Tôi xin phép được trả lời từ tốn, thong thả và kiên quyết những Phản biện của PGS.TS.Phạm Công Hà và TS.Đỗ Đức Hạnh tại trang web Thegioivohinh này
Printable View
Tôi xin phép được trả lời từ tốn, thong thả và kiên quyết những Phản biện của PGS.TS.Phạm Công Hà và TS.Đỗ Đức Hạnh tại trang web Thegioivohinh này
Kính gửi PGS.TS.Phạm Công Hà:
1) Theo em mọi thành tố khác (nếu còn) có ở Tâm Vũ Trụ, cho đến thời điểm nay, đều là tổ hợp của 14 thành tố mà em đã đề cập trong Tâm Vũ Trụ. Tuy nhiên anh nói rất đúng, em sẽ thêm câu " ...và các thành tố chưa tìm ra..."
2) Bất cứ lúc nào anh chặt đôi MỘT ĐỐI TƯỢNG thì lập tức chúng ĐÃ TRỞ THÀNH HAI ĐỐI TƯỢNG. Và mỗi trong chúng lại chứa TÂM VŨ TRỤ như định lý 6 đã khẳng định
Đối với anh, em đã trả lời xong. Bây giờ sẽ "chiến đấu" với TS.Đỗ Đức Hạnh
Vô cùng cảm ơn anh
HỎI: Ông muốn thống nhất các tôn giáo thì chắc chắn ông phải chứng tỏ rằng ông hơn Phật Tổ Như Lai, Chúa Jêsu, Thánh Ala và tất cả các vị Thánh của loài người. Ông hãy chứng tỏ đi.
ĐXT: Tôi sẽ chứng minh ngay để ông thấy. Có những giờ phút tôi hơn hẳn Phật Tổ Như Lai, Chúa Jêsu, Thánh Ala và tất cả các vị Thánh của loài người.
Các bạn có biết tôi đã trải qua các cung bậc cao nhất của hạnh phúc tột cùng và khi bình tĩnh lại tôi có thể nói với các bạn rằng: tôi, trong khoảng thời gian từ 2:00pm đến 8:00pm ngày 26-12-2011, đã vượt qua Phật Tổ Như Lai và Đức Chúa Jesu về mặt nhân từ !
Tôi xin trình bầy ngay, không nháp và không suy nghĩ ...
Phật Tổ Như Lai, Chúa Jêsu, Thánh Ala và tất cả các vị Thánh của loài người đều dạy rằng (một cách ngắn gọn) phải tu để loại bỏ cái ác và thu lấy cái thiện !
Các bạn có đồng ý không ?
Nhưng thu lấy cái thiện thì ai cũng hiểu còn loại bỏ cái ác (trong tư duy) thì cái chất thải ý thức này vất đi đâu ?
Các vị trên không bao giờ tính tới !
Thành ra (Vì chỉ coi con người là có duy nhất trên Trái Đất) nên họ thải các chất thải - hạt nhân - Ý thức ô nhiễm đó vào chính không gian ý thức của loài người làm ô nhiễm không gian đó giông như người ta thải khí các-bon vào bầu khí quyển !
Có những người nói rằng cái Ác được chuyển hoá thành cái Thiện, cái Xấu được chuyển hoá thành cái Đẹp… Nhưng trong quá trình chuyển hoá đó rất khoát phải có những rác thải dư ra, chứ không thể chuyển hoá hoàn toàn được. Vậy thì những rác thải đó ném đi đâu?
Người này tu được thiện thì người khác trở thành ác độc.
Dân tộc này Văn Minh thì các dân tộc khác man rợ.
Dòng họ này hưng thịnh thì dòng họ khác bị lụi bại.
Giáo phái này hưng thịnh thì giáo phái kia lụi bại v.v...
Và đến tận bây giờ, tại thời điểm cuối năm 2011, với bức thư động viên của PGS.TS. Phạm Công Hà (một tác động vào huyệt đạo khủng khiếp nhất của tôi) đã làm tôi nghĩ ra chỗ đổ đống rác thải Ý thức đó của loài người ra ngoài Trái Đất với một công nghệ kỳ diệu nhất mà không ảnh hưởng tới các nền Văn Minh ngoài Trái Đất, dù đó là một nền văn minh man rợ hơn Trái Đất rất nhiều lần!
Chỗ thải đó là chỗ nào? Công nghệ đó ra sao?
Thưa với các bạn! Tôi không thể nói được bởi đây là bí mật của Việt Nam ! Từ nay, trí tuệ của dân tộc Việt sẽ phát triển như vũ bão bởi vùng đổ rác thải Ý Thức của dân tộc Việt là một vùng vô hạn.
Các bạn đã thấy tôi hơn Jesu và Như Lai chưa ?
Hồi đầu tiên tất cả các rác thải Ý thức của trẻ em Việt Nam, đặc biệt là những học sinh chuyên Toán (A0) của trường Đại học Tổng hợp, trường Đại học Sư phạm, Amtesdam, Chu Văn An, Lam Sơn - Nghệ An,v.v… tôi đều đổ vào đầu các bào thai 1 ngày tuổi của các con cháu của các vĩ nhân Trung Hoa...
Các bạn có thấy tôi độc ác còn hơn quỷ Sa Tăng không ?
Nhưng giờ đây tôi nhân từ hơn Đức Phật, hơn tất cả các Thượng đế của loài người rồi!
Có những kẻ kêu gào trên các trang mạng rằng phải tiêu diệt Đỗ Xuân Thọ vì ông ta kêu gọi sự nổi loạn của những người không đi Đạo để chống lại Phật Tổ, chống lại Chúa Jêsu, chống lại Thánh Ala, chống lại Khổng Tử và chống lại Lão Tử… Tất cả những điều đó đều là vu khống! Vì Đỗ Xuân Thọ chỉ muốn dùng công nghệ SYT của mình để làm cho dân tộc này trở thành bá chủ thế giới.
Chưa bao giờ tôi thấy yêu loài người như bây giờ !
Đấy, tôi đã chứng minh xong rồi đấy!
Kính gửi TS. Đỗ Đức Hạnh:
Định ly1: Giữa hai đối tượng bất kỳ bao giờ cũng tồn tại ít nhất một mối liên hệ
đã được chứng minh chặt chẽ và không hề vô nghĩa một chút nào. Định lý này được ứng dụng để CM một loạt các định lý khác nên nó rất có ý nghĩa
Kính gửi TS Đỗ Đức Hạnh:TS đã viết
"Định Lý 2: tác giả đã nhầm lẫn nghiêm trọng khi cho rằng, tồn tạ i một hệ tọa độ cũng như sai
lầm cho rằng, khi tồn tại một h� � tọa độ thì vũ trụ sẽ trở th ành vô hạn. Đồng thời tác giả n hầm
lẫn nghiêm trọng về khái niệm “v ô hạn”, vì sẽ hoàn toàn là vô nghĩa khi nói về vô hạn mà không
đề cập đến khái niệm metric.
Ví dụ: xét đường tròn bán kính 1 ,
Ta có thể dễ dàng xây dựng đượ c phép nhúng đường thẳng thực R v ào vòng tròn này, cái tạo
thành một hệ tọa độ địa phươn g như tác giả đã chứng minh.
Ví dụ 2: trong không gian của cơ h� ��c lượng tử, KHÔNG bao giờ tồn t ại một hệ tọa độ địa
phương và các trục Ox.. Tác giả ng hiễm nhiên giả sử sự tồn tại n ày, đồng nghĩa với việc bác bỏ
hoàn toàn tất cả các kết quả c� �a cơ học lượng tử đã được ki ểm định thực tế.
Một lý thuyết bất kỳ trước hết phải phù hợp với thực tế trư� �c khi được công nhận."
Định lý 2:Vũ Trụ là vô cùng theo mọi phương
CM: Giả sử H là một hệ quy chiếu có gốc O tuỳ ý thuộc vũ trụ V và các trục Oxi , với i thuộc tập các chỉ số C tuỳ ý (C có thể là tập có vô hạn phần tử). Các trụ Oxi có thể là một đường cong hoặc đường thẳng, thậm chí có thể là một sợi tư duy...miễn là chúng có thể làm thành một trục số của tập số thực R. (Sự tồn tại một hệ quy chiếu như thế, trong vật lý có thể còn tranh cãi nhưng trong vũ trụ V của chúng ta , vũ trụ bao gồm cả vật chất và ý thức, là điều hiển nhiên. Ví dụ hệ quy chiếu đó tồn tại ngay trong tư duy của ta chẳng hạn) Ta sẽ chứng minh bằng phản chứng. Giả sử tồn tại một chỉ số j thuộc C sao cho Vũ Trụ V hữu hạn trên trục Oxj. Không giảm tổng quát ta giả sử nó hữu hạn ở phần dương của Oxj (Nếu hữu hạn ở phần âm CM tương tự). Khi đó tồn tại một số thưc A để sao cho mọi đối tượng của V đều có toạ độ theo phương Oxj đều nhỏ hơn hay bằng A. Chọn điểm M có tất cả các toạ độ khác bằng 0 trừ toạ độ trên Oxj là bằng A+1. Rõ ràng A+1>A và M=M nên điểm M (với tư cách là một đối tượng) thuộc vũ trụ V (theo định nghĩa vũ trụ). Sự vô lý này chứng tỏ V vô hạn trên Oxj suy ra không tồn tại một chỉ số i nào thuộc C để vũ trụ V hữu hạn theo phương Oxi => điều phải chứng minh
Như vậy ta đã chứng minh được một định lý vô cùng quan trọng. Từ định lý 2 ta thấy Vũ Trụ V của chúng ta khác xa với Vũ Trụ hiểu theo nghĩa A.Einstein
được chúng minh không hề phạm vào sai lầm nào
TS cho rằng không tồn tại một hệ quy chiếu như thế là một khẳng định hết sức DUY VẬT!!! Hệ quy chiếu đó vẫn tồn tại chẳng hạn trong đầu tôi!!!! Và vì TS chỉ hạn chế vùng nghiên cứu của mình trong các đối tượng nghiên cứu của Vật Lý: VẬT CHẤT nên không thể chấp nhận cách chứng minh định lý 2 của thuyết Tâm Vũ Trụ, mà miền nghiên cứu của nó bao gômg cả Vật Chất lẫn Ý thức.
Trong chứng minh tác giả đã nói rõ trong hệ quy chiếu H,các trục Oxi là tùy ý. Và vì là tùy ý nên TS thích nó là một đường tròn đơn vị hay đường thẳng cũng được. Khi nói đế sự tùy ý thì ngay cả ĐỘ ĐO (metric) cũng được chọn tùy ý cơ mà!!!
Còn tới thời điểm này CƠ HỌC LƯỢNG tử chưa tìm ra một hệ trục tọa độ địa phương hay đã tìm ra rồi tác giả không hề quan tâm
TS Hạnh viết:"Định nghĩa 2: kết quả này hoàn to àn không rõ rang, khi không đề cập đối tượng ở đây là đầy đủ
hay đối tượng không đầy đủ. Xem [1].
Nếu như là đối tượng không đầy đủ, thì két quả này sai hoàn to� �n. Nếu là đối tượng đầy đủ thì
toàn bộ phải được viết lại đ� � bảo đảm tính thống nhất."
TS quên mất một đoạn tôi viết trong chương 1:"...Từ nay, khi nói đến một đối tượng ta phải hiểu nó cùng với tập hợp các mối liên hệ của nó với các đối tượng khác. Đôi khi để nhấn mạnh ta sẽ gọi là đối tượng đầy đủ...."
Nên
Định nghĩa 2
Tâm Vũ Trụ là một đối tượng TVT sao cho TVT là miền giao của mọi đối tượng của vũ trụ V : TVT = ∩ V
Không có gì là không thống nhất
TS Hạnh viêt:"Định lý 5, 6: hiển nhiên.
Kể cả như vậy, Định Lý 4,5,6 n ày có thể tóm gọn bằng 1 câu: � �tồn tại một quy luật bao hàm sự
vận động của mọi vật trong Vũ t rụ”, một kết quả đã biết cách đây 2000 năm, gọi là Đạo. Quy
luật đó được nghiên cứu trong Kin h Dịch đã từ lâu, Dịch có nghĩa� �là biến động.
Định nghĩa của tác giả về thời� �gian rất không rõ rang, sai về bản chất. Có thể hiểu, tác giả đề cập
đến thời gian như một dạng tiên đề KHÔNG chứng minh mà chỉ có th� �� mô tả nó thông qua
“trình tự, độ dài sự kiện”…� �Tuy nhiên, đây là định nghĩa kiểu vòng tròn “con gà là cái nở ra quả
trứng, quả trứng sinh ra con gà”.
Kể cả khi tạm thời bỏ qua định nghĩa này, thì cũng chỉ suy ra đư ợc “tồn tại một quy luật bao
hàm sự vận động của mọi vật t rong Vũ trụ, nhưng không thể gọi t ên nên tạm gọi là Đạo”, vì
vận động thì phải có thời gian t hì khái niệm vận động mới có ý nghĩa.
Định lý 8: Hiển nhiên. Nó chỉ là một dạng của “mọi sự việc, h iện tượng trên đời đều có sinh� �có
diệt, diệt rồi lại sinh”.
Định lý 9: Đây là cái kết quả đã biết trong tu đạo.
Tổng kết lại, toàn bộ chương 1 c hỉ cần nói một câu duy nhất: “t ồn tại một quy luật bao hàm sự
vận động của mọi vật trong Vũ t rụ, nhưng không thể gọi tên đượ c gọi là Đạo”. Cái này trùng
với kết quả của Lão Tử:
http://nhantu.net/TonGiao/DaoDucKinh/DaoDucKinh.htm
1. Đạo chính là Tuyệt đối, là Bản thể thường hằng cửu vũ trụ. Vì Tuyệt đối, nên Đạo khó bàn cãi, khó xưng danh.
2. Đạo chính là nguồn gốc sinh xuất vũ trụ quần sinh. 3. Đạo có thể ở vào một trong hai trạng thái: tĩnh và động. Tĩnh là
trạng thái chưa hiển dương. Động là trạng thái đã hiển dương. Chưa hiển dương thời minh linh, ảo diệu, không biết đâu
là bến bờ. Đã hiển dương, thời mới thấy công trình vân vi, giới hạn. 4. Nhưng hiển dương hay không hiển dương, vẫn
chỉ là một đạo thể siêu vi. Danh hiệu tuy khác nhau nhưng tựu trung vẫn là một thực thể. Đạo thể siêu vi ấy là cửa
thiêng sinh xuất ra mọi điều huyền vi ảo diệu."
Xin thưa với TS, khi viết 4 chương đầu tiên tôi không hề biết về KINH DICH, Lão, Trang một tý nào (vì tôi dị ứng với các Triết gia Trung Hoa) đúng như trong lời tựa lần thứ nhất tôi viết :"...Sau 20 năm nghiền ngẫm tác giả đã xây dựng xong triết học Tâm Vũ trụ. Trong thời gian đó tác giả ngắt hết thông tin về triết học để không bị chi phối bởi bất kỳ tư tưởng nào...."
Sau này khi đọc Lão Tử tôi thấy tôi và Lão Tử rất khác nhau. Lão Tử cho rằng (theo trích dẫn của TS:"...3. Đạo có thể ở vào một trong hai trạng thái: tĩnh và động. Tĩnh là
trạng thái chưa hiển dương. Động là trạng thái đã hiển dương. Chưa hiển dương thời minh linh, ảo diệu, không biết đâu..."
Còn tôi khẳng định trong Tiên Đề 1:" Mọi đối tượng đều luôn luôn vận động" không thể có trạng thái thứ 2 là TĨNH như Lão Tử đã nói
TS.Hạnh viết:"Định nghĩa của tác giả về thời� �gian rất không rõ rang, sai về bản chất. Có thể hiểu, tác giả đề cập
đến thời gian như một dạng tiên đề KHÔNG chứng minh mà chỉ có th� �� mô tả nó thông qua
“trình tự, độ dài sự kiện”…� �Tuy nhiên, đây là định nghĩa kiểu vòng tròn “con gà là cái nở ra quả
trứng, quả trứng sinh ra con gà”.
Kể cả khi tạm thời bỏ qua định nghĩa này, thì cũng chỉ suy ra đư ợc “tồn tại một quy luật bao
hàm sự vận động của mọi vật t rong Vũ trụ, nhưng không thể gọi t ên nên tạm gọi là Đạo”, vì
vận động thì phải có thời gian t hì khái niệm vận động mới có ý nghĩa."
Xin thưa TS tôi không định nghĩa mà gần như sử dụng nguyên văn khái niệm THỜI GIAN của Wkipedia tiếng Việt. Xin nhấn mạnh là KHÁI NIỆM chứ không phải là định nghĩa. Nếu TS cần định nghĩa chính xác về thời gian của Thọ thì xin TS bỏ ra 1 triệu USD, Thọ sẽ nói cho!!!
Còn bây giờ đố TS tìm đâu cho được một ĐỊNH NGHĨA VỀ THỜI GIAN chính xác hơn
TS.Hạnh viết:"Chương 2
Định nghĩa 3: Thông tin là tập hợp tất cả các” mối liên hệ” từ A vào B.
Tuy nhiên, định nghĩa này hoàn toàn không rõ ràng.
Định lý 10: Có thể phát biểu “tất cả các mối liên hệ giữa tất cả các đối tượng trong vũ trụ
cũng biến dịch, tuân theo các quy luật của Dịch”.
Định lý 11: Mối quan hệ giữa các đối tượng bất kỳ cũng tuân theo các nguyên tắc của Đạo.
Định lý 12: Đạo đứng đằng sau tất cả các mối quan hệ của mọi đối tượng trong vũ trụ.
Định lý 13: Định lý sai. Rất có thể tại thời điểm t0 đó mối liên hệ này thể hiện thông tin trước đó
thì sao?
Định lý 14: Hiển nhiên, đây là điều đã biết từ lâu.
Toàn bộ chương này có thể tóm gọn: tất cả các mối liên hệ giữa tất cả các đối tượng trong vũ
trụ cũng biến dịch, tuân theo các quy luật của Dịch”. "
Thật thảm hại!!! Một cái đầu luôn đội các Triết gia Trung Hoa lên đầu (Kinh Dich) làm sao hiểu được định lý kinh khủng nhất trong chương này và chương 4:
Định lý 14:
Vận tốc của ánh sáng
c 300000 km/s (c gần bằng 300000 km/s)
không phải là giới hạn vận tốc của các thông tin trong Vũ trụ
CM : Ta chỉ cần chỉ ra vận tốc truyền thông tin giữa hai đối tượng nào đó lớn hơn vận tốc ánh sáng c là đủ. Giả sử A và B là hai đối tượng cách nhau 10 tỷ km, f là một thông tin giữa A và B và d là quãng đường mà f phải đi. Theo định lý 11 f phải đi qua TVT. Vì vậy d=d1+d2, trong đó d1 là khoảng cách từ A đến TVT và d2 là khoảng cách từ TVT đến B.Theo định lý 12 suy ra thời gian t1 để f đến TVT là tức thời (gần bằng 0) . Theo định lý 13, thời gian t2 để f đi từ TVT đến B là tức thời (gần bằng 0). Vận tốc trung bình của f trên d1 là v1=d1/t1. Do t1 tiến tới 0 nên v1 tiến tới vô cùng. Tương tự vận tốc trung bình của f trên d2 là v2=d2/t2. Do t2 tiến tới 0 nên v2 tiến tới vô cùng.Từ đó suy ra vận tốc v của f đi từ A đến B là vô cùng lớn. A và B cách nhau 10 tỷ km nên rõ ràng v>>c rất nhiều lần. đ.p.c.m.
Người Nhật học Khổng, học Lão để vượt qua Khổng, Lão !!!! Còn Việt Nam (ví dụ TS Hạnh, người tốt nghiệp TS Toán-Lý ở Mỹ về (không biết có là dân tộc Kinh không hay lại là Hoa Kiều?????)) thì học Khổng và Lão để đội Khổng và Lão lên đầu!!!!!
Kính gửi TS Đỗ Đức Hạnh: Chừng nào mà TS vẫn cứ tưởng rằng mình là con cháu của ĐỖ PHỦ đời nhà Đường hoặc mẹ TS là người Hoa thì tôi chỉ tranh lận THUẦN TÚY KHOA HỌC .
Tôi cảm thấy ngạc nhiên khi TS nhẩy từ CƠ HỌC LƯỢNG TỬ sang KINH DICH nhanh thế mà không có một lời chua nào nói lên liên hệ giữa chúng!!!!!
Mong rằng TS Đỗ Đức Hạnh có những phản biện trung thực đừng bị cái vòng kim cô LÃO-DỊCH-KHỔNG làm dối loạn tâm linh của người VIỆT
Tôi mong TS sớm nhận ra chân giá trị của người Việt mà giữ lấy nó chứ đừng thấy kẻ sang (TQ) bắt quàng làm họ
------------------------------------------------
* TS Đỗ Đức Hạnh có nick name là whitebear trên Dân Luận và Dân làm báo. nick Phi Hùng trên Vật Lý VN
5. Giải thích Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài theo Khoa học Nguyên tử:
a) Quang tử - Âm điện tử - Dương điện tử:
Quang tử, tên khoa học gọi là Photon, là hạt ánh sáng. Hạt nầy không có khối lượng, truyền đi theo dạng sóng (gọi là sóng ánh sáng) với vận tốc rất nhanh: 300 ngàn cây số trong một giây (300.000 Km/giây)
Thái Cực là một khối năng lượng vĩ đại dưới dạng ánh sáng, gồm vô số Quang tử. Các Quang tử nầy được Thái Cực bắn ra chung quanh thành những tia sáng. Trong một lúc nào đó, các tia sáng kết hợp thành từng bó sóng ánh sáng, để rồi kết hợp và ngưng tụ lại, biến đổi năng lượng ánh sáng thành khối lượng vật chất, dưới dạng các hạt có mang điện tích: điện tích Âm và điện tích Dương.
Sự ngưng kết để biến đổi năng lượng ánh sáng (biểu thị bằng chữ E: Énergie) thành vật chất có khối lượng là m (Masse), với vận tốc ánh sáng là C = 300.000 Km/giây, theo công thức của nhà Bác học Einstein:
E = mC2
Âm Điện tử: Hạt vật chất nhỏ có mang điện tích âm được gọi là Âm Điện tử, tên khoa học là Électron, viết tắt là e, có khối lượng và điện tích đo được là:
Khối lượng = 0,9. 10-27 gram.
Điện tích = - 1,6. 10-19 coulomb.
Dương Điện tử: Hạt vật chất có mang điện tích dương gọi là Dương Điện tử, tên khoa học là Proton, viết tắt là p, có khối lượng và điện tích đo được là:
Khối lượng = 1840 lần khối lượng của e.
Điện tích = + 1,6. 10-19 -19 coulomb.
Như vậy, từ Quang tử Photon, đã tạo ra được 2 loại vật chất có dạng hạt: Électron và Proton mang điện tích Âm và điện tích Dương, có trị số ngang bằng nhau, nhưng khác dấu.
Thái Cực Photon
Nghi Âm Nghi Dương Électron e p Proton
Chúng ta so sánh thì thấy rằng:
Thái Cực là một khối Quang tử (Photon) vĩ đại.
Lưỡng Nghi Âm quang và Dương quang là 2 khối Âm Điện tử (Électron) và Dương Điện tử (Proton).
Đấng Thượng Đế phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi chính là sự ngưng kết của các bó sóng ánh sáng, biến năng lượng ánh sáng thành vật chất là Âm Điện tử và Dương Điện tử.
b) Trung hòa tử và Nguyên tử Khinh khí:
Âm Điện tử và Dương Điện tử đã thành hình rồi thì chúng kết hợp với nhau do sức hút của điện âm và điện dương theo 2 trường hợp: Tĩnh và Động, để tạo ra 2 loại vật chất mới là: Trung hòa tử (Neutron, viết tắt là n) và Nguyên tử Khinh khí (Hydrogène, ký hiệu là H) theo 2 phương trình:
Kết hợp theo dạng tĩnh:
1 Électron + 1 Proton (Tĩnh) 1 Neutron
e + p (Tĩnh) n
Trung hòa tử (Neutron) là hạt không mang điện.
Kết hợp theo dạng động:
Dương Điện tử nặng và to lớn hơn Âm Điện tử rất nhiều nên nó làm cái Nhân bên trong, còn Âm Điện tử nhẹ mình nên quay tròn chung quanh Nhân, tạo thành một Nguyên tử Khinh Khí Hydrogène H:
1 Électron + 1 Proton (Động) Hydrogène
e + p (Động) pe
Đến giai đoạn nầy, ta có 4 loại hạt vật chất: 2 hạt cơ bản là Âm Điện tử (e) và Dương Điện tử (p), và 2 loại hạt mới là Trung hòa tử (n) và Nguyên tử Khinh khí (H).
Đây chính là Tứ Tượng do Lưỡng Nghi tạo ra:
Électron (e) là Thái Âm.
Proton (p) là Thái Dương.
Neuton (n) là Thiếu Dương.
Hydrogène (H) là Thiếu Âm.
c) 8 Nguyên tử đầu tiên:
Ba loại hạt nhỏ (vi tử): e, p, n luôn luôn xoay chuyển tiếp tục kết hợp với nhau, lần lượt từ ít đến nhiều, để tạo thành 8 Nguyên tử đầu tiên đứng đầu Bảng Phân loại Tuần hoàn các Nguyên tố.
Các Proton (p) và Neutron (n) nặng hơn Électron (e) rất nhiều nên làm Nhân nguyên tử, còn Électron (e) thì nhẹ nên quay chung quanh Nhân. Hễ trong Nhân có bao nhiêu Proton p thì bên ngoài cũng phải có bấy nhiêu Électron e để cho điện tích của Nguyên tử luôn luôn được trung hòa. Số Neutron n trong Nhân thì có số lượng tăng dần.
8 Nguyên tử đầu tiên được tạo thành, đánh số thứ tự từ 0 đến 7, có tên, ký hiệu và cơ cấu sau đây:
0. Hélium, ký hiệu He gồm có: 2e 2p 2n
1. Lithium, ký hiệu Li gồm có: 3e 3p 4n
2. Bérylium, ký hiệu Be gồm có: 4e 4p 5n
3. Bohr, ký hiệu B gồm có: 5e 5p 6n
4. Carbone, ký hiệu C gồm có: 6e 6p 6n
5. Nitrogène, ký hiệu N gồm có: 7e 7p 7n
6. Oxygène, ký hiệu O gồm có: 8e 8p 8n
7. Fluor, ký hiệu F gồm có: 9e 9p 10n
Xem như thế, 8 Nguyên tử tạo thành đầu tiên chính là Bát Quái, do Tứ Tượng biến sanh, và được so sánh như sau:
CHẤN CÀN ĐOÀI LY TỐN KHẢM CẤN KHÔN
He Li Be B C N O F
Càn có tính thuần Dương, đối chiếu với nguyên tử Lithium (Li) có tính dương điện mạnh nhứt.
Khôn có tính thuần Âm, nên đối chiếu với nguyên tử Fluor (F) có tính âm điện mạnh nhứt.
d) Các Nguyên tử khác trong Bảng Phân loại Tuần hoàn:
Sau khi đã tạo thành 8 Nguyên tử đầu tiên, các vi tử e, p, n tiếp tục kết hợp với nhau với số lượng càng lúc càng nhiều, càng lúc càng phức tạp để tạo thành một loạt các nguyên tử to lớn hơn, có tính chất đại cương gần giống như tính chất của 8 nguyên tử đầu tiên, tạo thành 8 nhóm nguyên tử, đánh số từ 0 đến 7, kể ra sau đây:
Tên nhóm: 0 1 2 3 4 5 6 7
8 nguyên tử đầu: He Li Be B C N O F
Ne Na Mg Al Si P S Cl
Ar K Ca Ga Ge As Se Br
Kr Rb Sr In Sn Sb Te I
Xe Cs Ba Tl Pb Bi Po At
...................... vv......................
Hiện nay, các nhà khoa học đã tìm ra được 105 loại nguyên tử khác nhau nằm trong 8 nhóm kể trên. Ngoài ra, mỗi nhóm còn có một nhóm phụ mà các nguyên tử có cấu tạo phức tạp, không tiện kể ra đây.
Số 105 loại nguyên tử nầy kết hợp lại với nhau, tùy theo chất, để tạo thành các Đơn chất, và các Hợp chất, từ đơn giản đến phức tạp. Các Đơn chất và các Hợp chất tạo thành hệ thống vật chất trong CKVT với muôn hình muôn vẻ với muôn màu sắc phong phú khác nhau.
8 nguyên tử tạo thành đầu tiên ấy tương ứng Bát Quái, vận chuyển và biến hóa vô cùng để tạo ra CKVT và vạn vật.
e) Sự hình thành Vũ trụ:
Thái Cực là trung tâm của Vũ trụ. Thái Cực phát ra các tia sáng mang theo Quang tử truyền đi rất xa, với vận tốc 300.000 Km/giây. Đến một lúc nào đó, các Quang tử ngưng kết tạo thành các Âm điện tử. Nơi đó là giới hạn của Vũ trụ, và các Âm điện tử được tạo ra càng lúc càng nhiều, làm thành như những đám mây vĩ đại, đó là Khí Âm quang.
Mặt khác, các Quang tử từ Thái Cực phát ra cũng ngưng kết thành các Dương điện tử (Proton), và các Dương điện tử tạo thành những đám mây vĩ đại Dương điện tử. Đó là Khí Dương quang.
Các Dương điện tử có khối lượng rất lớn so với Âm điện tử, nên nó hút các Âm điện tử theo 2 lực: Lực hấp dẫn vạn vật và lực điện trường. Lúc ban đầu lực hút nầy không lớn lắm vì khoảng cách còn xa, nhưng khi khoảng cách càng gần thì lực hút trở nên rất mạnh (vì lực hút tỉ lệ nghịch với bình phương của khoảng cách). Các Âm điện tử bị hút thật mạnh vào tâm vũ trụ, va chạm mãnh liệt với các Dương điện tử trong một trạng thái xoay chuyển cực kỳ mãnh liệt, một mặt kết hợp để tạo ra các phân tử đơn chất và hợp chất, một mặt tạo ra sức nóng dữ dội càng lúc càng tăng, dần dần nhiệt độ lên tới hàng tỷ độ, sanh ra một áp suất cực lớn, gây ra một vụ nổ ghê gớm, xoay tròn bắn phá ra các quả cầu lửa lớn làm thành Mặt Trời.
Các khối cầu lửa lớn nầy tiếp tục quay tròn, bắn phá ra các quả cầu lửa nhỏ hơn tạo thành các Hành tinh. Các Hành tinh lớn lại tiếp tục bắn phá để tạo thành các Vệ tinh.
Vệ tinh và Hành tinh nguội dần, tạo ra lớp vỏ bao bọc bên ngoài. Khi nguội đến một nhiệt độ thích hợp thì lớp hơi nước bao phủ Hành tinh tạo thành các đám mưa rơi xuống chảy thành sông và biển.
Khi đã có nước và ánh sáng Mặt Trời, sinh vật bắt đầu xuất hiện, từ đơn giản lần lần đến phức tạp. Loài rong rêu xuất hiện trước nhứt, tiến hóa dần thành Thảo mộc, Thảo mộc tiến hóa thành Thú cầm, và sau cùng bực Thú cầm cao cấp tiến hóa thành Nhơn loại.
6. Địa vị của Địa cầu chúng ta trong CKVT:
Vũ trụ Hữu hình gồm có: Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới ) và Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu).
Tam thiên Thế giới thanh nhẹ hơn Thất thập nhị Địa, nên chiếm phần trên của Vũ trụ, Thất thập nhị Địa trọng trược hơn nên ở phần dưới của Vũ trụ.
Trong Tam thiên Thế giới cũng như trong Thất thập nhị Địa, các quả tinh cầu thanh nhẹ thì ở bên trên, các quả nặng trược thì ở bên dưới. Càng lên cao thì càng thanh nhẹ trong sáng, và càng xuống thấp thì càng nặng trược tối tăm.
Các Địa cầu trong dãy Thất thập nhị Địa được đánh số từ 1 đến 72, số 1 thì thanh nhẹ nhứt và số 72 thì nặng trược nhứt. Điạ cầu của nhơn loại chúng ta là Địa cầu số 68.
Phía dưới Địa cầu 68 của chúng ta có 4 quả Địa cầu: 69, 70, 71, và 72 rất trọng trược, chìm đắm trong cảnh tối tăm nên được gọi là U Minh Địa. Trình độ tiến hóa của 4 Địa cầu nầy còn rất kém so với Địa cầu 68 của chúng ta.
Nhưng trình dộ tiến hóa của Địa cầu 68 lại kém xa so với Địa cầu 67. Càng đi lên thì càng tiến hóa.
"Đứng bực Đế Vương nơi trái Địa cầu 68 nầy, chưa đặng vào bực chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Đệ nhứt cầu (Địa cầu số 1), Tam thiên thế giới..." (TNHT. I. 74)
Sự tiến hóa đi hết dãy Thất thập nhị Địa thì bước lên Tam thiên Thế giới và cũng tiến hóa dần từ thấp lên cao.
Địa cầu 68 của chúng ta chỉ có 1 phần thanh, mà lại có 2 phần trược, nên Phật giáo gọi Địa cầu 68 là cõi Ta-bà, vì cõi nầy có nhiều ác trược, người tu phải nhẫn nhịn tối đa, nhưng nếu tu hành được thì rất mau đắc quả.
Trong Vô Lượng Thọ Kinh, Đức Phật nói rằng: "Ở cõi Ta-bà nầy mà làm lành một ngày đêm, hơn làm lành một trăm năm nơi cõi của Phật A-Di-Đà. Tại sao vậy? Vì cõi của Phật A-Di-Đà là vô vi tự nhiên, chứa đủ sự lành, không có một sự dữ nào dù nhỏ xíu như mảy lông sợi tóc."
* Phần VÔ HÌNH của VŨ TRỤ:
Như trong các phần vừa trình bày trên, phần Hữu hình của Vũ trụ Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm có: Bên trên là Tam thiên thế giới và bên dưới là Thất thập nhị Địa. Tổng cộng có tất cả 3072 ngôi sao.
Vũ trụ Hữu hình được tượng trưng bằng Trái Càn khôn thờ nơi Bát Quái Đài của Tòa Thánh Tây Ninh.
Sự xoay chuyển của Tam thiên thế giới và Thất thập nhị Địa luôn luôn được đều hòa, không ngừng nghỉ, cái lên cái xuống, cái qua cái lại, không bao giờ va chạm nhau. Có được như thế là do sự điều khiển của các Đấng thiêng liêng vô hình.
Các tinh cầu và các quả Địa cầu luôn luôn được Đấng Thượng Đế ban cho Thần lực (tức là năng lượng thiêng liêng) vừa đủ để giúp cho sự chuyển động của chúng nó luôn luôn duy trì điều hòa, ổn định và không ngừng nghỉ.
Cũng giống như một cái đồng hồ điện tử, cục pin nhỏ cung cấp năng lượng điện cho nó chạy đều hòa và không ngừng nghỉ. Nếu pin còn điện quá yếu hay hết điện thì năng lượng không đủ cung cấp cho đồng hồ thì đồng hồ phải chạy chậm lại hay ngừng hẳn. Cho nên, nếu Đấng Thượng Đế cung cấp Thần lực cho các tinh cầu và các Địa cầu một cách không đều hòa và liên tục thì các quả cầu ấy sẽ chuyển động rối loạn hay ngừng quay, đó cũng là một cuộc Đại hủy diệt vậy.
Để điều khiển các sự vận chuyển của các tinh cầu và Địa cầu, cũng như điều khiển cuộc tiến hóa của cả Càn khôn, Đức Thượng Đế phải lập ra một guồng máy vô hình, gồm nhiều cơ quan là các từng Trời và các Đấng Thần Thánh Tiên Phật để giúp tay cho Đức Thượng Đế.
Phần Vô hình của CKVT không thể thấy được mà chúng ta biết được là do Đức Thượng Đế giảng dạy, gồm có:
Tam thập lục Thiên.
Thập nhị Thiên và Cửu Trùng Thiên.
Tứ Đại Bộ Châu.
1. Tam thập lục Thiên:
Tam thập lục Thiên là 36 từng Trời.
Ngôi Thái Cực ở tại Bạch Ngọc Kinh, nơi ấy là trung tâm của Càn khôn Vũ trụ. Thái Cực biến hóa ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Thái Cực và Lưỡng Nghi hiệp lại thành Ba Ngôi Trời, gọi là Tam Thiên Vị, chiếm 3 từng Trời tại trung tâm của Vũ trụ.
Dưới Tam Thiên Vị là 33 từng Trời (Tam thập tam Thiên). Nhập chung lại thì đủ 36 từng Trời.
Nơi Tam thập lục Thiên là ngôi vị của chư Thần Thánh Tiên Phật.
2. Thập nhị Thiên - Cửu Trùng Thiên:
Thập nhị Thiên là 12 từng Trời.
Cửu Trùng Thiên là 9 từng Trời.
Cửu Trùng Thiên nằm trong Thập nhị Thiên.
Dưới Tam thập lục Thiên là Thập nhị Thiên.
Trong Thập nhị Thiên, bên trên có 3 từng Trời, kể ra:
Hỗn Nguơn Thiên, do Đức Phật Di-Lạc chưởng quản.
Hội Nguơn Thiên, cũng do Đức Phật Di-Lạc chưởng quản.
Hư Vô Thiên, do Đức Phật Nhiên Đăng chưởng quản.
Trong từng Trời Hư Vô Thiên có Ngọc Hư Cung, là nơi họp triều đình của Đức Chí Tôn, để điều hành toàn cả các hoạt động trong CKVT. Các Đấng Thần Thánh Tiên Phật họp Đại Hội tại Ngọc Hư Cung để lập Thiên Điều cai quản CKVT.
Dưới 3 từng Trời nầy là Cửu Trùng Thiên, kể ra:
Từng Trời thứ 9 - Tạo Hóa Thiên, do Đức Phật Mẫu chưởng quản.
Từng Trời thứ 8 - Phi Tưởng Thiên, do Đức Từ Hàng Bồ Tát chưởng quản.
Từng Trời thứ 7 - Hạo Nhiên Thiên, do Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Đức Phổ Hiền Bồ Tát chưởng quản.
Từng Trời thứ 6: Kim Thiên,
Từng Trời thứ 5: Xích Thiên,
Từng Trời thứ 4: Huỳnh Thiên,
Từng Trời thứ 3: Thanh Thiên,
Từng Trời thứ 2 có Vườn Đào Tiên,
Từng Trời thứ 1 có Vườn Ngạn Uyển.
Thập nhị Thiên là nơi làm việc của các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, điều hành tất cả các hoạt động của CKVT và sự tiến hóa của Vạn linh.
3. Tứ Đại Bộ Châu:
Có hai Tứ Đại Bộ Châu: Thượng và Hạ.
Tứ Đại Bộ Châu phía trên cai quản Tam thiên thế giới, gọi là Tứ Đại Bộ Châu Thượng, gồm:
Bắc Đại Bộ Châu
Đông Đại Bộ Châu
Nam Đại Bộ Châu
Tây Đại Bộ Châu.
Tứ Đại Bộ Châu bên dưới cai quản Thất thập nhị Địa, gọi là Tứ Đại Bộ Châu Hạ, gồm:
Bắc Câu Lư Châu
Đông Thắng Thần Châu
Nam Thiệm Bộ Châu
Tây Ngưu Hóa Châu.
Địa cầu 68 của chúng ta ở trong Nam Thiệm Bộ Châu.
* Tổng Kết về Vũ Trụ Quan:
Vũ trụ của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm có hai phần: Hữu Hình và Vô Hình.
Phần Vô hình rất quan trọng vì nó điều khiển toàn bộ các hoạt động của Phần Hữu hình.
Phần Vô hình ở tại vùng Trung tâm của Vũ trụ.
Phần Hữu hình nằm bên ngoài Phần Vô hình, và luôn luôn có chuyển động xoay tròn đều hòa và liên tục, không bao giờ ngừng nghỉ.
Phần Vô hình gồm: Tam thập lục Thiên (36 Từng Trời), Thập nhị Thiên (12 Từng Trời), và hai Tứ Đại Bộ Châu Thượng và Hạ.
Phần Hữu hình gồm 3072 ngôi sao, chia ra: Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới) ở bên trên và Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu) ở bên dưới.
Trong khoảng không gian bao la không cùng tận, Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn là một khối cầu vĩ đại, trong đó có chứa 3072 ngôi sao.
Để có thể hình dung được các thành phần của Vũ trụ nầy, chúng ta tưởng tượng và so sánh với cái hột gà:
Cái ngòi ở giữa tròng đỏ hột gà là Trung tâm Vũ trụ.
Phần tròng đỏ hột gà là Phần Vô hình của Vũ trụ.
Phần tròng trắng hột gà là Phần Hữu hình của Vũ trụ.
Vỏ của hột gà là biên giới của Vũ trụ.
Sau đây là Bảng Tóm tắt cơ cấu thành phần của Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn, kể từ Trung tâm Vũ trụ ra đến bên ngoài, biên của Vũ trụ:
1. TAM THẬP LỤC THIÊN
● Tam Thiên Vị
● 33 Từng Trời.
2. THẬP NHỊ THIÊN
● Hỗn Nguơn Thiên
● Hội Nguơn Thiên
● Hư Vô Thiên
● Cửu Trùng Thiên
(9 Từng Trời)
3. TỨ ĐẠI BỘ CHÂU THƯỢNG
Bắc
Đại
Bộ
Châu Đông
Đại
Bộ
Châu Nam
Đại
Bộ
Châu Tây
Đại
Bộ
Châu
4. TAM THIÊN THẾ GIỚI
O
O O
O O
O O
O
5. TỨ ĐẠI BỘ CHÂU HẠ
Bắc
Câu
Lư
Châu Đông
Thắng
Thần
Châu Nam
Thiệm
Bộ
Châu Tây
Ngưu
Hóa
Châu
6. THẤT THẬP NHỊ ĐỊA
O
O O
O O
O O
O
Địa cầu 68
http://caodaism.org/CaoDaiTuDien/v/v4-010.htm#Giai thich Vu tru quan cua Dao Cao Dai theo Khoa hoc Nguyen tu
Từ tâm vũ trũ mà ra
Cùng đi học hỏi để mà làm chi
Tìm ra cái thuở cái thì
Hợp Nhân-Thiên-Địa từ bi làm người
Ham chi cái tiếng ở đời
Để gây khẩu nghiệp vốn lời đi tong
Thật tâm lòng muốn cầu mong
Thanh tâm tịnh trí thì lòng mới an
An rồi ta chẳng thở than
Hòa tâm vũ trụ thanh nhàn lắm thay
Bao nhiêu nghiệp lực đã gây
Tận tâm trả hết có ngày ngộ ra
Từ tâm vũ trụ mà ra
Tìm về cái một để hòa cái tôi
Một nhà ,một nước,một đôi
Một tâm thanh tịnh,một nôi nhân loài
Một tâm vũ trụ ai hoài
Chân như phật cảnh muốn ai tới cùng
@Tinhkhithan viết
"5. Giải thích Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài theo Khoa học Nguyên tử:
a) Quang tử - Âm điện tử - Dương điện tử:
Quang tử, tên khoa học gọi là Photon, là hạt ánh sáng. Hạt nầy không có khối lượng, truyền đi theo dạng sóng (gọi là sóng ánh sáng) với vận tốc rất nhanh: 300 ngàn cây số trong một giây (300.000 Km/giây)
Thái Cực là một khối năng lượng vĩ đại dưới dạng ánh sáng, gồm vô số Quang tử. Các Quang tử nầy được Thái Cực bắn ra chung quanh thành những tia sáng. Trong một lúc nào đó, các tia sáng kết hợp thành từng bó sóng ánh sáng, để rồi kết hợp và ngưng tụ lại, biến đổi năng lượng ánh sáng thành khối lượng vật chất, dưới dạng các hạt có mang điện tích: điện tích Âm và điện tích Dương.
Sự ngưng kết để biến đổi năng lượng ánh sáng (biểu thị bằng chữ E: Énergie) thành vật chất có khối lượng là m (Masse), với vận tốc ánh sáng là C = 300.000 Km/giây, theo công thức của nhà Bác học Einstein:
E = mC2
Âm Điện tử: Hạt vật chất nhỏ có mang điện tích âm được gọi là Âm Điện tử, tên khoa học là Électron, viết tắt là e, có khối lượng và điện tích đo được là:
Khối lượng = 0,9. 10-27 gram.
Điện tích = - 1,6. 10-19 coulomb.
Dương Điện tử: Hạt vật chất có mang điện tích dương gọi là Dương Điện tử, tên khoa học là Proton, viết tắt là p, có khối lượng và điện tích đo được là:
Khối lượng = 1840 lần khối lượng của e.
Điện tích = + 1,6. 10-19 -19 coulomb.
Như vậy, từ Quang tử Photon, đã tạo ra được 2 loại vật chất có dạng hạt: Électron và Proton mang điện tích Âm và điện tích Dương, có trị số ngang bằng nhau, nhưng khác dấu.
Thái Cực Photon
Nghi Âm Nghi Dương Électron e p Proton
Chúng ta so sánh thì thấy rằng:
Thái Cực là một khối Quang tử (Photon) vĩ đại.
Lưỡng Nghi Âm quang và Dương quang là 2 khối Âm Điện tử (Électron) và Dương Điện tử (Proton).
Đấng Thượng Đế phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi chính là sự ngưng kết của các bó sóng ánh sáng, biến năng lượng ánh sáng thành vật chất là Âm Điện tử và Dương Điện tử."
Nếu quả thật TinhKhiThan còn dùng thuyết KINH DỊCH, thuyết ÂM DƯƠNG để giải thích cái vũ trụ này thì chỉ vấp vào hết sai lầm này đến sai lầm khac!!!!
Cái hạt photon mà tiên sinh tưởng là bé nhất dùng để mô tả THÁI CỰC đã có hạt bé hơn rồi!!! Đó là hạt QUACK!!!! Bởi thế cái thuyết của Đạo Cao Đài chưa bao được hết cái Vũ Trụ Này!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
Haizzz, chú Thọ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan đến mức bài trừ tất cả những gì liên quan đến Tàu, dùng chính trị để lý luận khoa học thì cháu đành chịu. Ít ra, hôm nay cháu đang trả lời chú bằng một cái máy tính made in china, và ăn cơm bằng bằng nồi cơm điện sản xuất tại Trung Quốc, uống beer bằng cốc thủy tinh made in china, gọi điện thoại bằng điện thoại làm tại quảng châu 2 SIM 2 sóng nên có nói gì chú chắc cũng chẳng nghe.
Lão tử nói không hề sai đâu chú ạ, bởi vì rằng Động-Tĩnh là một cặp âm duơng, trong tĩnh có động, nên nó không hề mâu thuẫn với việc vận động là thuộc tính của vật chất. Không có vận động tuyệt đối và cũng không có tĩnh lặng bất biến tuyệt đối, đấy chính là hàm ý của Lão Tử. Tất cả là dựa vào việc mình hiểu đến đâu.
Nếu chú hiểu hàm ý của Kinh Dịch, sẽ thấy ngay lập tức Kinh Dịch tuơng thích với Cơ Lượng Tử. Chính tính lưỡng tính sóng-Hạt là thể hiện đặc trưng của tĩnh-động của lão tử, khi ta cố định một hạt cơ bản về vị trí thì xung lượng sẽ trở nên động và không thể nắm bắt được, và trở thành nguyên lý bất định Heisenberg nổi tiếng.
Hạt quark được cấu tạo từ các string, và chính các string này cũng biến đổi theo đúng các quy luật của Dịch, chứ không chỉ đơn thuần xét về mặt điện tích.
Có câu, trí đến đâu thì hiểu Dịch đến đó. Người viết đạo cao đài, do trình độ vật lý phổ thông thì chỉ hiểu Dịch trong vật lý ở mức độ sơ cấp.
Cũng nhờ hiểu được Dịch Lý mà 2 nhà khoa học gốc TQ đã phát minh ra Yang-Mill field theory và được trao giải Nobel.
Dịch Lý, hiểu theo nghĩa hạn hẹp nông cạn là hiểu cuốn sách Kinh Dịch để bói quẻ, nhưng hiểu theo nghĩa rộng là hiểu quy luật vận hành của trời đất, của vũ trụ, của thế giới nhân sinh, của các đối tượng khoa học...
Ngay cả khái niệm thời gian, cũng đâu có đến nỗi đơn giản đến mức chỉ mang Wiki ra chép là đủ, vì thời gian là khái niệm quan trọng và bí ẩn nhất trong giới tự nhiên. Toàn bộ lãnh vực vật lý lý thuyết hiện đại cũng chỉ là nhằm giải thích khái niệm thời gian (thuyết tuơng đối hẹp và rộng, lỗ đen, bigbang...) nhưng đến nay hiểu biết của nhân loại về thời gian cũng chỉ là hạt cát, còn vô khối điều không giải thích được. Ngay như việc thời gian có điểm bắt đầu hay không (bigbang theory ..), space-time có chấp nhận sự lượng tử hóa không giao hoán hay không, cũng đã là unsolved.
Vậy nên, lão Tử mới nói "Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh", Đạo mà gọi ra được thì không còn là đạo nữa. Ở đây, đạo không phải là tôn giáo.. mà chính là quy luật chung, con đường vận hành và biến dịch của toàn vũ trụ.
Dịch Lý, chiết tự ra thì chính là lý thuyết về biến động. Vì vậy, học dịch là học cả đời chứ không phải chỉ là một cuốn sách trong một vài năm, huống chi đọc lướt thướt một vài tiếng. Người nào nói mình hiểu dịch, tức là không hiểu vậy.
Nói gì thì nói, việc tác giả cuơng quyết không chịu chấp nhận, không chịu đọc, không chịu công nhận kết quả nghiên cứu của đồng nghiệp đã công bố trước đó chỉ vì quan điểm chính trị hay vì lý do "không muốn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng người khác" để phát minh lại bánh xe bò, sử dụng thủ đọan chụp mũ chính trị cho những người đọc kết quả của đồng nghiệp mình được công bố trước đó 2000 năm là điều không thể chấp nhận được trong công việc nghiên cứu.
Bám theo lề mà mình tự đặt ra, đó không phải là trí thức tự do.
Thuyết tương đối của Einstein vẫn giữ nguyên giá trị của nó, kể cả nếu nó được phát minh bởi một tên phát xít. Tuy nhiên, nếu tác giả đã theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan- (Bin Laden sẵn sàng xử bắn những ai mặc quần Jean vì học theo phuơng tây) đến vậy thì thôi đành chịu để tác giả tự suy ngẫm.
Nếu như tác giả đã cực đoan chính trị đến mức vậy, cách duy nhất để có thể nói chuyện có lẽ là trích dẫn sách Dịch Lý của hai danh nhân người VN là Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm về Dịch Lý ra?
Đây là bài viết cuối cùng về đề tài này.
Công trình của Ông đã làm cho nhiều người đánh giá nhưng có nhiều phản biện. Ông nên chú ý tới ý kiến chân thành của họ mà hoàn thiện luận điểm của mình.
Rất cảm ơn Tuduong và TS Hạnh. Thực ra tôi không cực đoan đến mức không thèm đọc Lão, Trang và Kinh Dịch. Chỉ vì chưa có thời gian thôi
Trong năm 2012 tôi sẽ viết tiếp các chương sau đây của thuyết Tâm Vũ Trụ:
Chương 9: Tâm Vũ Trụ và Phật Giáo
Chương 10: Tâm Vũ Trụ và Kinh Dịch
để so sanh sự giống nhau và khác nhau giữa thuyết Tâm Vũ Trụ của Việt Nam và Phật Giáo, Kinh Dịch.
Hiện thời Thọ đang miệt mài đọc lại Phật Giáo
Các sách về Dịch Lý cần đọc:
1-Nguyễn Hiến Lê, Đạo của người quân tử
2-Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ: nhantu.net, toàn bộ.
3-Ngô Tất Tố, Kinh Dịch.
4-Đạo Đức Kinh, đặc biệt quan trọng.
5-Dịch Lý của đạo cao đài.
gửi tác giả TÂM VŨ TRỤ :
"Định lý 3
Giữa hai đối tượng bất kỳ trong Vũ trụ bao giờ cũng tồn tại ít nhất một mối liên hệ"
với DL này thì bất kỳ đối tượng nào cũng chính là TÂM VŨ TRỤ bạn hãy nghĩ kỹ xem.
vì nó chính là giao của vạn pháp(mọi đối tượng).kinh. VD