nhung

Thông thường phối hợp với Sâm. Sâm đây là Nhân sâm mà xứ ta không có nhưng mua tại tiệm thuốc bắc.

Còn Nhung là cái gạc non mọc ra khi cái gạc già rụng đi. Theo Đỗ Phong Thuần trong cuốn Việt Nam dược vật thực dụng, người ta phân biệt Nhung theo thời điểm mọc sau: Nếu mọc vào tiết Hạ chí nghĩa là Nhứt âm sinh thì gọi là Mê Nhung nên bổ phần âm huyết; còn mọc vào tiết Đông chí nghĩa là Nhứt dương sinh thì gọi là Lộc Nhung nên bổ phần Dương khí. Điều phân biệt trên thuộc lãnh vực quá chuyên môn, người thường không ai nói được. Đại khái, Mê Nhung lớn hơn Lộc Nhung, sắc đen xám hay vàng mơ Còn về phẩm chất, thường tùy theo xuất xứ: gạt vùng Chợ Bờ ( Bắc phần) tốt 10, vùng Thanh hóa tốt 8, vùng Lào thì xấu, vùng Đà lạt vừa dùng. Ở Tàu bán ra phần lớn mua từ Thái Lan cũng không được tốt. Nói chung, Nhung về trị liệu thì tư âm bổ thận, chữa bệnh âm hư lao tổn và những chứng thuộc phần huyết hoặc gân xương lưng gối đau nhức. Ruợu Lộc Nhung của Tàu ( kén chọn hươu ở Liễu Ninh hay Cát lâm) thường ngâm thêm gân hươu, các vị thuốc bắc như bắc kỳ, thục địa và nhiều vị khác. Phân chất Lộc Nhung thấy những thành phần sau: Steroids, Cholesterol; về chất béo lipids có proteolipids, ganglioside, sphingomyeline; và muối khoáng thì có Calcium phosphate, Calcium carbonate.



Rượu Hổ cốt

Theo Đỗ Phong Thuần thì về cách chế, lấy một bộ xương ống chân hổ sao vàng, giã nhỏ rắc men ủ thành rượu; hoặc cho vào trong cái bao bằng vải rồi dầm rượu. Công dụng: Hổ cốt tửu chữa đau trong ống chân, nhức các khơp xương và chữa thận, bàng quang lạnh. Theo Kinh nghiệm phương, toa Hổ cốt Mộc qua tửu rất thông dụng. Phân chất Hổ cốt thì thấy nhiều Kalium carbonate hay muối bồ-tạt. Trung Quốc trà tửu từ điển nói rằng bào chế Hổ cốt tửu Bắc kinh ( chắc là rượu ngự dụng), ngoài xương ống chân cọp ( hĩnh cốt) là chính, còn ngâm thêm đủ thứ như nhân sâm, lộc nhung, xạ hương, hồng hoa, mộc qua, nguyên hoạt, ngưu tất... cọng cả thẩy 147 vị thuốc bắc.



Rượu ngâm rùa

Rùa sống lâu đến 500 năm. dù nhịn đói hai ba tháng cũng không chết. Chế Qui nhục tửu bằng cách lấy thịt rùa hòa lẫn với men, rồi ủ cho thành rượu. Ruợu này chữa chứng ho lâu năm, chứng phong co quắp tay chân hay bại xuội. Mu rùa là Qui bản trị các chứng xích đái, bạch đái, thấp nhiệt lở ở hạ bộ, chứng trĩ và thóp trẻ con không liền được ( Đỗ Phong Thuần). Phân chất mu rùa thấy nhiều muối Calcium. Ngoài ra, sách Tầu có nói về Qui giao tửu đã dùng mu rùa đen ở Động dình hồ nấu thành cao, rồi ngâm rượu với câu kỷ, kim anh tử, đảng sâm, đương qui ; có tác dụng tư âm, bổ thận, cường thân tráng thể . Qui Lộc tửu rất quí lại dùng mu rùa (qui bản), nhung hươu và 10 vị thuốc khác mà chế ra.



Rượu cắc-kè:

Tiếng Nam phân biệt cắc-kè (hay tắc-kè) với cắc-ké: Theo Việt Nam tự điển của Lê văn Đức & Lê ngọc Trụ, cắc kè là loài bò sát dài độ 20 cm, bụng to đuôi ngắn, sống trong kẹt hóc, không ưa ánh sáng, thường kêu ban đêm ( có những loại cắc kè bông, cắc kè lửa) Danh từ Cắc kè đôi là lời biếm nhẽ một cặp trai gái đang tình tự. Còn cắc-ké là loài bò sát mình ba góc thon dài, gáy có gai, đuôi dài, mình màu xanh, tím vàng đỏ tùy theo chỗ người đứng trông, sống trên cây cối, ăn sau bọ, đẻ trứng thật nhiều dưới đất sau. ( Cắc-ké lục chốt chỉ hạng thấp thỏi chầu rìa).

Cắc- kè có tên chữ nho là cáp- giới đọc theo âm Tàu là Ke-Chieh ( cơ chia), kỳ thực là tiếng kêu khi chúng muốn bắt cặp, con đực kêu cắc, con cái đáp kè. Sách thuốc Tầu nói cắc kè rất nhiều ở Quảng đông và Quảng tây. Hiệu lực làm thuốc của cắc kè là phải có đủ nguyên cái đuôi; khi người ta rình bắt nó , nó cắn đuôi bỏ chạy. Khi cắc kè đực cái bắt cặp thì chúng ôm nhau sát, rồi cùng té xuống đất mê man không còn biết trời trăng, khó mà gỡ ra được. Do đó, người ta mới bắt cả cặp bỏ vô rượu, hấp rồi phơi khô để bán là thuốc khích dâm cường dương. Cắc kè vị mặn, tính bình, hơi độc, công dụng khai phế khí, chữ hen suyễn, ho lao, lợi thủy thông kinh, chữa què gẫy. Mắt nó độc, nhưng đuôi lành.. Khi dùng bỏ mắt và kỳ trên sống lưng, tẩm rượu nướng khô mới dùng. Con nào đứt đuôi thì dược lực kém không nên dùng.

Theo sách Trung quốc Trà Tửu từ điển (TQTTTĐ ), Cáp giới tửu đủ 2 con đực cái dính cặp mới thiệt tốt, người ta: dùng cắc kè còn tươi sống phối hợp với lộc nhung, đảng sâm, câu kỷ tử , viên nhục, huỳnh tinh, hoài sơn, hắc táo, tỏa dương, đương qui, bắc kì, nhục thung dung, xuyên khung... cùng vài thứ linh tinh khác ngâm trong rượu gạo thứ thiệt. Hương vị rượu rất thuần hòa, hiệu lực nuôi âm, bổ thận, bổ huyết dưỡng nhan ( bổ máu và làm tăng sắc đẹp ở phụ nữ)



Ngự tửu Minh Mạng thang

Rượu này trở thành một đặc sản của Việt Nam kể từ ngày Việt Nam mở cửa cho du lịch và kinh tế thị trường để góp nhặt ngoại tệ. Cái gì thuộc về vua chúa nhà Nguyễn trước bị chửi là phong kiến, áp bức thì nay được xưng tụng là di sản văn hóa, trong đó có toa thuốc của Vua Minh Mạng. Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế, được đồn là do vài vị ngự y chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế ( 1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm:



I - Nhất dạ ngũ giao

Thành phần:

1- Nhục thung dung 12g

2- Táo nhân 8g

3- Xuyên Qui 20g

4- Cốt toái bổ 8g

5- Cam cúc hoa 12 g

6- Xuyên ngưu tất 8g

7- Nhị Hồng sâm 20g

8- Chích kỳ 8g

9- Sanh địa 12g

10 -Thạch hộc 12g

11- Xuyên khung 12g

12- Xuyêntục đoạn 8g

13- Xuyên Đỗ trọng 8g

14- Quảng bì 8g

15- Cam Kỷ tử 20g

16- Đảng sâm 10g

17- Thục địa 20g

18 - Đan sâm 12 g

19- Đại táo 10 quả

20- Đường phèn 300 g

(Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử“ nghĩa là có một lần làm thụ thai... song sinh!!)

Cách ngâm: Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục.



II- Nhất dạ lục giao

Thành phần:

1-Thục địa 40g

2- Đào nhân 20g

3-Sa sâm 20g

4- Bạch truật 12g

5 Vân qui 12g

6- Phòng phong 12g

7- Bạch thược 12g

8- Trần bì 12g

9-Xuyên khung 12g

10- Cam thảo 12g

11- Thục linh 12g

12- Nhục thung dung 12g

13- Tần giao 8g

14-Tục đoạn 8g

15- Mộc qua 8g

16- Kỷ tử 20g

17-Thường truật 8g

18-Độc hoạt 8g

19- Đỗ trọng 8g

20- Đại hồi 4g

21- Nhục quế 4g

22- Cát tâm sâm 20g

23- Cúc hoa 12g

24- Đại táo 10 quả

Cách ngâm: 24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với một lít rưỡi rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp.

Chủ trị: Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ.



Vài nhận xét của người viết

Tôi mạn phép có vài nhận xét sau:

a- Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g). Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng ( liang), phân (fen). Nhưng ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau về cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê hẻo lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng. Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đã làm cho vấn đề cực kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đã chuyển theo hệ thống thập phân (metric system) thay vì là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để dễ bề tính toán::

1 lượng = 30 g ( hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g)

1 tiền = 3g

1 phân = 0.3g

Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rõ lương y Việt Nam đã dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc.

b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, vì các tên thuốc có kèm tên vùng thổ sản như Tứ Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đòi hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ trọng, Xuyên khung. Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, thì chỉ có Vân Qui và Xuyên Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, còn những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử thì không nói rõ từ ở đâu

c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong một toa thuốc Bắc phải dựa trên tình trạng của mỗi bệnh nhân như thể chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh tình mới hay lâu. Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one size fits all”.

Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ý thức trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp dụng sự tự điều trị cho cá nhân mình mà không tham khảo những vị lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang thai, hay những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lý hiểm nghèo khác. Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác- dụng bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại trước khi bán ở thị trường.

d - Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công hiệu của những ngự tửu. Trường hợp của Minh Mạng thang với những tên “Nhất dạ ngũ giao” hay “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” có tính cách khoa trương huyền thoại chăng?



Ta hãy thử duyệt lại số con cái của vua chúa nhà Nguyễn

Chín đời chúa là:

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng ( 1525 - 1613) có 12 con: 10 trai và 2 gái

Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1563- 1635) có 15 con: 11 trai và 4 gái

Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan ( 1601 - 1648) có 4 con: 3 trai và 1 gái

Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần ( 1620 - 1687) có 9 con: 6 trai và 3 gái.

Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái ( 1650 - 1691) có 10 con: 5 trai và 5 gái

Chúa Minh vương (Quốc chúa)û Nguyễn Phúc Chu* ( 1675 - 1725) có 42 con: 38 trai và 4 gái

Chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Thụ ( 1697 - 1738) có 9 con: 3 trai và 6 gái

Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ( 1714 - 1765) có 30 con: 18 trai và 12 gái

Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần ( 1753 - 1777) có một gái



* Chúa Minh vương (Quốc chúa ), theo nhiều sử sách có đến 146 con! Nhưng theo Richard Orband trong Les tombeaux des Nguyễn( 1914) và Nguyễn Phúc tộc thế phả ( 1995) thì ghi là 42 con



Mười ba đời vua là:

Gia long ( 1762 - 1819) có 31 con :13 trai và 18 gái

Minh Mạng (1791 - 1840) có 142 con: 78 trai và 64 gái

Thiệu trị ( 1807 - 1847) có 64 con: 29 trai và 35gái

Tự Đức ( 1829 - 1883) không có con tuy nhiều vợ

Dục Đức ( 1853- 1883) có 19 con: 11 trai và 8 con gái chết vì bị giam đói

Hiệp Hòa ( 1847 - 1883) có 17 con: 11 trai và 6 gái chết vì bị ép uống thuốc độc

Kiến Phúc ( 1869 - 1884) chưa có vợ con , chết bí mật

Hàm Nghi ( 1871- 1943) một vợ, có 3 con: 1 trai và 2 gái

Đồng Khánh ( 1864 - 1889) có 5 vợ, 10 con: 6 trai và 4 gái

Thành Thái ( 1878 - 1954) nhiều vợ, có 45 con: 19 trai và 26 gái**

Duy Tân ( 1900 - 1945) có 2 đời vợ , có 3 trai và 2 gái

Khải Định ( 1885 - 1925) có 1 trai

Bảo Đại (1913 - 1997) có 5 con: 2 trai và 3 gái



[** Riêng Vua Thành Thái là một người phát dục rất sớm. Số con của ông còn rơi rớt rất nhiều mà thế phả nhà Nguyễn chưa kiểm tra được. Cung tần chưa đủ cho ngài gần gũi mà còn muốn vi hành ra ngoài nên mới có câu:

Kim luông con gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ trẫm liều, trẫm đi!]

Duyệt qua danh sách trên, ta thấy có hai đỉnh cao về con số đông con:

_ Đỉnh cao thứ nhất trong đời các chúa với Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu và Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ứng vào giai đoạn mà Chúa Nguyễn ở Nam hà tuyên bố xác định vương quyền độc lập chống lại vua Lê chúa Trịnh Bắc hà bằng sự dùng vương ấn và lập sẵn kinh đô ở Thuận Hóa.

_ Đỉnh cao thứ hai trong đời các vua với vua Minh Mạng ứng với giai đoạn tuyên xưng đế quyền tuyệt đối với sự ban bố bài Đế Hệ thi 20 chữ trong tham vọng con cháu của ông sẽ làm vua trong 20 đời nữa.

Chính ý niệm xác định Vương quyền và Đế quyền phải chăng tạo ra nhu cầu sinh sản nhiều tử tức hậu duệ. Và “bộ máy đẻ” của nhà Nguyễn là hệ thống cung tần mỹ nữ. Đời Võ vương, vợ lớn nhỏ của chúa không gọi là Chánh hay Thứ phu nhân như bá tính mà đổi ra gọi vợ cả là Tả hành lang và vợ thứ là Hữu hành lang, con cái đẻ ra sợ chuyện ma quỉ bắt ( nạn hữu sanh vô dưỡng ) nên Chúa mới đặt ra tục gọi các con trai là Mệ, Mụ. Trong cung cấm nhà Nguyễn, có chín bậc gọi các bà vợ vua từ cao đến thấp gọi là Cửu giai. Vua nhà Nguyễn không phong vợ lớn là Hoàng Hậu (trừ vua Bảo Đại sau này) vì sợ nạn quốc thích chuyên quyền như các triều Lý, Trần , tước hiệu Hoàng Hậu chỉ phong sau khi chết.

Cửu giai là:

Nhất giai Phi

Nhị giai Phi

Tam giai Tân

Tứ giai Tân

Ngũ giai Tiếp Dư

Lục giai Tiếp Dư

Thấp giai Quý Nhân

Bát giai Mỹ Nhân

Cửu giai Tài Nhân

và cuối cùng là Tài Nhân vị nhập giai ( nghĩa là chưa vô ngạch mà chuẩn bị thôi, như chức Chuẩn Úy của quân đội) Trong thế phả Nguyễn Phúc tộc, tôi thấy một bà Cung Nga có lẽ là cung nữ chưa vô ngạch Cửu giai!

Chính vì hệ thống phi tần mỹ nữ đã là cho những ông ngự y phải tìm những thang thuốc bổ thận cho vua chúa và những toa thuốc dưỡng thai cho các vợ vua khi mang bầu, như thế làm gì không đông con. Thức ăn ngự thiện đương nhiên gồm những thứ bổ béo mà bá tính cung tiến .Vua Minh Mạng chỉ sống đến 50 tuổi vì nghe đâu chết vì té ngựa, thế mà đã có 142 con, nếu vua thọ thêm 20 năm nữa, con cái trực hệ còn đông đến đâu. Hệ của Minh Mạng là hệ nhì chánh ( hệ nhứt chánh là hệ hoàng tử Cảnh), là hệ đông nhất gồm 56 phòng và phái nam đươc 1800 người.

Theo tôi những cái tên Nhất dạ Ngũ giao hay Lục giao của Minh Mạng thang là những cái tên đời sau bịa ra cho thần kỳ, chứ mỗi khi một cung phi nào được vua vời tới long sàng thì tên tuổi và ngày tháng ấy đều được ghi chép cẩn thận để sau này còn chẩn đoán thai kỳ và xác nhận phụ hệ. Những chuyện về:

Cái đêm hôm ấy đêm gì.

Bóng dương trùng bóng trà mi chập chùng

là chuyện thâm cung bí sử, ai mà rõ “ ngũ giao” hay “ lục giao”. Trong đống văn khố chứa trong Tàng thơ lâu , giả thử còn lưu lại những y án hay phương dược của các ngự y dâng lên vua, đâu là tài liệu xác nhận rằng vào một đêm nào đó có 5 bà phi trong bụng tiếp nhận “ long chủng” qua lần ân ái với vua và tên những hoàng nam hay hoàng nữ đó là ai?

Dựa vào kiến thức y học, câu chuyện “lục giao sanh ngũ tử “ có lẽ là ngoa ngôn hay phóng đại. Chỉ ở trong thần thoại Hy lạp, mới có thần Hercule trong một đêm gần ... 50 cô gái đã làm thụ thai 49 cô. Dẫu sao, xét về số con của vua Minh Mạng thì hậu thế phải công nhận ông thuộc vào loại có khả năng tính dục tuyệt luân. Tính theo mỗi lần giao cấu chỉ bắn tinh khí ra khoảng 2 phân khối rưỡi đến 3 là cùng sau nhiều ngày kiêng giao cấu, mà muốn làm thụ thai, mỗi phân khối tinh khối phải chứa 100 triệu tinh trùng và số tinh trùng quái dị phải dưới 20 %. Khối lượng và sự đậm đặc của tinh khí thường giảm xuống mau chóng sau nhiều lần giao cấu liên tục. Như vậy trong một đêm 5 lần 6 lượt tính giao thường không phải sinh con mà sinh ra .... bắn súng nước hay bắn khói! Theo sử sách, hằng đêm, vua thức khuya để coi chương sớ từ các phiên trấn gửi về đến canh ba ( 11 giờ khuya) mới đi ngủ. Hoạt động chăn gối về đêm hăng như thế mà ban ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt chứng tỏ Minh Mạng là một người có một “thể chất tiên thiên “ bẩm sinh cường tráng. Những toa thuốc mà vua dùng chỉ là trợ lực cho đường sinh lý chứ không phải là chủ trị quyết định. Xem trường hợp vua Tự Đức (1847- 1883) thể chất tiên thiên bất túc và lúc mới lớn bị đậu mùa, dù là vua có nhiều vợ và được các ngự y chữa trị vẫn không có con.

Nhìn vào thành phần những món thuốc trong hai toa Minh Mạng thang nói trên, tôi thấy toàn là những vị bổ dược mà tiệm thuốc bắc nào cũng có và hiệu lực của chúng theo y lý được coi là tư âm bổ dương, tăng cường tinh khí, nâng đỡ thể trạng chứ không phải là những thức khích hứng nhất thời làm cương cử ngọc hành hay những vật liệu chế từng những tạng phủ hay bộ phận của những thú vật nổi tiếng mạnh về sinh lý. Thành ra Minh Mạng thang là một loại bổ dược chống mệt mỏi tổng quát, chứ không giống như những viên thuốc hứng dục ( aphrodisiac) như viên Okasa dạo nào của Pháp chứa Testostérone và Yohimbine, Cantharidine hay những viên Viagra hiện nay chỉ có tác dụng cục bộ làm cương cử ngọc hành.

Nhiều y sĩ cho rằng sự mệt mỏi thường là nguyên nhân làm giảm hứng thú khi ân ái. Vua Minh Mạng vốn là một người có thực lực tính dục quán chúng do bẩm sinh nên vấn đề dùng thuốc bổ là một sự trợ lực. Nếu phàm nhân tục tử vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức mình, mỏi gối chồn chân mà cứ dùng thuốc khích hứng để tiếp tục trèo thì quả là tai hại!



Nhận định về công hiệu của Minh Mạng thang.

Vấn đề này cần một sự khảo sát và phân tích thâm cứu dựa trên những dữ kiện khoa học mà hiện nay chưa có. Tôi nghĩ rằng một ý kiến có thẩm quyền nhất là ý kiến của bác sĩ Nhật Akira Ishihara. Ông đã cọng tác với Howard S. Levy là đồng tác giả cuốn The Tao of Sex. Cuốn sách này rất hay vì dựa vào nhiều tài liệu hiếm quí về tính dục học cũng như y dược của Trung Hoa và Nhật bản. Y dược Á Đông theo nguyên lý Âm Dương Ngũ hành và được chế biến từ những nguyên liệu từ thiên nhiên mà hiện nay chưa có một sự phân chất thí nghiệm qui mô. Dược liệu Trung Y qua hơn 5 ngàn năm lịch sử từng chứng tỏ công hiệu trên nhiều phương diện. Ví dụ như Nhung gạt hươu non chứa nhiều kích thích tố , dùng trích tinh để thí nghiệm trên chuột thì thấy chuột tăng cường về sinh lý rõ ràng. Nhục thung dung là một loại nấm chứa nhiều Manganese thường có trong nhiều thuốc khích dục. Thành ra không phải y dược Á đông không có hiệu nghiệm, nhưng hiệu nghiệm này còn rất ẩn áo hầu như có tính chất huyền thoại, phải theo kinh nghiệm lâu đời (empirical) của cổ nhân mà dùng lâu ngày mới thấy. Một yếu tố đáng kể là thể tạng của từng bệnh nhân đã đáp ứng ra sao với sự trị liệu nên thuốc dùng cho người này thì tốt mà dùng cho kẻ khác thì không. Vấn đề tâm lý của người dùng thuốc( linh tại ngã, bất linh tại ngã) cũng là một yếu tố quyết định.

Tôi tự xét, không học gì về Đông Y mà chỉ là con mọt sách, ghi chép lượm lặt để viết lách, nên kính mong sự chỉ giáo của các bậc cao minh. Tôi còn nhớ trước 1975 có đọc quyển Vạn thị Phụ Nhân khoa do ông Nguyễn văn Tỷ chủ nhà thuốc Hồi Xuân đường Nguyễn thiện Thuật, Bàn cờ Sài gòn. Trong sách có một đoạn bàn về các toa thuốc bổ tính dục và bí quyết sinh quí tử mà tôi viết lại theo trí nhớ:

Đàn ông muốn sanh quí tử phải đạt đủ ba điều kiện trên ba tiêu chuẩn gọi là Tam chí ( Can chí, Tâm chí, Thận chí).

Can tức là gan. Can chủ về mộc cân tức là gân. Gân khỏe ( Can chí) thì gân mới đủ sức cương cử mà hành sự;

Tâm tức là tim, chủ về huyết hỏa hay năng lượng. Tim tốt ( Tâm chí) thì trí não quân bình, năng lực phương cương, sức lực bề dai, tinh trùng mới đủ sức bơi ngược giòng tử cung để thụ thai:

Thận tức là cơ quan tính dục gồm dịch hoàn và các hạch nội tiết nang thượng thận, chủ về thủy, tức là tinh khí. Thận khỏe ( Thận chí) thì tinh khí đặc, chứa nhiều tinh trùng nên dễ thụ thai.



Suy diễn như trên, ta thấy sự tính giao lý tưởng là một độ cương dương vật đầy đủ, một trí óc quân bình, một nguồn sản xuất tinh khí dồi dào về phẩm và lượng. Như thế, một người thận yếu, tinh khí loãng, cợ thể bạc nhược, gân thịt bèo nhèo mà dùng thuốc khích hứng chẳng khác nào quất roi thúc con ngựa còm ròm tiến bước trên con đường xa gập ghềnh.

Một toa thuốc bổ dương hoàn toàn không phải là một toa thuốc chỉ bổ thận khích dục mà theo biện chứng của Đông Y phải là nhắm vào chủ đích bổ dưỡng toàn thân, bằng cách bồi bổ ba nội tạng Can, Tâm, Thận. Tôi nghĩ đây là một minh chứng về quan niệm khác nhau giữa Tây Y và Đông Y:

*Tây Y chủ trương đánh thẳng và mau vào ngọn nên hữu hiệu vào những trường hợp cấp tính;

*còn Đông Y đánh bền và lâu vào gốc bệnh ly, nên thích hợp cho các chứng kinh niên mạn tính.



Nhìn chung, dùng rượu thuốc là một tập quán, một đặc thù văn hóa của dân Việt ta đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, sống trong thời hiện đại, người ta phải có một thái độ suy luận thận trọng trên thực tế khi phải dùng thuốc, ngay cả khi dùng thuốc bổ không phải thuốc bổ nào cũng tốt cả như „ one size fits all“ như cái tên khoa trương „ ngũ giao“, „ lục giao“... Một vị thuốc nào cũng vậy, bên cạnh công năng trị liệu, còn có thể có nhiều “phó tác dụng“. Rượu làm khí huyết lưu thông (Tửu năng dẫn huyết) nhưng đối với những người có chứng huyết áp cao và chứng thống phong ( gout) thì không nên dùng. Tóm lại, rượu thuốc vẫn là rượu bổ nhưng nên dùng thận trọng.



Trích

Bút khảo của BS Lê văn Lân