-
-
CÓ MỘT HỆ THỐNG CÁC BẢN ĐỒ THĂNG LONG THỜI LÊ
(THẾ KỶ XV - XVIII)
BÙI THIẾT
Việc tìm kiếm, nghiên cứu, nhận biết để có thể chỉ định được một cách tương đối chính xác vị trí của thành Thăng long các thời Lý - Trần - Lê (thế kỷ X - XVIII) - vốn ở trung tâm thủ đô Hà Nội hiện nay, không những là trách nhiệm vô cùng khó khăn và quang vinh của các giới nghiên cứu lịch sử, văn hóa …, mà đó còn là nguyện vọng, là yêu cầu của nhân dân Hà Nội.
Trong gần 30 năm qua, kể từ ngày giải phóng Hà Nội (năm 1954) cho đến nay, công việc sưu tầm tư liệu, tìm tòi để chỉ định vị của tòa thành Thăng long được triển khai trên mọi phương diện với kết quả ngày một khả quan. Bước đầu các giới nghiên cứu, ở góc độ của mình đã lên đwocj sa bàn một vài mô hình vị trí của tòa thành Thăng Long ấy, song đó cũng chỉ là những công việc thử làm, là những phác thảo. Thật ra giới nghiên cứu chưa thể chọn được mô hình nào trong đó ; nhiều ý kiến còn tranh cãi, nhiều khi còn trái ngược nhau. Công việc thật vô cùng khó khăn, bởi vì chúng ta thiếu quá nhiều tư liệu cả về văn bản và cả trên thực địa.
Để góp phần làm sáng tỏ thêm vị trí tòa thành Thăng Long các thời Lý - Trần - Lê, việc tìm kiếm các nguồn tư liệu có liên quan có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và quyết định. Trong các nguồn tư liệu đó thì việc có được những bức họa đồ của tòa thành các thời, thật là điều chúng ta hằng chờ mong. Ấy thế mà trước đây, ngay từ năm 1960 khi Biệt Lam Trần Huy Bá công bố bức họa đồ thành Thăng Long đời Hồng Đức trong sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội, vẫn chưa được sự chú ý của các giới nghiên cứu, vả chăng vì chưa tin vào sự chính xác của văn bản hoặc vì chưa quen với lối vẽ thiếu tỉ lệ của người xưa? Hoặc vì chỉ có một bản, là “ngụy thư”?
Gần đây khi soát lại các sác đ ịa ký hòa - lịch sử nước nhà trong kho sách Hán Nôm ở Viện Thông tin khoa học xã hội, chúng tôi đã phát hiện thấy khá nhiều bàn đồ thành Thăng Long thời Lê (thế kỷ XV - XVIII) , theo sự khảo sát bước đầu của chúng tôi thì có cả bản đồ Thăng Long thời Lê Sơ (tức là bản đồ Thăng long được vẽ vào các năm 1469 và 1490, nhất là bản đồ vẽ vào năm 1490) và bản đồ Thăng Long cuối thời Lê (tức là bản đồ Thăng Long năm 1490). Điều đặc biệt lí thú là có đến 9 bản đồ Thăng long thời Lê là bản đồ Hồng Đức như vẫn quen gọi xưa nay. Đây là vốn tư liệu quý giúp ta có thêm các cứ liệu để có thể chỉ định được vị trí thành Thăng Long thời Lê (thế kỷ XV - XVIII) một cách tương đối chính xác: đây là nguồn tư liệu mà chúng ta có thể tin cậy được, dùng để đối chiếu với các ghi chép về thành Thăng Long thời Lê và thủ định điểm trên thực địa hiện nay, để tìm vị trí của tòa thành. Tất nhiên các tấm bản đồ ấy còn cung cấp cho chúng ta nhiều dòng tin chắc có liên quan đến thành Thăng Long thời ấy, không chỉ về mặt vị trí tòa thành.
Để thống nhất với nhau về tên gọi những bản đồ vừa mới tìm thấy, chúng tôi thấy rằng nên dùng khái niệm bản đồ thành Thăng Long thời Lê (thế kỷ XV - XVIII) để chỉ cả chín bản đồ ấy là thích hợp nhất. Chúng tôi gọi bốn bản đồ (a, b, c, d) là bản đồ Thăng Long thời Lê Hồng Đức, gọi như vậy sợ khiên cưỡng, gò ép, tuy rằng phần nào đó có chững cứ và có thể chấp nhận được. Song một công việc phân loại sắp xếp các bản đồ trên, bản đồ nào thuộc đời Hồng Đức và bản đồ nào sau Hồng Đức, đòi hỏi nhiều công phu hơn, nhất là phải có đầy đủ lý do văn bản học của xuất xứ tài liệu, và kiểm tra xác định một cách kỹ lưỡng những dẫn liệu trên từng bản đồ. Chúng tôi đang hướng tới cố gắng để sắp xếp thế hệ của các bản đồ thời Lê. Mục đích của việc giới thiệu những bản đồ này là để có chứng cứ cho việc chỉnh định vị trí thành Thăng Long trước thế kỷ XIX, cho nên chưa cần thiết và cũng chưa thể làm được công việc tỉ mỉ khoa học ấy. Do đó dùng khải niệm Bản đồ thành Thăng Long thời Lê (thế kỷ XV - XVIII) có nội dung bao quát và phạm vi rộng, tiện cho việc giới thiệu và theo dõi nó.
Xác định như vậy, trước khi đi vào giới thiệu năm tấm bản đồ mới tìm thấy, chúng tôi xin được giới thiệu qua về xuất xứ của cả chín bản đồ Thăng Long thời Lê (tuy bốn bản đồ trước đã được nói qua đến xuất xứ). Không có ý định giới thiệu văn bản học, nhưng ở mức độ cho phép chúng tôi xin được nói đến một số yếu tố văn bản để bạn đọc hình dung được, hiểu được những bản đồ công bố ở đây.
-
1. Bản a: ở các tờ 2b-3a trong sách An Nam quốc Trung Đô tính thập tam thừa tuyên hình thắng đồ họa, Ký hiệu A2531. Bản đồ có tên là Trung Đô đồ, sách viết tay, rách nát nhiều, cỡ 10 x 12 cm. Có khả năng đây là bản đồ Thăng Long thời Lê Hồng Đức (?).
2. Bản b: Ở các tờ 4b-5a, trong sách Hồng Đức bản đồ, Ký hiệu VHt. 41. Bản đồ có tên là Trung Đô nhất phủ nhị huyện hình thắng chi đồ (gọi tắt là Trung Đô chi đồ) [Còn được sao chép lại một bản khác ký hiệu VHd.1]. Bản này được giữ tại một gia đình ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Nghệ Tĩnh). Năm 1960 gia đình này giao cho cụ Lê Thước, năm 1965 cụ Lê Thước tặng cho Thư viện Khoa học Trung ương. Sách chép tay, cỡ 24 x 35 cm.
3. Bản c: Ở các tờ 4b-5a, trong sách An Nam hình thắng đồ, ký hiệu A.3034. Bản đồ có tên là Trung Đô nhất phủ nhị huyện hình thắng chi đồ (gọi tắt là Trung Đô chi đồ). Sách viết tay, rách nát nhiều, cỡ 20 x 30 cm.
4. Bản d: Ở các tờ 4b-5a, trong sách Hồng Đức bản đồ, ký hiệu A.2499. Bản đồ có tên là Trung Đô. Sách này cũng viết tay, cỡ 20 x 30cm. Gần đây trong Thư mục Hán Nôm: Phần II, tập II, trang 312, ở mục số 971 nhập hai sách Hồng Đức bản đồ, ký hiệu A.2499 và ký hiệu VHt.41 (VHd.1) vào một để giới thiệu là không hợp lý, vì hai bản này hoàn tòan khác nhau; bản A.2499 ngoài Hồng Đức bản đồ còn có năm loại bản đồ khác nữa, trong khi đo bản VHt.41 chỉ có một.
5. Bản đồ: Ở các tờ 4b - 5a, trong sách Thiên Nam lộ đồ, ký hiệu A.1081. Bản đồ có tên Trung đô sơn xuyên hình thắng chi đồ. Sách làm năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770), người làm sách làm Dương Nhữ Ngọc nho sinh trúng thức quê ở Lạc Đạo, Gia Lâm, Kinh Bắc. Sách chép tay, cỡ 22 x 22cm.
6. Bản e: ở các tờ 22b - 23a, trong sách Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư dẫn, kí hiệu A.73. Bản đồ có tên là Trung Đô Thăng Long thành nhất phủ nhị huyện đồ. Về nguồn gốc của sách Thiên Nam tứ chí lộ đồ có khả năng được biên soạn vào giữa thế kỷ XVII trở về trước (?). Còn sách A. 73 này có chép là Đại Nam tổng hội đồ lục làm vào đời Minh Mạng (1820-1840). Sách chép tay.
7. Bản f: ở các tờ 13b - 14a, trong sách Giao Châu dư địa chí, ký hiệu VHt.30. Bản đồ có tên là Thăng Long thành, Phụng Thiên phủ nhất phủ nhị huyện, sách do Đàm Nghĩa Am làm vào đầu đời Gia Long, ngay ở tờ 1a - 1b có lời tựa của sách Thiên Tải nhàn đàm viết vào năm Gia Long thứ 9 (1810). Sách viết tay. Cùng với sách VHt.30 này còn có sách Giao Châu dư địa đồ; kí hiệu A.2716 (cũng gọi là Thiên Tải nhàn đàm) có vẽ lại bản đồ trên ở tờ 8b - 9a.
8. Bản g: ở các tờ 9b - 10a, trong sách Thiên Tải nhàn đàm: kí hiệu A.2006. Bản đồ có tên Trung Đô nhất phủ nhị huyện chi hình. Sách có lời tựa viết vào năm Gia Long thứ 9 (1810). Sách viết tay.
9. Bản h: ở các tờ 9a - 10b, trong sách Thiên Tải nhàn đàm, kí hiệu A.584. Bản đồ có tên Thăng Long thành, Phụng Thiên nhất phủ nhị huyện. Sách này có nguồn gốc với hai sách kí hiệu A.2006 và A.2716, có lời tựa viết năm Gia Long thứ 9 (1810). Sách viết tay.
Cùng với 9 tấm bản đồ Thăng Long thời Lê có trong các sách Hán Nôm ở trên, chúng tôi được biết có một số bản khác nữa. Như chúng tôi đã nói ở lần trước, ở Ty Văn hóa tỉnh Nam Định cũ có một sách Hồng Đức bản đồ, trên đại thể giống với bản kí hiệu VHt.31. Bản đồ Hồng Đức được Viện Khảo cổ học Sài Gòn thời Ngụy quyền Sài Gòn in thành sách bằng chữ việt. Tấm bản đồ trong sách này được in lại từ một phim dương bản gửi từ Nhật Bản về. Chúng tôi đã xem xét đối chiếu với các bản đã giới thiệu ở trên, thấy rằng tấm bản đồ này giống hoàn toàn ở bản d ở trong sách kí hiệu A.2499. Gần đây, Giáo sư Phan Huy Lê cho chúng tôi biết là ở kho lưu trữ bản đồ của Pháp, có một tấm bản đồ Thăng Long thời Lê, nhưng tiếc rằng không mang về được bản sao của bản đồ này.
Như vậy, cho đến hiện nay, ít ra đã có 9 tấm bản đồ thành Thăng Long thời Lê khác nhau.
Để bạn đọc nắm được nội dung của 9 bản đồ còn lại này, chúng tôi lần lượt giới thiệu riêng từng bản một cả về hình dáng các vòng thành và chú thích trên bản đồ, và xin nêu ra những khác nhau và giống nhau giữa các bản. Một điều cần nói trước hết là nhìn chung tất cả các tấm bản đồ Thăng Long thời Lê đều thống nhất với nhau về vị trí và duyên cách về hình dáng của vòng thành ngoài cùng (tức thành Đại La). Và sự khác nhau chỉ là chi tiết. Năm bản đồ sẽ được giới thiệu dưới dây tình hình có phần nào khác với bốn bản trước.
Sự khác nhau giữa các bản:
- Khác nhau về chú thích: Mới nhìn cả bốn tấm bản đồ điều phân biệt đầu tiên là sự khác nhau về chú thích trên mỗi bản.
- Bản a: có 38 chú thích (được đánh số thứ tự 1, 2, 3... trên bản đồ).
- Bản b: có 36 chú thích. So với 38 chú thích ở bản a thì thiếu các chú thích số: 8, 17, 21, 24, 29 và 31; Các chú thích 1, 9, 10, 37 và 38 tuy giữ đúng vị trí như bản a, song nội dung khác chút ít. Ngoài ra thêm chú thích 39, 40.
- Bản c: có 43 chú thích, so với 40 chú thích ở hai bản trên, thì các chú thích số 2, 14, 16, 17, 24, 25 và 31 không có trong bản c (trong nguyên bản, bản này bị rách một phần thuộc các chú thích 24, 25); các chú thích 1, 10, 37, 38 khác với chú thích ở bản a. Ngoài ra thêm các chú thích từ 41 đến 50.
- Bản d: có 51 chú thích, so với 50 chú thích ở ba bản trên thì các chú thích số 17, 31, 45, 46 không có trong bản b, các chú thích 1, 24, 37, 38 có khác. Ngoài ra thêm các chú thích từ số 51 đến số 55.
- Bản đ: Vòng thành ngoài có hình dáng như các bản trước (từ b - d), nhưng tỉ lệ giữa hai phần đã có thay đổi phần phía đông lớn hơn, ở phần này chiều nam - bắc được phóng đại. Các kí hiệu phía bắc như Hồ Tây thu bé lại, và phía đông thành tiến gần sát với cửa sông Tô Lịch hơn; Ngã ba sông Thiên Phù với sông Tô Lịch không nằm ở góc tây bắc nữa. Vòng thành giữa (thành Thăng Long) được vẽ khá rõ, đặc biệt có cửa Tây (Tây Môn - số 57) nằm ở góc tây bắc của thành này: Tường thành ở phía tây đóng vị trí thẳng từ Hồ Khẩu xuống (giống với bốn bản trên). Vòng thành không rõ, vì trong đó được vẽ nhiều hình chữ nhật bao quanh mỗi một cung điện như điện Vạn Thọ (số 16), điện Kính Thiên (số 12), điện Thị Triều (số 13), điện Chí Kính (số 54), vậy là ở bản này không có ký hiệu để phân biệt một cấm thành nằm ở trong thành Thăng Long.
Về chú thích thì bản đ có 42 chú thích được đánh số từ số 1 đến số 57, 15 chú thích là: 1, 5, 17, 21, 22, 29, 31, 36, 37, 38, 45, 46, 50, 51 và 55 không có; thêm mới hai chú thích 56 và 57. Trừ chú thích 10 có khác với các bản khác, còn lại khá giống nhau.
Các kí hiệu ở trên bản đ cũng khá rành mạch, rõ ràng giúp chúng ta dễ nhận thấy và dễ phân biệt.
- Bản e: Bản này như ta đã biết là được vẽ vào năm 1770; nhìn chung khá sơ sài.
Vòng thành ngoài thu ngắn tỉ lệ nam - bắc nửa phía đông mà kéo dài tỉ lệ này ở nửa phía tây, đẩy cửa Bảo Khánh (số 30) xuống quá ba phần tư chiều dài của bản vẽ. Hồ Tây cũng bị thu gọn lại. Vòng thành giữa (thành Thăng Long) có vị trí tương tự như năm bản trên, nghĩa là tường thành phía tây không quá Hồ Khẩu. Trong thành Thăng Long có các kí hiệu tường thành chia làm nhiều vùng chẳng hạn Đông Cung (số 15) chiếm một phần ba phía đông, điện Vạn Thọ (số 16)... Không xác định được khu vực nào là cấm thành như sử cũ ghi chép, hoặc có nhiều khu vực đều được gọi là Cấm thành (?).
Về chú thích thì bản e có 27 chú thích được đánh số từ 1 đến 60, tức các chú thích: 3 – 6, 8, 9, 12, 13, 15, 16, 18, 20, 23 – 28, 30, 32 – 36, 42, 47, 48, 50, 58 – 60. Trong đó có một số chú thích có hơi khác như chú thích 10, chú thích 47 là Trịnh Vương phủ, Hồ Hoàn Kiếm (sô 51) trong các bản trước nay chú là Đàm, và bỏ đi khá nhiều chú thích, thêm ba chú thích mới là 58, 59 và 60.
- Bản f: Vòng thành ngoài có phần nhỏ đi và lùi về phía tây để lại khoảng từ cửa Đông (số 14) đến cửa sông Tô Lịch khá rộng, nửa phía đông của thành to hơn nửa phía tây vòng thành Thăng Long lùi về phía tây đến ngã ba sông Thiên Phù và sông Tô Lịch thẳng xuống, và Hồ Khẩu ở các bản trước là biên giới phía tây Thăng Long thì nay ở vào khoảng chính giữa. Cấm thành cũng không rõ là khoảng nào ở trong thành Thăng Long.
Vương phủ được vẽ rõ cửa chính (Chính Môn - số 61) trổ hướng nam và cửa Tuyên Vũ (Tuyên Vũ môn - số 62) trổ hướng Đông.
Bản f có 52 chú thích, đánh số từ 1 đến 66, thiếu 14 chú thích: 5, 11, 17, 29, 31, 36, 45, 46, 50, 51, 53, 54, 56, 57. Trong 52 chú thích có đến 10 chú thích khác các bản trước, ví dụ như: Quốc Tử Giám (chú thích số 32) ở bản này thay bằng Đại Học, Nam Giao điện (chú thích số 35) được thay bằng Giao Miếu (miếu Giao - Miếu Tề Giao), hoặc Đông Môn (số 10) thay là Đông Hoa Môn. Một số chú thích thì không có chẳng hạn Thăng Long thành (chú thích 11)... từ bản f trở đi có thêm các chú thích 63 đến 66.
- Bản g: Trên đại thể gần giống với bản f về cách vẽ và thể hiện vòng thành ngoài cũng như thành Thăng Long. Chúng ta dễ nhận thấy nguồn gốc chung của các bản này.
Song so với bản f, bản này có một ít khác biệt, có 11 chú thích, được đánh số từ 1 đến 66. Thiếu 25 chú thích: 2, 7, 14, 17, 29 - 31, 36 - 41, 43, 45, 46, 49, 51 - 57, 59. Một số chú thích khác với năm bản trên, song giống với bản f. Vị trí của chú thích 42 (Kính Thiên điện) ở các bản trên nằm gần Vạn Thọ điện (số 41) chính giữa phía bắc, riêng ở bản g được vẽ ở góc tây nam thành Thăng Long, chú thích 32 ở bản này ghi là Thái Học, chú thích 44 đây là Ngũ Môn...
- Bản h: Trên đại thể giống với các bản f và bản g. Bản này có 44 chú thích đánh số từ 1 đến 66. Thiếu 12 chú thích: 17, 29, 31, 45, 46, 50, 51, 53, 54, 56, 57 và 59.
- Khác nhau về kí hiệu vẽ.
Một khác biệt giữa bản a, bản b với hai bản sau là các kí hiệu vẽ trên đó; chẳng hạn các lần tường thành ở hai bản đầu được vẽ chen kẽ các khoảng đen và trắng (xem bản vẽ) còn ở hai bản sau trình bày cầu kì hơn, tường thành được vẽ thành nhiều lớp, thì như ở bản d thì người vẽ muốn phân biệt kĩ hơn giữa tường thành ở dưới và tường ở trên. Hoặc các cung điện, cổng thành, chùa, tháp ở các bản c và d về hình phân biệt. Và một số khác biệt về sông, hồ... trên mỗi bản.
- Khác nhau về một số chi tiết khác. Giữa bốn bản có khác nhau ở cách trình bày về hình dáng của các vòng thành, độ cong của các góc thành và các đoạn tường thành, chẳng hạn đoạn thành Đại La phía bắc ở bản a thì thẳng từ quán Trấn Vũ đến Bưởi, nhưng ở ba bản b, c, d thì lại cong. Cả vị trí của một số cung điện giữa các bản cũng khác nhau v.v...
- Một điểm khác nhau nữa là vị trí của vòng thành trong cùng giữa các bản không nhất trí. Ở bản a không có vòng thành này, còn ba bản b, c và d thì dường như có nhưng người vẽ không có ý thức nên không vẽ thành một hình khép kín như hai vòng thành ngoài.
Nhưng dù có dẫn ra những khác biệt giữa các bản thì chún ta vẫn cảm thấy rằng những khác biệt đó là không cơ bản, không làm cho bản nọ đối lập sai biệt với bản kia, sự khác nhau thể hiện ở các bản là có tính chất “kĩ thuật” của việc sao chép, chỉ là sự thêm bớt tùy tiện của người sao vẽ lại. Chính những khác biệt ấy lại như bổ sung cho nhau để chúng ta có khả năng hoàn chỉnh tấm bản đồ Hồng Đức ấy.
Vậy thì sự giống nhau giữa các bản thể hiện ở chỗ nào? Trước hết điều phải hiểu là tất cả cấc bản đồ của nước ta vẽ từ thế kỷ XIX trở về trước [trừ bản đồ phủ Hoài Đức vẽ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) ] đều không theo thước tỉ lệ nhất định, các nhà họa bản đồ đi đến đâu vẽ đến đó, quy luật viễn cận trong các họa đồ thể hiện khá rõ. Như vậy chúng ta phải có cách đọc và hiểu đối với các loại bản đồ ấy. Sau đây là những điểm giống nhau giữa các bản:
- Thứ nhất là các bản đều đặt Trung Đô đúng vị trí giới hạn của nó, phía đông giáp sông Hồng, bắc - tây giáp sông Tô Lịch, phía nam là sông Kim Ngưu, tuy chú thích có đôi chỗ sai biệt.
- Thứ hai là vị trí và hình dáng của vòng thành ngoài. Thoạt xem thì chúng ta thấy vị trí và hình dáng vòng thành ngoài (có thể nói đó là thành Đại La) giữa các bản trùng khớp nhau kì lạ. Mặt phía bắc từ quán Trấn Vũ, quán ở phía đông chạy thẳng đến Bưởi ở phía tây (chỗ sông Thiên Phù và sông Tô Lịch gặp nhau). Mặt tây tường thành chạy theo bờ đông sông Tô Lịch từ Bưởi đến Cầu Giấy. Mặt phía nam tường thành được vẽ trên bốn bản hoàn toàn giống nhau. Mặt phía đông của tường thành giữa bốn bản cũng tương tự. Như vậy thành Đại La được vẽ trên cả bốn bản hoàn toàn giống nhau về hình dáng và vị trí. Có khác nhau ở một vài chi tiết như ở bản a mặt thành phía bắc thẳng tuột, hoặc ở một vài chú thích trên tường thành như chú thích 14 ở bản a là Nam Môn, các bản b, c không có, còn ở bản d là Đại Hưng Môn.
- Thứ ba là vị trí của vòng thành giữa. ở các bản hình dáng và vị trí của thành giữa (mà chúng ta có thể gọi là Hoàng thành Thăng Long) dường như là nhất trí. Thành có hình chữ nhật, chiều dài là đông tây, chiều rộng là nam bắc, chiều dài bằng hai chiều rộng. Vị trí và giới hạn của thành trên đại thể như sau:
+ Mặt bắc, tường thành được giới hạn bởi thành Đại La.
+ Mặt nam, tường thành cũng được giới hạn bởi thành Đại La.
Ở cả hai mặt nam, bắc giới hạn dễ nhận thấy.
+ Mặt phía đông, nếu như cho Đông Cung (chú thích số 15 ở các bản) vào thành này, thì tường của nó trùng với tường phía đông của thành Đại La. Như theo bản a thì thành giữa tức Hoàng thành không có Đông Cung (?);
+ Mặt phía đông, ở các bản dường như là nhất trí với nhau, góc tây bắc của Hoàng thành giáp với Hồ Khẩu (chỗ sông Tô Lịch nhận nước Hồ Tây, nay cửa sông đã cạn). Nếu lấy Hồ Khẩu làm giới phía tây, ta vạch trên thực địa trục bắc - nam, và đó là tường thành phía Tây. Một lý do nữa là Hồ Tây nằm ở phía bắc thành này.
Như vậy chúng tôi đã sơ bộ giới thiệu, và bây giờ có thể rút ra một vài nhận xét chung giữa chín bản đồ như sau:
1. Từ bản a cho đến bản e, sáu bản này được sao vẽ lại từ trước thế kỷ XIX, nghĩa là trong thời gian còn tồn tại thành Thăng Long thời Lê, riêng bản e được sao vẽ lại từ thế kỷ XIX, song ít ra có nguồn gốc từ bản Thiên Nam tứ chí lộ dồ cũ nào đó. Vì vậy giữa sáu bản này dường như nhất trí với nhau về:
- Hình dáng và vị trí của thành Đại La.
- Duyên cách của thành Thăng Long, mà cụ thể nhất là tường thành phía tây không quá Hồ Khẩu.
- Giống nhau ở những nội dung các chú thích.
2. Các bản f, g, h xuất hiện từ thế kỷ XIX, nếu có thể nói được thì niên đại là năm Gia Long thứ 9 (1810), nhưng chắc chắn rằng các tác giả đã dựa vào một bản đồ thành Thăng Long nào đó, và bấy giờ thành Thăng Long cũ bị phá hoại, hoặc là các tác giả dựa vào kí ức của mình mà vẽ lại tòa thành đã mai một. Vì vậy mà cả ba bản này nhất trí với nhau về vị trí các vòng thành như chúng tôi đã trình bày và các chú thích trên bản đồ, nổi rõ nhất là:
- Vòng thành ngoài lùi xa về phía đông.
- Tường thành phía tây của thành Thăng Long lùi sang phía tây quá Hồ Khẩu.
- Xuất hiện một số chú thích mới và khác.
- Tây Tràng An (chú thích 21) và Đông Tràng An (chú thích 22) dường như lui hẳn ra ngoài vòng thành, nhất là Đông Tràng An...
Những khác biệt giữa chúng là có, mà nổi rõ nhất là giữa sáu bản đầu với ba bản cuối. Ngay trong cùng một loại vẫn có những khác biệt. Như chúng tôi đã có dịp nói đến là chính những khác biệt đó giúp chúng ta khôi phục được một cách đầy đủ hơn thành Thăng Long trước thế kỷ XIX.
Chúng tôi thấy cần thiết phải lưu ý bạn đọc về cách sử dụng các loại bản đồ cũ vẽ không có thước tỉ lệ; làm thế nào để khắc phục được những trình bày dường như vô lí trên các bản đồ. Chúng ta không thể đặt tất cả cấc mốc trên bản đồ theo kinh độ và vĩ độ như khi sử dụng bản đồ hiện đại, để rồi từ đó mà đoán định tọa độ, vị trí giới hạn của nó. ở trong các bản đồ Thăng Long thời Lê này tình hình cũng tương tự. Chẳng hạn khi xác định vị trí của mặt thành phía bắc của Hoàng thành, ta phải chọn mốc là Hồ Tây, là Trấn Vũ quán, là Hồ Khẩu chứ không thể chọn mốc là Quốc Tử Giám... Quy luật viễn cận ở trong các bản trên cũng khá nổi bật; mục đích của người vẽ là Hoàng thành nên Hoàng thành có vẽ to, còn như thành Đại La phần phía tây không đúng, hay Hồ Tây thì vẽ nhỏ bé, và khoảng cách từ sông Tô Lịch đến sông Thiên Đức (sông Đuống) rất ngắn so sới thực tế...
Nhờ vậy, mà chúng tôi bước đầu thử chỉ định vị trí của tòa thành Thăng Long (tức Hoàng thành, vòng thành thứ hai) như sau so với địa danh hiện nay:
- phía đông, tường thành nằm vào khoảng từ giữa phố Lý Nam Đế và đường Nguyễn Tri Phương (tức là phạm vi thành Hà Nội thời Nguyễn).
- phía tây, lấy Hồ Khẩu làm điểm mốc, từ đó vạch đường thẳng theo trục bắc nam, thì đó là phía tây Hoàng thành; tức là nó bao gồm cả đất các làng Ngọc Hà, Đại Yên, Hữu Tiệp cũ.
- phía bắc không quá sông Tô Lịch.
- phía nam, nếu lấy bến ô tô Kim Mã làm mốc, vạch đường thẳng theo hai phía đông, tây thì có thể đó là tường thành phía nam Hoàng thành.
Những hiểu biết hạn chế của chúng tôi hẳn chưa đáp ứng được yêu cầu tìm hiểu của bạn đọc. ở đây trước hết xin cung cấp nguyên bản các bản đồ ấy, được sao chụp lại từ các sách gốc mà chúng tôi đã giới thiệu. Rất mong được chỉ ra những sai sót trong suy nghĩ của chúng tôi.
Chú thích các bản đồ Thăng Long thế kỷ XV – XVIII
-
http://i164.photobucket.com/albums/u...tn/BANDOBT.jpg
Kí hiệu:
0 = không có chú thích
+ = Có khác về cách dùng chú thích nhưng có nội dung và vị trí tương tự.
BÙI THIẾT .
-
ĐỊNH VỊ Hoàng thành Thăng Long của thư tịch cổ
Nguyễn Xuân Diện
Ngọn gió của ngàn đời
Chiều nay ùa trở lại
(Lưu Quang Vũ)
1. Vị trí của núi Nùng và điện Kính Thiên:
1.1.Danh sĩ, học giả Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) trong bài “Trả lời các câu hỏi về di tích ở Thăng Long” cho một người bạn, vào tháng Hai, năm Ất Hợi (1815), niên hiệu Gia Long, có viết về núi Nùng, trong mục Danh sơn, sách Châu Phong tạp thảo như sau:
“Núi Nùng: Núi đất ở giữa thành Thăng Long. Khi triều Lý định đô, xây dựng làm chính điện. Triều Lê là điện Kính Thiên, nay là Bắc thành. Hoàng cung ở phía trước điện. Đời truyền, ở trên điện phía sau tòa ngự, núi và đầm thông khí như hình hang chuột, đó là rốn rồng[long tê]”.[tờ 8a].
Phạm Đình Hổ còn cho biết, ngoài núi Nùng, còn có núi Tam Sơn, núi Khán Sơn, núi Thái Hoà. Về núi Tam Sơn, ông viết như sau: “Tam Sơn: Núi đất ở trong thành Thăng Long, nằm về phía Bắc Hoàng cung”[tờ 8a]. Về núi Thái Hoà thì: “Núi đất ở phía Tây, bên ngoài thành Thăng Long” [tờ 8b]. Về núi Khán Sơn, vì văn bản mất chữ nên không còn đọc được những chữ xác định vị trí. (Châu Phong tạp thảo, VHv.1873. Tờ 8a và 8b)
Như vậy: Núi Nùng là núi đất ở giữa thành Thăng Long. Thời Lý là vị trí chính điện. Thời Lê là vị trí của điện Kính Thiên. Và trong thành Thăng Long không chỉ có núi Nùng mà còn có núi Tam Sơn. Khái niệm “Thành Thăng Long” là chỉ một phạm vi rộng, trong đó có “Hoàng cung”(Cấm thành). “Hoàng cung” không trùng với điện Kính Thiên.
1..2. Cụ Đặng Xuân Khanh, sau khi tham khảo sách cổ ở Viễn Đông bác cổ học viện đã viết về núi Nùng như sau:
“Núi Nùng ở chính giữa kinh thành, còn có một tên nữa là núi Long Đỗ. Núi hình tròn, cây cối um tùm, tiếp liền với Tây Hồ; đằng sau có Tam Sơn làm chẩm (...). Lý Thái Tổ định đô ở đây, lấy núi này làm án, dựng chính điện ở trên (...). Triều Trần đổi làm hành cung, dựng lầu Vọng Nguyệt đối diện với núi Nùng. Triều Lê là điện Kính Thiên. Triều Nguyễn đặt hành cung, vẫn theo tên cũ. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) đổi làm điện Long Thiên”. (Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ, VHv.2471. Tờ 9 a và 9 b)
Như vậy: Núi Nùng có tên gọi là núi Long Đỗ (Chữ Hán viết Long là Rồng, đỗ là bụng. Long đỗ là bụng rồng). Triều Lý dựng nền điện trên núi. Triều Lê dựng điện Kính Thiên trên núi. Triều Nguyễn đặt hành cung ngay trên núi, đến 1843 đổi làm điện Long Thiên.
1.3. Thăng Long cổ tích khảo (không rõ niên đại) chép về núi Nùng như sau:
Núi ở chính giữa thành. Núi không cao lắm, đất đá lẫn lộn. Thời Đường, Cao Biền gọi núi này là Mũi rồng (Long Tỵ) và làm bùa để yểm đi. Đào lên, quả là có một lỗ thông khí, như hình hang chuột. Triều Lý, xây chính điện lấy núi này làm án. Triều Lê xây điện Kính Thiên lấy núi này làm chẩm. (Thăng Long cổ tích khảo, A.1820. Tờ 17b)
Như vậy: Theo tài liệu này thì núi Nùng được Cao Biền gọi là Mũi rồng, không phải là bụng rồng hay rốn rồng như các cách gọi khác từng được thư tịch ghi nhận. Và các triều Lý và Lê đều không xây điện lên trên núi mà chỉ lấy núi là án hoặc chẩm mà thôi. Cũng sách này, khi viết về đền Long Đỗ thần quân, cho biết ngôi đền nằm phía Bắc Long thành, trấn giữ phương Bắc, khi xưa Cao Biền đến yểm mà không được nên phải lập đền [tờ 15b và 16a].
1.4. Từ những ghi chép trên, ta có thể rút ra một vài điều như sau:
- Núi Nùng nằm giữa thành Thăng Long.
- Nhiều tài liệu chép cho đây là Rốn rồng, nhưng lại có tài liệu cho là Mũi rồng, Bụng rồng. Theo thuật phong thủy thì Rốn rồng có khác Mũi rồng và Bụng rồng không? Có khoảng cách giữa Rốn và Mũi như ta thấy trong thực tế không?
- Trên núi Nùng đời Lý dựng chính điện, đời Lê dựng điện Kính Thiên. Có tài liệu chép chỉ lấy núi làm án hay chẩm chứ không xây cất ở trên. Làm án, tức là núi ở phía trước điện; làm chẩm tức là núi ở phía sau điện. Như vậy điện Kính Thiên đời Lê không nằm trên núi.
- Núi Nùng không trùng với nền Hoàng cung. Trong bài “Trả lời các câu hỏi về di tích ở Thăng Long”, sách Châu Phong tạp thảo, viết vào khoảng thời gian từ 1790 đến đầu thời Minh Mệnh (1820), của Phạm Đình Hổ thấy có xuất hiện hai cách gọi này: Thành Thăng Long (có chỗ gọi là Long thành), Hoàng cung. Theo đó, Thành Thăng Long là chỉ một khu vực rất rộng, bên trong là Hoàng thành - tức là khu vực bao quanh nơi Vua ở. Trong Hoàng thành là Hoàng cung (tức Tử Cấm thành) chỉ nơi sinh hoạt và làm việc của nhà Vua.
2. Về ranh giới Thăng Long thành:
Góp phần xác định ranh giới Kinh thành Thăng Long, rút từ Châu Phong tạp thảo như sau:
- Phía Tây Bắc thành có: Quán Trấn Vũ [tờ 14a]
- Phía Tây Nam thành có: Hồ Tú Yên [UYÊN](phường Bích Câu)[tờ 9a]
- Phía Tây thành có: Chùa Một Cột [tờ 11a], Đền Linh Lang [tờ 20a]
- Phía Đông Nam thành có: Hồ Tả Vọng (tức hồ Hoàn Kiếm) [tờ 8b]
- Phía Nam thành có: Văn Miếu [tờ 9a]
3. Vị trí Thăng Long thành qua các đời:
Nhà sử học Đặng Xuân Bảng (1828 - 1910) trong Sử học bị khảo phần Địa lý khảo, có đoạn:
“Xét sách An Nam kỷ yếu chép rằng: “Lý Nguyên Gia đời Đường Mục Tông (820 - 824) làm đô hộ thấy cửa phủ có dòng nước ngược, sợ người Giao Châu làm phản, nên năm Trường Khánh thứ 4 (824), sai thầy địa lý xem đất, chọn được đất ở bờ sông Tô Lịch liền đắp thành nhỏ rồi dời phủ đến đấy ở. Xem thế thì thành Thăng Long bắt đầu từ niên hiệu Trường Khánh (821 - 824) dời đi trong niên hiệu Bảo Lịch (825 - 827), đắp lại trong niên hiệu Hàm Thông (850 - 874). Từ đời Lý, đời Trần về sau, đời nào cũng có sửa đắp. Nay các thành có 16 cửa ô, 36 phố phường là xây dựng trong niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) đời Lê, chứ không phải dấu cũ thành Đại La của Cao Biền. Thành Đại La của Cao Biền lại không phải dấu cũ thành Đại La của Trương Bá Nghi, cũng không phải lỵ sở Giao Chỉ cũ đời Tùy. (Tùy thư chép quận lỵ Giao Chỉ ở Tống Bình, là chưa xét rõ).(Sđd trang 264 - 265).
-
Trong phần thứ 4 này chúng tôi cũng xin giới thiệu một Chuyên đề của PGS.TS NGÔ ĐỨC THỌ mang tên :
THĂNG LONG QUA TƯ LIỆU CÁC BẢN ĐỒ CỔ - ( HÀ NỘI - 2004) .
1/ TRÍCH DẪN TƯ LIỆU ĐỂ THUYẾT MINH MẤY DANH TỪ GỌI TÊN CÁC NGÔI ( VÒNG) THÀNH :
* Năm 1010 Lý Thái Tổ dời Đô ra đóng tại Thành Đại La , nhân đó đổi gọi thành Đại La là Thăng Long thành 昇 龍 城 ( thành Thăng Long ) .
* Đọc mấy dòng ghi chép trong chính sử , tôi hiểu rằng : Thoạt đầu Vua cho xây dựng ngay một số cung điện làm nơi cho Vua ăn , nghỉ và làm việc với các triều thần , rồi cùng trong năm đó cho : " Dựng kho tàng , đắp thành , đào hào . Bốn mặt thành mở bốn cửa : Phía Đông gọi là cửa Tường Phù , phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, Phía Nam gọi là cửa Đại Hưng , phía bắc gọi là cửa Diệu Đức " ( Toàn Thư , BK2-3B;DVSL.2- 3a) . Cương Mục có lẽ cho rằng cùng trong 1 năm ấy thì không thể xây xong việc đắp thành nên ghi lui lại 1 năm vào năm 1011 ( CM,CB2-12) . Tòa thành ( vòng thành ) có 4 cửa Tường Phù , Quảng Phúc, Đại Hưng, Diệu Đức ấy , sử không ghi rõ là thành nào , nhưng lúc ấy Vua chưa thể cho xây đắp diện rộng lớn trên toàn bộ thành Đại La ( cũ ) được, mà phải tập trung đắp ngay bức thành bảo vệ cho Hoàng gia và triều đình , tức là Hoàng thành nhà Lý . Hơn nữa , tuy sử không ghi rõ là "đắp Hoàng thành "; Nhưng tòa thành có 4 cửa Đại Hưng ...vv thì ngay từ lúc đó qua các triều đại sau như : Trần , Lê sơ , Mạc , Lê Trung Hưng bao giờ cửa Hoàng thành " Tuy môn danh sảo hữu sai dị , nhi thành chỉ tắc chí Lê bất cải dã "/ Tuy tên cửa có phần thay đổi , nhưng nền thành thì đến đời Lê vẫn không đổi ( Phương Đình Nguyễn Văn Siêu . Thăng Long thành trong Đại Việt địa dư toàn biên .Q2, tờ 22b) .
Điều mà Phương Đình nói là " sảo sai dị 稍差異 " đó là để nói đến sự thay đổi tên gọi của một hai cửa trong số đó , như cửa Tường Phù thời Lê đổi là cửa Đông Hoa , Đông Môn ; cửa Quảng Phúc đổi là cửa Bảo Khánh ...vv. Tôi cũng xin nói rõ rằng : Sử tuy không ghi tên thành , nhưng cũng đã cho biết khá rõ cách ghi tên 4 cửa của nó : Đại Hưng , Tường Phù , Diệu Đức , Quảng Phúc . Để tiện liên hệ so sánh xin lấy một ví dụ : Nói đến một sân vận động , tuy không nói rõ là sân nào nhưng biết có các cửa phố Hàng Cháo , phía phố Trịnh Hoài Đức ...vv thì ai cũng hiểu đó là sân Hàng Đẫy .
Điều này , tự so sánh thì thấy ý kiến của tôi khác hẳn ý kiến của GS.LÊ VĂN LAN ( như tôi đã được đọc ở Tham luận của GS trong cuộc Hội thảo trước ) . Giáo sư cho rằng : vào năm 1010 Lý Thái Tổ mới chỉ có một " vòng tường thành duy nhất " chính là Thăng Long thành mà ở các trang trước GS đã nói rõ : " vòng tường thành ( thực chất là lũy đất ) ngoài cùng được bộ Đại Việt sử ký toàn thư gọi thẳng bằng tên " thành Đại La " ; và GS đã nhắc lại : đó chính là Hoàng thành - theo cách gọi về sau và cho đến bấy giờ . Nhờ GS và quý vị quan tâm thẩm tra giúp : Thành Đại La thì làm gì có các cửa Đại Hưng ...vv và làm sao có thể vào thành đó bằng các cửa Đại Hưng , Tường Phù ...vvv ???
Còn ý kiến của tôi , đã dẫn chứng Toàn thư và Phương Đình địa dư chí đã rõ ràng rằng Hoàng thành Thăng Long qua từ đời Lý Thái Tổ , qua đời Trần đến cuối đời Lê Trung Hưng không phải loà vòng thành Đại La , mà là thành Thăng Long - Tức là tòa thành đã tạo nên một ranh giới một vùng đất có hình dáng " khẩu súng lục " như lời của nhà nghiên cứu Nguyễn Vĩnh Phúc trao đổi với tôi qua điện thoại . Nhưng có lẽ chúng ta dùng một so sánh theo từ của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu là " cái thước cong " ( khúc xích 曲尺 ) . Trong chuyên mục đánh giá tấm bản đồ Thăng Long trong Hồng Đức bản đồ ( A.2499 ) tôi đã phát hiện ra một dấu vết cho thất Hồng Đức bản đồ không phải là một cái tên sách ( hoặc cả nội dung cuốn sách ) do ai đó bịa ra , thật vui mừng và bất ngờ là chính Phương Đình Nguyễn Văn Siêu là người xem đọc và dẫn dụng bản đồ ấy .
Khi nhận xét chung về thông tin lịch sử qua hệ thống bản đồ Thăng Long , tôi sẽ phải dẫn lại ý kiến của Phương Đình . Nhưng để cho rõ ràng tránh nhầm lẫn , ý kiến đó cũng phải được dẫn ra tại đây : Đầu mục Thăng Long thành Phương Đình viết : " Theo bản đồ thành Thăng Long thời Hồng Đức , hình dáng của thành như cái thước cong ( khúc xích 曲尺 ) . Ba mặt Đông - Nam - Bắc vuông thẳng , phía Tây và phía nam thì liên tiếp kéo dài ra một nửa . Cửa Đông Môn khởi từ phía Bắc [hai ] thôn Cựu Đông Môn và thôn Đức Môn tổng Đồng Xuân đến sông Tô Lịch , theo bờ bên trái , qua Bắc Môn mà đi về phía Tây , đến đối diện với [ phường ] Nhật Chiêu thì quanh về phía Nam đến cửa Bảo Khánh ( ) , đi về phía Nam đến bên phải phía trước Văn Miếu , rồi quành ra sau sang bên trái là đến cửa Nam Môn , thẳng hướng Đông . Đó là di tích của thành Thăng Long " .
-
* Đã có Hoàng thành rồi , nhưng trong Hoàng thành vẫn có những quân nhân , dân chúng lo các công việc phục dịch , hậu cần , xây dựng , trồng hoa , nuôi ngựa ...vv , vì vậy cần phải có thành riêng để bảo vệ , cấm không cho người ngoài vào ...vv ..Cho nên năm 1029 Lý Thái Tổ sau khi cho xây sửa một loạt cung điện : Thiên An , Diên Phúc , Văn Minh , Quảng Vũ ...vv ...lại cho đắp một lớp thành bao quanh khu các cung điện gọi là Long Thành ( Toàn Thư , BK2-20a; DVSL.2-5b; CMCB2-34 ) .
Ở điểm này thì tôi rất hoan nghênh nhận xét của GS,LV LAN nói rằng : lần xây bức thành bảo vệ này là " rút kinh nghiệm xương máu " từ vụ loạn Tam Vương xẩy ra một năm về trước . Chính xác là như vậy .
* Cho nên Long Thành , cũng tức là Cấm Thành . Sử gia Phan Huy Chú viết : " Vào bừa cửa Hoàng thành (4) những cửa Đông Hoa [ba} , Thiên Hựu , Bắc Thần , thì xử trượng hay biếm , vào bừa các cửa cấm ( những ) cửa Đoan Môn Hữu Dực , Tường Huy , Đại Định , Trường Lạc , Đại Khánh , Kiến Bình , Huyền Vũ khảo đinh " ( Lịch triều hiến chương loại chí , Hình luật chí . Bản dịch H.nxb Sử học - 1961 . T3, tr114 ) .
* Vì Long thành bao quanh các khu cung điện , cho nên khi chỉ cần nói sự việc mà không cần nói tên riêng thì gọi Long Thành là Cung Thành . Ví dụ : " Hoàng thành , Cung thành tịnh dụng chuyên / Hoàng thành và Cung thành đều xây gạch " ( Phương Đình Nguyễn Văn Siêu . Thăng Long thành trong Đại Việt địa dư toàn biên Q2, tờ 22a ) .
Phương Đình Nguyễn Văn Siêu . Thăng Long thành trong Đại Việt địa dư .
Ở chỗ này thì tôi lại có một chút ý kiến muốn trao đổi với Giáo sư Đỗ Văn Ninh : Việc Lý Thái Tổ xây thành năm 1010, Toàn Thư chép :
" ...toại ư Thăng Long kinh thành chi nội khởi tạo cung điện : tiền khởi Kiền Nguyên điện , dĩ vi thị triều sở , tả trí Tập Hiền điện " nghĩa là : " Lại xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long : phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu , bên tả làm điện Tập Hiền " .
"Thăng Long kinh thành chi nội 昇 龍 京 城枝 内" sao Giáo sư lại dịch hoặc nói là " Từ tháng 7 dời đô cho đến cuối năm Vua cho " xây dựng cung điện trong Cung thành Thăng Long " ( tr4 in nghiêng trong nguyên văn , gạch dưới cho rõ do NDT . ) Đồng nhất Kinh thành với Cung thành ? Hóa ra Kinh thành , Cung thành , Long thành ...vv.. gọi thế cũng được ư ?
-
Toàn Thư , về đời Vua Lê Tương Dực , tháng 5 Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận 6 ( 1514 ) chép : " Đắp thành Tô Lịch , làm điện Trường Quang "
Công việc này lúc đó mới khởi làm , sử chỉ ghi tóm tắt như thế . Khoảng 2 năm sau , công việc này hoàn thành . Toàn Thư ( BK15-26a-b) về năm Bính Tý Hồng Thuận 8 ( 1516 ) viết : " Trước đây Vua thích làm nhiều công trình thổ mộc , đắp [26b] thành rộng hơn mấy ngàn trượng bao quanh điện Tường Quang , quán Trấn Vũ , chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ , từ phía Đông đến phía Tây bắc , chắn ngang sông Tô Lịch , trên đắp Hoàng thành , dưới làm cửa cống , dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống , lấy đá phiến và gạch vuông xây lên , lấy sắt xuyên ngang . Lại sai làm thuyền chiến , sai thợ vẽ kiểu , sai bọn nữ sử cởi trần truồng chèo thuyền chơi trên Hồ Tây , Vua cùng chơi , lấy làm vui thích lắm . Người thợ Vũ Như Tô làm điện lớn hơn một trăm nóc , dùng hết tiền của và sức lực của dân trong nước . Lại làm Cửu Trùng đài , trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch để dẫn nước vào , thả thuyền Thiên Quang cho mặc sức du ngoạn . Hồ ấy quanh co khúc khuỷu , mở cửa cống có thể chở thuyền nhẹ ra vào để rong chơi , cực kỳ xa xỉ . Dân chúng đau khổ , binh lính nhọc mệt . Quân đắp Phủ Thành [27a] chưa xong được , đến đây có lệnh bắt các Nha môn ở trong ngoài thành phải làm , tập hợp nhau lấp hồ , khênh đất . Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi , chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng bài bạc . Chỗ nào đã làm xong lại phải làm lại , sửa đổi xây đắp , hết năm này qua năm khác , liên miên không dứt . Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười " .
Đoạn sử này giới nghiên cứu đã từng chú ý , nhưng chủ yếu là về chi tiết " người thợ Vũ Như Tô làm điện lớn hơn trăm nóc , dùng hết tiền của và sức lực của dân trong nước . " , sau đã được Nguyễn Huy Tưởng khai thác viết thành vở kịch lịch sử " Đêm Hội Long Trì " . Còn chi tiết về đắp thành thì chưa chú ý vì cũng chưa có ai nêu vấn đề tìm hiểu đoạn phía Bắc Hoàng thành . Vì sự việc đáng kể là quan trọng cho nên , ngoài trừ chi tiết Vũ Như Tô , cũng được Cương Mục nhắc lại : Đắp thành chặn ngang sông Tô Lịch . "Nhà Vua thích mở mang việc thổ mộc : đắp thành rộng hàng mấy ngàn trượng , bao bọc cả điện Tường Quang , quán Trấn Vũ , chùa Kim cổ Thiên Hoa , thành đắp từ phía Đông đến phía Tây bắc , chắn ngang sông Tô Lịch , trên đắp Hoàng thành , dưới mở cửa cống , xây bằng gạch đá , dùng sắt chắn suốt bề ngang . Lại làm thuyền chiến để đi chơi Hồ Tây , bắt phụ nữ cởi trần bơi chèo để Vua vui chơi thoả thích " . ( Cương Mục CB26-24 a) .
Đọc kỹ 2 đoạn văn dẫn trên của 2 bộ Quốc sử , chúng ta thấy rõ cạnh phía Bắc của Hoàng thành Thăng Long từ trước chỉ có một lớp tường như các cạnh khác , từ năm 1514 Vua Lê Tương Dực sai đắp thêm một lớp từ phía Đông đến phía Tây Bắc , chắn ngang cả dòng sông Tô Lịch , có đoạn đắp chồng lên cả trên tường cũ Hoàng thành , dưới làm cống , dùng ngói vỡ và đất nện xuống , lấy đá phiến và gạch vuông xây lên , lấy sắt xuyên ngang như Toàn thư đã mô tả ( Cương Mục cũng nhắc lại , nhưng mô tả sơ lược hơn một ít ) . Tiếp theo việc đắp thêm bức tường ốp ngoài Bắc thành , sử ghi cùng dịp ấy Lê Tương Dực cho xây Cửu Trùng đài , đào hồ thông với sông Tô Lịch để thả thuyền du ngoạn ... Nhưng đó là việc về sau
-
còn việc đắp bức tường ốp thì hẳn không ngoài 2 mục đích : đề phòng năm nước to vỡ đê lụt vào Hoàng thành và hai là tăng cường thủ vì những biến loạn đời Lê Uy Mục cách chưa xa , bản thân bị Uy Mục tống giam , cha , anh đều bị giết ..vv ..
Đoạn tường ốp bên ngoài tường phía Bắc , được khởi tạo năm Hồng Thuận 6 ( 1514 ) đời Vua Lê Tương Dực trong tình hình đã nói ở trên đây .
Nhân nói bức tường ốp này , chúng ta đọc tiếp đoạn dưới đây của Dương Bá Cung người đã được giao trách nhiệm soạn thảo Hà Nội địa dư , một tập sơ thảo để gửi Quốc Tử Giám biên soạn Đại Nam nhất thống chí ( nhưng chính đoạn này DNNTC không có ) . Đoạn tường thành đắp lên thời Lê Tương Dực mà chúng tôi dẫn ở trên được Dương Đốc học kể tiếp về tình trạng của nó trải qua các đời mạc và Lê Trung hưng : " Lê Tương Dực đắp thành bao quanh sông Tô Lịch để dựng cung điện , năm sau lại đắp bao quanh Trấn Vũ , các phường Thiên Hoa , Kim Cổ làm thành , dài nghìn trượng , từ phía Đông lên phía Tây bắc , cắt ngang qua sông Tô Lịch , bên trên đắp Hoàng thành , ở dưới là cống nước , đào đất dẫn nước để cho thuyền nhẹ có thể đi lại được . Nhà Mạc khoảng năm Đoan Thái ( 1586 - 1587 ) đắp sửa , xây gạch . Công việc phải mất mấy năm mới xong . Lại đắp sửa tầng thành ở phía ngoài ( ngoại tầng thành ) , sửa sang các đường ngõ , lệnh cho bình dân bốn Trấn đến đắp thêm thành Đại La , bên ngoài đắp ba lớp lũy . Bắt đầu từ Nhật Chiêu , Tây Hồ qua cầu Dừa ( Da Kiều ) đến cầu Dền ( Triền cầu ) , chạy thông đến Thanh Trì ở bờ phía Tây bắc sông Nhị Hà , cao hơn Long thành đến mấy trượng , rộng 25 trượng . Năm thứ 15 đời Lê Thế Tôn ( 1587 0 , mạc Mậu Hợp bỏ thành chạy , phủ Chúa Trịng ra lệnh san bằng các lũy đất , thẳng thông đến mấy nghìn trượng , chặt dọn gai góc , san lấp hào lũy , khiến cho trở lại thành đất bằng . Ba lớp lũy đều trồng tre gai , kéo dài đến mất dặm bao bọc xung quanh thành . Năm Cảnh Hưng Kỷ Tỵ ( 1749 ) thấy Kinh sư là nơi căn bản , trăm quan , sáu quân đều đóng ở đây mà đi , thông năm phương , bốn hướng , không có cái thành lũy nào để làm bằng , bèn sai dân các Huyện gần Kinh kỳ khởi đắp thành , mở 8 cửa , hai bên tả hữu có Ổ môn , chia quân túc trực canh giữ . Cửa Ổ môn , tức là di tích của thành này...Cuối đời Lê phía trong thành sụp đổ , chỉ còn cửa Đại Hưng ở phía Nam , cửa Đông Hoa ở phía Đông thôi " .
Bổ xung một đoạn về chỗ Cảnh Hưng Kỷ Tỵ , Đại Việt sử ký tục biên chép : " Chúa Trịnh Doanh nói ...cổ nhân nói : Đặt chỗ hiểm để giữ nước , thực có` ý sâu . Nước ta từ thời Lý đóng Kinh đô ở Thăng Long , cũng đã đắp thành Đại La , nay ta muốn nhân cũ mà tu bổ lại , để lúc có việc bên ngoài , không phải lo bên trong . các người nghĩ như thế nào ? Tả hữu đều nói rằng : Đó thực là kế nhọc một lần mà yên mãi . Chúa bèn sai xem địa thế trong Kinh kỳ , trù vật liệu , tính nhân công , bắt dân phu 9 Huyện ở gần Kinh kỳ đắp thành Đại Dô ( 9a ) ; mà năm cửa là : An Hòa , Vạn Bảo , Vạn Xuân , Thịnh Quang , Thọ Khang . Mội cửa đặt 2 ô tả hữu , chia lính tuần phòng túc trực "
( Đại Việt sử ký tục biên . Bản dịch nxb KHKT .1991.tr217 ) .
-
Ngoài mảng sách cổ, bản đồ cổ mà chúng tôi đã giới thiệu; còn một mảng tài liệu nữa rất quan trọng có thể giúp xác định vị trí Thăng Long thành, đó là văn khắc (văn khắc trên bia đá, chuông đồng). Về vấn đề này PGS. TS Đinh Khắc Thuân (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) vừa gửi cho chúng tôi bài viết Văn khắc Hán Nôm trên đất Thăng Long - Hà Nội. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc đoạn trích có liên quan. Đầu đề là do chúng tôi đặt.
VĂN KHẮC HÁN NÔM ĐỊNH VỊ PHÍA ĐÔNG HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
PGS.TS. Đinh Khắc Thuân
Trước hết về qúa trình xây dựng kinh thành Thăng Long và quy mô Hoàng thành qua các thời kỳ lịch sử. Ngay từ buổi đầu xây dựng, đã có bao cụm dân cư phải nhường đất để xây dựng Kinh thành như dân phường Cơ Xá mà minh chuông chùa An Xá vừa nêu trên đã ghi lại. Các sắc chỉ này cho biết người dân Cơ Xá vốn sống trong nội thành, đã nhường đất để Vua Lý Thái Tổ xây dựng kinh thành Thăng Long, mà dời đến bãi Cơ Xá ở giữa sông, sống bằng nghề trồng dâu nuôi tằm và chở đò. Các đời Vua đều ban sắc miễn trừ sưu thuế và binh dịch cho dân phường Cơ Xá này. Nơi đây cũng chính là quê của Lý Thường Kiệt mà tên thật của ông khi nhỏ là họ Ngô. Người dân Cơ Xá ngay sau khi chuyển đến bãi sông, đã gặp nhiều trở ngại trong các mùa nước lớn, nên thường qua lại sinh sống ở hai bờ Nam, Bắc sông Hồng. Trải nhiều đời, đến thời Lê trở đi người dân Cơ Xá định cư ở phía Bắc sông, mà ngày nay còn có tên gọi Bắc Biên.
Như vậy, ngay sau khi dời đô ra Thăng Long, nhà Lý đã xây dựng Thăng Long thành Kinh đô to lớn và lâu bền cho Đại Việt. Quy mô rộng lớn đó đòi hỏi mặt bằng rộng lớn để quy hoạch kiến thiết. Vì vậy đã có không ít người dân phải di dời ra ven đô để nhường đất cho triều đình xây dựng Kinh thành.
Quy mô Hoàng thành có sự thay đổi trong các thời kì lịch sử, nhất là khu vực cửa Đông Hoàng thành thời Nguyễn đã có nhiều thay đổi so với thời Lê. Điều này được phản ánh khá rõ nét qua các văn bia ở đây.
Văn bia chùa Đông Môn phố Hàng Đường, Hoàn Kiếm, dựng năm Vĩnh Tộ 6 (1624) cho biết: “Chùa Đông Môn là một danh lam cổ tích, có sông Nhị Hà chạy quanh phía trước, thành Thăng Long ở sát phía sau... Cũng ở đây có bài minh trên chuông chùa khắc năm Cảnh Thịnh 8 (1800) cho biết vị trí cụ thể của cửa Đông Hoa “Duy nơi chùa cổ có cầu đá phía đông, sông Tô chảy bên trái, Cửa Hoa bên phải.
Như vậy là cửa Đông tức cửa Đông Hoa không phải vị trí phố Cửa Đông hiện tại mà mở rộng sát tới phố Hàng Vải.
Bia Tối linh từ bi kí dựng ở Hậu cung đình năm Minh Mệnh 21 (1840) cho biết: Bản thôn khi chưa có nhà cửa cũng chỉ là nơi luyện tập của binh lính mà thôi. Mãi đến năm Giáp Tý đời vua Gia Long 3 (1804) muốn xây dựng thành quách Thăng Long, có một dải đất trống chạy dọc theo mạch chính của núi Nùng, dường như có thế núi Phật đặt trúng vào đó. Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Minh Mệnh 3 (1822) ấp ta mới bắt đầu đăng ký sổ hộ tịch thuộc tổng Thuận Mỹ huyện Thọ Xương đặt tên thôn Tân Khai và chia làm 5 giáp cho dựng đền Thần ở đấy. Kính cẩn thờ chính giữa là Bạch Mã đại vương Thượng đẳng tối linh từ, hai bên phải trái thờ hai vị thần Thiết Lâm và thần Tô Lịch cùng phối hưởng. Đình mới dựng trên nền cũ, có sông Hà bao quanh phía trái, núi bọc phía trước lấp lánh như đàn cá chầu, lại sông Tô nhấp nhô sóng bạc phía sau.
Bia Thái Cam tự bi dựng năm Minh Mệnh 3 (1822) ghi rõ: Phía ngoài thành xưa có chùa Thái Cam, vốn là bãi bể nương dâu nay biến thành chùa. Vốn là thành Đông quan xưa thời Lê. Vào năm Giáp Tý niên hiệu Gia Long, tổ tiên trong thôn tập hợp dân chúng xây dựng mới cho làng ở ngoài thành Thăng Long, trong làng có đình, bên cạnh đình có chùa Thái Cam. Đất này có núi Nùng bao quanh, sông Nhị Hà uốn quanh phía trước, thật là cảnh đẹp thiên tạo.
Đây là cửa phía Đông thành Thăng Long thời Lê, sang thời Nguyễn, do thu hẹp thành Thăng Long lại, nên khu này bị hoang phế và đến năm 1822 dân thôn Tân Khai được tái lập khẩn hoang và dựng chùa Thái Cam.
Văn bia đền Hỏa Thần ở số 30 Hàng Điếu phường Cửa Đông dựng năm Thiệu Trị Tân Sửu (1841) ghi rõ: Miếu Hỏa Thần đó, trùng tu xong quan lệnh doãn trưng cầu tôi soạn bài văn bia và nói rằng: Cho xây một cái miếu ở ven đường An Nội trong huyện ngoài cửa Đông Thành.
Quán Huyền Thiên có Bia Trùng sáng Huyền Thiên bi minh, ghi: Phía đông gối vào sông Nhị Hà trắng xóa, phía tây nhìn sang non Tản xanh lơ, phía nam có cầu Hà Kiều, phía bắc có chùa Hồng Phúc thật là một thắng tích.
Nguồn: Tham luận tại Hội thảo Bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng tiẽu biểu của Thủ đô Hà Nội, ngày 12/5/2007 tại Viện Văn hóa thông tin, Bộ VHTT.
-
Ngoài những bản tham luận của các học giả đã đăng ở trên , chúng tôi ( Lâm Khang và dienbatn ) cũng xin bổ xung một số tư liệu sưu tập được trong cổ sử và những tài liệu khác thu thập được . Những vấn đề chúng tôi thu thập có thể trùng với những trích dẫn đã đăng của các học giả khác , nhưng chúng tôi cũng xin chép lại và sẽ phân tích theo góc độ của chúng tôi ở phần cuối cùng .
1/ THEO CỔ SỬ :
A/ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ :
* " Vua họ Lý, tên húy là Bí, người Thái Bình [phủ] Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam. Vua có tài văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp loạn, trở về Thái Bình. Bấy giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, Lâm Ấp cướp phá ngoài biên, vua dấy binh đánh đuổi được, xưng là Nam Đế, đặt quốc [15a] hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên3. - Tân Dậu, năm thứ 1 [541],"
* " Giáp Tý, [Thiên Đức] năm thứ 1 [544], (Lương Đại Đồng năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. "
* " Khi [quân của Bá Tiên] đến Giao Châu, vua đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, vua chạy về thành Gia
Ninh. Quân Lương đuổi theo vây đánh. "
* " [22a] Nhâm Tuất, năm thứ 32 [602], (Tùy Văn Đế Dương Kiên, Nhân Thọ năm thứ 1). Vua sai con của anh là [Lý] Đại Quyền giữ thành Long Biên, Biệt súy là Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên (bấy giờ vua đóng đô ở Phong Châu). "
* " Đinh Mùi [767], (Đường Đại Tông Dự, Đại Lích thứ 2). [Người] Côn Lôn, Chà Bà đến cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình.
Quân cứu viện đến, đánh tan quân Côn Lôn, [5a] Chà Bà ở Chu Diên. Bá Nghi đắp lại La Thành. " .
* " Tân Mùi, [791], (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng góp nặng. Mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc) là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-780] đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên
cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng [6b] kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết. Con là An tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy [Bố Cái] làm hiệu). Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế (tức là Phu
hựu chương tín sùng nghĩa Bố Cái Đại Vương. Đền thờ nay ở phường Thịnh Quang, ở phía đông nam ruộng tịch điền).
Tháng 5, ngày Tân Tỵ, nhà Đường đặt quân Nhu Viễn ở phủ trị. Mùa thu, tháng 7, ngày Canh Thìn, nhà Đường lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương vào cõi, lòng dân bèn yên. Xương sai sứ dụ An, An đem quân hàng. Xương đắp thêm La Thành kiên cố hơn trước, ở chức 17 năm, vì đau chân xin về. Vua Đường chuẩn cho, lấy Lang trung bộ Binh là Bùi Thái thay Xương. "
* " Quý Mùi, [803], (Đường Trinh Nguyên năm thứ 19). Đô đốc Bùi Thái sai lấp bỏ những hào rãnh ở trong thành, hợp làm một [7a] thành. " .
* " Mậu Tý, [808], (Đường Hiến Tông Thuần, Nguyên Hòa năm thứ 3). Trương Chu làm Đô hộ Giao Châu (trước Chu làm Kinh lược phán quan, đến nay thăng làm Đô hộ), đắp thêm thành Đại La "
* " Giáp Thìn, [824], (Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4). Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Thông [860-874], Cao Biền đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành). "
* " Quý Hợi, [843], (Đường Hội Xương năm thứ 3). Kinh lược sứ Vũ Hồn bắt tướng sĩ đắp sửa thành phủ, tướng sĩ làm loạn, đốt lầu thành, cướp kho phủ. Hồn chạy về Quảng Châu. Giám quân là Đoàn Sĩ Tắc vỗ yên được quân làm loạn. "
* " Quý Mùi, [863], (Đường Hàm Thông năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Ngọ, quân Nam Chiếu đánh chiếm phủ thành, tả hữu của Tập [11b] đều chết hết. Tập chạy bộ, cố sức đánh, người trúng mười mũi tên, muốn xuống thuyền của giám quân nhưng thuyền đã đi xa bờ, bèn nhảy xuống biển chết, cả nhà 70 người. Liêu thuộc là Phàn Xước đem ấn tín binh phù của Tập sang sông trước, được thoát. Tướng sĩ các châu Kinh Nam, Giang Tây, Ngạc, Nhạc, Tương, hơn 4 trăm người chạy
đến phía đông thành giáp sông. Ngu hầu Kinh Nam là bọn Nguyên Duy Đức bảo quân sĩ rằng: "Bọn ta không có thuyền, xuống nước tất chết, chi bằng lại quay về thành đánh nhau với người Man, một người của ta đổi lấy hai người Man, cũng có lợi". Bèn trở lại thành, vào cửa Đông La (tức là cửa đông La Thành An Nam). Người Man không phòng bị, bọn Duy Đức tung quân đánh, giết quân Man hơn 2 nghìn người. Đến đêm, tướng Man là Dương Tư Tấn từ trong tử thành (tức thành nhỏ ở trong thành) đem quân ra cứu, bọn Duy Đức đều chết cả. "
* " Bính Tuất, [866], (Đường Hàm Thông năm thứ 7). ...Cao Biền giữ phủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao15a] 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian. "
* " Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: "Ngày xưa, nhà Thương đến đời Bàn canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại [2b] không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương1, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng
tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?"
Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". Vua cả mừng.
Mùa thu, tháng 7, vua [3a] từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long. Đổi châu Cổ Pháp gọi là phủ Thiên Đức, thành Hoa Lư gọi là phủ Trường Yên, sông Bắc Giang gọi là sông Thiên Đức. Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức, tất cả 8 sở, đều dựng bia ghi công. Lõi xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn
Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghêng Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao Minh, đều có3 thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt Minh, phía sau [3b] dựng hai cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt thành mở bốn cửa: phía đông gọi là cửa Tường Phù, phía tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía nam gọi là cửa Đại Hưng, phía bắc gọi là cửa Diệu Đức. Lại ở trong thành làm
chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm. "
* " Năm ấy, ở trong thành bên tả dựng cung Đại Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn Tuế, làm kho Trấn Phúc. Ngoài thành dựng chùa Tứ Đại Thiên Vương và các chùa Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ. Dựng điện Hàm Quang ở bến sông Lô. " (Lô Giang là tên gọi sông Nhị (sông Hồng) từ thời thuộc Minh về trước, khác với tên sông Lô từ thời Lê đến nay là sông chảy qua tỉnh Hà Tuyên, tỉnh Vĩnh Phú rồi đổ vào sông Hồng ở ngã ba Bạch Hạc. ) .
* " Bính Thìn, [Thuận Thiên] năm thứ 7 [1016], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, lại lập 3 hoàng hậu: Tá Quốc hoàng hậu, Lập Nguyên hoàng hậu, Lập Giáo hoàng hậu6, Độ cho hơn nghìn người ở kinh sư làm tăng đạo. Dựng hai chùa Thiên Quang, Thiên Đức và tô bốn pho tượng Thiên Đế. ".
* " Đinh Tỵ, [Thuận Thiên] năm thứ 8 [1017], (Tống Thiên Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, cho Trần Văn Tú làm Thái phó1.
Xuống chiếu xá tô ruộng cho thiên hạ.
Điện Càn Nguyên bị sét đánh, vua coi chầu ở điện phía đông. ".
* " Kỷ Mùi, [Thuận Thiên] năm thứ 10 [1019], (Tống Thiên Hy năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, dựng Thái Miếu ở lăng Thiên Đức. Xuống chiếu độ dân trong nước làm tăng. ".
* " Canh Thân, [Thuận Thiên năm thứ 11 [1020], (Tống Thiên Hy năm thứ 4). ..Năm ấy điện phía đông bị sét đánh, vua coi chầu ở điện phía tây. Dựng ba điện: điện phía trước để coi chầu, hai điện phía sau để nghe chính sự. " .
* " Quý Hợi, [Thuận Thiên] năm thứ 14 [1023], (Tống Nhân Tông, húy Trinh, Thiên Thánh năm thứ 1). Mùa thu, tháng 9, xuống chiếu chép kinh Tam tạng để ở kho Đại Hưng, đổi trấn Triều Dương làm châu Vĩnh An.
Giáp Tý, [Thuận Thiên] năm thứ 15 [1024], (Tống Thiên Thánh năm thứ 2). Mùa xuân, xuống chiếu cho Khai Thiên Vương [Phật Mã] đi đánh Phong Châu, Khai Quốc Vương [Bồ] đi đánh châu Đô Kim.
Sửa chữa kinh thành Thăng Long.
Mùa thu, tháng 9, làm chùa Chân Giáo ở trong thành để vua tiện ngự xem tụng kinh. ".
*" Đến đây xuống chiếu giao cho Hữu ty dựng miếu ở bên hữu thành Đại La sau chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25 tháng ấy, đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời thề rằng: "Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết". Các quan từ cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm lệ thường. " .
* " Kỷ Tỵ, niên hiệu Thiên Thành năm thứ 2 [1029], (Tống Thiên Thánh năm thứ 7). Mùa xuân, tháng 2, ngày Nhâm Ngọ, khánh thành miếu Thái Tổ. "
* " Tháng 6, rồng hiện lên ở nền điện Càn Nguyên. Vua nói với tả hữu rằng: "Trẫm phá điện ấy, sang phẳng nền rồi mà rồng thần còn hiện. Có lẽ đó là đất tốt, đức lớn hưng thịnh, ở chỗ chính giữa trời đất chăng?" Bèn sai Hữu ty mở rộng quy mô, nhắm lại phương hướng mà làm lại, đổi tên là điện Thiên An. Bên tả dựng điện Tuyên Đức, bên hữu dựng điện Diên Phúc, thềm trước điện gọi là Long Trì (thềm rồng). Phía đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía tây đặt điện Quang Vũ, hai bên tả hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên. Bốn xung quanh thềm rồng đều có hành lang để [20a] tụ họp các quan và sáu quân túc vệ. Phía trước làm điện Phụng Thiên, trên điện dựng lầu Chính Dương làm nơi trông coi tính toán giờ khắc, phía sau làm điện Trường Xuân, trên điện dựng gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi du ngoạn. Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là Long Thành. " .
* " Mở chợ Tây Nhai và dãy phố dài ở chợ ấy. Xuống chiếu bắc cầu Thái Hòa ở sông Tô Lịch. Tháng 9, cầu bắc xong, vua ngự đến xem, sai các quan hầu làm thơ. "
* " Mậu Tý, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 5 [1048], (Tống Khánh Lịch năm thứ 8). ..Lập đàn xã tắc ở ngoài cửa Trường Quảng, bốn mùa cầu đảo cho mùa màng. "
* " Kỷ Sửu, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 6 [1049]. (Từ tháng 3 về sau, thuộc niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 1; Tống Hoàng Hựu năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, đổi niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 1.
Mùa đông, tháng 10, dựng chùa Diên Hựu. Trước đây vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên tòa. Khi tỉnh dậy, vua đem việc ấy nói với bầy tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá như đã thấy trong mộng. Cho các nhà sư đi vòng lượn chung quanh tụng kinh cầu vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu. "
* " Đinh Dậu, [Long Thụy Thái Bình] năm thứ 4 [1057], (Tống Gia Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên cao vài [2a] chục trượng, theo kiểu 12 tầng (tức là tháp Báo Thiên).
Sai sứ đem con thú lạ sang biếu nhà Tống nói là con lân. Tư Mã Quang nói: "Nếu là con lân thực mà đến không phải thời cũng chẳng lấy gì làm điềm tốt, nếu không phải lân, thì làm cho người phương xa chê cười. Xin hậu thưởng rồi bảo đem về".
Mùa đông, tháng 12, làm hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ. Đúc hai pho tượng Phạn Vương và Đế Thích bằng vàng để phụng thờ. (Triều nhà Trần làm lễ yết chùa, tức là ở hai chùa này)."
* " Mậu Tuất, [Long Thụy Thái Bình] năm thứ 5 [1058], (Tống Gia Hựu năm thứ 3). Mùa xuân, sửa chữa cửa Tường Phù. "
* " Canh Tuất, Thần Vũ năm thứ 2 [1070], (Tống Hy Ninh, năm thứ 3). Mùa xuân, làm điện Tử Thần.
Mùa hạ, tháng 4 đại hạn, phát thóc, và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo.
Mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối6, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây. "
* "Mậu Ngọ, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 3 [1078], (Tống Nguyên Phong năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, sửa lại thành Đại La "
* "Canh Thân, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 5 [1080], (Tống Nguyên Phong năm thứ 31). Mùa xuân, tháng 2, đúc chuông lớn cho chùa Diên Hựu. Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, bèn đem bỏ ở Quy Điền [ruộng rùa] của chùa. Ruộng ấy, thấp ướt, có nhiều rùa, người bấy giờ gọi là chuông Quy Điền. "
* " Tân Tỵ, Long Phù năm thứ 1 [1101], (Tống Huy Tông Cát, Kiến Trung Tĩnh Quốc năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng giêng, đổi niên hiệu. Cho Thái úy Lý Thường Kiệt kiêm chức Nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự. Sửa chùa Diên Hựu."
* " Giáp Thân, /Long Phù/ năm thứ 4 [1104], (Tống Sùng Ninh năm thứ 3)...Mùa thu, tháng 9, làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu, ba ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn. Bấy giờ vua sửa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ, đào hồ Liên Hoa Đài, gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là hồ Bích Trì, đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa xây bảo tháp. Hàng tháng cứ ngày rằm, mồng một và mùa hạ, ngày mồng 8 tháng 4, xa giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm Phật, hàng năm lấy làm lệ thường. "
* " Bính Tý, [Đại Định] năm thứ 17 [1156], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 26). Mùa xuân, tháng 2,
ngày tân Mùi, trời mưa cát vàng.
Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu làm phủ đệ ở châu Quảng Nguyên.
Mùa đông, tháng 12, ngày đinh Mùi, ban đêm kho ngự cháy.
Làm hành cung Ngự Thiên, điện Thuỵ Quang, gác Ánh vân, cửa Thanh Hòa, thềm Nghi Phượng, [12b] gác Diện Phú, đình Thưởng Hoa, thềm Ngọc Hoa, hồ Kim Liên, cầu Minh Nguyệt và đóng thuyền to bản của ngự trù, thuyền to bản của cung nội.
Thái phó Lý Du Đô dâng sớ xin hưu trí, thăng làm Thái sư, ban cho vàng bạc về quê.
Dựng miếu khổng Tử. "
* " Canh Dần, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 8 [1170], (Tống càn Đạo năm thứ 6). Vua tập bắn và cưỡi ngựa ở phía nam thành Đại La, đặt tên là Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép công chiến phá trận. "
* "
-
* " Canh Dần, [Kiến Trung] năm thứ 5 [1230], (Tống Thiệu Đinh năm thứ 3)...Lại mở rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ sương thay phiên nhau canh giữ. Sửa đổi quan chức các phủ lộ. Đặt 2 viên An phủ sứ và An phủ phó sứ. Trong thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông và tây. Bên tả là cung Thánh Từ ( nơi thượng hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều (nơi vua ở). "
* " Tân Sửu, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 10 [1241], (Tống Thuần Hựu năm thứ 1)...Mùa hạ, tháng 4, hạn hán, núi nhiếu nơi bị lở, ở chợ Dừa, đất toác ra. ( 1 CMCB6 chép là phường Thịnh Quang có ô Chợ Dừa ở phía nam Hà Nội nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. )
* " Quý Mão, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 2 [1243], (Tống Thuần Hựu năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, lệnh cho quan các lộ làm sổ dân đinh, [14a] hạn trong hai tháng phải xong. Tháng 2, đắp thành nội, gọi là thành Long Phượng và trùng tu Quốc tử giám. Mùa hạ, tháng 6, sai viên ngoại lang Trương Thất xét xử các án ở Đô vệ phủ.
Mùa thu, tháng 8, nước to, vỡ thành Đại La. "
* "Mậu Thân, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ mười bảy [1248], (Tống Thuần Hựu năm thứ 8). ... Sai các nhà phong thủy đi xem khắp núi sông cả nước, chỗ nào có vượng khí đế vương thì dùng phép thuật để trấn yểm, như các việc đào sông Bà Lễ đục núi Chiêu Bạc ở Thanh Hóa; còn lấp các khe ở kênh mở đường ngang dọc thì nhiều không kể xiết. Đó là làm theo lời Trần Thủ Độ.
Sứ thần Ngô Sĩ Liên nói: Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ bắc chuyển xuống nam, hết nam rối lại quay về bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận [16b] có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương đông nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu. Kỷ Dậu, [ Thiên Ứng Chính bình] năm thứ 18 [1249], (Tống Thuần Hựu năm thứ 9). Mùa xuân, tháng giêng, trùng tu chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ. "
* " Kỷ Dậu, [ Thiên Ứng Chính bình] năm thứ 18 [1249], (Tống Thuần Hựu năm thứ 9). ... Tháng 6, lập Quốc học viện. Đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh (Mạnh Tử), vẽ tranh 72 người hiền để thờ.
Muà thu, tháng 8, lập Giảng võ đường. Tháng 9, xuống chiếu vời nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng tứ thư lục kinh. "
*" Ất Mão, [Nguyên Phong] năm thứ 5 [1255], (Tống Bảo Hựu năm thứ 3)...Tháng 5, trồng 500 trượng toàn cây muỗm (suốt từ bến Hồng đến đê quai vạc Cẩu Thần).
..Mùa hạ, tháng 5, sét đánh điện Thiên An, lại đánh cung Thái Thanh, tượng Thiên Tôn gãy mất một ngón tay.
Vét sông Tô Lịch. "
* " Nhâm Tuất, [Thiệu Long] năm thứ 5 [1262], (Tống Cảnh Định năm thứ 3, Nguyên Trung Thống năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc, ban tiệc lớn. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên, mỗi người được ban tước hai tư3, đàn bà được hai tấm lụa. Đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang. Lại xây riêng một khu cung khác cho vua nối ngôi ngự khi về chầu, gọi là cung Trùng Hoa. Lại làm chùa ở phía tây cung Trùng Quang gọi là chùa Phổ Minh. Từ đó về sau, các vua nhường ngôi đều ngự ở cung này. Do đó, đặt sắc dịch hai cung để hầu hạ, lại đặt quan lưu thủ để trông coi. "
* " Quý dậu, Bảo Phù năm thứ 1 [1273], (Tống Hàm Thuần năm thứ 9, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu. Tháng 3, ngày 19, sét đánh 7 chỗ ngoài cửa Đại Hưng. "
* " Giáp Thân, [Thiệu Bảo] năm thứ 6 [1284], Nguyên Chí Nguyên năm thứ 21). Mùa xuân, tháng giêng, vét sông Tô Lịch.
Tháng 2, đất ở Xã [44a] đàn nứt ra, dài 7 thước, rộng 4 tấc, sâu không thể lường. Mùa thu, tháng 8, Hưng Đạo Vương điều các quân của vương hầu, duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, chia các quân đóng giữ Bình Than và những nơi xung yếu khác. "
(Xã Đàn: tức Xã tắc đàn là nơi vua chúa phong kiến tế lễ thần đất và thần mùa màng ngày xưa, đắp bằng đất, có 2 bậc, nên gọi là
"đàn".
Đông Bộ Đầu: tức bến sông Hồng phía trên cầu cầu Long Biên gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay. ) .
-
* " Canh Dần, [Trùng Hưng] năm thứ 6 [1290], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 27)....Mùa hạ, tháng 4, sông Tô Lịch chảy ngược (sông này hễ có mưa to thì nước rút, tràn và chảy ngược). "
* " Nhâm Tuất, [Đại Khánh] năm thứ 9 [1322], (Nguyên Chí Trị năm thứ 2)...Tháng 3, sét đánh tháp Báo Thiên, sụt mất 2 tầng góc bên đông."
* " Tân Hợi, [Thiệu Khánh] năm thứ 2 [1371], (Minh HồngVũ năm thứ 4)....Tháng 3 nhuận, Chiêm Thành vào cướp, từ cửa biển Đại An tiến thẳng đến kinh sư. Du binh
[của giặc] đến bến Thái Tổ (nay là Phục Cổ). Vua đi thuyền sang Đông Ngàn lánh chúng. Ngày 27, giặc ùa vào thành, đốt phá cung điện, cướp lấy con gái , ngọc lụa đem về. Chiêm Thành sở dĩ sang cướp là vì mạ Nhật Lễ chạy trốn sang nước ấy, xúi giục chúng vào cướp để báo thù cho Nhật Lễ. Bấy giờ thái bình đã lâu ngày, thành quách biên cương không có phòng bị, giặc đến không có quân nào ngăn được. Chúng đốt trụi cung điện, nhà cửa. Thư tịch, sổ sách do vậy sạch không. Nhà nước [37b] từ đó sinh ra nhiều chuyện. "
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Không có nước địch làm mối lo bên ngoài thì nước hay bị mất, đó là điều răn từ xưa đến nay. Chiêm Thành với ta, đời đời là cừu thù, triều Trần chả lẽ lại không biết mà phòng bị trước hay sao? Chỉ vì lòng người sinh biếng trễ, phép nước bị buông lơi, đã qua nhiều năm tháng, việc phòng thủ biên cương bị triệt bỏ, nên đến nỗi ấy. Giặc vào bờ cõi mà biên thành thất thủ, giặc tới kinh đô mà cấm binh chống lại thì còn nước thế nào được! Dụ Tông vốn quen chơi bời, cố nhiên là chẳng đáng kể. Nghệ Tông thì bản thân đã trải nhiều biến cố mà không nghĩ tới việc đó, há chẳng phải là chỉ chăm lo văn nghệ mà không trông nom gì đến võ lược ư?.
* " Đinh Sửu, [Quang Thái] nămthứ 10 [1397], (Minh Hồng Vũ năm thứ 30)....Mùa xuân, tháng giêng, sai Lại bộ thượng thư kiêm Thái sư lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép là Mẫn) đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, đắp thành đào hào, lập nhà tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó, tháng 3 thì công việc hoàn tất. Trước đó, triều đình bàn bạc chưa xong, hành khiển Phạm Cự Luận khuyên nên thôi. Quý Ly nói: "Ý ta đã định từ trước rồi, ngươi còn nói gì nữa!".
Đến đây thì thực hiện.
Lúc ấy, Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa, các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu... Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An [29a] Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: "Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm". Quý Ly không nghe. Sau đến kỳ xét công Quý Ly thấy có tên Nhữ Thuyết liền nói:
"Người ngày từng nói cốt ở đức không cốt ở hiểm".
Rồi phế bỏ không dùng.
1 Quốc ngữ Thi nghĩa: giải thích Kinh Thi bằng quốc ngữ hay dịch Kinh Thi ra quốc ngữ (chữ Nôm).
2 Chỉ 5 bộ sách kinh điển của nhà Nho là Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lê, Kinh Xuân thu và Kinh Nhạc.
3 Long Đỗ: chỉ Thăng Long. Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên xưng là thần Long Đỗ. Đại La từ đời Lý đổi là Thăng Long. Do đó người ta thường gọi là Thăng Long (Hà Nội ngày nay) là đất Long Đỗ.
4 Sông Lô: hay sông Nhị, là sông Hồng ngày nay.
5 Nguyên văn "Tại đức bất tại hiểm" là câu của Ngô Khởi, một danh tướng đời Chiến Quốc nói với Ngụy Vũ hầu.
Mùa đông, tháng 11, Quý Ly bức vua dời kinh đô đến phủ Thanh Hóa ."
* " Hoàng thái tử An lên ngôi ở cung Bảo Thanh, đổi niên hiệu là Kiến Tân năm thứ 1. Đại xá. Tôn Khâm Thánh hoàng hậu là Hoàng thái hậu.
Khi ấy thái tử mới lên 3 tuổi, nhận truyền ngôi không biết lạy. Quý Ly sai thái hậu lạy trước cho thái tử lạy theo.
Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương. Bản văn thì đề là Trung thư thượng thư sảnh phụng nhiếp chính cai giáo hoàng đế thánh chỉ v.v ..
Ngày hôm ấy, lên ngự điện ở kinh đô mới. Lễ mừng xong, ban yến cho các quan từ ngũ phẩm trở lên, cho phép con trai, con gái dạo xem ở cửa nam thành cả ngày lẫn đêm. "
* " Canh Thìn, [Kiến Tân] năm thứ 3 [1400], (Năm này nhà Trần mất, từ tháng 3 trở đi, Quý Ly cướp ngôi, xưng là Thánh Nguyên năm thứ 1; Minh Kiến Văn năm thứ 2)...Tháng 2, ngày 28, Quý Ly bức vua nhường ngôi và buộc người tôn thất và các quan ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quý Ly giả vờ cố tình từ chối nói: "Ta sắp xuống lỗ đến nơi rồi, còn mặt mũi nào
trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa?".
Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu1, đổi thành họ Hồ. "
* " Ất Dậu, [1405], (Hán Thương Khai Đại năm thứ 3, Minh Vĩnh Lạc năm thứ 3)....Hán Thương nghị bàn việc dời các cung điện ở Đông Đô tới làm ở động Cổ Liệt1. " ( 1 Động Cổ Liệt: theo chú thích của bản dịch cũ thì Cổ Liệt có thể là Kẻ Sét, tức xã Thịnh Liệt sau này, ở gần Hoàng Mai, Hà Nội.)
* " Bính Tuất, [1406], (Hán Thương Khai Đại năm thứ 4, Minh Vĩnh Lạc năm thứ 4)..Sáng ngày 12, người Minh là Trương Phụ dẫn đô đốc Hoàng Trung, đô chỉ huy Thái Phúc tiến công phía tây bắc thành Đa Bang. Mộc Thạnh dẫn bọn đề đốc Trần Tuấn, tiến công phí đông nam thành.
Xác chết chất cao ngang với thành mà giặc vẫn tiến đánh, không tên nào dám dừng lại. Bọn Nguyễn Tông Đỗ, tướng chỉ huy quân Thiên Trường đào thành cho voi ra. Người Minh dùng hỏa tiễn bắn voi. Voi lui lại, người Minh theo voi đánh vào. Thành liền bị hạ. Các quân ở dọc sông đều tan vỡ, lui giữ Hoàng Giang. Người Minh vào Đông Đô bắt cướp con gái, ngọc lụa, thống kê lương chứa, chia quan làm việc, chiêu tập dân xiêu tán, làm kế ở lâu dài. Chúng thiến hoạn nhiều con trai nhỏ tuổi và thu lấy tiền đồng ở
các xứ, cho chạy trạm đưa về Kim Lăng. "
* " Đinh Hợi, Hưng Khánh năm thứ 1 [1407], (từ tháng 10 trở về trước là Hán Thượng Khai Đại năm thứ 5, Minh Vĩnh Lạc năm thứ 5)...Trước hai [cha con] họ Hồ đến Kỳ La là định chạy vào Tân Bình. Dân ở đó, có một phụ lão ra bái yết thưa rằng:
"Xứ này tên là Ky Lê1, trên có núi Thiên Cầm là điều không lành. Xin chớ lưu lại".
[Quý Ly] liền chém người ấy. Đến đây, quả nhiên bị bắt trói ở chổ ấy.
Người Minh thống kê những thứ đã thu được: 48 phủ, châu, 168 huyện, 3.129.500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750 con trâu bò, 8.865 chiếc thuyền "
* " Mậu Thân, Thuận Thiên năm thứ 1, [1428], (Minh Tuyên Đức năm thứ 3)....Mùa hạ, tháng 4, vua từ điện tranh ở Bồ Đào về đóng ở thành Đông Kinh.
Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt, [58a] đóng đô ở Đông Kinh (tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh).
..Vua làm điện Vạn Thọ, lại làm Tả, Hữu điện, điện Kính Thiên, điện Cần Chính. "
* " Canh Tuất, [Thuận Thiên] năm thứ 3 [1430], (Minh Tuyên Đức năm thứ 5). Mùa hạ, tháng 6, ngày mồng 10, quy định các ngạch thuế.
Lại ban luật lệ. Đổi Đông Đô thành Đông Kinh, Tây Đô thành Tây Kinh."
* "Quý Sửu, [Thuận Thiên] năm thứ 6 [1433], (Minh Tuyên Đức năm thứ tám). Mùa xuân, tháng giêng, tuyển chọn con trai các quan và (học trò) ba lộ Quốc Oai, hai lộ Bắc Giang sung vào Quốc tử giám.
...Mùa thu, tháng 8, giáng con trưởng Tư Tề làm Quận vương, lấy con thứ Nguyên Long kế thừa [74b] tông thống.
Vua về Lam Kinh. Tháng 8 nhuận, sao Chổi mọc ở phương tây.
Ngày 22, vua băng ở chính tẩm."
* "
-
* " Giáp Dần, Thiệu Bình năm thứ 1 [1434], (Minh Tuyên Đức năm thứ 9)....Trước đó, Thái sử Bùi Thì Hanh bí mật tâu rằng, ngày mồng 1, tháng 5 , có tinh vược đen ấy sẽ có nhật thực. Có nhật thực thì trong nước có tai biến. Nếu bắt được vượn sống đem giết để trấn yểm thì có thể chấm dứt được tai biến. Đại tư đồ Lê Sát tin là thực, tâu xin ra lệnh cho quan lại các trấn Tuyên Quang, Thái Nguyên đốc thúc dân chúng bủa lưới săn lùng khắp rừng núi khe hang, bắt vượn khỉ đóng cũi gửi về nườm nợp không ngớt. Đến ngày ấy nghỉ chầu, làm phép trấn yểm trong cung cấm, các quan không một ai được biết. Thì Hanh chỉ tâu cho Lễ bộ thị lang Trình Toàn Dương, trước là đạo sĩ, cùng làm phép với mình. Hai người đều đdược thưởng rất hậu.
Ngày 11, kinh thành bị cháy, lửa lan ra thiêu mất vài trăm nhà, nhiều người chết cháy.
Bấy giờ, điều động thợ ở các cục tất tác làm chùa Báo Thiên. Công việc thổ mộc rất nặng nề, Đại tư đồ Lê Sát dựng xong các chùa Thanh Đàm và Chiêu Độ, có đến hơn 90 gian. "
* " Giáp Thân [Quang Thuận] năm thứ 5 [1464], (Minh Thiên Thuận năm thứ tám)....Xây điện Kính Thiên...
Dựng điện Cẩn Đức.
Tháng 11, đại xá, vì hai điện Kính Thiên và Cẩn Đức mới làm xong. "
* " Bính Tuất, [Quang Thuận] năm thứ 7 [1466], (Minh Thành Hóa năm thứ 2)....Tháng 3, ngày 12, vua ngự ra điện Kính Thiên, thân hành ra đề bài văn sách hỏi các đế vương trị thiên hạ...
Bây giờ, Thọ Vực tâu:
1. Các quan viên văn võ nếu bất thần cho triệu vào thì đều truyền cho trung quan dẫn vào.Nếu bình thường ra vào cửa cấm, như các chức học sĩ của sáu khoa thì cứ cho vào.
2. Các nơi có dâng voi, ngựa hoặc những thứ khác thì đêu dẫn vào ngoài cửa Đoan Minh để vua xem bản tâu rồi đợi xin lệnh chỉ. "
* " Đinh Hợi, [Quang Thuận] năm thứ 8 [1467], (Minh Thành Hóa năm thứ 3)....Ngày 16, làm lễ Khánh thọ ở điện Cần Chính.
Trước đây, cứ đến đầu mùa xuân thì làm lễ bao phong các thần ở Thái miếu, xong rồi thì làm lễ Khánh thọ. Đến đây, mới làm lễ Khánh thọ ở điện Cần Chính . Sau đó làm lệ thường...
Tháng 2, ngày Đinh Dậu mồng 1, có nhật thực.
Làm lễ tế Văn miếu...
Khảo thi và sa thải bọn Đông cung thị giảng là Vũ Nguyên Tiềm và Tạ Bửu ở Phụng Nghi đường. Bấy giờ Nguyên Tiềm cùng Bưu hầu Đông cung học. Vua ngự đến Đông cung, hỏi chữ nghĩa hôm trước thế nào, Thái tử đem những lời Nguyên Tiềm đã dạy để trả lời. Vua bèn sai ra ba đề chế, chiếu,
biểu bắt bọn Tiềm và Bưu thi ở Phụng Nghi đường. Bọn Tiềm đều quên lối làm, cả ba bài đều không thành văn lý. Vua xem xong, phê rằng: "Đáng tởm" và quở trách Lại bộ thượng thư Nguyễn Như Đổ, Đông cung quan Trần Phong và Đô ngự sử đài Trần Xác về tội bảo cử bậy.
...Ngày 15, dựng lan can bằng đá ở điện Kính Thiên và xây điện nhỏ ở sân Giảng Võ.
...Ban lệnh cấp chế cáo cho bọn Đô kiểm điểm Lê Giải, trong lệnh đều ghi là" Hoàng thượng chế cáo chi mệnh".
Vua xưng là" Hoàng thượng bắt đầu từ đây".
..Ra lệnh ngừng việc xây cung thành, vì có nhiều tờ tâu gửi lên, nói là mất mùa, giá gạo cao vọt, cho nên hoãn lại. "
* " Kỷ Sửu, [Quang Thuận] năm thứ 10 [1469], (Minh thành Hóa năm thứ 5)....Ngày 26, vua ngự ở cửa Kính Thiên, thân hành ra đề văn sách, hỏi vềđạo trị nước để lấy hiền sĩ.
...Quy định bản đồ của phủ, châu, huyện, xã, trang, sách thuộc 12 thừa tuyên..
Mùa đông, tháng 11, ngày 16, đại xá. Đổi niên hiệu, lấy năm sau làm Hồng Đức năm thứ 1. "
* " Giáp Ngọ, [Hồng Đức] năm thứ 5 [1474], (Minh Thành Hóa năm thứ 10)....Sửa đắp bức tường phía tây kinh thành..."
* " Ất Mùi, [Hồng Đức] năm thứ 6 (1475), (Minh Thành Hóa năm thứ 11)....Mùa hạ, tháng 5, ngày 11, vua ngự điện Kính Thiên, thân ra đề văn sách, hỏi về đạo vua tôi ngày xưa.
...Mùa thu, tháng 7, nước lũ, vỡ đê sông Tô Lịch ở phường Kim Cổ....Ra sắc chỉ cho cả nước sửa đắp những chỗ đê đập và đường sá. Đặt các chức quan Khuyến nông và Hà đê. "
* " Đinh Dậu, [Hồng Đức] năm thứ 8 (1477), (Minh Thành Hóa năm thứ 13)....Xây thành Đại La... "
* " Mậu Tuất, [Hồng Đức] năm thứ 9 (1478), (Minh Thành Hóa năm thứ 14)....Hạ lệnh cho các quân tập tượng trận ở sân điện Giảng Võ... "
* " Kỷ Hợi, [Hồng Đức] năm thứ 10 [1479], (Minh Thành Hóa). Tháng giêng, ngày mồng 9, dời các tướng Chân Vũ ra ngoài.
Ngày 26, vua ngự giá duyệt võ bị 16 ngày.
Sai Sử quan tu soạn Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt sứ ký toàn thư 15 quyển.
Tháng 2, ngày 20, vua xem bắt cá ở Tây Hồ.
..Ngày hôm ấy đóng đinh ở Phù Liệt. Giờ dậu có hỏa tai, lửa cháy lan đến kho thuốc súng của vệ Thiên Uy ở cửa Đoan Môn. Cháy sạch cả khu nhà túc trực của các vệ Thần tý, Tráng sĩ, Điện tiền ở phía tây.
..Tháng 12, ngày 28, vua về tới kinh sư. "
* " Tân Sửu, [Hồng Đức] năm thứ 2 [1481], (Minh Thành Hóa năm thứ 17)....Ngày 27, vua ngự điện Kính Thiên, thân hành ra đầu bài văn sách hỏi về lý số.
...Đào hồ Hải Trì. Hồ này quanh co đến 100 dặm. Giữa hồ có điện Thúy Ngọc, bên hồ xây điện Giảng Võ để tập luyện binh tượng. "
* " Quý Mão, [Quang Đức] năm thứ 14 [1483], (Minh Thành Hóa năm thứ 19)...Làm điện Đại Thành, đông vu, tây vu ở Văn miếu cùng điện Canh Phục, kho chức ván in, kho chứa đồ tế lễ, đông tây đường nhà Minh Luân. "
* " Giáp Thìn, [Hồng Đức] năm thứ 15 [1484], (Minh Thành Hoá năm thứ 20)....Quy định việc xây dựng hành điện:
Hành điện gồm 5 gian, 2 chái, nhà bếp mỗi dãy 3 gian, một đài Quan canh2 ở giữa, cao 5 thước, rộng 40 thước, làm một khu đàn Tiên nông cao 7 thước, rộng 36 thước, 4 mặt đắp tường đất, cùng đi cửa đi ngựa vào. Đều ở xã Hồng Mai, huyện Thanh Đàm. ( Nay là xã Hoàng Mai, huyện Thanh Trì, Hà Nội. )
Làm điện Đại Thành ở Văn Miếu cùng nhà đông vu, tây vu, điện Canh phục, kho chứa ván in và đồ tế lễ, nhà Minh luân, giảng đường đông tây, nhà bia đông tây, phòng học của sinh viên ba xá, và các cửa, xung quanh xây tường bao....
..Khi các quan vào chầu và khi còn ở trong triều đường, lại viên các nha môn đi theo bản quan đến bên ngoài các cửa Đông Trường An và Nam Huân thôi, không được như trước đây, vào cửa bừa cả cửa Chu Tước. Nếu là lại viên các nha môn Lại bộ, Lục khoa, Thượng bảo tự, Đạc chi thông chính sứ đi và hộ vệ thì không ngăn cấm.
3. Khi tan chầu, lại viên các nha môn năm phủ, sáu bộ, Đông các, Ngự sử đài, sáu tự, sử quan đem sổ vào để kiểm xét, hay vào sáu khoa để tra xét sổ sách thì đều không cấm.
...Tháng 8, ngày mồng 3, định nghi thức vào chầu cho các quan. Nghi thức như sau:
Kể từ nay, vào ngày phiên chầu, hồi trống thứ nhất, quan hộ vệ theo thứ tự tiến vào Đan Trì, hồi trống thứ nhất, quan hộ vệ theo thứ tiến vào Đan Trì, không được đường đột tranh đi trước, chen lấn lộn xộn. Sau khi trống đã đánh hồi thứ ba mà các quan còn ở ngoài cửa Chu Tước và sau khi chuông đã đánh quá 50 tiếng rồi mà còn ở bên tả, ty Xá nhân vệ Cẩm y hặc tâu lên để trừng trị. "
-
Mậu Thân, [Hồng Đức] năm thứ 19 [1488], (Minh Hiếu Tông Hoằng Trị năm thứ 1)...Ngày 23, làm lễ mở đọc chiếu thư của nhà Minh ở điện Kính Thiên. "
* " Canh Tuất, [Hồng Đức] năm thứ 21 [1490], (Minh Hoằng Trị năm thứ 3)....Mùa hạ, tháng 4, ngày 4, xác định bản đồ toàn quốc: 13 xứ thừa tuyên 4, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường. Ở Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Yên Bang, Tuyên Quang, Hưng Hoá, đều đặt Đô ty và Thủ ngự.
..Ngày 18, vua ngự điện Kính Thiên, truyền loa xướng danh các tiến sĩ là bọn Vũ Duệ. Các quan mặc triều phục chúc mừng. Lễ bộ đem bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa.
...Tháng 8, ngày 15, dựng bia đề tên các tiến sĩ khoa Canh Tuất năm Hồng Đức thứ 21.
...Tháng 11, đắp rộng thêm Phụng thành, dựa theo quy mô thời Lý, Trần. Vua cảnh giác về việc Nhân Tông bị hại, nên lấy lính đắp thành đó. Đồng thời phía ngoài trường đấu võ, mở rộng đến 8 dặm, sau 8 năm thì đắp xong. Bèn dựng điện Danh Bảo1, lập lại vườn Thượng Lâm, trong vườn có hươu và các thú khác. "
* " Tân Hợi, [Hồng Đức] năm thứ 22 [1491], (Minh Hoằng Trị năm thứ 4)....Mùa thu, tháng 8, ngày 28,29, mưa to suốt cả ngày lẫn đêm không ngớt, đổ tường điện Kính Thiên, nước dâng lên 4 thước.
...Vua sai thợ làm cái đình ở ngoài cửa Đại Hưng1 để làm nơi treo các pháp lệnh trị dân. Làm xong, ban tê là " Quảng Văn đình"2. Đình này ở trong Long thành, phía trước Phụng Lâu, có ngòi Ngân Câu chảy quanh hai bên tả hữu. "
* " Quý Sửu, [Hồng Đức] năm thứ 24 [1493], (Minh Hoằng Trị năm thứ 6)....Tháng 5, ngày mồng 8, vua thân ngự chính điện. Truyền loa xướng danh tiến sĩ là bọn Vũ Dương. Quan Lễ bộ đem bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa. Ngày 27, ban mũ, đai, y phục.
Ngày 28, ban yến.
Mùa thu, tháng 8, ngày 19, dựng bia đề tên các tiến sĩ khoa Quý Sửu. "
* " Bính Thìn, [Hồng Đức] năm thứ 27 [1496], (Minh Hoằng Trị năm thứ 9)....Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 4, vua ngự thuyền đi Đông Kinh bái yết các lăng tẩm. Ngày 11, làm lễ tấu cáo.
Ngày 12, dựng cầu bến Tế Độ ở ngoài cửa Quang Đức
..Tháng 3, ngày đinh dậu , vua thân hành khảo thí ở Đan Trì điện Kính Thiên, hỏi về đạo trị nước.
..Ngày 26, dẫn các sĩ nhân vào điện Kim Loan. Vua tự xem dung mạo từng người, lấy đỗ 30 người.
Ngày 27, vua ngự chính điện Xương danh. Cho Nghiêm Viên, Nguyễn Huân, Đinh Lựu 3 người đỗ tiến sĩ cập đệ. Bọn Đinh Cương 8 người đỗ tiến sĩ xuất thân. Bọn Nguyễn Đạo Diễn 19 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
...Tháng 12, ngày mồng 6, dựng bia đề tên các tiến sĩ khoa Bính Thìn, năm Hồng Đức thứ 27.
* " Đinh Tỵ, [Hồng Đức] năm thứ 28 [1497], (Minh Hoằng Trị năm thứ 10)...Ngày Nhâm Tý 30, vua băng ở điện Bảo Quang. Ngày hôm ấy, gươm thần, ấn thần điều biến mất.
..Khi còn sống, vua dựng điện Tử Hà, điện Bảo Văn, điện Kim Loan, điện Bảo Quang, tẩm điện Lam Sơn. "
* " Kỷ Mùi, [Cảnh Thống] năm thứ 2 [1499], (Minh Hoằng Trị năm thứ 12)....Đại hạn. Cầu mưa ở Thái Miếu mà vẫn nắng dữ.
Ngày 29, có sắc chỉ truyền cho Hình bộ rằng: Hôm nay, ở Thái Miếu còn đương cầu mưa, hãy hoãn việc xử trảm và phạt trượng tù nhân, hãy ghi chép tình trạng tù nhân bị phạt trượng tâu lên, phải cấp tốc vâng lệnh thi hành....
...Ngày 16, vua ngự điện Kính Thiên, quan Hồng lô truyền loa xướng danh, Lễ bộ đem bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa.
...Ngày 29, Lương Trừ ốm, vua thân hành tới Sứ quán thăm hỏi, Trừ ra yết kiến. Hôm ấy, vua thiết yến bọn Trừ ở điện Cần Chính và ban cho vàng bạc, tơ lụa theo thứ bậc khác nhau, bọn Trừ đều không nhận, cố từ chối xin về nước. Vua làm thơ đưa tiễn.
Dựng bia đề tên các tiến sĩ khoa Kỷ Mùi, năm Cảnh Thống thứ 2 [1499] [20b] ở cửa nhà Thái học. "
* " Canh Thân, [Cảnh Thống] năm thứ 3 [1500], (Minh Hoằng Trị năm thứ 13)...Xây tường phía đông."
* " Tân Dậu, [Cảnh Thống] năm thứ 4 [1501], (Minh Hoằng Trị năm thứ 14)....Tháng 9, ngày mồng 1, mưa to, nước tràn ngập trong thành.
...Năm ấy, phủ Phụng Thiên bị cháy. "
* " Ngày 22, Thái hoàng thái hậu Nguyễn thị thình lình băng ở chính tẩm điện Trường Lạc, thọ 65 tuổi.
* " Kỷ Tỵ, [Đoan Khánh] năm thứ 5 [1509], (Từ tháng 12 trở về sau là Tương Dực Đế Hồng Thuận năm thứ 1; Minh Chính Đức năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, vua cày ruộng tịch điền, cày bị gãy.
Quai chuông lớn Càn Nguyên ở điện Kính Thiên bị gãy, chuông rơi.
....Vua tính ưa vũ dũng, nhân khi đi tế Giao trở về cung, cưỡi trên đầu voi Viện Vân vào cửa Đông Hoa.
...Hai giám ngự mã, ngự tượng đấu sức với nhau, cầm gậy đánh nhau từ cửa Thanh Dương đến ngoài cửa Thái Miếu, vua lấy làm thích, thưởng cho tiền và lụa.
Tân Mùi, [Hồng Thuận] năm thứ 3 (1511), (Minh Chính Đức năm thứ 6)....Trước kia, đời Đoan Khánh, Duy Nhạc đỗ tiến sĩ xuất thân, làm quan đến Cẩm y vệ đoán sự, trực điện Kim Quang.
..Vua sai Nghĩa quốc công Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ ra Đồ Sơn để trấn yểm.
...Tháng 5, ngày mồng 5, vua ngự điện Kính Thiên, quan Hồng lô truyền loa, xướng danh các tiến sĩ là bọn Hoàng Nghĩa Phú. Các quan mặc triều phục chúc mừng. Các tiến sĩ nhận ân mệnh, Lễ bộ đem bảng vàng treo ngoài cửa nhà Thái học. Lại ban y phục, đai mũ và ban yến.
...Ngày 20, vua làm lễ tấu cáo ở Thái Miếu
...Sai Nguyễn Văn Lang trung tu Sùng Nho điện ở Quốc tử giám và hai giải vũ, sáu nhà Minh Luân, nhà bếp, phòng kho, cùng làm mới hai nhà bia bên đông và bên tây, mỗi gian đặt một tấm bia bên tả, một tấm bên hữu. Năm này, dựng hai nhà bia đề tên các tiến sĩ khoa Ất Sửu năm Đoan Khánh thứ 1 và khoa Mậu Thìn năm Đoan Khánh thứ 4. Khi ấy, sau khi sai trùng tu Quốc tử giám và làm mới nhà bia, vua lại nghĩ hai khoa thi về đời Đoan Khánh chưa dựng bia, liền sai Đông quan1 khắc đá, Thượng thư, Đông các đại học sĩ, Nhập thi kinh diên Đỗ Nhạc soạn bài ký, Trung thư giám xá nhân Đỗ Như Chi viết chữ tri thượng bảo giám Bùi Thị viết chữ triện. "
* " Nhâm Thân, [Hồng Thuận] năm thứ 4 [1512], (Minh Chính Đức năm thứ 7)...Làm điện lớn hơn trăm nóc. Trước đây, xã Minh Quyết, huyện Cẩm Giàng có người thợ Vũ Như Tô (tức tên đô Nhạn), ở nhà lấy cây nứa dựng thành kiểu điện lớn trăm nóc, đến đây đem kiểu nhà ấy dâng lên, khuyên vua xây dựng."
* " Quý Dậu, [Hồng Thuận] năm thứ 5 [1513], (Minh Chính Đức năm thứ 8)...Hôm ấy, vua ngự điện Quang Trị xem voi đấu nhau với hổ.
...Tháng 3, vua thân hành đến cầu tự ở điện Tường Quang.
..Mùa hạ, tháng 6, ngày mồng 7, nước lũ, vỡ đê phường Yên Hoa thông vào hồ Tây.
...Dựng bia ghi tên tiến sĩ khoa Tân Mùi năm Hồng Thuận thứ 3."
* " Giáp Tuất, [Hồng Thuận] năm thứ 6 [1514], (Minh Chính Đức năm thứ 9)...Đắp thành bao sông Tô Lịch, làm điện Tường Quang."
* " Bính Tý, [Hồng Thuận] năm thứ 8 [1516], (Từ tháng 4 trở đi là Chiêu Tông Quang Thiệu năm thứ 1; Minh Chính Đức năm thứ 11)....Trước đây, vua thích làm nhiều công trình thổ mộc, đắp [26b] thành rộng lớn mấy ngàn trượng, bao quanh điện Tường Quang, quán Chân Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía đông đến phía tây bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp hoàng thành, dưới làm cửa cống, dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến và gạch vuông xây lên, lấy sắt xuyên ngang. Lại sai làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn nữ sử trần truồng chèo thuyền chơi trên Hồ Tây, vua cùng chơi, lấy làm vui thích lắm. Người thợ Vũ Như Tô làm điện lớn hơn trăm nóc, dùng hết tiền của và sức dân trong nước. Lại làm Cửu Trùng đài, trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch để dẫn nước vào, thả thuyền hiên Quang cho mặc sức du ngoạn. Hồ ấy quan co khúc khuỷu, mở cửa cống có thể chở thuyền nhẹ ra vào để rong chơi, cực kỳ xa xỉ.
Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành [27a] chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười.
..Trước đây, Tô xuất thân là thợ, đem kỹ xảo mê hoặt vua, được lạm bổ làm đô đốc kiêm coi các sở ở Công bộ. Bấy giờ, đương làm điện lớn trăm nóc chưa xong, dân gian ai cũng nghiến răng tức giận. Đến khi vua bị hại, Như Quang Trị sau bị Duy Đại giết. Tô cũng bị quăng xác ra ngoài chợ, quan dân ai cũng chỉ trỏ xác hắn mà chê cười, có người còn nhổ nước bọt. "
* " Tân Tỵ, [Quang Thiệu] năm thứ 6 [1521], (Minh Chính Đức năm thứ 16)...Mùa hạ, tháng 4, ngày 17, dựng bia tiến sĩ khoa Giáp Tuất năm Hồng Thuận thứ 6.
..Tháng 8, vua ngự điện Quỳnh Vân, uý lạo Mạc Đăng Dung và các tướng sĩ ra vùng Kinh Bắc, Lang Nguyên lùng bắt Trần Cung. "
* " Đinh Hợi, [Thống Nguyên] năm thứ 6 [1526], (Từ tháng 6 trở về sau, Mạc tiếm hiệu là Minh Đức năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 6)...
...Hôm ấy, Đăng Dung xưng hoàng đế. Đại xá. Đổi niên hiệu là Minh Đức.
* "Mậu Tý, [1528], (Mạc tiếm hiệu Minh Đức năm thứ 2; Minh Gia Tĩnh năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, bấy giờ Đăng Dung muốn đổi làm chính lệnh mới, bèn sai đúc tiền Thông Bảo theo kiểu cách đồng tiền cũ, nhưng phần nhiều không thành. Sau lại đúc các loại tiền gián pha kẽm và sắt ban hành các xứ trong nước để thông dụng. "
* " Kỷ Sửu, [1529], (Mạc Minh Đức năm thứ 3; Minh Gia Tĩnh năm thứ 8)...Mùa đông, tháng 12, khi ấy, Mạc Đăng Dung cướp ngôi đã được 3 năm, tự thấy mình tuổi già, bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đăng Doanh, tự xưng là Thái thượng hoàng, ra ở điện Tường Quang, coi nghề đánh cá là thú ngao du tự lạc. "
-
* " Bính Thân, [Nguyên Hoà] năm thứ 4 [1536], (Mạc Đại Chính năm thứ 7 - Minh Gia Tĩnh năm thứ 15)...Họ Mạc sai Đông quân đô đốc phủ tả đô đốc Khiêm quận công Mạc Đình Khoa trùng tu Quốc tử giám. "
* " Đinh Mùi, [Nguyên Hoà] năm thứ 15 [1547], (Mạc Vĩnh Định năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 26)....Tháp Báo Thiên bị đổ. "
* " Ất Dậu, [Quang Hưng] năm thứ 8 [1585], (Mạc Diên Thành năm thứ 8; Minh Vạn Lịch năm thứ 13)....Tháng 6, họ Mạc lại định vào ở trong thành Thăng Long. Bèn bàn sửa đắp thành trì, làm nhiều công việc xây dựng, nung ngói gạch, một năm thì xong. Lấy năm sau làm Đoan Thái năm thứ 1. "
* " Bính Tuất, [Quang Hưng] năm thứ 9 [1586], (Mạc Đoan Thái năm thứ 1; Minh Vạn Lịch năm thứ 14)...Tháng 6, họ Mạc sắp đặt xa giá dời vào thành Thăng Long, ở tại chính điện, nhận lễ chầu mừng của các quan. Lễ xong, thăng bọn Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện đều làm thái bảo, Hoằng quận công làm Nam quân đô đốc phủ tả đô đốc.
...Ngày 17, dinh Yên Trường cháy lớn. Khi ấy, gió to, lửa mạnh, cháy lan cả phủ dinh, trại quân, giải vũ, phố xá đến vài nghìn nhà. Mây sắc đỏ che kín mặt trời, khói đen đầy trời, từ giờ Ngọ đến giờ Thân lửa mới tắt.
...Ngày 28, trong dinh Yên Trường nổi cơn lốc lớn đến hai dặm, người ngã, nhà tốc, đá bay cát cuộn, gãy cây sụt ngói. "
* " Đinh Hợi, [Quang Hưng] năm thứ 10 [1587], (Mạc Đoan Thái năm thứ 2 - Minh Vạn Lịch năm thứ 15). Tháng giêng, họ Mạc sai sửa chữa tầng ngoài thành Thăng Long và sửa sang các đường phố."
* " Mậu Tý, [Quang Hưng] năm thứ 11 [1588], (Mạc Hưng Trị năm thứ 1; Minh Vạn Lịch năm thứ 16). Tháng 2, họ Mạc thấy quan quân mỗi ngày một mạnh, liền bàn định kế đánh giữ. Hạ lệnh cho quân dân các huyện trong bốn trấn đắp thêm ba lớp luỹ ngoài thành Đại La ở Thăng Long, bắt đầu từ phường Nhật Chiều2 vượt qua Hồ Tây, qua cầu Dừa3 đến cầu Dền4 suốt đến Thanh Trì, giáp phía tây bắc sông Nhị Hà, cao hơn thành Thăng Long đến vài trượng, rộng 25 trượng, đào 3 lớp hào, đều trồng tre, dài tới mấy mươi dặm để bọc lấy phía ngoài thành. "
* " Nhâm Thìn, [Quang Hưng] năm thứ 15 [1592], (Mạc Hồng Ninh năm thứ 2; Minh Vạn Lịch năm thứ 21)....Ngày mồng 5, Tiết chế Trịnh Tùng đốc quân vượt sông, tiến đến chùa Thiên Xuân2. Gần đến cầu Nhân Mục, Mạc Mậu Hợp sợ quá, bỏ thành Thăng Long vượt sông Nhị Hà đến bến Bồ Đề, ở tại Thổ Khối, để lại các đại tướng chia giữ các cửa trong thành.
Ngày mồng 6, tiết chế Trịnh Tùng đốc quân qua sông Tô Lịch đến cầu Nhân Mục, đóng quân ở núi Xạ Đôi. Bèn chia quân bày trận, các đạo cùng tiến, hẹn ngay ngày hôm ấy đánh phá thành Thăng Long để lấy công đầu. Bèn sai tướng dinh tả khu là bọn Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Ninh đem 1 vạn binh tượng đánh phá đường Cầu Dừa tiến thẳng đến cửa Tây; tướng dinh hữu khu là bọn Hoàng Đình Ái và Trịnh Đồng đem 1 vạn 500 binh tượng đánh phá đường Cầu Dền, tiến thẳng đến cửa Nam Giao. Tướng
sinh tiền khu là Trịnh Đỗ đem các cơ trung quân và bọn Thuỵ Tráng hầu hợp binh tượng hơn 1 vạn 2000 người đánh phá Cầu Muống tiến thẳng đến cửa Cầu Gỗ6. Chia sai các tướng đã xong, mỗi người đều nhận lệnh sẵn sàng tiến phát. Tiết chế Trịnh Tùng đốc suất binh tượng đại dinh gồm 2 vạn 5000 người làm hậu đội, tiến đến Hồng Mai đóng quân. Bèn hạ lệnh rằng: Bài binh bố trận đã xong, tất cả cờ xí không được giăng bậy, chiêng trống không được đánh càn. Ba quân nghe lệnh đều cuốn cờ im trống,
ngồi yên để chờ đợi ...
....Ngày hôm ấy, quân Mạc xác chết gối lên nhau, lấp đầy hào rãnh, máu chảy trôi chày. Chém đến hơn mấy nghìn thủ cấp giặc, tướng Mạc bị chết đến mấy chục viên. Khí giới chất như núi. Cung điện, nhà cửa ở kinh thành tiêu điều sạch không. Mạc Mậu Hợp kinh hoàng sợ hãi, thu nhặt tàn quân giữ sông Cái để cố thủ. Tiết chế Trịnh Tùng đem quân đến bờ sông, gặp khi trời đã về chiều, liền nói rằng: Binh pháp có nói: Giặc cùng chớ đuổi. Bèn thu quân dừng lại đóng doanh trại theo như trận đồ.
Ngày 15, hạ lệnh cho các quân san phẳng luỹ đất đắp thành Đại La dài đến mấy ngàn trượng, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh, phá đến thành đất bằng, không mấy ngày là xong.
Đây là mưu của Nguyễn Quyện để làm kế hoãn binh cho họ Mạc. "
* " Quý Tỵ, [Quang Hưng] năm thứ 16 [1593], (Năm này họ Mạc mất; Minh Vạn Lịch năm thứ 21)....Bấy giờ, Tiết chế Trịnh Tùng sai thợ xây dựng cung điện, làm hành tại ở phía tây nam thành Thăng Long, phía bắc Cầu Dừa, tức là chổ Cẩm Đình trước, 1 tháng làm xong. Rồi sai các đại thần và các quan văn võ sắm bày cờ xí, chỉnh đốn binh tượng, để chuẩn bị đón thánh giá. "
* " Ất Mùi, [Quang Hưng] năm thứ 18 [1595], (Minh Vạn Lịch năm thứ 23)..Ngày Giáp Ngọ 13, trời không mây mà có sấm, bỗng sét đánh vào cột cung điện. Đêm ấy, mặt trăng lại đi vào vùng sao Tâm, sau thành quầng ở sao Tuế.
Ngày Giáp Thìn 13, đại hội các quan văn võ tuyên thệ ở phố bên tả cửa Nam thành Thăng Long.
Ngày 25, Xuân Sơn [hầu] nguỵ về hàng, đến Kinh sư xin chịu tội, giao về cho tướng bản thuộc, sau bắt giết.
...Tháng 10, sai sửa chữa điện Tây Kinh. "
* " Bính Thân, [Quang Hưng] năm thứ 19 [1596], (Minh Vạn Lịch năm thứ 24)...Sai sửa làm các điện thái miếu ở trong thành Thăng Long.
...Ngày Nhâm Ngọ 17, rước thần vị của Thái Tổ Cao Hoàng Đế và liệt thánh hoàng đế vào điện Thái Miếu thành Thăng Long để cúng tế quanh năm. "
* " Đinh Dậu, [Quang Hưng] năm thứ 20 [1597], (Minh Vạn Lịch năm thứ 2)...Ngày 20, vua mật đảo trong cung cấm, lại dựng đàn ở Cầu Muống, thành Đại La, để hợp tế các linh thần núi sông mới được mưa. "
* " Kỷ Hợi, [Quang Hưng] năm thứ 22 [1599], (Minh Vạn Lịch năm thứ 27)....Tháng 4, ngày mồng 7, có nhiều sao băng xuống nội điện hành tại, một góc điện Kính Thiên bị sập "
* " Nhâm Dần, [Hoằng Định] năm thứ 3 [1602], (Minh Vạn Lịch năm thứ 30). Mùa xuân, tháng 2, thi Hội các sĩ nhân trong nước. Lấy đỗ bọn Nguyễn Đăng 10 người. Đến khi thi Đình, vua ngự điện Kính Thiên, thân hành ra đầu đề văn sách. Cho bọn Nguyễn Đăng 2 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Cung 8 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. "
* " Kỷ Mùi, [Hoằng Định] năm thứ 20 [1619], (Từ tháng 6 trở đi là Thần Tông Vĩnh Tộ năm thứ 1; Minh Vạn Lịch năm thứ 47). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 16, [18b] giờ Mùi, cháy lớn, bắt đầu từ cửa Vương phủ, sau lan ra phố phường hai bên, cháy vào đến lầu cửa Đoan Môn của Triều đường và các nhà trực hai bên tả hữu đều cháy hết sạch.
...Tháng 6, hoàng tử lên ngôi ở điện Cần Chính, đổi niên hiệu là Vĩnh Tộ năm thứ 1. Đại xá. "
* " Quý Hợi, [Vĩnh Tộ] năm thứ 5 [1623], (Minh Thiên Khải năm thứ 3)....Tháng 5, giếng đá ở cửa chùa Báo Thiên bỗng dưng bị lấp hỏng.
..Ngày 18, Trịnh Xuân tự đem quân lính, voi ngựa, súng đạn bản bộ dàn bày ở xứ Đình Ngang, sai bọn Điện quận công, Bàn quận công đem quân phá vào Nội phủ, cướp đoạt voi ngựa, vàng bạc, của cải, bức [20b] Vương dời ra ngoài thành, rồi phóng lửa đốt cháy tràn lan các xứ trong Kinh kỳ. "
* " Canh Ngọ, [Đức Long] năm thứ 2 [1630], (Minh Sùng Trinh năm thứ 3)....Tháng 6, nước to đổ về, sông Nhị đầy tràn, ngập vào đường phố. Cửa Nam nước chảy như thác, phố phường nhiều người bị chết đuối. Lại đê điều ở các xã Yên Duyên, Khuyến Lương huyện Thanh Trì bị vỡ, thóc lúa hoa tổn, nhân dân đói kém.
Mùa thu, tháng 8, mở khoa thi Hương cho sĩ nhân các xứ.
Tháng 9, vua làm 3 toà cung điện và 10 gian hành lang. Mùa đông, tháng 10, nhà Minh sai hai sứ bộ sang đòi lễ cống. Ban yến cho xứ thần ở bến Đông Hà. Vương thân đến lầu Giảng Võ, trưng bầy các đồ cống hiến cho sứ thần nhà Minh xem, nhân thể dàn bày nhiều thuyền ghe, voi ngựa ở bờ sông để khoe binh uy, tỏ ra là cường thịnh. "
* " Tân Mùi, [Đức Long] năm thứ 3 [1631], (Minh Sùng Trinh năm thứ 4)...Ngày Kỷ Mùi 16, có nguyệt thực, gặp lúc trời mưa gió tối trời, không trông thấy.
Chó ngao đá ở điện Tây Kinh nứt vỡ, gãy ngang lưng rơi xuống đất.
Giếng đá ở xã Hoàng Mai, huyện Thanh Trì kêu vang [29b] như sấm.
Tháng 5, mống đỏ mọc ngang trời, một khắc mới tan.
Tháng 6, Vương thân ngự ở Đông lâu, sai đào sông cho thuyền đánh nhau và tập bắn. Bấy giờ, có lửa cháy từ đầu sông, cháy lan đến cửa tả vương phủ, phố phường hai bên và các nhà Triều Nguyên, Triều Đường trong thành nội. Vua tránh ra nhà Hoa Dương hầu (không rõ tên) 4 ngày mới về cung.
Mùa thu, tháng 8, ngày 29, ở vực Rồng xã Lai Duệ, huyện Thuỵ Nguyên có những vật nổi lên mặt nước trông như đầu trâu, đầu ngựa, đầu người, đầu rắn, không biết bao nhiêu mà kể. Tháng 9, ngày mồng 3, gió to làm gãy cây, tốc nhà. Từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 6, mưa như trút, nước sông Nhị dâng to, điện đình trong ngoài nước ngập sâu đến 1 thước.
Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, có nhật thực. Vua cho là bản mệnh cùng hợp với ngày ấy và năm ấy, chỉ trai giới mà không hô cứu mặt trời. "
* " Nhâm Dần, [Vĩnh Thọ] năm thứ 5 [1662], (Từ tháng 9 trở đi là Vạn Khánh năm thứ 1; Minh Vĩnh Lịch năm thứ 16; Thanh Khang Hy năm thứ 1)
...Mùa hạ, tháng 5, sai Tham tụng Lễ bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ thiếu bảo Yên quận
công Phạm Công Trứ trông coi dân tạo lệ của Quốc tử giám để phục dịch. Bấy giờ điện đường và cung tường trong ngoài của nhà Quốc học nhiều chỗ dột nát, hoang rậm, Công Trứ sửa sang thêm, nên quy mô chế độ dần dần lại lộng lẫy. Lại cứ đến ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng, thì đại hội các học trò để học tập. Từ đấy, nho phường được thêm dóng dả, nhân tài nhiều người thành đạt. "
* " Canh Tý, Thận Đức năm thứ nhất [1600], (từ tháng 10 trở về sau là Hoằng Định năm thứ nhất. Minh Vạn Lịch năm thứ 28)...Xe vua trở về kinh sư. Vua ngự ở chính điện nhận chầu mừng. Có rồng vàng hiện ở trước điện
Kính Thiên . Xuống chiếu đổi niên hiệu là Hoằng Định. Đại xá thiên hạ
...Bắc cầu phao ở bến Ông Mạc."
* " Kỷ Mùi, [Hoằng Định] năm thứ 20 [1619], (Từ tháng 6 trở về sau là niên hiệu Vĩnh Tộ thứ nhất đời vua Thần Tông, Minh Vạn Lịch năm thứ 47).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày 16, kinh thành cháy to, bắt đầu từ cửa sau sang vương phủ, lan ra phố phường, đến lầu cửa Đoan Môn của triều đường và các nhà trực hai bên tả hữu.
* " Nhâm Tuất, [Vĩnh Tộ] năm thứ 4 [1622], (Minh Thiên Khải năm thứ 2).
..Tháng 5, giếng đá ở cổng chùa Báo Thiên bị lấp hỏng. "
* " Canh Ngọ, [Đức Long] năm thứ 2 [1630], (Minh Sùng Trinh năm thứ 3)....Tháng 6, lũ lụt lớn. Sông Nhị nước dâng cao, tràn vào phố xá; ngoài cửa Nam, nước chảy như thác, ở trong phố phường mà phải đi thuyền, có nhiều người chết đuối. Đê Thanh Trì vỡ, lúa mất, dân đói.
Tháng 9, dựng ba toà nội điện, làm hành lang. Mùa đông, tháng 10, qua bộ viện Lưỡng Quảng nhà Minh sai người giục cống nộp đến kinh sư. Ban cho ăn yến ở bến Đông Hà. Chúa ngự ở lầu Giảng Võ, bày đồ cống vật cho họ vào xem. Nhân đó duyệt quân thuỷ và bộ, bày thuyền ghe, voi ngựa để phô bày sự cường thịnh. Mùa thu, tháng 8, mưa to, hoàng thành bị lở đổ hơn 30 trượng."
* " Tân Mùi, [Đức Long] năm thứ 3 [1631], (Minh Sùng Trinh năm thứ 4)...Tháng 6, chúa ngự ở lầu phía đông, sai thuỷ quân tập bắn. Có lửa bốc lên ở đầu sông cháy lan ra phố phường ở hai bên trái cửa [vương] phủ và đến cửa Triều Nguyên của triều đình ở trong thành, rồi cháy vào nội điện. Nhà vua tránh lửa, chạy ra ở nhà Hoa Dương hầu, bốn ngày sau mới trở về cung. "
HẾT BỘ DVSKTT .
Nguồn : Bản in Nội Các Quan Bản Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697).
Tựa sách: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Năm
Soạn giả: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, v.v... 1697
Dịch giả: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam 1985-1992
Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội - Hà Nội 1993
Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy,
Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung
2001
Điều hợp: Lê Bắc - bacle@hotmail.com 2001
-
B/ AN NAM CHÍ LƯỢC
Soạn giả: LÊ TẮC
Thế Kỷ 14 (1335)
Lời tựa : " Nói về cuốn An Nam Chí Lược, ai ai cũng biết rõ soạn giả Lê Tắc là một tên phản bội với Tổ quốc. Trong lúc nước nhà đang gặp ngoại xâm, xã tắc nguy cấp, nhân dân đau khổ, Lê Tắc cùng bọn Trần Kiện và Trần Ích Tắc, không những không chịu gắn sức phấn đấu để cứu nước cứu dân, trái lại
nhẩn tâm và làm tôi địch. Hơn nữa, trong bộ An Nam Chí Lược, Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm người Nguyên để soạn tập. Chẳng hạn, như những lời nịnh nọt a dua của soạn giả, những đoạn văn kiêu ngạo tự tôn tự đại trình bày trong các chiếu chỉ nhà Nguyên và trong các bài tựa các danh nhân hồi ấy, đều khiến cho chúng ta vô cùng uất ức và đau đớn.
Sở dĩ Ủy ban lấy bộ An Nam Chí Lược làm công việc phiên dịch đầu tiên, là vì bộ ấy có lẽ là bộ sử xưa nhất do một cá nhân người Việt soạn ra, và gồm có nhiều sử liệu đáng quý có liên quan đến cổ sử và trung sử Việt Nam, chứ không phải Ủy ban có chút định nào dung thứ những hành động và quan niệm sai lầm của soạn giả đối với tổ quốc. Nói khác, chúng tôi coi cuốn sách này là một sử liệu, là một đối tượng cho cuộc nghiên cứu sử học thuần túy, bởi vậy, thành thực muốn cung cấp một bộ hiệu bản và bản dịch đáng tin cậy cho học giới mà thôi. Viện Trưởng Viện Đại Học Huế
L. M. Cao Văn Luận"
" Kinh-Lược-Chiêu-Thảo-Sứ là Trương-Bá-Nghi đắp La-Thành tại An-nam, công trình chưa xong, đến năm Nguyên-Hoà thứ 3 (808), đô hộ là Trương-Chu đắp tiếp thêm mới hoàn công. Lâm-Tư nói rằng: La-Thành chu-vi 2000 bước, tốn hết 25 vạn công. "
" Năm Hàm-Thông thứ 3 của vua Y-Tông, (682), nước Nam-Chiếu đánh hãm La-Thành; viên Kính-Lược-Sử Thái-Tập bị chết, vua sai Cao-Biền làm chức đô-hộ, đem quân đánh khôi phục phủ thành, chém tướng mọi là Đoàn-Tù-Thiên và bọn quân mọi hơn 30.000 cái đầu; rồi tu bổ La-Thành lại, cải xưng đô-hộ-phủ Tịnh-Hải-Quân. Biền được trao cho làm chức Tiết-Độ- Sứ. "
* " Nam-Giao đời xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần gọi là Tượng-Quận, nhà Hán đặt làm ba quận: Giao-Châu, Cửu-Chân và Nhật-Nam. Nhà Đường lại cải Giao-Châu làm An-nam phủ, quận Cửu-
Chân làm Ái-Châu, quận Nhật-Nam làm Hoan-Châu, tức là La-Thành, Thanh-Hoá và Nghệ-An ngày nay vậy. "
* " Đại-La Thành-Lộ : xưa là nước Giao-Chỉ, đời nhà Hán để như cũ, nhà Đường đặt làm An-nam đô-hộ-phủ, thành phủ ở tại phía tây bờ sông Lư-Giang; Trương-Bá-Nghi đời Đường bắt đầu xây thành ấy, Trương-Chu, Cao-Biền tiếp-tục sửa sang đắp thêm. Trong thời Chân-Tông nhà Tống, Lý-Công-Uẩn người quận ấy, kiến-quốc tại đây. Đến nhà Trần nối theo nhà Lý lấy đất ấy đạt thêm ba phủ nữa: Long- Hưng, Thiên-Trường và Trường-An. "
* " Long-Biên: Cuối đời Tây-Hán, trị-sở của Thứ-sử quận Giao-Châu tên là Long-Uyên, sau vì có Giao-Long hay lên nằm khoanh trên mặt nước, mới cải tên là Long-Biên. ( K.Đ.V.S.T.G.C.M. chua rằng: Long-Biên là tên huyện đời nhà Hán, theo Thuỷ-Kinh-Chú thì năm 13 hiệu Kiến-An (208), lúc bắt đầu xây thành, có loài giao-long đến khoanh mình trên mặt nước, ở hai bên bến phía nam và phía bắc, nhân đây mới cải tên lại là Long-Uyên. Như vậy thì, tên Long-Biên có trước và Long-Uyên có sau. )
* " Tô-Lịch-Giang: Chảy quanh La-Thành, trên sông có năm cái cầu, đều làm rất đẹp. Hiệu Chí- Nguyên năm Bính Tý (1276), nhà Tống mất, Tăng-Uyển-Tử trốn sang An-nam, đi chơi qua cầu Lịch- Giang có ngâm bài thơ rằng:
Đầu bạc chàng Tô, trời một góc,
Theo tiên vua Võ, nhạn về Nam.
Trên cầu sông Lịch trông về Bắc,
Trải mấy lằn thu thấy chẳng nhàm. "
( Tức Tô-Vũ. )
* " Báo-Thiên-Tự-Tháp: Xưa Lý-Thánh-Vương đánh Chiêm-Thành, được người thợ giỏi, bảo xây một ngôi tháp cao mười ba tầng, đặt là Thiên-Tư-Vạn-Thọ-Thấp", lại lấy đồng đúc cái biển-ngạch gọi là "Đao-Lợi-Thiên", bị sét đánh mất, không biết rơi nơi nào. Sau có người làm ruộng thấy được, đem dựng lại, sét đánh mất một lần nữa. "
* " Trương-Châu
Nguyên trước làm An-nam kinh-lược phán-quan, đến đời vua Hiến-Tông, năm Nguyên-Hoà thứ 3 (808), đổi làm chức Đô-hộ Kinh-lược sứ. Quan Kinh-Lược trước là Trương-Bá-Nghi đắp thành Đại-La, thành chỉ cao hai trượng hai thước, mở ba cửa, cửa đều có lầu; đông tây mỗi phía đều có ba cửa, phía nam 5 cửa, trên cửa đặt trống còi, trong thành, hai bên tả hữu, đều cất 10 dinh. Thời Bùi-Thái, hai thành Hoan, Ái, bị Hoàn-Vương (tức vua Chiêm Thành) đánh phá tan tành, Trương-Châu cho sửa đắp lại. "
* " Thái-Tập
Năm Hàm-Thông thứ 3 (862), thay Vương-Khoan làm An-nam Kinh-Lược. Tháng 11, rợ Nam- Chiếu vây Giao-Chỉ, Tập đóng cửa thành cố giữ, đợi binh cứu viện chẳng đến. Tháng giêng năm Hàm- Thông thứ 4 (863), quân Mán đánh gấp, thành bị hãm, gia-nhơn 70 người đều tử-nghĩa. Tập cùng mấy người thủ-hạ, đi chân không, ra sức cố đánh, muốn chạy ra thuyền giám quân, nhưng thuyền đã lìa bến, Tập bị chết chìm. Tướng sĩ Kinh-nam 400 người chạy đến bờ sông phía đông thành, Ngu-Hầu Nguyên-
Duy-Đức bảo chúng rằng: "Chúng ta không có thuyền, xuống nước thì chết, chi bằng trở lại quyết chiến với quân mọi", bèn quay về thành, đánh giết quân mọi hơn 2.000 người rồi chịu chết. Chỉ có mạc-phủ là
Phàn-Xước mang ấn của Tập chạy trước qua sông được khỏi chết. Nam-Chiếu hai lần hãm thành Giao-
Chỉ, cướp bắt chừng 10 vạn người, để lại 12 vạn binh, khiến tướng Dương-Tư-Tân chiếm cứ An-nam. "
* " Lý-Bý (hay Lý-Bôn) Thổ-hào ở Giao-Châu. Về đời nhà Lương, đầu niên hệu Đại-Đồng (535-545), Hầu-Tư làm Thứ- Sử, trị dân nghiêm-khắc, thất hòa, Bý làm phản. Tư chạy về Quảng-Châu, Bý tiếm hiệu, đặt quan, dựng
đài Vạn-Xuân mà ở. Vũ-Đế khiến Thứ-Sử Dương-Phiêu và Tư-Mã Trần-Bá-Tiên dẹp yên."
Nguồn : V i ện Đ ạ i H ọ c H u ế
Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam 1961
Tựa sách: An Nam Chí Lược Năm
Soạn giả: Lê Tắc 1335
Dịch giả: Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam 1960
Nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế 1961
Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc 2001
Điều hợp: Lê Bắc - bacle@hotmail.com 2001
-
C/ VIỆT NAM LƯỢC SỬ .
Trần Trọng Kim . Trung tâm Học liệu xuất bản .
* " Lý Nam Đế (544-548). Năm Tân Dậu (541) là năm Đại
Đồng thứ 7 đời vua Vũ Đế nhà Lương, ở huyện Thái Bình có một người tên
là Lý Bôn, tài kiêm văn võ, thấy nước mình, trong thì quan lại Tàu làm khổ,ngoài thì người Lâm Ấp cướp phá, bèn cùng với những người nghĩa dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi chiếm giữ lấy thành Long Biên.
...Năm Giáp Tí (544) đời nhà Lương bên Tàu, ông Lý Bôn tự xưng là
Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức, rồi phong cho Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, và Phạm Tu là tướng võ.
...Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế ở trong Khuất Liêu phải bệnh mất, sang năm sau Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch được tin ấy bèn xưng là Việt Vương. Bấy giờ quân của Việt Vương đã sắp hết lương, mà mãi không phá được quân Tàu. May nhờ gặp lúc bên Tàu có loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương phải triệu Trần Bá Tiên về để người tì tướng là Dương Sân ở lại chống cự với Triệu Quang Phục. Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành Long Biên.
..Lý Phật Tử đóng ở Ô Diên (nay ở vào làng Đại Mỗ, thuộc huyện Từ
Liêm, tỉnh Hà Đông). Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy bãi Quân Thần làm giới hạn (bãi ấy thuộc làng Thượng Các, huyện Từ Liêm).
...ở quận Đường Lâm (bây giờ là làng Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh
Sơn Tây) có người tên là Phùng Hưng nổi lên đem quân về phá phủ Đô Hộ.
Cao Chính Bình lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất. Quân sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên làm Bố Cái Đại Vương, bởi vì ta gọi cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ. "
* " Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một
đường đê bao bọc ở ngoài dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng
rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc (?).
* " Dời Đô Về Thăng Long Thành. Thái-tổ thấy đất Hoa-lư chậthẹp
không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về Lathành.
Tháng 7 năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), thì khởi sự dời đô.
Khi ra đến La-thành, Thái-tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra,
bèn đổi Đại-la thành là Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ. Cải
Hoa-lư làm trường-an phủ và Cổ-pháp làm Thiên-đức phủ. "
* " Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Tháng 6 năm mậu-ngọ (1018) vua sai quan là Nguyễn đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu lấy kinh Tam-tạng đem về để vào kho Đại-hưng. "
* " Năm bính-thìn (1076) lập Quốc-tử-giám để bổ những người văn-học
vào dạy. Đến năm bính-dần (1086) mở khoa thi chọn người văn-học vào
Hàn-lâm-viện, có Mạc hiển Tích đỗ đầu, được bổ Hàn-lâm-học-sĩ. "
* " Năm tân-mão và năm nhâm-thìn (1171-1172) Anh-tông đi chơi xem
sơn-xuyên hiểm-trở, đường-sá xa gần và sự sinh-hoạt của dân-gian, rồi sai quan làm quyển địa-đồ nước An-nam. "
* " Chiêm Thành Sang Phá Thăng Long. Quân Chiêm Thành đã phá được quân An Nam và giết được Duệ Tông rồi, qua tháng sau đem quân sang đánh Thăng Long. Thượng hoàng nghe tin giặc đến, sai tướng ra giữ Đại An hải khẩu. Giặc biết chỗ ấy có phòng bị, đi vào cửa Thần Phù (sông Chính Đại, thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình) rồi lên cướp phá thành
Thăng Long, không ai chống giữ được. Tháng năm năm mậu ngọ (1378) quân Chiêm Thành lại sang đánh đất Nghệ An, rồi lại vào sông Đại Hoàng lên đánh Thăng Long lần nữa. "
* " Quân Chiêm Thành bấy giờ ra vào nước Nam ta như đi vào chỗ
không người, cho nên trong mấy năm mà vào phá kinh thành 3 lần; ba lần thượng hoàng cùng Đế Hiễn phải bỏ thành mà chạy. Thế mà đến khi giặc
về rồi, cũng không sửa sang gì để phòng bị về sau, thật là làm nhục cái tiếng con cháu Trần Hưng Đạo Vương. "
* " Ở Quốc Oai thì có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh Sư. Thượng Hoàng, Thuận Tông và Triều đình phải bỏ chạy lên Bắc giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai "
* " Đến năm bính tí (1396) Quý Ly bắt Thuận Tông phải dời kinh về Tây Độ "
* " Từ khi Bình Định Vương ra Đông Đô, những kẻ hào kiệt ở các nơi đều nô nức về theo, xin hết sức đi đánh giặc. Vương dùng lời úy dụ và lấy cái nghĩa lui tới mà giảng giải cho mọi người nghe, rồi cứ tùy tài mà thu dùng.
Vương chia đất Đông Đô ra làm bốn đạo, đặt quan văn võ để coi
việc chính trị. Cứ theo sách "Lịch Triều Hiến Chương Địa Dư Chí" của ông Phan Huy Chú thì những trấn Tam Giang, Tuyên Quan, Hưng Hóa, Gia Hưng thuộc về Tây Đạo; những trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách cùng với lộ An Bang thuộc về Đông Đạo; những trấn Bắc Giang, Thái Nguyên thuộc về Bắc Đạo; những lộ Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường thuộc về Nam Đạo. "
* " Địa Đồ Nước Nam. Từ xưa đến nay nước Nam ta vẫn không có địa-đồ, Thái-tông bèn sai quan ở các đạo xem xét ở trong hạt mình có những núi sông gì, hiểm-trở thế nào phải vẽ địa-đồ ra cho rõ-ràng và chỗ nào tự cổ chí kim có những sự-tích gì phải ghi-chép vào cho tường-tận, rồi gửi về bộ Hộ để làm quyển địa-dư nước ta. "
* " Ngài mở rộng nhà Thái-học ra. Phía trước thì làm nhà Văn-miếu,
phía sau thì làm nhà Thái-học, và làm ra các phòng ốc để cho những kẻ
sinh-viên ở học. Làm kho Bí-thư để mà chứa sách. Sự học bấy giờ càng
ngày càng mở-mang thêm. "
* " Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ, như là sai người thợ tên
là Vũ như Tô làm cái điện 100 nóc, xây cái Cửu-trùng-đài, bắt quân dân làm trong mấy năm trời không xong, mà thật là hao-tổn tiền-của, chết hại nhiều người. Rồi lại đóng chiến-thuyền bắt đàn-bà chèo chơi ở hồ Tây. "
* " Khôi-Phục Thành Thăng-Long. Đến năm quí mùi (1583)
Trịnh Tùng xem thế mình đã mạnh, mới cử binh mã ra đánh Sơn-nam lấy
được thóc gạo đem về. Từ đó về sau năm nào cũng ra đánh, bắt quân nhà
Mạc phải đổi thế công ra thủ. Và nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một mạnh, bèn bắt quân-dân đắp ba từng lũy, đào ba lần hào ở ngoài thành Đại la để làm kế thủ-bị. Quân nhà Lê ra đánh trận nào được trận ấy, Trịnh Tùng bèn quyết ý cử đại binh ra đánh Thăng-long. "
* " Đoạn rồi, tiến quân lên đánh Thăng-long thành. Mạc mậu Hợp thấy quân nhà Lê lại tiến lên, bèn sai Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê, Nguyễn Quyện và Trần bách Niên ở lại giữ thành Thăng-long, rồi đem quân sang sông Nhị-hà về đóng ở làng Thổ Khối. giữ không nổi, ba tầng lũy đều phải phá cả bọn Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê phải bỏ thành mà chạy, Nguyễn Quyện thì bị bắt. Trịnh Tùng lấy được thành Thăng-long rồi bắt quân phá những hào lũy đi, sau phẳng ra làm bình địa, rồi về Thanh-hóa đem tin thắng trận cho vua biết.
Sử không nói rõ tại làm sao Trịnh Tùng đã lấy được Thăng-long mà
không đánh rấn đi, lại bỏ về Thanh-hóa. Có lẽ là tại quân họ Trịnh tuy thắng trận, nhưng tướng sĩ đều mỏi-mệt cả, vả lại thế họ Mạc hãy còn mạnh, ở lại giữ không nổi, cho nên phải bỏ mà về. "
* " Trịnh Tùng đánh được trận ấy, rồi về Thăng-long, sai quan vào rước
vua Thế-Tông ra Đông-đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng-sĩ. "
* " Năm quí-tị ( 1593 ) Trịnh Tùng đã lấy được thành Thăng-long, bắt
được Mạc mậu Hợp, nhưng mà đảng nhà Mạc còn nhiều, phải đánh dẹp
nhiều nơi, Nguyễn Hoàng đưa quân-binh và súng-ống ra Đông-đô, ở hằng 8 năm, giúp Trịnh Tùng để đánh họ Mạc, lập được nhiều công to. Nhưng mà Trịnh Tùng vẫn có ý ghen ghét không muốn cho ngài về Thuận-hóa, mà ngài cũng không có dịp gì mà về được. "
* " Trịnh Tráng dẹp yên đất Đông Đô, lại vào rước vua ra, và tự xưng
làm Nguyên Súy, Thống Quốc Chính Thanh Đô Vương, rồi sai con là Trịnh
Kiều đem quân lên đánh Cao Bằng (ất sửu 1625) bắt được Mạc Kính Cung
đem về giết đi. Mạc Kính Khoan thì chạy sang Tàu, rồi cho người về dâng
biểu xin hàng. "
* " Nguyễn Huệ đã dứt được họ Trịnh rồi, vào thành Thăng Long, xuống lệnh cấm quân lính không được cướp phá dân gian, và định ngày xin yết kiến vua Lê ở đền Vạn Thọ. "
* " Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó
tổng trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục để coi việc cai trị trong trấn. "
* " Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873). Quan ta thấy đại úy không nói gì đến việc Đồ-phổ-Nghĩa, mà lại nói những việc dẹp-giặc và mở sự buôn-bán, thì đều lấy làm phân-vân. Sau lại thấy tàu và quân ở Sàigòn
tiến ra, quan ta lại càng lo lắm. Được mấy hôm, đại-úy không bàn hỏi
gì đến quan ta, tự-tiện làm tờ tuyên-bố sự mở sông Hồng-hà cho người nước Pháp, nước I-pha-nho và nước Tàu được ra vào buôn-bán.
Quan ta lúc bấy giờ cũng bối-rối quá. Việc giao-thiệp và việc buônbán
với nước Pháp thì đã định rõ trong tờ hòa-ước năm nhâm-tuất (1862),
nay thấy đại-úy Francis Garnier đường đột làm như thế, thì cũng thấy làm lo, cho nên cũng có kiếm cách phòng-bị. Mà đại-úy cũng đã biết trước rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đã định kế đánh thành Hà-nội. Đến đầu tháng 10, một mặt đại-úy viết thư cho ông Nguyễn tri
Phương, trách quan ta làm ngăn-trở việc buôn-bán của Đồ-phổ-Nghĩa; vậy vì sự văn-minh và cái quyền-lợi của nước Pháp, cho nên Súy-phủ ở Sài-gòn sai đại-úy ra mở sự buôn-bán ở Bắc-kỳ. Dẫu quan Việt-nam có thuận hay không cũng mặc, đại-úy cứ theo lệnh của Súy-phủ mà thi-hành. Một mặt đại-úy bàn-định với Đồ-phổ-Nghĩa định ngày đánh thành và bắt ông Nguyễn tri Phương giải vào Sài-gòn.
Cứ như sách của Đồ-phổ-Nghĩa, thì lúc bấy giờ có cả những người
mạo xưng là đảng nhà Lê, cũng xin theo đại-úy để vào thành làm nội-ứng.
Đến sáng hôm rằm tháng 10 năm quí-dậu (1873), thì quân Pháp
phát súng bắn vào thành Hà-nội. Ông Nguyễn tri Phương cùng với con là
phò-mã Nguyễn Lâm hoảng-hốt lên thành giữ cửa Đông và cửa Nam. Được
non một giờ đồng hồ thì thành vỡ, phò-mã Lâm trúng đạn chết, ông Nguyễn tri Phương thì bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được ông Nguyễn tri Phương và quan khâm-phái Phan đình Bình đem xuống tàu.
Ông Nguyễn tri Phương nghĩ mình là một bậc lão-thần thờ vua đã
trải ba triều, đánh nam dẹp bắc đã qua mấy phen, nay chẳng may vì việc
nước mà bị thương, đến nỗi phải bị bắt, ông quyết chí không chịu buộc
thuốc và nhịn ăn mà chết. Ông Nguyễn tri Phương là người người ở Thừa-thiên, do lại-điển xuất thân, làm quan từ đời vua Thánh-tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn thanh-bạch, chỉ đem chí-lự mà lo việc nước, chứ không thiết của-cải. Nhưng chẳng may phải khi quốc-bộ gian-nan, ông phải đem thân hiến cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất vì việc nước. thật là một nhà trung-liệt xưa nay ít có vậy. "
* " Hạ thành Hà-nội lần thứ hai. Quan tổng đốc Hà Nội bấy giờ
là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc Kỳ, lấy làm nghi kỵ lắm, tuy có sai quan tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đãi tử tế, nhưng trong bụng vẫn lo, cho nên mới sai sửa dọn thành trì để phòng bị. Đại tá Henri Rivière vào thành thấy vậy có ý không bằng lòng, bèn quyết ý đánh thành. Sáng 5 giờ ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882), quan tổng đốc tiếp được tờ tối hậu thư của đại tá hạn cho đến 8 giờ phải giải binh, và các quan võ Việt Nam phải ra đợi lệnh ở Đồn Thủy. Đúng 8 giờ thì quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ thì thành đổ. Ông Hoàng Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, còn các quan thì bỏ chạy cả.
Lúc tiếp được thư của đại tá, thì ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ là
Tôn Thất Bá ra thương thuyết. Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ thang trèo
xuống vừa xong, thì quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy bỏ trốn mất.
Đến khi hạ được thành rồi, đại tá sai tìm ông Tôn Thất Bá về quyền lĩnh mọi việc. Vua Dực Tông được tin thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu
truyền cho quan kinh lược chánh phó sứ là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân
Niên đem binh lui về mặt Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm tìm cách
chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc
đánh thành Hà Nội không phải là chủ ý của nước Pháp, và xin sai quan ra
giữ lấy thành trì. Triều đình bèn sai quan nguyên Hà Ninh tổng đốc là Trần
Đình Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là Nguyễn Hữu Độ
làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri Rivière thu xếp mọi
việc. Đại tá trả thành Hà Nội cho quan ta, nhưng vẫn đóng quân ở trong
Hành cung. Hai bên thương nghị mãi. Đại tá đòi 4 khoản :
1 - nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ
2 - phải nhường thành thị Hà Nội cho nước Pháp
3 - đặt thương chánh ở Bắc Kỳ
4 - sửa lại việc thương chánh ở các nơi, và giao quyền cho người Pháp cai quản.
Bọn ông Trần Đình Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều đình hội
nghị, các quan có nhiều người nói rằng : nước ta trong còn có Lưu Vĩnh
Phúc, ngoài còn có nước Tàu, lẽ nào lại bó tay mà chịu. Bèn trả lời không
chịu.
Đến tháng 10 thì ông Trần Đình Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở
lại làm Hà Ninh tổng đốc. "
* " Đại tá Henri Rivière lấy xong Nam Định rồi về Hà Nội thấy quân ta và
quân cờ đen sắp đến đánh, bèn truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt phủ Hoài Đức. Sáng hôm 13 tháng 4 thì đại tá đem 500 quân ra đánh ở mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục ở chung quanh đổ ra đánh, quân Pháp chết và bị thương đến non 100 người. Đại tá Henri Rivière tử trận, đại úy Berthe de Villers bị thương nặng. "
HẾT CUỐN VNSL .
-
D/ Đại Việt Sử Lược
Thế Kỷ 14(1377 - 1388) - Khuyết Danh [/b]
* " Sĩ Nhiếp lại lấy ngọc trai, sừng tê, ngà voi cùng trái cây thơm ngon quý giá đem dâng Tôn Quyền. Quyền khen ngợi rồi phong cho chức Long biên hầu9. Ba người em trai của Sĩ Nhiếp là Nhất, Vị và Vũ đều là Quận trưởng cả. "
* " Vua Tấn dùng Đỗ Huệ Độ làm Thứ sử. Huệ Độ đốc suất lính trong phủ ra đánh ở Thạch Kỳ rồi lại cùng với Lư Tuần đánh nhau ở bến đò phía nam Long Biên ".
* " Nguyên trước có người trong châu là Nguyễn Bôn làm phản chiếm cứ thành Long Biên, tự xưng là Nam Việt Đế, sắp đặt trăm quan, đổi niên hiệu là Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. " ( Nguyễn Bôn tức Lý Bôn có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là 7 đời thành ra người bản xứ. Sau khi dấy binh đánh đuỗi quan Thứ sử nhà Lương là Tiêu Tư, ông lên ngôi
Hoàng đế và ở ngôi được 5 năm (544-548). Ông là người tài kiêm văn võ và là người đầu tiên đặt niên hiệu cho nước Nam ta. ) .
* " Con của người anh là Đại Quyền chiếm giữ Long Biên.
* " năm thứ 2 niên hiệu Đại Lịch (năm Đinh Tỵ-767-ND) đời vua Đại Tông nhà Đường, Trương Bá nghi xây lại La Thành.
Đến năm thứ 3 (năm Mậu Thân- 768-ND) thì đổi lại là An Nam đô hộ phủ.
* " Vào năm thứ 2 niên hiệu Trường Khánh (năm Nhâm Dần- 822- ND) vua Mục Tông6 nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy gần cửa thành có dòng nước chảy ngược mới sợ rằng
người trong châu đa số sẽ sinh chuyện phản trắc. Nhân đó mới bói quẻ, xem cái thành hiện tại ấy như thế nào. Lúc bấy giờ, có cái thành nhỏ vừa mới đắp. Người xem bói, xem tướng nói rằng sức ông không
đủ để bồi đắp cái thành lớn, 50 năm sau sẻ có người họ Cao đóng đô ở đấy mà xây dựng vương phủ. Đến khoảng niên hiệu Hàm Thông (841- 873-ND) đời vua Ý Tông nhà Đường, Cao Biền đắp thêm La Thành. "
* " Cao Biền đắp La Thành chu vi dài 1980 trượng linh năm thước, cao 2 trượng 6 thước. Chân thành rộng 2 trượng 6 thước. Bốn thành có nữ tường3 cao 5 thước 5 tấc. Địch lâu 55 sở. Môn lâu 5 cái.
Ủng môn (cửa tò vò) 6 cái. Ngòi nước 3 cái. Đường bộ (?) 34 đường lại đắp chu vi dài 2125 trượng 8 thước, cao một trượng 5 thước. Chân đê rộng 3 trượng xây cất nhà cửa hơn 5000 căn. " ( Đơn vị đo lường ngày xưa linh bốn thước, 1 trượng có mười thước ta. Bức tường nhỏ xây cơi thêm trên cái thành lớn gọi là nữ tường. Cái lầu xây trên thành để nhìn xem quân địch có đến không gọi là địch lâu. Môn Lâu: cái lầu xây trên cái cửa ra vào. Ủng Môn: Ủng (có sách phiên Úng) là cái vò còn gọi là cái ui làm bằng đất nung dùng để đựng nước, rượu v.v... Môn là cửa. Dùng
những cái vò sắp chồng lên ở hai bên, giữa chừa khoảng trống làm cửa ra vào gọi là Ủng Môn. )
* " Năm Canh Tuất (năm 1010) tức là năm thứ 2, tháng giêng vua đổi niên hiệu là Thuận Thiên năm thứ nhất.
Lúc ban đầu vua thấy thành Hoa Lư chật hẹp, ẩm thấp, bèn dời đô đến thành Đại la. Lúc khởi sự dời đô, thuyền đậu dưới thành thì có rồng vàng hiện ra nơi thuyền của vua, nhân đó mà gọi là Thăng Long (tức Hà Nội bây giờ-ND). Đổi Hoa Lư thành phủ Trường An, sông Bắc Giang là sông Thiên Đức và cổ pháp là phủ Thiên Đức.
Trong kinh đô Thăng Long, dựng điền triều Nguyên (Càn Nguyên?- ND) bên tả đặt viện Tập Hiền, bên hữu đặt điện Giảng Võ. Bên tả mở cửa Phi Long, bên hữu mở cửa Đan Phượng. Nơi giữa ở phía nam mở cái Cao điện6 thềm điện gọi là Long Trì. Có nhà cầu vòng quanh che thềm. Bốn mặt là điện Càn Nguyên. Sau đó dựng hai điện Long An và Long Thụy. Bên hữu xây điện Nhật Quang. Bên tả xây điện Nguyệt Minh. Phía sau có cung Thúy Hoa. Bốn mặt thành mở bốn cửa, đông là cửa Tường Phù, tây
là cửa Quảng Phúc, nam là cửa Đại Hưng, bắc là cửa Diệu Đức. Ở trong thành lại dựng chùa Hưng Thiên, lầu Ngũ Phượng Tinh, nơi ngoài thành dựng chùa Thắng Nghiêm.
Năm Tân Hợi (năm 1011- ND) tức là năm Thuận Thiên thứ 2, vua đem lính đi đánh giặc Cử Long ở Ái Châu và dẹp yên được. Năm đó ở trong thành lại dựng cung Đại Thanh, chùa Vạn Tuế, kho Trấn Phúc. Ngoài thành dựng chùa Tứ Thiên Vương, chùa Y Cẩm chùa Long Cụ Thánh Thọ, lại dựng điện
Hàm Quang ở bến Lô Đông. "
* " Năm Quý Sửu (năm 1013- ND) là năm Thuận Thiên thứ 4: Vua ngự ở điện Hàm Quang xem đua thuyền ...
...Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh....
Dựng chùa Thiên Quang, chùa Thiên Đức và đắp tượng Tứ Thiên Đế "
* " Năm Đinh Tỵ (năm 1017- ND) là năm Thuận Thiên thứ 8: Điện Càn Nguyên rung chuyển. "
* " Năm Canh Thân (năm 1020) là năm Thuận Thiên thứ 11 vua sai con đi đánh và thắng được Chiêm Thành. Trước kia, điện Càn Nguyên rung chuyển nên phải cho thị triều ở điện phía đông, nay lại rung chuyển nữa nên cho thị triều ở điện phía tây. "
* " Năm Tân Dậu (năm 1921) là năm Thuận Thiên thứ 12, mùa xuân, tháng 2, ngày Mậu Tý là ngày sinh nhật của vua. Dùng ngày ấy là tiết thiên Thành. Vua cho làm "Vạn tuế Nam sơn"2 ở ngoài cửa
Quảng Phúc, làm nhiều hình chim bay thú chạy bày la liệt trên đó. "
* " Năm Giáp Tý (năm 1024- ND) là năm Thuận Thiên thứ 15, sai Thái tử đi đánh châu Phong Luân, sai Khai Quốc Vương đi đánh Châu Đô Kim. Xây thành Thăng Long. "
* " Năm Mậu Thìn (năm 1028-ND) là năm Thuận Thiên thứ 19, mùa xuân, tháng 2 vua không được khỏe, đến ngày Mậu Tuất vua từ trần ở điện Long An, hưởng thọ 50 tuổi. Miếu hiệu là Thái Tổ. Long thể được táng tại Thọ Lăng thuộc phủ Thiên Đức. "
* " Năm Thuận Thiên thứ 11 (năm Canh Thân - 1020), Thái tử Phật Mã phụng mệnh vua đi dẹp yên được các bọn giặc rợ, có công. Khi vua Thái Tổ mất, quần thần vâng theo di chiếu, đến cung Long Đức mời Thái Tử lên ngôi. Lúc bấy giờ các vị vương là Dực Thánh Vương, Võ Đức Vương đều đem binh phục ở ngoài cửa Quảng Đức muốn đánh lén vua (Thái tử Phật Mã). Vua từ cửa Tường Phù vào đến điện Càn Nguyên, binh ở ba phủ kéo đến đánh càng gấp, vua phải sai bọn Nguyễn Nhân Nghĩa chống cự chúng.
Quan của ba phủ thất bại. Võ Đức Vương bị Lê Phụng Hiểu giết. Ngày ấy vua lên ngôi. Trước linh cữu (vua Thái Tổ), vua (Thái Tông) hạ lệnh đại xá kẻ tù tội và đổi niên hiệu, lấy năm Thuận Thiên thứ 19
(tức là năm Mậu Thìn- 1028- ND) là năm Thiên Thành thứ nhất. Đặt tôn hiệu là: "Khai thiên thống vận tôn đạo quý đức thánh văn quảng võ sùng nhân thượng thiện chính lý dân an thần phù long hiện ngự cực thể nguyên ức tuế công cao ứng chân bửu lịch thông nguyên chí áo hưng long, đại định thông minh từ hiếu hoàng đế". "
* " Năm Kỷ Tỵ (Năm 1029- ND) tức là năm Thiên Thành thứ 2:..Thần nhân hiện ra có dấu tích ở chùa Thiên Thắng.
Rồng xuất hiện ở nền điện Càn Nguyên. Vua nói rằng: "Cái điện ấy đã đổ nát, chỉ còn lại mỗi một cái nền, nay rồng lại hiện ra ở đó,ý chừng rồng chịu ở đất ấy chăng? rồi vua bèn cho mở rộng thêm ra một cách qui mô để trùng tu cái điện ấy. Và, đổi tên là điện Thiênn An. Phía tả điện Tuyên An dựng điện Tuyên Đức, phía hữu dựng điện Diên Phúc. Phía trước là Long Trì, phía đông xây điện Văn Minh, phía tây xây điện Quảng Võ. Trên thềm hai bên đối nhau thì là lầu chuông để lên nghe việc của người bị
ngục tù oan ức. Đằng trước có điện An Phụng Thiên, ở trên xây lầu Chánh Dương để làm nơi xem giờ.
Đằng sau dựng điện Trường Xuân, ở trên đất cái Long Các, bên ngoài Long Các làm cái thành, gọi là Long Thành.
-
* " Năm Canh Ngọ (năm 1030- ND) là năm Thiên Thành thứ 3:
Dựng điện Thiên Khánh, sau đó lại cất lầu Phượng Hoàng. "
* " Năm Ất Hợi (năm 1035- ND) là năm Thông Thụy thứ 2, trước điện Thiên Khánh mọc cỏ chi." ( Cỏ chi cũng như cỏ lan là thứ cỏ thơm, hương nó hòa hợp lẫn nhau. Người ta ví anh em bạn tốt như cỏ chi cỏ lan. Sách Khổng Tử Gia Ngữ: "Cùng ở với người hiền như vào trong nhà cỏ chi cỏ lan, lâu ngày hóa thơm mà không biết, cùng ở với người ác như vào
trong quán ướp cá khô lâu ngày không biết thối vì quá quen vậy )
...Làm cầu Thái Hòa ở sông Tô Lịch. ".
* " Năm Mậu Dần (năm 1038- ND) là năm Thông Thụy thứ 5; Vua đi Bố Hải Khẩu cày Tịch điền. Mùa thu, tháng 8, vua ngự ở điện Hàm Quang xem đua thuyền. Tháng 9, thần nhân xuất hiện, có dấu tích ở chùa Thiên Thắng."
* " Năm Quí Mùi (năm 1043- ND) là năm Minh Đạo thứ 2...Mùa đông, tháng 10 cái thuẩn của vua ở trong điện Trường Xuân tự nhiên lay động. "
* " Năm Ất Dậu (năm 1045- ND) là năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 2. Mùa xuân, tháng 3 dựng bia ở Đại Nội."
* " Năm Bính Tuất (năm 1046- ND) là năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 3, Mùa hạ, tháng 5 dựng Ngân Hà ở hậu uyển để cho các cung nhân (cung nữ) Chiêm Thành ở. "
* " Năm Mậu Tý (năm 1048- ND) là năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 5....Tháng 3, lập xã đàn ở ngoài cửa Trường Quảng để làm nơi bốn mùa cầu cúng thần lúa."
* " Năm Kỷ Sửu (năm 1049- ND) là năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 6:...Mùa thu, tháng 8 đào Ngự Câu ở ngoài Phượng Thành, lại đào ao Kim Minh Vạn Tuế. Bắt đầu đào, lúc bấy gờ khua động trong ao là có tiếng, đào lên được thì hoàng kim một khối, nặng 50 lượng, nhân đó mà lấy tên cho cái ao. Lại làm ba chỏm núi đá trên ao, xây cầu Vũ Phượng. ( Ngự Câu - Ngòi nước dành riêng cho vua, dân không được đánh cá hay tắm giặt ở đấy. Vua hành động gọi là ngự, cái gì thuộc về riêng vua như ngự giá, ngự bút v. v......) "
* " Năm Giáp Ngọ (năm 1054- ND) là năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6, tháng 9, ngày Mậu Dần vua mệt. Đến mùa đông, tháng 10, ngày Tân Mão vua từ trần ở điện Trường Xuân, thọ 54 tuổi, ở ngôi 26 năm. Đổi niên hiệu 6 lần, thì có 3 lần dùng niên hiệu bốn chữ. "
* " Năm Thiên Thành thứ nhất (năm Mậu Thìn- 1028- ND)....Cho những con gái ở trong cung Thúy Hoa ra về. Phong chức tước cho các bậc văn võ ở đông cung và hàng quan lại.
....Xây điện Vinh Thọ. "
* " Năm Ất Mùi (năm 1055- ND) là năm Long Thụy Thái Bình thứ 2: sửa sang lại các điện trong đại nội.
...Mùa thu, tháng 8, vua ngự điện Thủy Tinh xem đua thuyền. "
* " Năm Bính Thân (năm 1056) là năm Long Thụy Thái Bình thứ 3: Bày ra hội La Hán ở điện Thiên An.
.....Dựng chùa Sùng khánh Báo Thiên. Lấy 11000 cân đồng ở trong phủ ra đúc chuông, đặt tại chùa ấy. Nhà vua thân hành làm bài minh khắc vào chuông. "
* " Năm Đinh Dậu (năm 1057- ND) là năm Long Thụy Thái Bình thứ 4:
Mùa xuân, tháng 3, xây bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên ở chùa Sùng Khánh Báo Thiên, cao 20 trượng. Xây tháp ấy làm 30 tầng.
...Ngày Giáp Ngọ con rồng vàng từ vườn Quỳnh Lâm hiện ra ở trước điện Trường Xuân.
....Tháng chạp dựng chùa Thiên Phúc và chùa Thiên Thọ, dùng vàng đúc tượng Phạn Vương, tượng Đế Thích để an trí vào chùa ấy."
* " Năm Mậu Tuất (năm 1058- ND) là năm Thụy Long Thái Bình thứ 5: dựng điện Bát Giác Khổn Thiên ở ao Kim Minh.
Tháng 3, mở cửa Trường Phủ, trên cửa dựng lầu.
Mùa hạ, tháng 5, con rồng vàng từ cung Long Đức hiện ra ở điện Vĩnh Thọ.
Tháng 6, dựng điện Linh Quang, phía bên tả dựng điện Kiến Lễ, bên hữu dựng điện Sùng Nghi. Trước điện xây một cái cột hình lục giác, chạm hoa sen để làm lầu chuông. "
* " Năm Kỷ Hợi (năm 1059- ND) là năm Long Thụy Thái Bình thứ 6: Mùa hạ, tháng 6 rồng vàng hiện ra ở điện Vĩnh Thọ.
...Mùa thu, tháng 8, ngày Đinh Sửu vua ngự ở điện Thủy Tinh cấp cho quần thần mũ phốc đầu và ủng (giày). Quần thần đội mũ, mang ủng bắt đầu từ đấy.
Ngày Bính Tuất rồng vàng hiện ra ở điện Trường Xuân.
...Dựng cửa Diên Hưng Thổ Hằng. "
* " Năm Quý Mão (năm 1063- ND) là năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 5: Mùa hạ, tháng 6 dựng cung Động Tiên ở phía đông Đại Nội. "
* " Năm Ất Tỵ (năm 1065- ND) là năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7: Mùa hạ, tháng 6 vua ngự ở điện Thiên Khánh nghe việc kiện tụng.
...Tháng 8, mở vườn Thượng Lâm.
Ngày Bính Thìn rồng vàng từ điện Đại Minh hiện ra ở điện Hội Nguyên,
....Mùa đông, tháng chạp rồng vàng hiện ra ở điện Diêu Linh, lại hiện ra gác Du Thiền, nơi mà bà Nguyên Phi là Lan ở.
( Nguyên Phi: vợ đứng đầu hàng phi (vợ lẻ của vua) ở dưới bậc hoàng hậu là vợ lớn của vua. ) "
* " Năm Mậu Thân (năm 1069- ND) là năm Thiên Hướng Bảo Tự thứ nhất: Rồng vàng hiện ra ở điện Diệu Linh."
* " Năm Canh Tuất (năm 1070- ND) là năm Thần Vũ thứ 2:
Mùa hạ, tháng 3 dựng điện Tử Thần.
Tháng 5, rồng vàng hiện ra ở điện Long Quang thuộc cung Trường Xuân.
Mùa thu, tháng 7, ngày Ất Mão rồng vàng hiện ra ở cung Vị Nhân.
Tháng 9, xây chùa Đông Nam Nhị Thiên Vương. "
* " Năm Nhâm Tý (năm 1072- ND) là năm Thần Vũ thứ 4:
Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Dần vua bệnh nặng rồi qua đời ở điện Hội Tiên, thọ 50 tuổi. "
* " Vua Nhân Tông tên húy là Càn Đức, mẹ là Nguyên phi _ Lan họ Lê. Vua được sanh tại cung Động Tiên vào tháng giêng năm Long Chương Thiên Tự thứ nhất (tức năm Bính Ngọ- 1066- ND). "
* " Đến năm Thần Vũ thứ 4 (năm Nhâm Tý- 1072- ND): Mùa hạ, tháng 4, ngày mùng 8 làm lễ rước nước tắm (tượng) Phật. Vua ngự ở điện Thiên An để thị triều.
...Mùa thu, tháng 7 rồng vàng hiện ra ở điện Vĩnh Thọ.
...Vua ngự ở điện Thiên An, quần thần dâng lời chúc mừng và lập biểu xin dựng cửa Trường Quảng, cửa Thái Bình, cửa Thượng Thủy Hà, đền Nghinh Thu và trạm Quí Nhân, tất cả gồm có năm chổ. "
* " Năm Giáp Dần (năm 1074) là năm thứ 21.
Viên Hỏa Đầu ở Củng Thánh đô là Giang Duệ, nhà của y bị thất hoả lan qua thiêu hủy cửa Đại Hưng.
Mùa hạ, tháng 4 sửa sang lại cửa Đại Hưng. Rồng vàng xuất hiện. "
* " Năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 2; (năm Đinh Tỵ 1077):
Mùa hạ, tháng 5 cho thiết bày ra hội Nhân Vương ở điện Thiên An. (Hội nhà chùa, hội lễ Phật- ND).
Mùa thu, tháng 9 đắp đê ở sông Như Nguyệt, dài 67.380 bộ. "
* " Năm Mậu Ngọ (năm 1078- ND) là năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 3:
Tháng giêng nhuần sửa lại thành Đại La.
...Nước lụt vào trong thành. "
* " Năm Kỷ Vị (Mùi) (năm 1079- ND) là năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 4: Mùa đông, tháng 10 rồng vàng từ vườn Thượng Xuân hiện ra ở trong cung của vườn ấy. "
* " Năm Canh Thân (năm 1080- ND) là năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 5: Vua ngự ở điện Linh Quang xem đua thuyền. "
* " Năm Quí Hợi (năm 1083) là năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 8:
Mùa xuân, tháng 2 vua ngự ở điện Thiên Khánh xét định số Hoàng nam ở kinh thành làm ba hạng.
Tháng 3 chọn gái đẹp cho làm cung nữ ở cung Vạn Diên.
Mùa hạ, tháng 5 rồng vàng từ điện Tử Thần bay đi rồi hiện ra ở điện Hội Tiên.
...Tháng 5 dựng cung Động Nhân. "
* " Năm Đinh Mão (năm 1087- ND) là năm Quảng Hựu thứ 3:
Mùa hạ, tháng 5 khởi sự xây Bí thư các.
..Mùa đông, tháng 10 xây tháp ở Lãm Sơn.
Tháng chạp cung Cảnh Linh xây cất đã hoàn thành. "
* " Năm Canh Ngọ (năm 1090) là năm Quảng Hựu thứ 6:
Tháng 2 cung Hợp Hoan hoàn thành. "
* " Năm Mậu Dần (năm 1098- ND) là năm Hội Phong thứ 7: Tháng 9, xây điện Sùng Uyên ở ao Phượng Liên. Bên tả dựng điện Huy Dương, đình Lai Phượng. Bên hữu lập điện Ánh Thiềm, đình Ất Vân. Phía trước dựng lầu Trường Minh. Phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa. "
* " Năm Ất Dậu (năm 1105- ND) là năm Long Phù Nguyên hóa thứ 5: Mùa hạ, tháng 6, quan Thái úy là Nguyễn Thường Kiệt từ trần. (Lý Thường Kiệt - ND).
Mùa thu, tháng 9 làm hai cái tháp bằng sứ trắng, loại nhỏ, đặt ở chùa Diên Hựu lại làm thêm ba cái tháp bằng đá đặt ở Lãm Sơn. ( Chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột. Lãm Sơn nay thuộc Hà Bắc. ) "
* " Năm Mậu tý (năm 1108- ND) là năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8: Tháng chạp dựng phủ Đô Hộ.
Mùa xuân, tháng giêng xây cất tháp Chương Sơn.
Đắp đê ở cảng Cơ Xá. (Đê Cơ Xá là đê Sông Hồng- ND). "
* " Năm Kỷ Sửu (năm 1109- ND) là năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 9: Mùa đông, tháng chạp xây cất đài Động Linh. "
* " Năm Canh Dần (năm 1110- ND) là năm Hội Tường Đại Khánh thứ nhất: Mùa xuân, tháng giêng bày ra hội Quảng Chiếu đăng ở ngoài cửa Đại Hưng. "
* " Năm Quý Tỵ (năm 1113- ND) là năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4:
Mùa thu, tháng 8 rồng vàng hiện ra ở điện Đại Minh. "
* " Năm Giáp Ngọ (năm 1114- ND) là năm Hội Tường Đại Khánh thứ 5: Tháng 3, rồng vàng hiện ra ở tháp Chương Sơn, quấn quanh tháp ba vòng.
...Dựng chùa Thắng Nghiêm, đặt nhà Thiện Pháp. Bốn mặt xây lầu để dựng tượng Phật quí 1000 pho. "
* " Năm Tân Sửu (năm 1121- ND) là năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2:
Mùa hạ, tháng 5 nước Lụt đến cửa Đại Hưng. ( Cửa Đại Hưng là cửa Nam, Hà Nội. ) "
* " Năm Bính Ngọ (năm 1126- ND) là năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7: Tháng 2, nhà vua ngự ở điện Thiên An xem các vị vương hầu đá cầu ở Long Trì.
Mùa hạ, tháng 5 rồng vàng hiện ở điện Vĩnh Quang. "
* " Năm Đinh Tỵ (Mùi) (năm 1127- ND) là năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất:
Mùa đông, tháng chạp vua từ trần ở điện Vĩnh Quang, thọ 62 tuổi, ở ngôi 56 năm, niên hiệu là Nhân Tông, đổi niên hiệu tám lần, táng tại phủ Thiên Đức. "
* " Đến tháng chạp năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất: (năm Đinh Tỵ- 1127- ND) trước linh cửu thi thể vua Nhân Tông ở tại điện Khổn Thiên, ngài lên ngôi.
...Ngày Ất Đậu vua ngự ở điện Thiên An để thị triều. "
* " Năm Mậu Thân (năm 1128- ND) là năm Đại Thuận thứ nhất. Ngày Canh Tý vua bắt đầu ngự ở nhà Kinh Diên. ( Kinh Diên: ngôi nhà để vua quan cùng giảng luận sách sử. )
...Ngày Canh Ngọ vua ngự tại điện Thiên An nơi Long Trì để thề hẹn với người trong nước. "
* " Năm Kỷ Dậu (năm 1129- ND) là năm Đại Thuận thứ 2:
Làm lễ mừng tại gác Thiên Phù về việc 84000 bảo tháp đã hoàn thành. (Tháp nhỏ bằng đất nung- ND). "
* " Năm Nhâm tý (1132- ND) là năm Đại Thuận thứ 5:
Mùa xuân, tháng 3 rồng vàng hiện ra ở cung Lệ Quang. "
* " Năm Quý Sửu (1133- ND) là năm Thiên Chương Bảo Tự thứ nhất: Mùa hạ, tháng 6 rồng vàng hiện ra ở điện Vĩnh Quang.
Mùa đông, tháng 10 dựng nhà chùa Diên Sanh Ngũ Nhạc. "
* " Năm Đinh Tỵ (1137) là năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 5: Mùa thu, tháng 9 nhà vua mệt rồi từ trần ở tại điện Vĩnh Quang "