-
Tận Thế và Hội Long Hoa
CHƯƠNG THỨ NHẤT
CƠ ĐỐC GIÁO
***********
Ngày tận thế chắc chắn sẽ đến.
Vấn đề Tận Thế kể ra chưa hẳn là một đầu đề mới lạ, vì từ lâu ở trong sấm kinh của nhiều tôn giáo đã từng nói đến, nhưng ít ai để ý, hoặc giả có quan tâm chăng là những người ở trong tôn giáo.
Vừa rồi ông Daniel Walther một ông nghè mà cũng là tín đồ Cơ- đốc Phục-lâm đem đầu đề ấy làm một cuộc diễn giảng, tưởng cũng nên biết qua những lý lẽ của ông trình bày và nhân dịp này đem đối chiếu với bao nhiêu lời tiên tri trong các sấm kinh mà từ lâu ít ai nói đến.
Vào đề ông Walther nhấn mạnh về những biến cố xã hội, kinh tế, chính trị của thời đại chúng ta, dồn dập đến nỗi các nhà quan sát cũng phải hoang mang không biết ngày mai xảy ra những việc gì. Những nhà bác học, những nhà phát minh, đứng trước thời cuộc nghiêm trọng đến phải bi quan mà cho rằng ngày Tận Thế sắp xảy ra và trở lại ghê tởm cho công trình phát minh của mình.
Nhưng nên hiểu thế nào là Tận Thế?
Ông Walther không đồng ý với các nhà bác học kia hiểu nghĩa Tận Thế là một cuộc chấm dứt vũ trụ hay địa cầu. Theo ông, khi nói Tận Thế có nghĩa là chấm dứt một thế hệ do con người cai quản để mở ra một thế hệ minh triết dưới sự chưởng quản của Chúa.
Vào thời của Chúa, một hôm tín đồ có hỏi Chúa rằng : “Thế nào là điềm Ngài giáng lâm và Tận Thế ?”
Chúa cho biết “ Sẽ có những điềm trên trời, trên mặt trăng và trên các vì sao. Trên quả địa cầu thì nhiều nơi có bệnh dịch và nạn đói…sự đau thương ở các nước không biết sẽ làm gì,…con người thì tinh thần khủng hỏang trong sự mong chờ những điều xảy đến cho trái đất.”
Về những thời triệu ấy, ông Walther dẫn chứng bao nhiêu bằng cớ đã xảy ra. Nào là nạn đói kém đã đe dọa hòan cầu, Hy Lạp, Nhựt Bản , Trung Hoa, Ấn Độ, Nga…Nào là những trận động đất, một ngày một lan rộng, phá hủy bao nhiêu công trình kiến trúc và giết hại biết bao sinh linh vào thế kỷ XVIII. Ngừơi ta phải hỏang hốt tự hỏi tại đâu có sự sát hại ấy , và sát hại để làm gì? Nào là những điềm Trời đã xảy ra ứng với lời tiên tri của Chúa như cuộc thiên âm , địa hôn ở thành Lisbonne năm 1755, những vì sao băng mà ông J.H. Fabre đã tường thuật.
Nhưng càng thảm khốc và khủng khiếp hơn nữa là những cuộc chiến tranh, những thảm họa xảy ra ở các nước.
Trong thế hệ gần dây, lòai người đã bước vào một thời kỳ chiến tranh tàn sát ghê gớm. Liên tiếp không có lúc nào lòai người không giết nhau, nào là trận giặc Tôn giáo, tận giặc một Trăm năm, những cuộc cách mạng giết hại nhân lọai không biết cơ man nào mà kể. Khi phát minh thuốc súng và sử dụng đại bác trong chiến tranh, người ở thời kỳ ấy phải kinh khủng mà thấy cuộc tàn sát đã đạt đến một phạm vi quá rộng.
Nhưng nếu đem sánh với các cuộc phát minh cận đại, người ta mới hỏang hốt với sức tàn phá sát hại của bom nguyên tử, khinh khí là đến bực nào. Gần đây Tổng thống Mỹ-quốc còn tuyên bố sẽ đem dùng một thứ bom có thể giết hại 150.000 sinh mạng dễ như chơi, sức tàn phá của nó bằng cả 20.000 tấn thuốc nổ.
Ông Walther còn dẫn lời tiên tri của nhà bác học Berthelot viết từ năm 1869 cho biết rằng: trong vòng 100 năm khi mà người ta phát minh được nguyên tử lực thì chính đó là thời kỳ tiêu diệt.
Một điềm thảm khốc cho nhân lọai nữa là nạn đói hoành hành trên thế giới. Một con số không ai ngờ được là đã có 7 triệu người chết về nạn đói. Trong lúc ấy, trái lại dân số tăng gia quá sức tưởng tượng, cho đến nguồn tài nguyên không đủ cung cấp, mặc dầu đã bị giết hại vì chiến tranh, vì bệnh dịch…
Tình thế xã hội đã vô cùng khốc liệt, người ta nhận thấy càng ngày càng tiến đến chổ sụp đổ và tinh thần con người càng ngày càng hư hỏng, suy đồi.
Nhưng ông Walther không lấy đó làm bi quan, vì con người vẫn chưa đến tuyệt vọng. Ông cho biết hiệu lực vô biên của một nguồn hy vọng. Có nhận thấy sự an vui trong lòng và một nguồn hy vọng không lay chuyển chăng, là những ai đã biết đặt đức tin của mình vào những giá trị tinh thần và vào sự giáng lâm của Đấng Cứu Thế, là con đường duy nhất, là chân lý và là sự sống
Nhưng ngày nào Đấng Cứu Thế ra đời, ngày nào mới Tận Thế? Không ai có thể biết được ngày giờ, chỉ trừ ra Chúa . Ngày Tận Thế chắc chắn sẽ đến.
Những điềm xảy ra ở trên Trời , trên quả địa cầu, trên xã hội lòai người, nhất là những tai họa và đau khổ dập dồn đưa đến cho nhân lọai, là những báo hiệu cho thời kỳ đã cận rồi.
Hãy nhìn lên trời để theo dõi những biến động của vũ trụ, hãy nhìn thời triệu thì hẳn thấy ngày Tận Thế đã gần lắm rồi. Hiện trạng ngày nay không thể kéo dài hơn nữa.
Tận Thế đã gần chưa ?
Đó là quyển sách của ông Joseph Monnier viết , do hội Cơ-đốc Phục- lâm cho phát hành, mà chúng tôi xin lược thuật dưới đây :
“ Kính Chúa , xin Ngài cho chúng tôi biết chừng nào sẽ đến và thế nào là điềm Ngài giáng lâm và ngày Tận Thế ?”.
Đó là câu hỏi quan trọng mà các tín đồ một hôm ngồi trên núi Oliviers hỏi Chúa. Ngài bèn giảng cho nghe về sự không bền bĩ của mọi vật ở dưới cõi đời này và cho biết trước cuộc tàn phá thành Jesusalem và giáo hội của nó.
Nhưng ngày nào Chúa trở lại? Đó là điều không khỏan nào trong kinh thánh cho biết trước. Nếu nói rằng người ta không thể biết gì hết và không có điềm nào báo trước ngày giáng lâm cấp bách của Chúa Cứu Thế, tức là không hiểu khi Chúa phán: “ Các ngươi hãy hiểu rằng bằng sự tỷ dụ về cây vải. Khi mà cành nó trở nên non xanh và lá mọc ra, các ngươi biết đó là mùa hạ đã gần. Cũng như khi các ngươi thấy mọi điều ấy thì nên hiểu rằng Chúa của lòai người đã đến gần bên cửa.”
Nhưng có những điềm nào báo rằng Chúa đã đến gần bên cửa?
NHỮNG ĐIỀM DƯỚI ĐẤT. Hãy nhìn trở ngược lại , chúng ta nhận rõ nguyên do và ý nghĩa của những cuộc nhiễu lọan trong trật tự thiên nhiên. Nổi lọan chống lại Chúa và luật của Ngài, con người cũng như trái đất, đã trở thành một đối tượng của sự bất hạnh rồi. Cho nên, ngay từ đó, trái đất đã sản xuất những lau sậy và gai gốc, và con người phải làm hết sức mình mới kiếm được miếng ăn. Mỗi bước vượt qua luật tinh thần và tự nhiên là dìm nhân lọai trong một trạng huống thấp hèn và yếu đuối về tinh thần và vật chất.
Con người từ đó trở đi không còn được chết thỏa thích như ông bà tổ tiên nữa, mà bị xâm chiếm , cuốn lôi đi bởi tật bệnh và nhân lọai sẽ tàn tạ bởi những bệnh dịch một ngày một nhiều và ghê gớm .Tuổi thọ sẽ xuống dốc và sự sanh sản thì đầu hàng trước sự tiến triển của nạn rượu, bịnh phong tình, ho lao, ung thư….
Người ta càng tiến gần đến thời kỳ mà Thánh kinh gọi là “ Thời giờ cuối cùng” hay “ ngày cuối cùng ” thì những điềm ấy càng trở nên thống khổ.
Quả đất chừng như hòa hợp với sự hỗn độn ấy. Không còn mùa tiết nữa. Trận địa chấn càng ngày càng nhiều, gieo sự hỗn lọan, chết chốc…
Người ta kể không dưới 14 triệu sinh linh đã chết trong những trận địa chấn từ ngày Chúa cho đến nay. Một lần nữa, lời của Chúa được xác nhận trong câu tiên tri: “ Sẽ có những cuộc địa chấn ở mọi nơi”.
Những biến cố này là triệu chứng của sự suy yếu, nó dạy ta rằng trái đất đã già cỗi cũng như một chiếc áo, hay lảo đảo như một cái chòi, vì tội lỗi của nó đã đè nặng lên nó. Một điều nữa là tiền bạc đã mất giá trị và những kẻ tôn thờ nó sẽ lâm vào nạn khủng hỏang.
Nhân lọai sẽ lâm vào tình trạng hỗn độn. Dầu xây qua bên nào, người ta cũng gặp những tiếng uất hận. thở than, thoi thóp của một thế giới sắp tàn nhưng không muốn chết.
NHỮNG ĐIỀM TRÊN TRỜI. Chúa đã cho biết: “các ngươi sẽ thấy những điềm trên mặt trời, trên mặt trăng và trên các vì sao”. Và Chúa thêm rằng: “Liền sau những ngày nguy cấp ấy, mặt trời sẽ tối đi, mặt trăng sẽ không có phát ánh sáng, các vì sao sẽ rơi rụng và quyền lực của các cõi Trời sẽ lung lay…”
Và một điềm lạ lùng là cuối thế kỷ XVIII đã xảy ra điềm thứ nhất mà Chúa đã báo trước: đó là cuộc thiên âm địa hôn.
Ông Herschel, nhà thiên văn học đã nhận thấy điềm ấy , có nói : Ngày thiên âm địa hôn ở Bắc Mỹ là một hiện tượng kỳ dị của tạo hóa mà không một nhà triết học nào có thể cắt nghĩa được.
Về vấn đề này , ông Noah Webster tiến sĩ luật nước Anh cho biết :
Ngày thiên âm địa hôn hôm 19 May 1780 bao trùm cả nước Anh trong ngày ấy. Ở nhiều nơi, ngay ở ngòai trời cũng không đọc được một chữ thường, điều đó xảy ra trong nhiều giờ liên tiếp. Chim chóc thì hót những giọng về chiều, ẩn núp và trốn về tổ luôn, gà vịt thì kéo nhau lên gác, thú vật thì kéo vào chuồng, còn trong nhà thì phải thắp đèn. Cuộc thiên âm địa hôn này bắt đầu từ mười giờ mai cho đến nửa đêm sau…
Điềm thứ hai mà Chúa báo trước là mặt trăng mất ánh sáng.
Báo Independent Chronicle ở Boston ngày 8 Juin 1780, có kể:
Trong thời gian ấy, một màu đen bao phủ vạn vật. Sự hôn ám của đêm này không phải là chẳng thường thấy và khủng khiếp như điềm xảy ra ban ngày. Trăng tuy tròn hay hơi tròn , mà người ta chẳng thấy vật, nếu không nhờ ánh đèn.
Điềm trời thứ ba , là nhiều vì sao rơi rụng. Hiện tượng này đã xảy ra ngày 13 November 1833, Bác sĩ Seiss đã tường thuật:
Những người được diễm phúc trông ngắm các vì sao rơi rụng đêm 13 November 1833 có thể nói đã dự một cuộc đốt pháo bông vô cùng uy nghiêm mà từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa từng có, hay ít nhất từ thời kỳ có sử. Về mặt lan rộng , hiện tượng đã bao trùm một phần lớn mặt địa cầu, từ giữa Đại tây dương phía Đông cho đến Thái bình dương phía Tây và từ bờ Mễ tây Cơ phía Nam cho đến vùng vô định của Gia-nã-Đại phía Bắc. Cảnh tượng rất rõ và nơi nào cũng thấy rõ như thế .
Trong ba giờ xảy ra, hàng trăm hàng vạn người , thấy trong hiện tượng ấy, sự hòan thành lời tiên tri của Chúa. Họ đều hỏang hốt. Chừng như các vì sao ấy thình lình thay hướng để rơi xuống đất . Những người mục kích cảnh tượng này đều mô tả như là một sự uy nghiêm ghê gớm
Đó các điềm tiên tri của Chúa . Nó đã hòan-thành, Bây giờ chỉ còn chờ ngày giáng lâm của Chúa.
Nhân loại có biết hưởng và có hiểu rằng : “ Chúa không chậm trễ trong sự hoàn thành lời hứa, cũng như nhiều người tin rằng. Ngài lấy sự kiên nhẫn đối với chúng ta, không muốn một ai phải chết, mà muốn cho mọi người tiến đến sự hối cải”.
Chúa còn dặn những ai trông chừng: “Khi những việc ấy khởi sự đưa đến, các ngươi hãy trỗi dậy mà ngước đầu ngó lên, vì sự giải thóat của các ngươi đã đến”.
Những điều tiên tri này có giống các tôn giáo khác chăng? Và ngày tận Thế có gần chưa?
-
CHƯƠNG THỨ HAI
PHẬT-GIÁO
Thời kỳ Phật Di Lặc ra đời
Về vấn đề Tận-Thế, trong các kinh Phật cơ hồ không có đề cập đến, mà chỉ thường nói đến định luật: thành, trụ, họai, không, của vũ trụ vạn hữu là nhiều. Song trong kinh Phật có cho biết rằng: ở khỏang đời hiền kiếp có năm vị Phật là: Câu-lưu-tôn Phật, Câu-na-hàm Phật, Ca-diếp Phật, Thích-Ca-Mâu-Ni Phật và Di-Lặc Phật. Cứ theo lời Phật Thích Ca mách trước trong kinh thì sau này vào đời mạt pháp sẽ có Phật Di Lặc ra đời là một vị Phật thứ năm trong hiền-kiếp để nối ngôi Phật Thích Ca giáo hóa chúng sanh.
Chừng nào Phật Di Lặc ra đời? Đó là một câu hỏi mà đến nay chưa thấy kinh nào định rõ ngày giờ.
Nhưng chiếu theo nhiều kinh điển đã có trong đạo Phật để mà xét đóan, thì lúc Phật Thích Ca còn đương tiền, thuyết pháp cho đến sau khi nhập diệt tới nay chia ra ba thời kỳ là: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.
Thời kỳ Chánh-pháp là thời kỳ đức Phật còn tại tiền thuyết pháp, các đồ chúng rất tinh tấn hành y theo Phật pháp, cho nên phần đông được ấn chứng Phật qủa. Thời kỳ này phỏng được năm trăm năm sau khi Phật nhập Niết-bàn.
Thời kỳ Tượng-pháp là thời kỳ sau khi Phật nhập diệt năm trăm năm, có các vị tổ được truyền y bát thỉnh thỏang nối nhau mà xiển-dương Phật pháp, các đồ chúng nhờ đó mà tu hành đắc quả có nhiều, song không bằng thời Chánh pháp. Thời kỳ này dai dẳng được một ngàn năm.
Thời kỳ Mạt pháp là thời kỳ sau một ngàn năm của thời Tượng pháp, Phật-pháp suy vi, đồ chúng lảng mất, chánh tín quay lại tà tưởng mà chia xẻ nhau ra từng khối, rồi mạnh ai nấy lo tranh danh đọat lợi bỏ luống Phật pháp, cho nên ít có người được chứng quả, thời kỳ này kéo dài cả 10.000 năm.
Như thế, nếu chiếu theo Phật lịch năm nay 2515 năm, thì đây là tới lúc của Phật Di Lặc giáng sanh.
Nhưng sự phân định thời gian ấy có quả đúng chăng? Và thời kỳ mạt pháp diễn ra thế nào để nhận thức đã đến hay chưa đến? Và ngòai Đức Di Lặc ra còn vị nào ra đời cứu vãn cho thời kỳ ấy nữa chăng?
Trong kinh Pháp-trụ có kể rằng:
“ Hồi Phật gần nhập Niết bàn có di chúc với Ngài A-Nan rằng: Sau ta diệt rồi, đến đời mạt pháp các môn đệ của ta bỏ các giáo-pháp, cứ tập theo cái thuyết không chánh đáng, chẳng chịu tu giới, tu huệ, lại nhóm nhau những đồ hung đảng ác, thấy ai có giữ được giới hạnh thì sỉ nhục chê bai. Vì cớ ấy nên các vị Thiên Long buồn sầu mà xa lìa, còn các vị Đại thần và Trưởng giả thì không sanh lòng tin kính Tam-bảo, làm cho chánh pháp muốn diệt.
“Từ đó về sau đám Tỳ khưu ấy tạo ác càng ngày càng lắm, rồi nhờ có những người Tỳ khưu khác biết giữ gìn sự thanh tịnh tu hành, lại đem giáo pháp của Như Lai mà diễn nói cho các lòai hữu tình nghe, làm cho thảy đều được phần lợi ích.
“ Khi ấy lại có các vị Quốc Vương, Đại thần, Trưởng giả, Cư sĩ và những thiện nam tín nữ, đều sanh lòng thương tiếc chánh-pháp của Phật, thờ phượng ngôi Tam-bảo, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen hết lòng hết sức ra hộ trì cho đặng trùng hưng. Đó là các vị Bồ tát lấy cái bổn nguyện rất to lớn mà sanh ra đời ấy đặng giữ gìn Phật pháp và làm ích lợi cho chúng sanh như vậy.”
Xem thế rồi nhìn lại cuộc đời hiện nay không khỏi khiến cho nguời băn khoăn sanh ra nghi vấn.
Huống chi, khi đọc qua kinh Đại- tập, về khỏan phân định thời kỳ sau Phật diệt-độ càng làm cho người ta phân vân hơn nữa.
Cứ theo kinh Đại-tập, thời kỳ sau khi Phật tịch diệt chỉ có hai ngàn năm trăm năm, phân làm năm thời kỳ như sau:
- Một là năm trăm năm thứ nhất, thuộc về thời kỳ Giải- thóat kiên cố, nghĩa là trong thời kỳ này những người Đạo-nhơn căn-tánh cao siêu, trí huệ sáng suốt, y theo giáo lý của Phật mà tu hành, đều tùy theo phẩm hạnh mà chứng pháp giải thóat.
- Hai là năm trăm năm thứ hai, thuộc về thời kỳ Thiền-định kiên-cố, nghĩa là trong thời kỳ này, phần nhiều Hành-giả căn-tánh tính-cần, trí-huệ điềm-tịnh, y giáo lý mà tu tập các pháp thiền-na, đều tùy theo phẩm hạnh mà chứng đặng định-quả, hữu-lậu hay vô-lậu của hàng Đại-thừa hay Tiểu-thừa.
- Ba là năm trăm năm thứ ba, thuộc về thời kỳ Đa-văn kiên-cố, nghĩa là trong thời kỳ này phần nhiều Hành-giả tâm-tánh sáng láng, tánh chất lanh lợi , y theo mười hai bộ kinh của Phật dạy mà tu hành, hiểu thấu các môn giáo lý hạnh quả và các phép đốn tiệm.
- Bốn là năm trăm năm thứ tư, thuộc về thời kỳ Thấp-tự kiên-cố, nghĩa là trong khỏang thời gian ấy, phần nhiều những người học đạo căn tánh hẹp hòi, chí hướng cạn cợt, chẳng gắng công tu tập, chỉ ưa làm mọi sự hữu vi, đem của riêng mà lập chùa xây tháp, đúc Phật, ấn kinh. Vậy nên sau khi lâm chung, nhờ phước duyên ấy mà hưởng quả báo nho nhỏ trong cõi Nhơn-Thiên.
- Năm là năm trăm năm thứ năm, thuộc về thời kỳ Đấu-tranh kiên-cố, nghĩa là trong thời kỳ này, phần nhiều những kẻ tu hành, tâm hay háo thắng, ý thường ganh ghét, tuy là đồng tu một tôn giáo mà đối đãi nhau như kẻ ngọai đạo. Nhất là chấp chỗ học vấn của mình là phải, mà cho sự kiến giải của người là sai.
Cứ theo kinh Đại- tập thì năm thời kỳ này thì kéo dài cả đến hai ngàn năm trăm năm. Và theo Phật lịch thì năm nay là năm 2515. Càng làm cho người đời băn khoăn hơn nữa là khi đem so sánh thời kỳ Đấu tranh kiên cố với hiện tình, lòng không khỏi ngạc nhiên mà nghi quyết cho lúc này đã lọt trong thời kỳ mạt pháp rồi và sắp đến giai đọan của Phật Di-Lặc ra đời giáo đạo trong một ngày gần đây.
Nhưng điều mà hầu hết giới người tu hành muốn biết khi Phật Di Lặc ra đời, xã hội lòai người vẫn còn giữ nguyên-trạng hay phải có cuộc biến-thiên.
Cứ theo kinh-điển thì mỗi khi có một vị Phật ra đời là có mở Hội hóa-độ. Như Đức Nhiên-Đăng Cổ Phật có lập Liên-trì hội, Đức Phật Thích-Ca thì mở Hội Linh-Sơn để cư-hội các bực La-Hán và Bồ-Tát. Đến Phật Di-Lặc cũng thế. Hội của ngài sẽ lấy tên là Hội Long-Hoa, bởi ngài ngồi dưới cội cây Long-Hoa mà đắc đạo. Chính vì đó mà Hội của ngài sẽ lấy tên là Hội Long-Hoa.
Mặc dầu trong kinh Phật không nói đến Tận-Thế, nhưng khi biết rằng sau này Phật Di-Lặc ra đời nối ngôi Phật Thích Ca lập ra Hội Long-Hoa hóa độ chúng sanh và quốc độ của Phật Di-Lặc vô cùng trang nghiêm khác hẳn cõi Diêm-phù-đề này tức là quả địa-cầu của chúng ta đang ở, không khỏi khiến nhiều người phải tự hỏi: cõi Diêm-phù-đề sẽ trở thành quốc độ của Phật Di-Lặc bằng cách nào? Nếu không phải là một cuộc Tận-Thế hay một cuộc thay đổi địa hình, hay xê dịch vị trí của quả địa cầu?
Trong kinh Di-Lặc, Phật cho biết rằng: sau này Phật Di-Lặc hạ sanh lấy hiệu là Từ-Thị. Quốc-độ của Ngài là một quốc độ vô cùng trang nghiêm. Lầu đài đều làm bằng bảy báu. Đâu đâu cũng có ao trong, có đủ thứ hoa thơm. Mặt đất thì bằng phẳng chẳng có gai gốc, chỉ mọc toàn cỏ nhuyễn xanh, người đi cũng như đi trên thảm. Người sanh vào cõi này đều là người có duyên lành, sống một đời vô cùng an lạc, không đau khổ, bệnh tật, phiền não. Thân hình đầy đủ oai nghi đẹp đẽ, sống lâu đến mươi ngàn tuổi, có đủ các thứ mỹ vị ngon lành, còn mặc thì khỏi phải dệt , vì có thứ cây sanh ra quần áo. Đến khi hết số phần thì vào rừng dành cho người đến đó nằm nghỉ luôn.
Trong nước thì:
Thảy trong bốn biển bình yên,
Không hay chiến đấu , cung tên chẳng dùng
Bủa ra chánh pháp trị chung
Đem nền bình đẳng rộng dung giáo đời
(Bản dịch của Đòan trung Côn)
Nhưng điều phước huệ nhất ở đời đó là chúng sanh được Phật Di-Lặc mở ra ba kỳ thuyết pháp hóa độ các linh-căn:
Kỳ đầu, thuyết pháp phổ thông
Độ Thinh-văn chúng rất đông, rộng nhờ.
Chín mươi sáu ức con người,
Chẳng còn phiền- não bít nơi , ngăn đường.
Kỳ nhì, thuyết pháp tỏ tường,
Cũng là độ rộng các hàng Thinh-văn.
Chín mươi bốn ức mạng căn,
Được qua khỏi biển tối tăm mê mù.
Kỳ ba, thuyết pháp rộng sâu,
Độ Thinh-văn chúng số hầu cũng đông.
Chín mươi hai ức bổ đồng.
Tâm điều, ý phục, một lòng kính xưng.
(BẢn dịch của Đòan trung Côn)
Trong quyển Qui nguyên Trực chỉ . Đức Tông Bổn cũng cho biết sau Phật Thích-Ca là đến Phật Di-Lặc ra đời, lập Hội Long-Hoa mở ra ba trường thuyết pháp hóa-độ các bực A-La-hán. Người sanh ra ở quốc độ ấy sẽ:
“ Sống lâu đến tám muôn tuổi, thân cao 16 trượng, tướng dạng nghiêm trang, không người xấu xa, con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng.
“Đời đó không có tai họa, cũng không lạnh nóng, cửa nẻo chẳng gài, không trộm cướp, y phục hóa sanh chẳng sự khó nhọc, vàng bạc châu báu đầy kho không người coi giữ, đất kia bằng phẳng không có gò hố, trên đất mọc cây hình tựa rồng vàng, trên hình rồng trổ bông nên kêu là Long-Hoa thắng-hội, nhân dân ở cõi đó cũng như cung Trời thong thả, trên cõi lợi-thiên.
“ Chỉ có ba sự khổ chẳng đặng trọn hưởng vui vẻ: một là ăn uống, hai là lợi-tiện, ba là suy lão; bằng khi lợi tiện thì đất nức ra, tiêu rồi đất bèn hiệp lại, trên mọc hoa sen đỏ, che chở mùi hôi; người đến lúc lâm chung đến chổ huyệt mà chết; thần thức sanh về cõi Trời, chẳng sa thú dữ. Bởi cớ sao? Là bởi người cõi ấy đều làm việc lành, cho nên sanh về cõi Trời.
“ Đức Di-Lặc Phật, hội ban đầu nói phép, chín mươi sáu ức người đặng quả A-La-Hán, ba mươi sáu muôn vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người được bực nhị thừa tứ quả. Đại hội thứ hai nói phép, chín mươi bốn ức người được chứng quả A-La-Hán, sáu mươi bốn ức vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người được bực tứ quả. Đại hội thứ ba nói phép, chín mươi hai ức người đặng quả A-La-Hán, ba mươi bốn ức vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người được bực nhị thừa tứ quả.
“ Đức Di-Lặc trụ thế sáu muôn tuổi thuyết pháp độ chúng sanh; khi Ngài trở lại cõi Niết-bàn rồi, chánh-pháp trụ thế cũng như vậy, tượng-pháp trụ thế cũng như vậy. Việc Long-Hoa tam hội nói sơ như vậy, còn nghĩa lý mầu nhiệm, đều đủ trong kinh văn thuật hết chẳng đặng vậy”
Từ trên đến đây cả bộ kinh Di-Lặc và quyển Qui nguyên Trực chỉ, chỉ nói qua Hội Long-Hoa và quốc-độ của Phật Di-Lặc, chớ không nói đến cuộc chuyển biến cõi Diêm-phù-đề ra quốc-độ của Phật Di-Lặc ra làm sao?
Duy có Hứa-Sử truyện, trong đọan nói Hứa-Sử bị bắt lầm xuống Diêm-Vương, có nói đến sự chuyển biến ấy, bằng mấy câu thơ này:
Rồi đây trở lại Dương-trần,
Rằng ta nhắn bảo nhân dân cõi đời
Từ đây sắp xuống khốn nàn
Đến sau họai kiếp tiêu tan Đất Trời
Sau Di-Lặc Phật ra đời
Ba tràng thuyết pháp độ người thiện căn
Phước duyên thị mạng bội tăng
Long Hoa sanh hóa, mặc ăn lo gì
Những quan điểm này sẽ được xác nhận trong sấm kinh của Cao-Đài giáo và Phật giáo, phái Phật-Thầy Tây An.
-
CHƯƠNG THỨ BA
CAO ĐÀI GIÁO
Với Cao Đài giáo thì danh từ Tận-Thế và Hội Long-Hoa không còn xa lạ nữa. Trong quyển Đại-thừa Chơn-Giáo, hai danh từ này được nhắc đến luôn.
Sở dĩ các đấng thiêng liêng xuống cơ mở đạo, cũng chẳng qua là báo trước cho người trần biết cơ tận-diệt đã hầu kề và Hội Long-Hoa sắp mở, để thức tỉnh người đời trở về con đường đạo đức cho kịp Hội Long-Hoa.
Bởi thế trong bài Thánh-tựa là bài đầu của quyển Đại Thừa Chơn-Giáo, lời kêu tha thiết trước nhất là lời :
Minh Chơn-Đạo thời kỳ mạt-kiếp
Thức-tỉnh đời cho kịp Long-Hoa
Luôn luôn danh từ Tận-Thế, thời kỳ mạt kiếp được nhắc đến. Dưới đây chúng tôi trích một vài đọan :
Gần Tận-Thế Ngôi Hai ra mặt,
Đặng toan phương dìu dắt chúng sanh.
Chỉ đường cội phước nguồn lành,
Giác mê tỉnh ngộ tu hành siêu thăng
Cuộc tan thương dữ dằn trước đó.
Mà nào ai có rõ chi đâu !
Rồi đây chúng chịu thảm sầu,
Không nương đạo đức khó hầu tránh tai.
Nạn khổ cuộc tương lai dữ dội,
Nhân vật đồng thay đổi tiêu tan.
Có ai thấu máy hành tàng ?
Dinh hư tiêu trưởng rõ ràng không sai.
Và cơ tận diệt được các đấng thiêng liêng cho biết đã gần kề, như đọan :
Nguồn Đạo Đức thâm vi nhiệm-lý
Bổn chơn truyền lập chí tìm ra.
Mấy dinh hư chẳng có bao xa.
Nguồn tận-diệt bày ra trước mắt.
Cuộc xáo trộn Đông, Tây, Nam, Bắc,
Nạn chiến tranh đạo tặc dẫy tràn,
Ôi ! Muôn nhà trăm họ lầm than
Chịu khốn khổ tai nàn thảm thiết !
Đạo ra đời là đời tận diệt
Nên Phật, Tiên cho biết mà tu,
Người thế thường chắc những hèn ngu,
Cắm cổ chết trong ngục tù tội lỗi
Xem đó đủ thấy vấn đề Tận-Thế đã được Cao-Đài giáo xác nhận, và ngày tận diệt cũng được Cao-Đài giáo xác nhận, và ngày tận diệt cũng được báo nguy là chẳng còn xa, nhưng quyết định thời kỳ nào thì không thấy nói đến.
Những lý do về Tận-Thế
Vì lý do gì mà có cuộc Tận Thế, có cuộc biến thiên làm cho đời tận diệt ? Quyển Đại Thừa Chơn-Giáo cho biết nhiều lý do mà chúng tôi xin lược trình dưới đây :
1/ Đời sống vật chất hỗn lọan: Thứ nhất là vì loài người càng xu hướng theo đường vật chất, bỏ hết đạo nghĩa.
“ Cứ mãi đeo mang lấy thói thấp thường, chuộng cái hư danh giả trá, toan lòng độc ác, chém giết lẫn nhau vì phân màu da, nước tóc, chỗ ở , miếng ăn , chớ không đem bổn phận làm người đối với nhân quần xã-hội. Càng ngày càng xa con đường Thiên-lý, bỏ hết sự tự nhiên thanh tịnh vô vi mà mãi đắm say về thực tế. Điểm linh hồn phải chịu dưới quyền hành của nhân dục khiến sai, làm cho càng ngày càng tối tăm mù mịt thì mong chi thóat khỏi trầm luân nơi biển khổ được.”
Vì quá chạy theo thị-dục mà lòng người trở nên hung ác :
Càng ngày chí thiện càng xa.
Nhơn tình đạm bạc, lòng tà dấy lan.
Đời này hung bạo ngỗ ngang,
Lòng người bất chánh, dạ càng bất nhơn.
Nên chi quỉ giận, Thần hờn ,
Trời ghen Đất ghét chịu cơn thảm sầu.
Họa tràn dẫy khắp năm châu,
Thiên tai, Địa ách khó hầu thóat thân.
Xanh kia một đấng cầm cân,
Thưởng răn cho kẻ hữu phần, vô duyên.
Thấy đời thêm luống não phiền,
Vô hình Phật, Thánh, Thần, Tiên thở dài.
Mà một khi lòng người trở nên hung ác rồi thì sự giết hại lẫn nhau càng ngày càng thêm chất ngất.
“Ôi ! đời đã đến thế thì đời chỉ là một trường tranh đấu kịch liệt, một cuộc tàn sát ghê gớm, nạn khó dẫy đầy, đao binh chất ngất, đạo tặc lung tung cho đến đỗi cùng chung một bọc, cùng chung một nòi mà cũng tương tàn tương sát lẫn nhau cho vừa lòng dục, thì còn chi phong tục kỷ-cương tình nghĩa.
“ Đời đã đến thế thì dầu ai trí cả tài cao bực nào cũng đành thúc thủ vô sách, chớ có thế gì khiến nổi nhơn tâm, dường ấy là đời sắp tận vong tiêu diệt đó.”
Lý do về cõi đời sắp tàn tạ này của Cao-Đài giáo, chúng ta thấy không khác lý-do về Tận-Thế của Cơ-Đốc giáo.
2/ Đời sống tinh thần suy đồi : Ngòai lý do về vật chất, còn lý do về tinh thần cũng là một lý do làm cho đời con người tiến đến cơ tận diệt. Quá sùng phụng vật chất, chỉ biết có vật chất, nên con người càng mất dần tinh thần đạo đức. Các nền đạo giáo cũng vì đó mà thất chơn truyền , sa vào lối mê lầm, hư hại.
Không kể những đạo giáo khác, chỉ nhìn vào đạo giáo ở Đông phương, cái cơ suy đồi của tam giáo: Nho, Thích, Đạo đã thấy rõ rệt lắm rồi.
“ 1.- Đạo Thích, Đạo Thiền bày dị đoan từ đời Thần-Tú làm mê hoặc chúng sanh. Vậy cũng phổ độ, cũng giựt giành mà chỉ đem con người vào đường u-ám, lạc lầm. Kinh sấm truyền lại mà không khảo cứu, kiếm tìm cho ra chân lý, chẳng định trí tham thiền, không gom thần nhập định.
“ 2.- Còn Nho-giáo, sau đời Mạnh-Tử, càng ngày càng lạc lầm, đường Thiên-lý chẳng cần, chỗ thâm-nhiệm không rõ, chỉ học đặng khoe tài hay giỏi, dục lợi cầu danh, tổn nhân ích kỷ, chớ không chịu học để sửa mình, tầm hiểu cho tột cùng cái lý cao siêu huyền bí, cái cơ nguồn cội muôn lòai.”
“ 3.- Còn Đạo-giáo là huyền bí, chỉ có người bực thường trí mới thấu đáo chỗ căn-nguyên, còn bực thường-nhân hạ-trí thì rất khó thông cơ mầu nhiệm, bởi vậy mới hiểu lầm mà bầy ra phép tắc, phù chú làm cho mê hoặc thói đời thêm hư phong tục, khiến người nhiễm lấy dị đoan nào là hô phong hóan-võ, tróc quỉ, trừ ma, bày binh, bố trận, mới biến ra tả đạo bàn môn, thiệt là rất hại.”
Cái nền tảng vật-chất đã hỗn lọan như thế, nền tinh thần đạo đức đã suy đồi như thế; luật tự nhiên của vũ trụ đã sai lệch thì đó là nhân tố đưa đến con đường biến chuyển đúng với luật tuần hòan ; hết suy tới thịnh.
3/ Lý tam ngươn: “ Các con khá biết: Đạo có ba ngươn, ba ngươn ấy là cái số cuối cùng của Trời, Đất. Trứơc hết mở đầu là THƯỢNG NGƯƠN. Thượng Ngươn đây chính là “Ngươn tạo hóa” , là ngươn đã gầy dựng cả Càn-Khôn Vũ-Trụ. Vậy khi mới tạo Thiên, lập Địa, nhân lọai sanh ra thì tánh chất con người rất đỗi hồn-hồn ngạc-ngạc, còn đang thuần phát thiện lương, nên chi cứ phục tùng Thiên lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân tương ái. Thời kỳ ấy người người đồng hấp thụ khí thiên nhiên, nên hằng cọng hưởng thanh nhàn khóai lạc mà vui say mùi Đạo tháng ngày. Bởi đó đời thượng cổ mới có danh là đời THƯỢNG ĐỨC, mà Thượng Ngươn ấy cũng kêu là ngươn “ THÁNH ĐỨC” nữa.
“ Kế đó bước qua TRUNG NGƯƠN thì nhân tâm bất nhất, tập quán theo thói đời, thâm nhiễm những nết xấu mới làm cho xa mất điểm thiện lương bèn cậy ở sức mình mà hiếp bức lấy nhau, tương sát, tương tàn, mạnh còn yếu mất thì mới sanh ra biết bao trường huyết chiến, không còn kể đồng lọai, đồng chủng, đã lợt tình đồng nghĩa, đồng bào. Bởi đó đời Trung Cổ mới có danh là đời THƯỢNG LỰC, mà Trung-Ngươn ấy cũng kêu là ngươn “ TRANH ĐẤU” nữa.
“ Tiếp đến HẠ-NGƯƠN, sự tranh đấu ngày càng ráo riết, dữ tợn, gớm ghê thì nhân lọai lại chê sức mạnh mà dùng não cân, nên mới bày ra chước quỉ , mưu tà, kế sâu, bẩy độc, thiệt là khốc liệt phi thường. Song đó cũng lẽ tự nhiên, càng tranh đấu mới càng tấn hóa. Ngặt càng đấu tranh lắm lại càng ác liệt lắm, nên tranh đấu thét phải đến ngay thời kỳ tiêu diệt. Bởi đó đời hiện tại là đời MẠT-KIẾP, Còn Hạ-Ngươn này là ngươn “ĐIÊU TÀN”.
“ Nhưng hễ lọan là tới trị, vong tất phục-hưng, nên ngươn tiêu-diệt tất sẽ bước đến ngươn bảo tồn là ngươn Đạo-Đức phục-hưng, để sắp lập lại như đời thượng cổ, thế nên cũng gọi là ngươn “TÁI TẠO”.
“Vậy nhân lọai bước qua thời kỳ này là thời kỳ qui thống nhất, đại luân hồi của Thiên-Địa đó. Mà ngày nay đã đúng số nhất định của Tạo-Đoan , đã tới ngươn cuối cùng của Thiên-Địa, vì tính ra đã mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm, nên đã tới thời kỳ tạo Thiên, lập Địa một lần nữa.”
Cái lý về tam ngươn này cũng đồng một lý với Phật về sự phân chia ba thời kỳ của Phật là: Thời kỳ chánh pháp, thời kỳ tượng pháp và thời kỳ mạt-pháp.
Như ta đã thấy ở thời kỳ chánh-pháp là thời kỳ Phật ra đời phổ-hóa chúng sanh. Chánh-pháp rất thịnh cho nên người sanh ở đời này mỗi tu mỗi đắc. Qua thời kỳ tượng-pháp là thời kỳ xa dần chánh-pháp, cho nên việc tu hành buông lơi, kẻ tu thì nhiều mà người đắc quả thì ít. Kịp đến thời kỳ mạt pháp lại càng xa chánh-pháp không biết bao nhiêu, cho nên việc tu tỉnh rất bê trễ.
Con người sanh ra thời kỳ này háo danh, háo lợi, dầu cùng ở trong một tông phái cũng chia phe kết đảng tranh đấu nhau. Chính vì đó mà con người bước đến chỗ đốn mạt. Song luật tuần-hòan của vũ trụ vẫn không bao giờ dứt. Một khi đi đến chỗ cuối cùng thì chuyển sang qua một giai đọan mới để trở lại thời kỳ chánh-pháp, rồi tượng-pháp và đi đến kết cục là mạt-pháp. Chính Phật Di-Lặc sắp ra đời là để trùng hưng chánh pháp hay Thượng ngươn vậy. Cái lý của Cao Đài giáo không xa cái lý của Phật.
Nhưng ngòai cái lý về tam-ngươn, Đức Cao-Đài Tiên Ông còn giải thích cái cơ mầu-nhiệm về luật tiến hóa của quả Địa-cầu mà Ngài gọi là “quả Địa-Cầu 68” và chính đó là lý do thứ tư về đời tận diệt.
4/ Luật tiến hóa của Địa Cầu: “Đây Thầy luận qua “ quả Đại Cầu 68 của các con”, nó gần ngày tiêu-diệt.
“ Thầy không nỡ để cho các con chung chịu vùi lấp trong cuộc tang thương nên phải giáng-thế độ đời, thả Linh-Thòan mà đưa về Bồng-Lai Tiên-Cảnh.
“ Cái quả Địa-Cầu của các con ở đây nó gần đúng thời kỳ tan rã ấy là Thiên-Thơ. Thầy định trước ngày giờ, mà cũng vui cho các đẳng chúng-sanh được trổi bước lên một nấc thang cao vọi. Hễ Thế-giới này tiêu diệt thì linh hồn nhơn lọai tấn hóa sang qua quả Địa-Cầu 67 là nơi tiền định của Đạo mầu.
“ Thầy mới đến đây lần chót mà đem các con sang qua thế-giới nhẹ nhàng, còn những đứa mê muội, ngỗ ngang, tội tình thì lại bị tiêu tan ra gió bụi. Các con phải có ngày tận-tuyệt. Đứa nào thuận Thiên-cơ biết Đạo-đức thiện-từ thì Phật, Tiên chực rước, còn đứa nào cả ác độc,trược-trần khó mà
an thân ngày chót…
“ Vậy thì ngày nay thế giới đã đúng luật tuần-hòan, Thầy đến đặng sẽ đem các con vào một thế giới khác mà cho an nghĩ hầu tầm cơ siêu-xuất đến cảnh Thần-Tiên. Các con chẳng nên khinh lời ấy là dị-đoan, một ngày kia sẽ có.”
Xem qua bốn lý do vừa kể thì cơ tận diệt đã rõ rệt quá rồi. Các đấng Phật, Tiên, Thần, Thánh giáng bút đều chẳng biết bao nhiêu lần nhắc nhở và báo tước ngày Tận-Thế sắp đến. Cái định luật này đã dĩ nhiên của cơ tạo hóa, không có đấng thiêng-liêng nào làm ra hay cưỡng lại được. Chính dấng Cao-Đài Bồ-Tát đứng trước định luật ấy cũng không biết làm sao, đến phải than:
Thời kỳ nhân vật đổi thay
Nên chi Thầy mới ra tay độ hồn.
Thầy là chúa cả Càn-khôn,
Nhưng không thể sửa Phép-công Thiên-điều.
Thấy con phạm tội rất nhiều
Thương con xuống thế dắt dìu các con.
Bởi là Thiên-điều, là phép công của Tạo-hóa cho nên không làm sao sửa chữa được vì Tạo hóa bao giờ cũng vô tư, thưởng phạt rất công minh.
Cầm cân Tạo- hóa rất công minh,
Lành thưởng phước ban, dữ phạt hành.
Một mảy không ly, đời tưởng dễ,
Nạn tai dường ấy cũng chưa kinh
Mà luật thưởng phạt ấy, do đâu mà có? Nếu nói do đấng thần linh làm ra là sai cả luật Tạo-hóa công minh vô tư. Không đấng thần linh nào bày ra cả. Mọi sự phản khích trong đời đều từ con người mà ra. Hễ con người tạo ra cái nhân nào thì tất nhiên phải hưởng lấy cái quả ấy.Các đấng Phật, Tiên, Thần,Thánh thấu triệt cái luật nhân-quả muốn cứu đời cũng không biết làm sao được khi chúng sanh đã gây ra rất nhiều tội lỗi. Các đấng thiêng-liêng chỉ còn cách là khuyên người đời bỏ ác về lành, sống đúng theo con đường Đạo là con đường hướng thiện.
Đứng trước cơ tận-diệt, các đấng thiêng-liêng không nỡ ngồi yên phải đành giáng thế độ đời.
Thầy thương mở lượng từ-bi,
Giáng trần khai hóa Tam-kỳ Hạ-ngươn.
Nay là đúng cuộc tuần hòan
Phật, Tiên giáng thế ra ơn độ người.
Chấn hưng giáo lý Đạo-Trời,
Hầu toan đánh thức người đời tỉnh say.
Cách giáng thế độ đời của Tiên, Phật có nhiều lối ; hoặc ra cơ bút như Cao-Đài giáo, hoặc chuyển kiếp mượn xác trần như Phật-giáo phái Phật-Thầy Tây-An.
Khi giáng bút thức tỉnh người đời, các đấng thiêng liêng hằng báo cho hay trước sắp đến ngày tận diệt:
Ngươn hội chót lập thành cơ Đạo-Đức,
Để độ đời thóat vực biển sông mê.
Cuộc tan thương nay cũng gần kề
Đường chánh đại chưa hề ai bước đến.
Hoặc giả thấy đời sắp thảm khổ mà phải than “ Cuộc đời cay nghiệt, nhiều nỗi éo le, nạn nọ tai kia, kế đến ngày tạo Thiên, lập Địa. Máy hành tàng chưa thấu đáo, phép nhiệm-mầu cơ Tạo đã bày ra. Ôi là thảm khổ cho đời sẽ chịu vùi chôn trong cuộc tang thương biến đổi.”
Nhưng cơ tận diệt ấy sẽ diễn ra thế nào? Và chúng sanh sẽ bị tiêu diệt hết chăng?
Hội Long-Hoa là ngày phán đoán
Theo cơ bút của Cao-Đài giáo thì rồi đây sẽ có Hội Long-Hoa để chọn người hiền đức. Chỉ có người hiền đức mới đi đến Hội Long-Hoa. Còn những kẻ hung ác thảy đều bị tiêu diệt.
Hiếm hoi cuộc thế xoay vần,
Long-Hoa đăng bảng Phong-Thần chẳng lâu.
Thấy đời có biết gì đâu?
Không lo luyện tập Đạo mầu thóat mê.
Cả mang tội lỗi nặng nề,
Trong vòng tứ khổ khó bề lánh tai.
Cuộc trần nhiều lối chông gai,
Trời hôm bước khéo lạc lòai mạng nguy.
Như thế đủ thấy Hội Long-Hoa là một Hội lập ra trong thời kỳ tận diệt để chọn người hiền, một cơ hội hiếm hoi, mấy muôn năm mới có một kỳ. Hội sở dĩ được lập ra là vì con ngừời đã gây ra tội lỗi qúa nhiều, cũng như nhà ngục sở dĩ có là vì đã có người phạm tội. Như thế ai cũng có thể hiểu “ Hội Long-Hoa là ngày phán đóan, ai mưu tà, chước quỉ bị đọa đày. Bảng Phong-Thần trước mắt, cuộc dữ dằn là cuối buổi tương lai”. Đối với kẻ ác, Hội Long-Hoa là một cuộc phán quyết, nhưng đối với người hiền đức, Hội “Long Hoa vốn là trường thi để chọn trang tu mi Đạo cao Đức cả”.
Ngọc Hòang Thượng-Đế vận thần thông
Điểm đạo nhân sanh thóat não nồng.
Mở cuộc Long-Hoa chiêu Thánh Đức
Hưng truyền chơn lý phước cao phong.
Thế cho nên những “ kẻ hữu căn hữu phước…khá lập chí lo tu luyện cho kịp hội kỳ” vì là một cơ hội hiếm hoi mà lại là:
Kỳ đại-xá nam-bang hữu-phước
Mối chơn truyền gặp được là may.
Dầu người có tội tình mà biết ăn năn cải hối, lo lập đức tu thân cũng đều được ân xá, huống chi chính Nam-bang là nơi hữu phước hơn hết.
Lo lường thấu đáo đạo huyền vi,
Từ thuở năm xưa chẳng dám bì.
Một nước nhỏ nhen trong vạn quốc,
Ngày sau làm chủ mới là kỳ.
Nhưng vì đâu Nam-bang hữu phước thì không thấy giải, chỉ thấy nói:
Đông-phương hồng-phước cũng còn,
Nên chi Tiên, Phật chìu lòng độ nhơn.
Đã là một cơ-hội hiếm hoi cho những ngừơi hữu phước nên Phật, Tiên khuyên chúng sanh phải sớm cải ác tùng thiện, gắng chí tu hành cho kịp Hội Long-Hoa để cho khỏi đọa sa muôn thuở:
Đời vừa gặp lúc Hạ-ngươn,
Tang điền thương hải tuần hòan vần xoay.
Thiên cơ khó nổi tỏ bày,
May duyên mới gặp Đạo Thầy kỳ ba.
Rán tu kịp hội “Long Hoa”.
Trễ rồi một kiếp đọa sa muôn đời.
Dầu cho vật đổi sao dời.
Tu hành cũng được Phật Trời chở che.
Nhưng khi Hội Long-Hoa đã mở, những người hiền đức đã được chọn, đời sống tương lai sẽ ra thế nào? Đây là điều Đức Cao-Đài Thượng Đế cho biết:
“ Đạo phục-hưng là vì lòng bác ái, từ bi của Thầy thấy cuộc tuần hòan hầu mãn, cơ dĩ định cận kề, không lẽ để đám con thảy phải chung chịu trong cuộc tang điền thương hải, mà bị chôn lấp cả xác hồn, nên mới giáng thế phục hưng chơn truyền để chỉnh đốn đời U-Lệ trở lại đời Nghêu, Thuấn cho người người rõ Đạo Đức tu hành, hầu thuận theo Thiên-lý mà bỏ dữ làm lành và kềm nhơn-dục để xa đường tội lỗi.”
Chỉ biết đời hậu lai sẽ như đời Nghiêu, Thuấn hay hơn nữa:
Dựng đời Ngũ-Đế Tam-hòang
Trăm nhà muôn họ vững vàng thảnh thơi.
Chưa ai thấu đáo cơ Trời,
Rồi ra kích bác lắm lời dị đoan.
Chớ không biết gì nhiều hơn nữa. Duy có Sấm giảng của Phật giáo phái Phật Thầy thì mới thấy giải rõ cõi đời Thượng-Ngươn.
-
CHƯƠNG THỨ TƯ
Phật-giáo phái Phật-Thầy Tây-An
I.- Ông Sư-Vãi Bán Khoai
Đức Phật Thầy Tây-An mà dân chúng ở miền Tây Nam-Việt đều biết, chỉ là một kiếp trong nhiều kiếp của Đức Phật-Thầy. Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì Đức Phật-Thầy còn nhiều kiếp nữa như : Đức Phật Trùm ở Xà-Tôn, Đức Bổn-Sư ở núi Tượng, Đức Phật-Thầy Tây-An ở núi Sam, ông Sư Vãi bán Khoai ở Cao-Miên… và gần đây Đức Giáo-chủ Hòa-Hảo. Tôn chỉ đạo của Đức Phật-Thầy là gìn đạo Thích-Ca tu theo phép vô-vi, thế nên ít chú trọng về mặt hữu vi. Vì thế mà ít thấy lưu truyền Sấm Giảng, hoặc giả có nhờ môn đệ kết-tập chăng, cũng vì thất lạc mà không còn. Ngày nay chỉ thấy lưu truyền quyển Sấm giảng người đời của ông Sư-vãi Bán-Khoai là còn được đầy đủ. Cho nên về tài liệu để hiểu đạo của Đức Phật-Thầy, không thể vịn vào đâu hơn bút tích của ông Sư-Vãi Bán-Khoai.
Chắc sao cũng có người hỏi: Làm thế nào được biết ông Sư-Vãi Bán-Khoai là chuyển kiếp của Đức Phật-Thầy?
Có ba bằng chứng có thể tin được :
1.- Theo những lời của các môn đệ được gần Ngài kể lại hay được nghe Ngài giảng dạy.
2.- Theo quyển Sấm giảng người đời của Ngài có nhiều đọan Ngài đã bọc lộ, như:
Thương dân nói đã hết lời
Tôi nay thế vị thế lời Thích-Ca.
Hoặc như:
Tôi nay vâng lịnh Phật, Trời
Rao cho thiên-hạ dưới đời đặng hay.
Chỉ có Đức Phật Thầy mới dám xưng như thế.
3.- Theo Sấm giảng của Đức Giáo-chủ Hòa-Hảo, có chỗ cho biết:
Ở Cao Miên vì mến Tần Hòang
Trở về Nam đặng có sửa sang
Cho thiện tín được rành chân-lý
Mấy câu này đủ ám chỉ về ông Sư-vãi Bán-Khoai và chính trong Sấm-Giảng, ông Bán-Khoai cũng có viết:
Tôi đâu mà có an thân
Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần (Cao Miên).
Mến là mến nghĩa Hòang-Lân,
Thương là thương lấy vạn dân mắc nàn.
Cứ theo ba bằng chứng trên đây, không còn ai chẳng nhìn nhận ông Bán-Khoai là chuyển kiếp của Đức Phật-Thầy.
Phương chi giữa Đức Phật-Trùm , Đức Phật-Thầy Tây-An và ông Sư-Vãi Bán- Khoai vẫn có sự đồng nhất:
1.- Hay xưng Khùng Điên là để đối lại người đời ưa xưng khôn lanh, nhưng khôn lanh về đường tội ác. Mặc dầu là xưng Khùng Điên, nhưng mà thứ Khùng Điên của Phật, tỏ thấu cơ huyền. Trong Sấm-giảng người đời, ông Bán-Khoai đã xưng Khùng:
Khùng là Khùng Phật Khùng Trời
Cho nên Khùng biết việc đời hết trơn.
Và xưng Điên :
Điên này Điên Phật Điên Thầy
Chẳng sợ ai rầy nên nói cù- nhây
Các Đức Phật Trùm , Đức Phật-Thầy Tây-An và Đức Giáo-chủ Hòa-Hảo, vẫn thường xưng như thế.
2.- Hay giả dạng khi trẻ, khi già, khi kẻ ăn mày, đi hóa độ chúng sanh, thức tỉnh người đời. Ông Bán-Khoai có viết :
Hết trẻ thì tôi lại già
Hết già tới trẻ ai mà có hay.
Hoặc là :
Phật còn giả kẻ ăn mày
Ai mà biết đặng kẻ này thiệt hơn.
Ai có ở miền Hậu-Giang đều thường gặp những trường hợp Đức Bổn Sư, Đức Phật-Thầy Tây-An giả dạng đi cứu dân độ thế.
3.- Các lời giáo truyền của Đức Phật Trùm, Đức Phật-Thầy Tây-An, ông Sư-Vãi Bán-Khoai và sau này Đức Giáo chủ Hòa-Hảo vẫn giống nhau. Nhận định huyền cơ cùng tiên tri hậu vận không có chỗ nào khác nhau. Bởi thế khi đọc quyển Sấm giảng người đời của ông Sư-vãi Bán-khoai, ta có thể hiểu được tôn chỉ đạo của Đức Phật-Thầy.
Ta có thể nói quyển Sấm-giảng người đời đại diện cho tư tưởng cùng quan-niệm của cả phái Phật-Thầy. Như vậy trong tình trạng thiếu sót tài liệu như hiện nay, ta có thể bằng vào quyển Sấm giảng người đời của ông Bán-Khoai để hiểu Đức Phật-Thầy nói gì về Tận-Thế và Hội Long-Hoa.
Cũng như quyển Đại Thừa Chơn giáo của Cao-Đài giáo, quyển Sấm giảng người đời của ông Sư-vãi Bán-Khoai cũng mở đầu bằng câu đánh thức người đời rằng đời Hạ-Ngươn đã đến:
Hạ-Ngươn Giáp tý bằng nay,
Cơ trời đã khiến lập đời Thượng-lai
Và từ đầu chí cuối, danh từ Hạ-Ngươn vẫn được lập đi lập lại mãi, ý chừng muốn nhấn mạnh cho người đời luôn luôn để ý :
Hạ-Ngươn nay đã hết rồi,
Minh Hòang cầu Phật lập đời Thượng-Ngươn.
Hoặc với câu :
Hạ-ngươn Tuất Hợi đổi đời
Ngọc-Hòang hội nghị lập đời Thượng-Ngươn
Cứ theo ba câu vừa dẫn, đủ cho ta thấy rằng sự nhận định của ông Sư-Vãi Bán-Khoai không khác với Cao-Đài giáo về lý Tam-ngươn. Thời Hạ-Ngươn sở dĩ sắp mãn là để lập nên đời Thượng-Ngươn. Rồi cứ theo luật tuần hòan, sẽ bước qua thời-kỳ Trung-Ngươn để lọt xuống thời kỳ Hạ-Ngươn. Và luật tuần hòan cứ như thế diễn tiến mãi. Nay thì thời cơ đã mỏng manh :
Hạ-Ngươn như sợi chỉ mành,
Sao không tu niệm tranh giành làm chi ?
Và ông Sư-Vãi Bán-Khoai dám quả quyết rằng cơ Trời đã dĩ định:
Đời này như nước cờ cùng,
Nói cho già trẻ giữ gìn tu thân.
Xem qua xét lại mấy lần,
Cơ Trời định chắc không lầm bớ dân!
Bởi thế mà ông không ngần ngại truyền rao:
Rao cho bá tánh đặng tường,
Kinh này rốt việc rốt đời bớ dân!
Thời cơ đã mỏng manh, cơ Trời đã định nhưng đã gần chưa và do đâu biết nó sẽ đến?
Những điềm báo trước đời đã tới
Ông Sư-Vãi Bán-Khoai không ngần ngại mà cho biết đời đã cận lắm rồi. Quá cảm thương trần hạ nên ông không còn dấu nữa :
Cảm thương trần hạ gái trai,
Ra bài giáo thiện khỏi tai nạn sầu.
Bây giờ còn dấu chi đâu
Từ dây riết tới không lâu mà chờ
Nhưng sợ người đời vì chờ quá lâu mà đâm ra nghi ngờ, nên chi ông khuyên và quả quyết :
Trẻ già đừng có nghi ngờ,
Việc đời ngó thấy bây giờ tới đây.
Đã biết rằng đời Hạ-Ngươn sắp mãn, nhưng do đâu mà biết rằng đời đã tới ? Ông Sư-Vãi cho biết hai việc: một việc xảy ra ở cõi tục-phàm và một việc xảy ra ở cõi Trời.
Về cõi đời thì con người một ngày một trở nên hung ác, tranh giành cướp giật chém giết lẫn nhau, không còn thờ kính Phật Trời, nể kiêng cha mẹ, nói tóm lại là những điều gồm trong hai nhân tố : đời sống vật chất lẫy lừng và đời sống tinh thần đạo đức suy đồi, như đã thấy trong bốn lý do của cơ tận diệt mà Cao-Đài giáo đã đưa ra.
Cơ tận-diệt ấy còn biểu-hiện bằng những điềm Trời, cũng như trước kia Chúa Giê-Su đã tiên tri. Ông Sư-Vãi cho biết trước rằng :
Mây Trời mở hội đăng khoa,
Mười ba tháng chín Trời ra một điềm.
Trời chiều mây lặng gío êm,
Giờ Thân Trời mới nổi lên rõ ràng.
Điềm hiện ba sắc tam quang,
Sắc đỏ, sắc vàng, lại với sắc xanh.
Rồi ông kết luận :
Nói cho già trẻ đặng tường
Việc đời gần chớ không xa mà chờ.
Phật, Trời chiếu rõ tri-cơ,
Có nghe không ép, làm ngơ không nài.
Về điềm này, theo lời của một vài ông kỳ-lão kể lại, những người cùng thời với ông Bán-khoai đều mục kích rõ ràng, và nhờ đó họ tăng trưởng đức tin, một dạ tinh tấn tu hành.
Nhưng muốn cho người đời nhận thức một cách thực tế hơn, ông Sư-Vãi còn chỉ cho người đời để ý về thời tiết đã đổi xoay :
Đời đã Tận-Thế vậy mà,
Mùa Nam gío bấc, Đông thời gío Tây.
Mây trời nay đã đổi xoay,
Công danh có một hội này mà thôi.
Đó là những điều xảy ra trong cõi tục-phàm. Ngòai ra, cơ tận diệt, theo ông Sư-Vãi Bán-khoai, còn nằm trong quyền định đọat của cõi Trời. Và chỉ có các đấng Phật, Tiên mới rõ được. Điều này ngọai trừ người có tôn giáo, không có thể hiểu nổi. Ông Sư-Vãi cho biết rằng :
Cõi Trần khi dể Phật, Tiên,
Cứ theo vụ việc kiêu dèm liên miên.
Du-Thần tuần vãng chép biên.
Ghi tội ghi phước dưới miền trần gian.
Mãn trăng sổ nạp một lần,
Thiên-linh hội-nghị phán tường hiền trung.
Sổ kia sọan trước vân-trung,
Tội nhiều phước ít khó dung cho trần.
Cứ theo các kinh Phật thì cõi trần tức là Nam-Thiệm Bộ-Châu, cùng ba châu nữa là: Đông-Thắng Thần-Châu, Tây-Ngưu Hóa Châu va Bắc-Cu Lò Châu đều đặt dưới quyền chưởng-quản của Đức Ngọc Hòang Thượng Đế. Chính Ngài nắm luật thưởng phạt, nhưng cái luật ấy sở dĩ có cũng do nơi người trần. Hễ con người tạo nhân nào thì chịu quả ấy. Ngài chỉ giữ địa vị như một vị thẩm phán mà thi hành luật. Cứ theo bản thượng tấu của các Du-Thần thì:
Dương trần ít kẻ kính thành,
Mảng lo làm dữ việc lành bỏ đi.
Tội ác của người trần kể không xiết và không thể tha thứ
Tội dữ thiệt đã vô ngần,
Xem trong kinh sổ khó phần thứ tha.
Chính vì đó Đức Ngọc-Hòang Thượng-Đế định tiêu diệt
Hạ-Ngươn gian ác rất nhiều.
Thiên-đình Ngài muốn xử tiêu cho rồi.
Nhưng với lòng từ-bi bác-ái. Phật rất thương xót chúng sanh không đành để cho đời tiêu diệt, nên :
Tâu qua Ngọc-Đế một khi,
Thứ dung trần thế nhơn dân đặng nhờ.
Và Phật xin xá tội cho trần gian để Phật khuyên một lần chót. Ông Sư-Vãi cho biết :
Năm nay đời đã tới rồi,
Phật sai xá tội vậy thời cho dân
Hay là :
May mà Trời Phật bố ân.
Xá bớt tội nọ thanh nhàn tấm thân.
Về vấn đề xá tội, Cao Đài giáo nhận là kỳ xá tội lần ba.
Chính với sứ mạng cứu vớt chúng sanh trong thời kỳ Hạ-Ngươn này mà Phật Tiên lâm phàm, hoặc bằng cơ bút như đã thấy Cao-Đài giáo, hoặc giáng sanh như trường hợp ông Sư-Vãi Bán-Khoai.
Ông cho biết :
Thân tôi còn ở trong Trời,
Phật sai nên phải đôi lời giáo khuyên.
Hoặc là:
Tôi nay vưng lịnh Phật Trời,
Báo cho thiên hạ dưới đời đặng hay.
Cuộc đời các việc tỏ bày,
Dữ lành đâu có nào sai đâu là.
Sứ mạng của ông rất lớn. Ông hóa hiện hay chuyển kiếp chẳng biết bao nhiêu thân, đi giáo khuyên khắp cõi trần:
Phật Trời Tiên Thánh sầu bi,
Cậy ông Sư-Vãi mau đi giải trần.
Sư-Vãi vội vã ân cần
Đi hết khắp bốn cõi trần van khuyên.
Thương ông Sư-Vãi nhọc nhằn
Sao thân chẳng biết mấy thân dưới trần!
Ông đem hết lời Phật dạy mà khuyên răn chúng sanh. Ông cho biết những lời ông nói ra không phải tự của ông mà là lời của Phật :
Giảng này của Phật Tây –phương,
Cho Khùng đặng dạy cứu an dương trần.
Hoặc giả:
Giảng này Phật biểu truyền rày,
Thấy trong cuộc thế đời này nghinh-ngang.
Cho nênPhật biểu lưu truyền,
Như trong bá tánh tin thời ghi coi.
Về phương pháp phổ hóa, ông Sư-Vãi Bán Khoai hay nói rõ ra những ngài trong phái Phật Thầy, thường hay giả dạng, khi kẻ ăn xin, khi người buôn bán, nhứt là xưng Khùng xưng Điên, đi từ xứ này qua xứ nọ, từ thành thị đến thôn quê, đem lời Phật mà khuyên răn đời. Ông Sư-Vãi Bán Khoai cho biết:
Phật Tiên thôi mới đổi phiên,
Xuống ngay trần thế giả người bần nhơn.
Giả Điên rồi lại giả Khùng
Cơ hàn rách rưới rất nên thảm sầu
Riêng về phần ông thì ông giả người đi bán khoai hoặc bán gạo, bán củi, thường lai vãng miệt Hậu giang.
Tôi là “ ông sãi bán khoai”
Bán gạo Ông-Chưởng ai ai cũng lầm,
Nhưng sứ-mạng của ông có thể nói là ở Cao-Miên hơn. Chính ông cũng nhận là Phật sai ông qua đó phổ-độ:
Tôi đâu mà có an thân,
Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần.
Mến là mến nghĩa Hòang-Lân
Thuơng là thương lấy vạn dân mắc nàn.
Sư-Vãi Bán- Khoai với Hội Long-Hoa
Ông Sư-Vãi không ngần ngại mà cho biết là Hội Long Hoa sẽ được mở ra để chọn người hiền đức, vì đời Thượng Ngươn là đời vô cùng đẹp đẽ, một xã hội của ngừơi hiền, không còn kẻ ác. Sở dĩ Hội Long-Hoa lập ra là để chọn người hiền vậy :
Bởi trần lỗi quá muôn phần,
Cho nên lập Hội Long Hoa chọn người.
Hiền từ thời đặng thảnh thơi.
Nghinh ngang khó trốn lưới Trời bớ dân!
Lưới hồng bủa khắp cõi trần,
Chuyển luân bát quái còn trông nỗi gì !
Hạ-Ngươn sau chót xét suy,
Sự vong nào có khác chi sự tồn.
Nhưng cho được đi đến Hội Long-Hoa và được chọn chẳng phải là một việc dễ. Vì là một trường thi để chọn người hiền, cho nên trước khi đi đến Hội Long-Hoa, phải trải qua bao nhiêu giai-đọan thảm sầu ghê gớm. Đây là những báo hiệu của thời Hạ-Ngươn:
Hạ-Ngươn này thể như bèo,
Nay còn mai mất hiểm nghèo thon-von,
Lớp thì bịnh tật gầy mòn,
Lớp thời bão lụt nhân dân khốn nàn.
Lớp thời sưu thuế đa đoan,
Lớp kia lớp nọ khổ nàn biết bao.
Lớp thời là quỷ lao xao,
Xui mưu làm loạn hại dân muôn ngàn.
Lớp nào là giặc nổi lên đánh tứ tung, không còn biết nơi nào mà tránh:
Giặc thời tứ hướng vậy thì,
Nhiều nước dị kỳ khác chẳng giống nhau.
Vừa chạy vừa khóc như mưa
Trốn đâu cho khỏi binh ngừa bốn phương.
Nào là cha con chồng vợ lạc nhau, nhà tan cửa nát:
Làm cho nhiều việc tiêu điều,
Muôn ngàn thiên hạ chín chiều thon-von.
Kẻ thời khóc mẹ kiếm con,
Ruộng trâu đã hết chẳng còn món chi.
Cửa nhà tan nát vậy thì,
Đất bằng sấm vậy còn gì Trời ơi!
Thiên hạ chết như bèo trôi sông:
Ngồi trên đỉnh núi cheo leo,
Thấy trong thiên- hạ như bèo trôi sông.
Và phần nhiều những người xấu số ấy , theo ông Bán Khoai là những người hung ác:
Đứa dữ chết đuối chết đường,
Lớp đau lớp chết xóm làng tan hoang.
Thây nằm như thể làng vang,
Nhà giàu thì lại tan hoang hơn nghèo.
Nhưng ngoài cuộc tàn sát bằng chiến tranh do lòai người gây ra, còn nhiều tai trời ách nước nữa, như nạn nước lụt, lửa cháy khắp trời
Truyền rao chẳng biết mấy lần
Thương đời trần hạ muôn phần lao đao,
Nước đâu ngập lút gò cao,
Lửa đâu dậy cháy lao xao khắp ngàn.
Cảm thương trần hạ lăng xăng
Mắc trong nước lửa biết đường là đâu?
Thứ lửa nó bay lên cao,
Đến đâu cháy đó chỗ nào cũng tiêu.
Lại còn âm binh nhiễu hại:
Lại có một mối âm binh,
Làm đau nhiều chứng trong mình chẳng an,
Kẻ thời nát ruột nát gan,
Người lại nát thịt tan xương chẳng còn
Lại còn ác thú giết người không biết bao nhiêu mà kể:
Những kẻ hung ác chẳng bền,
Hổ lang ác thú bắt rày chẳng tha.
Thịt xương ăn bỏ dẫy đầy,
Nói cho bá tánh đời này tu thân.
Mà lại là những thứ ác thú kỳ hình dị dạng chưa từng thấy:
Thú sao nhiều thứ dị kỳ,
Biết sao cho hết khác thì thú nay.
Lớp bay lớp chạy lăng-xăng
Chừng đó cầu nguyện Phật ngừa đặng đâu.
Những cảnh tượng ghê rợn ấy thật là ngòai sức tưởng tượng của con người.
Khi xảy ra bao nhiêu cảnh tượng rùng rợn ấy, con người sẽ ra sao và cuộc đời sẽ ra thế nào?
Ông SưVãi Bán Khoai cho biết rằng trong lúc hỗn lọan chiến tranh giữa lòai người thì có điềm Trời xuất hiện. Cái điềm đó sẽ kinh Thiên động Địa, bởi nó là những tiếng sấm nổ:
Thương thay trần hạ hết tình,
Sấm trời sao lại thình-lình nổ ra.
Chừng ấy mới thấy quỉ ma,
Ai lành ai dữ, ai là Phật, Tiên?
Chừng nào tiếng sấm nổ ra,
Thời là lành dữ, kẻ tiêu người còn.
Nói ra nghĩ lại héo don
Lành còn dữ mất khác rày với nhau.
Tiếng sấm ấy sẽ làm cho nhiều hòn núi phải vỡ, nhiều cù lao đất liền phải sụp. Quả địa cầu vì đó mà thay hình. Chính trong lúc đó thì súng không còn nổ.
Đến đâu đá nổ súng chai,
Nói cho già trẻ gái trai hay mừng.
Có phải chăng, vì thấy lòai người dùng súng giết hại nhau, nay đá nổ nó phải chai không còn bắn giết được nữa, mà ông Bán Khoai gọi đó là một điều mừng. Và ông còn báo một tin kinh ngạc khác nữa:
Nói cho già trẻ lo âu,
Minh Vương khôi phục Hớn-Châu Phong-Thần.
Rán mà tu niệm ân cần,
Đặng mà coi Hội Long-Vân trên Trời.
Ở trên mây bạc giữa vời,
Tiêu thiều ca xướng khác nào Trường-An.
Chính là lúc Phật, Tiên lập Hội Long-Hoa để chọn người hiền đức:
Phật Trời nói chẳng sai lời,
Long-Hoa là Hội Phật Trời lập ra.
Lập rồi cái Hội Long-Hoa,
Chọn người tu niệm đặng mà bao nhiêu?
Chọn lựa coi thử ít nhiều,
Người lành kẻ dữ còn tiêu kẻ nào?
Như thế Hội Long-Hoa có thể gọi là một Hội chọn người hiền. Nhơn lọai vì đó phải trải qua bao nhiêu tai Trời ách nước, chịu một cuộc sàng sảy ghê gớm:
Sàng qua sảy lại bằng nay,
Hết xấu tới tốt hết vong tới tồn.
Chẳng qua là để chọn cho thiệt người hiền đức:
Gạn cho hết đục tới trong,
Thương thay đồ đệ hết lòng chẳng buông.
Lựa đồng mà đúc lấy chuông,
Lựa ngừơi hiền đức mà thương lâu dài.
Nhưng sau cuộc sàng sảy chọn lựa, người hiền đức còn lại chẳng có bao nhiêu. Ông Sư-Vãi cho biết trong mười người chỉ còn có hai người:
Tôi buồn bốn phía không yên,
Kẻ dữ hết tám người hiền còn hai.
Và chỉ có hạng người hiền mới được đi đến Hội Long-Hoa:
Cuộc đời quả thiệt hẳn hòi,
Hội mười tám nước tôn Vương Đế hòang.
Đặng coi cái Hội Long-Hoa,
Chọn người tu niệm Hòang-Gia tôn thần,
Lại còn cái Hội Long-Vân,
Quân thần cộng lạc thảy đều vui chơi.
Người lành mới đặng thảnh thơi,
Hoa, Vân hai Hội chúa tôi vui vầy.
Được đi đến hội Long-Hoa đã là diễm phúc lắm rồi, thế mà ông Bán-Khoai còn cho biết người nhân đức được một diễm phúc nữa:
Tu hành nhân đức thì hơn,
Thay hồn đổi xác nhờ ơn Cửu – trùng.
Hết tục rồi lại đến Tiên,
Giữ lời Phật dạy mới yên mới lành.
Chính đến lúc đó mới là đời Thượng-Ngươn, mở ra một thời-kỳ thái bình vĩnh viễn. Ông Sư Vãi cho biết:
Chừng nào núi Cấm hóa lầu,
Thời là bá tánh đâu đâu thái bình.
Ông không dứt nhắc đi nhắc lại hiện tượng này cho chúng sanh để ý:
Chừng nào bảy núi thành vàng,
Thì là mới đặng thanh nhàn tấm thân.
Nhưng điều mà Ông Sư-Vãi Bán-Khoai vui mừng là khi thời kỳ Thượng-Ngươn đã lập, nước Nam sẽ là một nước diễm phúc nhứt trên quả địa cầu:
Nước Nam như thể cái lầu,
Ngày sau các nước đâu đâu phục tùng.
Sở dĩ nước Nam được diễm phúc là vì cơ Trời đã định cho nước Nam là cõi Trung-ương , nghĩa là trung tâm của nền văn minh Thượng-Ngươn sau này. Chính vì được cái diễm phúc đó mà chư Phật, chư Tiên đều lâm phàm ở nước Nam:
Bấy lâu Phật ở xa ngàn,
Bây giờ Phật lại trở lần về Nam.
Và cũng vì nước Nam có diễm phúc mà ông Sư Vãi Bán- Khoai vưng lịnh Phật đi phổ hóa khắp nơi.Ông rất đau khổ mà thấy đời không chịu nghe. Ông thường than van:
Chừng nào đến việc biết đời,
Bây giờ không thấy nó thời không nghe.
Hay là:
Cõi trần nhiều kẻ thị khinh,
Thấy đời chưa đến biết chi làm lành.
Nhưng ông quả-quyết là sẽ có. Cho nên muốn cho đời tin, ông thề rất tha-thiết:
Bấy lâu nói trước mà sau,
Bây giờ nói chuyện mau mau tới rồi.
Như ai mà có nghi ngờ,
Tôi thề chứng có Phật Trời nào sai.
Ông bảo cứ làm theo lời dạy, rồi đây coi sẽ có hay không cho biết:
Khuyên hết lớn nhỏ ai ai,
Giữ theo lời dạy nay mai coi đời.
Ông còn cẩn thận mà dặn trước: nếu không tin, sau này mang họa đừng có trách sao ông không có dạy trước:
Mấy bài khuyên khắp Đông Tây,
Nói cho nam nữ đặng hay giữ mình.
Nếu ai mà chẳng có tin,
Rồi sau mang họa chớ tình trách than.
Thật là những lời đầy lòng thương xót ; nhưng chúng sanh có tin chăng? Riêng đối với tín-đồ phái Phật-Thầy thì những điều nói trên không còn xa lạ, bời nhiều điều tiên tri của ông đã được xác nhận và đương thực hiện.
Đây là lời tiên- tri của ông về nước Tàu, tiên-tri gần một trăm năm nay:
Thương thay Trung-Quốc chẳng lành,
Bị Phù-Tang nhiều cách khổ hành lê dân.
Nhưng mà Trời chửa định phân
Cho nên Trung-Quốc lo cầu các nơi.
Và đây là lời tiên-tri về Việt Nam:
Nói cho thiên-hạ đặng tường,
Rán mà tu niệm khỏi đường đao binh.
Giặc kia phía Bắc chiến chinh,
Tu nhân thì đặng Thần linh hộ mình.
Mà tại đâu Trung-Quốc bị nạn và nhờ đâu Việt-Nam được diễm phúc, ông Ba Thới, một môn đệ của phái Phật-Thầy sẽ nói rõ.
II.- Ông Ba Thới
Sanh năm Bính-Dần (1866), ông Ba là người ở thôn Mỹ-Trà thuộc quận Cao-Lãnh (Sa Đéc). Ông tên Nguyễn-văn-Thới, sanh-trưởng trong một gia-đình bình-dân, biết làm nghề thợ nhuộm và thợ chạm.Ông biết chữ nho. Ông có vợ sanh được bốn trai, một gái.
Ông thường đến vùng Láng thuộc làng Thạnh-Mỹ-Tây (Châu Đốc) để mua cá về bán lại. Nhân đó ông được nghe danh Cậu Hai (Trần-văn –Nhu), con ông Quản-Thành, một môn đệ của Phật Thầy, là người đạo hạnh cao siêu.
Ông tìm đến Cậu Hai và sau khi lãnh-hội giáo-lý, ông bèn quy-y với Cậu Hai và dời cả gia-đình về Láng vào khỏang năm 1905, ở gần chùa Bửu-Sơn-Tự.
Thường ngày ngòai việc ruộng rẫy để mưu sanh, ông gắng chí trau giồi đạo hạnh. Nhờ có một tấm lòng sùng tín, với bản tánh thông minh, ông sớm hiểu lẽ diệu huyền của Phật-pháp. Lúc ở Láng ông sáng tác được ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-từ, Cổ-vãng kim-lai.
Ở đây trong tám năm, ông với Cậu Hai rất tương đắc. Vì thế, cháu ruột của Cậu Hai tên là Sáu Phẩm đem lòng ghen tỵ, nên thừa lúc tại chùa Bửu-Sơn-Tự có cuộc lễ Phật đông đảo, bèn tố cáo với nhà cầm quyền tỉnh Châu-đốc rằng ở đó có cuộc nhóm họp định chống lại chánh-phủ Pháp.
Chùa Bử-Sơn-Tự bị bao vây. Cậu Hai và ông Ba thóat khỏi, còn lại 56 người bị bắt trong đó có Hai Tuấn là con thứ hai của ông. Những người này bị giải về Châu-Đốc. Tòa kêu án 13 tháng tù, có 36 ngừơi chịu án, còn Hai Tuấn và những người kia chống án, nên bị đưa về Saigòn. Tòa Saigòn y án. Ở khám Sàigòn độ năm , sáu tháng, những người ấy bị đưa đi Côn-Nôn cho đến mãn tù mới về.
Khi Hai Tuấn bị bắt và Cậu Hai ẩn mặt, ông Ba rất buồn thảm, nên ba hôm sau ông dùng dao cạo tự cắt họng. Vết thương rất nặng vì cuống họng của ông đứt hơn hai phần, nên người nhà chở ông lên nhà thương Châu-Đốc.
Ở đây lương y băng bó bao nhiêu đều bị ông gỡ bỏ ra hết. Ông cự tuyệt không dùng một vật gì của nhà thương. Thấy ông không thể sống được , người ta đem bỏ ông ở nhà xác. Ông trốn ra ngòai và được người nhà đem về.
Chùa Bửu-Sơn-Tự bị nhà cầm quyền để ý, ông bèn dời nhà về làng Kiến-An thuộc quận Chợ-mới (Long Xuyên) vào năm 1912.Vết thương vẫn không lành, nên chỉ khi ăn uống ông phải dùng khăn rịt nó lại mới không rớt cơm ra ngòai. Trước khi tạ thế ông ở mãi trong buồng viết thêm 6 quyển nữa : Ngồi-buồn, Kiểng-Tiên, Kim cổ kỳ quang, Cáo-thị, Tứ-đại và Thừa nhàn.
Ông hưởng thọ được 61 tuổi, mất vào 5giờ ngày mồng 9 tháng 4 năm 1925. Hiện nay phần mộ của ông được sửa sang và tại nền nhà cũ của ông có dựng lên một cái đền thờ, hằng năm đều có cúng giỗ.
Trong phái Phật Thầy, ông Ba có thể kể là người sáng tác nhiều nhất và công trình trước thuật của ông là một áng văn chương không kém phần giá trị. Hiềm vì những áng văn ấy không phải là chuyện diễm tình như Nhị-Độ-Mai hay Lục-Vân-Tiên mà là những lời tiên tri khuyến thiện, nên ít ai để ý đến.
Thật thế công trình sáng tác của ông Ba Thới là một áng văn có thể nói là ngang hàng với Lục-Vân-Tiên của cụ Nguyễn-Đình-Chiểu. Câu văn đã điêu luyện thanh tao mà ý nghĩa rất thâm thúy nữa. Một điều đáng nói là ông Ba Thới đã phóng ra một lối thi lạ nhứt trong văn chương Việt-Nam.
Người ta thường thấy nhiều lối thi thuần túy Việt-Nam như lục-bát, hay song thất lục-bát. Ông Ba mở ra một thể thi mới; lối thất bát nghĩa là câu trên bảy chữ, câu dưới tám chữ, đọc nghe vừa mạnh vừa véo von. Dưới đây xin trích bốn câu để quí bạn đọc thử:
Từ Mạnh-Tử ra mắt nước Lương.
Nhan-Hồi đỏan mạng cảm thương thần đồng.
Tu quốc-vương có vợ có chồng,
Có con có cháu nối dòng an bang.
Nếu phải nghiên-cứu và trình bày những áng văn chương kiệt tác ấy, ít ra phải viết thành một quyển sách dày. Ở đây chúng tôi chỉ xét về vấn đề Tận-Thế và Hội-Long-Hoa thôi.
Nói về Hạ Ngươn Tận Thế
Cũng như ông Sư-Vãi Bán-Khoai , ông Ba Thới nhận thời kỳ này là thời kỳ Hạ-Ngươn , thời kỳ Tận-Thế
Phật sanh Phật, ma lại sanh ma,
Hạ-Ngươn Tận-Thế Phật ma lộn cuồng.
Bởi là thời kỳ Hạ Ngươn, thời kỳ Phật ma lộn lạo, nên ông Ba khuyên:
Ai ai nhẫn chí đễ dành,
Hạ-Ngươn Tận-Thế tu hành cần năng.
Danh từ Hạ-Ngươn Tận-Thế vẫn được lặp đi lặp lại mãi. Đứng trước cuộc đời này dầu Phật cũng chắt lưỡi, bởi chúng sanh quá tham lam tàn ác:
Việc Hạ-Ngươn mỗi việc mỗi tham.
Phật chắt lưỡi khó đam lại đủ.
Kẻ lo ăn ngừơi thời lo ngủ,
Kẻ làm chủ, ngừơi phủ, làm quan;
Lại dụng mưu làm quấy làm gian,
Đọat của thế lo toan bất chánh.
Vì quá tham lam, mãi dụng mưu làm quấy, đã thế khuyên dạy lại không nghe, cho nên:
Đáo Hạ-Ngươn Trời Đất xử tiêu,
Nhiều lời giáo dục chẳng siêu việc lành.
Chính đó là cơ tận-diệt. Ông Ba cho biết để mà đừng có khinh khi:
Việc đời thậm tốc,
Dị bốc tiên tri;
Người nào khinh khi,
Hậu ly đạo Phật,
Ấy thế mà người đời vẫn khinh thường, mãi lo bề giữ của:
Người đời này ngẫm chẳng bao lâu,
Lo bề giữ của, lo sau không màng.
Ông Ba thương xót mà cho biết rằng: không khéo rồi đây nước sẽ ngập đến cổ:
Việc thấy đó người phải lo âu,
Nước đã tới cổ, ngập sâu hụt giò.
Ngừơi đời quá hững hờ, vì người đời không thấy .
Mặc dầu là chưa thấy, nhưng ông Ba cho hay nó sắp tới, rồi đây sẽ thấy:
Việc không thấy nói trước cho rồi,
Từ nay sắp tới lần hồi coi chơi.
Nhưng muốn coi đời, ông Ba khuyên hãy rán bền lòng, đừng nản chí, dầu phải trải qua bao nhiêu cảnh gian lao:
Đói lòng ăn bắp với khoai,
Chờ cho tới lúc chiều mai coi đời.
Nói về Hội-Long-Hoa
Như ông Ba cho biết cuộc đời đã mỏng manh lắm rồi,nhưng cuộc đời sẽ đi về đâu? Ông cho biết, cũng như ông Sư-Vãi Bán-Khoai, rồi đây sẽ mở Hội-Long-Hoa,dựng bảng Phong-Thần chọn người hiền đức. Ông cũng nhận đó là một cuộc thi:
Chí cầu may niệm Phật lần lần,
Lập đông mãn tiết Phong-Thần ứng khoa.
Nhưng cuộc thi đây không phải là cuộc thi văn hay võ, mà thi về đức, thi về tấm lòng hiền:
Phật thi đức, trào quốc thi văn,
Nhơn tùng thi chánh, nhơn tăng thi lòng.
Một cuộc thi mà người đời muốn đi đến phải chịu bao nhiêu cuộc nhồi nhả để trả quả:
Người đổi người, lời lại đổi lời,
Phong-Thần trả quả thấy thời điếc tai
Đó là một cuộc trả quả cho nên người đời phải chịu bao nhiêu cuộc thử thách gian lao khổ sở:
Thân nhồi nhả rời rã chưa thôi.
Mười sầu mười thảm thương ôi! Thân người.
Sự khổ ấy một ngày một tăng lên và tiến tới mãi mãi:
Bịnh khắc dược đã khó định phân,
Từ nay sắp tới khổ thân hòai hòai.
Nói rằng khổ . Nhưng sự khổ ấy diễn ra bằng cách nào? Ông Ba cho biết sự khổ nhứt của người đời phải chịu là nạn đói:
Sợ ngày sau nhiều kẻ khóc la,
Nằm co chịu đói Phật ma mới tường.
Cái nạn đói này rất dai dẳng, nó kéo dài trong ba năm đăng đẳng. Mà sở dĩ xãy ra nạn đói là vì có nạn hạn hán làm cho đồng khô cỏ cháy:
Dạy làm lành niệm Phật Nam-mô,
Tam niên hạn hán phơi khô thân hình.
Người đời vì đó mà chết đói la liệt, đền nhà không người ở, xác không người chôn, chợ không người nhóm :
Thương ba năm không chợ nhóm chiều,
Nhà không người ở niệm nhiều Nam-mô.
Thây không lấp mà để phơi khô,
Không nước mà uống Nam-mô đạo nào.
Nhà đã không người ở, chợ không người nhóm, thì ruộng làm gì có người làm:
Tới đó thì hay việc gió dông,
Nhà không người ở , ruộng không ai làm.
Bởi thế ông Ba thường khuyên người đời hãy ráng chịu kham khỗ cho quen, có sống lây lất muối dưa hẩm hút, sau này mới chịu nổi nạn đói. Người ta quá đói,, không còn tìm chi ăn được đến phải ăn đá:
Đói ăn bắp, đói nữa ăn khoai,
Hết khoai hết bắp chiều mai ăn đá.
Nhưng danh từ “đá” đây, theo ông Ba có nghĩa khác, duy những người tu theo phái Phật-Thầy mới hiểu được.
Chẳng những chịu đói mà thôi, người đời còn chịu bao nhiêu tai nạn khác nữa như nạn âm binh:
Có Phật ra mới thấy việc linh
Giặc trời lọan động âm binh day loàn.
Có nạn ác thú:
Có hổ lang ác thú tới nhà,
Hùm tha, sấu bắt trẻ già thương ôi!
Những hiện tượng này đã thấy ông Sư-Vãi Bán-Khoai nói đến rồi. Ngòai ra còn nạn nước lụt;
Nghèo sắm xuồng giàu có sắm ghe,
Để chờ có nước chèo te lên giồng.
Còn nạn chiến tranh khốc liệt sát hại sanh linh:
Hạ-Ngươn hồn phách tiêu tro,
Chớ đừng thấy vậy ăn no vui cười.
Tôi nói có chứng chín mười.
Không phải một người nói chuyện bất minh.
Ngày sau các nước lai chinh,
Tây-dương Anh-quốc chiêu binh qua rày.
Nữ Phiên công-chúa tài hay,
Trận đồ bát-quái đánh nay nửa lừng.
Tương tranh quờn, ấn trong rừng.
Lòng buồn nói chuyện nhớ chừng mà chơi.
Ai ai bền chí ở đời,
Chừng nghe sấm đất của Trời mở ra.
Trong các Thiên tai Địa ách mà người đời phải chịu, kể ra cũng thảm khổ quá rồi, nhưng chưa quan trọng bằng tiếng sấm nổ, bởi đó là sự biến chuyển của vũ trụ càn khôn. Tiếng sấm nổ ấy sẽ diễn ra nhiều cảnh tượng:
1.- Làm thay đổi địa hình, như nhiều cù lao sụp-đổ:
Hậu nhứt thinh tiêu hết cù lao,
Nhị niên chí khổ đề lao chen người.
Như biển nổi thêm hòn:
Biển minh mông Phật nổi nên hòn,
Đất bằng sanh núi Trời còn không hay.
Như nhiều dãy núi vỡ tan:
Núi biển ít sau lại nổi thêm,
Đồng-nai Bắc-địa không êm chút nào.
Trong lúc có nhiều núi vỡ thì trái lại có nhiều núi nổi lên:
Cửa Ngã-bát có nổi nhị sơn,
Núi Sam tiêu mất, Thất-Sơn diện đền.
Chí anh hùng lập chí cho bền,
Sông ngang ngay thẳng vô đền Bửu-Sơn.
2.- Làm cho con người đê mê bất tỉnh:
Tam thinh quên tuổi quên tên,
Quên dòng quên họ khá nên cải tà.
Dầu cho có được tỉnh dậy đi nữa, ngay vợ chồng cũng không còn biết nhau:
Đạo vợ chồng con cháu buộc chùm,
Ngủ đêm thức dậy dứt đùm không hay.
Đến lúc đó mới biết ai là người có căn. Theo ông Ba thì Nam-kỳ lại có căn nhiều hơn hết:
Xuất tam thinh mặc sức lăng xăng,
Nam-kỳ niệm Phật có căn giữ hình.
Những người có căn đều được Phật đến giải mê cho:
Khá bủa câu thả lưới đợi chờ,
Phật cho tài phép một giờ thóat mê.
Chẳng những thóat mê, mà những người hữu căn hữu phước còn thay hồn đổi xác nữa
Tam giới hội xử việc bất miên,
Thay hồn đổi xác cõi Tiên đem về.
Chính lúc đó tam giới mở hội để lập lên đời Thượng-Ngươn:
Mãn nhứt thinh các nước đều vô,
Đầu sơn giao chiến Nam-mô tranh tài.
Thập bát quốc vây phủ ở ngòai,
Thiền trung xuất trận phép tài quan thiên.
Đóai Ngũ-Long tiền trận nữ Phiên,
Giao chinh tam trận chư Tiên lai dầu.
Phật thâu phép chư quốc chư hầu,
Qui lai thiền nội ứng hầu Phật-Vương.
Đồng chúc Thánh vạn thọ an khương,
Tuế tăng vạn tuế Phật-Vương thọ trường.
Phân chư quốc cống lễ minh tường,
Tiểu bang lãnh sắc thường thường thọ ân.
Đãi yến diên chư quốc an nhàn,
Phân ngôi phân thứ định phần quan dân.
Chúc Hớn-trào miêng viễn hòang ân.
Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh nhàn.
Lập Thượng-Ngươn hưởng thọ khôn càn,
Đặt chung tứ bổn vẹn tòan hiếu trung.
Như thế là đời Thượng-Ngươn đã lập , con người sẽ ra sao, đời sống ở cõi đó ra thế nào?
Nói về đời Thượng-Ngươn
Trong hàng môn đệ của Đức Phật-Thầy, ông Ba Thới kể ra là người viết nhiều về đời Thượng-Ngươn hơn hết.
Phải chănng, ông nghĩ rằng: nếu nói đời Thượng-Ngươn là đẹp mà không cho người đời biết thì làm sao người đời ham hố cố-gắng tu hành để đi đến, nên chi ông Ba viết rõ về đời Thượng-Ngươn?
Trong kinh Di Lặc và quyển Qui-Nguyễn Trực-chỉ,quốc độ của Phật Di-Lặc đã được mô tả, là đẹp đẽ trang ngiêm nhất . Đây chúng ta nghe ông Ba mô tả để so sánh coi có khác những điều mà kinh Di-Lặc và quyển Qui-Nguyên Trực-chỉ đã nói không?
Ông Ba cho biết rằng khi lập đời lại thì đất địa bằng phẳng, không bồi, không lỡ, biển không nổi cù-lao nữa :
Sau đất bằng không thấp không cao,
Biển sông không nổi cù lao nữa rồi.
Mé sông biển không lỡ, không bồi,
Sanh sao y vậy nói rồi sau coi.
Chẳng những thế, nước trong chứ không đục, lại không ròng không lớn:
Nước một bực thanh thủy biển Trời,
Không ròng không lớn thuận đời chảy xuôi.
Đất địa đã tốt đẹp như thế, thời tiết lại chỉ có hai mùa: xuân và thu:
Lòng niệm Phật hản dụ chí tu,
Ngày sau lập lại xuân thu hai mùa.
Bởi thế khí trời rất ấm áp:
Gió hai ngọn xuân nhựt nguyệt thu,
Không lạnh không nực chí tu để đời.
Có điều không thể tưởng tượng được là hễ ban ngày thì có mặt trời mọc, còn ban đêm khi mặt trời lặn thì mặt trăng mọc, đêm nào cũng như đêm nấy:
Đến chừng nào nhựt nguyệt hiệp căn.
Ngày thời ông mọc, đêm trăng sáng hòai.
Chẳng những thế, lúc lặn lúc mọc không như thời nay vì thời tiết mà sai dịch:
Tới ngày sau Tý, Ngọ bất di,
Thìn thời ông mọc bất tri giờ nào.
Đêm giờ Tý ngày Ngọ hiệp vào,
Tý Ngọ đứng bóng giờ nào lại tranh.
Ngày sáu giờ , đêm sáu giờ canh,
Nguyệt xuất giờ Tuất, không tranh giờ nào.
Thời tiết điều hòa như thế nên năm không có tháng nhuần:
Tới ngày sau phong võ có chừng,
Năm mười hai tháng không nhuần như nay.
Năm đã không nhuần, tháng cũng không có tháng thiếu:
Nhứt ngọat tam thập nhựt chiều mai,
Không dư không thiếu, khỏi tai khỏi nàn.
Thời tiết đã điều hòa như thế, tất nhiên đất dịa không phải như thời nay sanh cỏ hay gai góc mà sanh ra tòan là lúa trời, muốn ăn khỏi cần xay giã vì nó lớn bằng trái dừa:
Hột lúa Trời đỏ ruột điểm khuyên,
Trái dừa nhắm sức của Tiên cho mình.
Lúa ấy chỉ có hai giống chớ không nhiều giống như đời nay:
Sau không nếp mà quết bánh phồng,
Còn hai giống gạo giữ lòng mà ăn.
Nhưng chẳng phải lúa ấy giữ nguyên hình mãi đâu, vì qua thời kỳ Trung-Ngươn, bởi chịu ảnh hưởng của thời tiết đổi thay mà nó biến hình đi:
Sau hột lúc vỏ trắng thiệt hình,
Trong ruột thời đỏ thế bình bất di.
Trước vỏ vàng ruột trắng phân ly,
Trung-Ngươn khiến biến người khi tiêu điều.
Mùa tiết đã thuận, đất đai đã tốt, sanh tòan lúa thì hẳn không còn lọai độc trùng hay các lọai thú vô ích nữa. Ông Ba cho biết chỉ có lòai thú nào có ích cho lòai người mới sanh ra cho người dùng mà thôi:
Núi lao xao lập hậu Trời Nghiêu,
Cao điền đất Thuấn tiêu diêu độc trùng.
Sau vật nào Trời Phật cho dùng,
Phật đem trở lại dưỡng cùng vạn gia.
Tồn nhị thú phạm luật quốc gia,
Con trâu con chó cõi tu không vìu
Tại đâu đời sau không có lòai trâu , lòai chó? Điều ấy rất dễ hiểu. Đã nói rằng lòai thú nào có ích cho người mới sanh ra, ngày sau lúa đã mọc sẵn, người ta không còn cày cấy nữa thì con trâu đâu có được sanh cũng không còn ích lợi nữa. Còn lòai chó sanh ra để giữ nhà mà đời sau là đời nghiêu, Thuấn, nhà không đóng cửa, của rơi không người lượm thì còn đâu trộm cướp mà phải cần có con chó giữ nhà.
Quả thật là đời Nghiêu, Thuấn nào là nhà không đóng cửa:
Tri sự tiền lập hậu chánh minh,
Nhà không đóng cửa quảng thinh đêm ngày.
Nào là của rơi không ai lượm:
Họ hàng khơi chiều mai ngó thấy,
Qua ngày sau của rơi chẳng lấy.
Ông Ba cho biết ngày sau con người có tài trí cao siêu lắm:
Lo việc hậu mới được lâu dài,
Ngày sau nhiều kẻ phép tài trí tri.
Và họ biết bay như xà đặng hóa rồng vậy:
Đạo trung dung xà đắc hóa long,
Người thời không cánh không lông bay rày.
Muốn kiến-thiết thế-giới tốt đẹp như thế, ông Ba cho biết việc sắp đặt ba năm mới xong:
Lập ba năm đều đủ dưới trên,
Đồng chư quốc lập nên một cuộc.
Thông minh lành nhiều người thông thuộc.
Vận trời xuôi nhứt cuộc hưng bang.
Nơi nơi đều phú túc hiển vang.
Chốn chốn hưởng an bang vận đạt.
Về gia đình thì năm bảy người cũng ở một nhà, thuận hòa trên dưới. Cái tục lệ hát ca như đời nay không còn nữa:
Qua ngày sau không hát không ca,
Năm bảy người ở lại nhứt gia.
Vọng Đức Phật Thích Ca chi lý.
Năm bảy chủ hiệp tình nhứt ý,
Phật độ người tận lý quang minh.
Vì người người hiền lương, nhà nhà đều phú túc, cho nên không sanh ra trộm cướp. Bởi thế không có nhà ngục, nhưng ở mỗi tỉnh vẫn có lập tòa án để hòa giải những việc bất đồng ý kiến nhỏ nhặt, cùng xem chừng việc trị lý trong dân gian:
Có tòa án các tỉnh săm soi,
Không đường ngục thất sau coi để đời.
Nhà ngục đã không có, cho nên cả pháp luật lập ra để răn phạt người , làm gì lại có:
Của người Tây trả cho người Tây,
Tân trào phế luật thẳng ngay trỗ tài.
Kiểng Tiên gia sau đặng lâu dài,
Vô cùng mưu trí phép tài mới nên.
Một điều mà xã-hội này không có là đời sau dân chẳng có làm xâu nạp thuế chi cả:
Phật lập chánh chư quốc chư hầu,
Bán buôn lui tới phải đầu nước Nam.
Phật dạy đều lòng dạ đừng tham,
Không sưu không thuế nước Nam thanh nhàn.
Mười tám nước ăn ở một tràng,
Chợ nào không góp xóm làng an ninh.
Sở dĩ các nước cùng sống thuận hòa, người người hiệp ý không gây gổ, không sanh ra chiến tranh, là vì ngày sau chỉ có một tôn giáo:
Qua ngày sau không miễu không đình,
Hội tề công sở nhứt tình quốc gia.
Nước Tây Phiên nhà thờ không cha.
Niệm Trời, niệm Phật quốc gia an hòa.
Mừơi tám nước như con một nhà,
Đều thời niệm Phật Di-Đà công phu.
Một nước chỉ tu có một chùa và các ngày lễ vẫn như nhau:
Một nước thì tu có một chùa,
Nhà không phượng tự hai mùa xem minh.
Có hai ngày lễ bái tưởng kinh,
Ba mươi mùng một chánh minh nhứt trường
Ngày mười lăm mười sáu lập thường
Niệm Trời , niệm Phật nhị trường an khương.
Lễ Ngươn-đán hạ nhứt xuân vượng,
Chánh ngọat sơ nhứt lễ bà chánh –chung.
Nhơn bất ác tích thiện vi trung.
Lễ xuân ngươn-đán, chánh chung hai mùa.
Lễ thượng ngươn gia kiết tại chùa,
Trung Ngươn thu nhựt thủ vừa hương rơi.
Nơi nơi đều ngợi chữ thảnh thơi,
Ca ngâm xứ xứ vui chơi thanh nhàn.
Đời sống đã vui thú như thế, còn con người thì tướng dạng ra sao? Ông Ba cho biết rằng: đời sau trầu thuốc đều bỏ cho nên răng thì trắng, tóc thì dài, da trắng và châu thân thì không có lông:
Nhịn trầu thuốc biếng nói biếng cười,
Ngày sau răng trắng như người Quảng Đông.
Nội châu thân không có mọc lông,
Tóc dài da trắng phụng long dạng hình.
Con mắt thì sáng ngời, miệng thì thơm:
Con mắt sao ngó sáng ngời,
Trong như mắt cọp miệng người ngọt thơm.
Răng thì trắng thiệt người ăn cơm
Lưỡi sao răng vậy gạo thơm ngọt ngào.
Hình dạng đã đẹp đẽ như thế, người người lại không trẻ không già, tám mươi tuổi sấp lên mới có con so, song trong mười người mới có một người sanh, sống lâu đến muôn tuổi:
Đâu đâu không trẻ cũng không già,
Tám mươi mới có vậy mà con so.
Ngòai muôn dân lạc nghiệp đủ no,
Mười người sanh đặng con so một người.
Người tốt tươi ăn nói vui cười.
Nhưng tuổi thọ ấy qua Trung Ngươn thì so le,giảm xuống còn trên một ngàn, cũng như hột lúa bằng trái dừa qua Trung Ngươn biến hình trở lại nhỏ:
Người ăn nói bằng thẳng thiệt thà.
Trình thưa dậm dạ giữ mà phép khuôn.
Lập Trung Ngươn tuổi có một muôn,
Trung Ngươn giữ dạ phép khuôn trên ngần.
Con người ăn ở đều có lễ nghi khuôn phép cho nên không có sự lọan luân , lọan dâm:
Ngày sau nhơn bất lọan dâm
Người nào nghịch tánh binh âm vật rồi.
Phật cho tâm tánh định hồi.
Man ri mọi rợ tiêu rồi sạch trơn.
Thiên sanh tiền hải hậu sơn.
Tiền Tần hậu Hớn mang ơn cũng nhiều .
Ông Ba cho biết rằng vợ chồng đời nay chỉ là oan khiên túc trái, vay trả lẫn nhau, chỉ qua đời sau mới là thiệt vợ thiệt chồng. Những vị làm quan có đến năm bảy vợ, đâu đấy đều hòa mục, giữ trinh tiết thờ chồng, có lẽ vì số đàn bà nhờ sự tu hành ở đời này mà được sống qua đời đó quá nhiều, gấp năm bảy lần số đàn ông. Phải chăng ngày nay chúng ta thấy số đàn bà đi chùa và tín ngưỡng Trời Phật nhiều hơn đàn ông ?
Qua ngày sau thiệt nợ thiệt dương
Đàn bà trinh tiết vì ơn nuôi chồng.
Năm bảy vợ hiệp ý một lòng.
Thượng hòa hạ mục nuôi chồng làm quan.
Một điều lạ nhứt là đàn bà ở đời Thượng Ngươn không có đường kinh nguyệt nữa:
Đường kinh nguyệt sau Phật xử tiêu.
Đời này ngang dọc phất diêu lỏa lồ.
Con ngừơi nhờ khí hậu điều hòa, đất đai tinh khiết, cho nên được sống lâu muôn tuổi, không ai bịnh họan. Nhờ đó mà sau này không có thuốc men:
Việc thuốc Nam thuốc Bắc vô ân,
Ngày sau thôi cũng vô phân thuốc rồi.
Trên quốc độ vô cùng trang nghiêm đẹp đẽ ấy, nước Việt Nam sẽ ra sao? Người Việt Nam sẽ có vai trò gì quan trọng chăng?
Nói về nước Việt Nam sau này
Sau khi quả địa cầu biến hình, trên thế giới sẽ ra sao? Ông Ba cho biết sự sụp đổ đất liền thành biển, biển nổi lên đất liền, làm thay đổi địa hình, chừng đó trên thế giới chỉ còn mười tám nước mà thôi:
Cộng tồn thập bát quốc hội an,
Xử tiêu ma qủi dị đoan tiêu-điều.
Hay là:
Tồn thập bát quốc chỉ noi Nghiêu
Ngọai trừ các nước quần yêu xử tà.
Nhưng trong mười tám nước đó, Việt Nam lại hữu phước hơn hết, vì nước Nam có nhiều bậc thông minh tài trí thâu các nước phải phục tùng:
Sau nước Nam ít kẻ vụng về,
Thông minh trí huệ nhiều người giỏi hay.
Không có cánh đi đặng trên mây,
Phép tài văn võ hơn nay nước nào.
Hữu quân sư thượng trí anh hào,
Dạy mười tám nước chổ nào văn thơ.
Mười tám nước tài phép trơ trơ,
Phật thâu trả quả ngẩn ngơ chư hầu.
Mười tám nước lai giáng hàng đầu,
Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn bang.
Phật thâu hết các chữ đa đoan,
Chỉ tồn nhất tự Nam bang tiếng mình.
Người khác người ăn nói thật tình,
Binh thơ đồ trận nước mình tài năng.
Qui nhất thống hiệp lại nhứt căn,
Thượng thiên giáng thế tài năng trong trần,
Đến ngày sau có thánh có thần,
Ai lòng tà vạy âm thần xử thân.
Nhưng hưởng được cảnh vinh quang ấy, hỡi ôi! Người Việt Nam chúng ta trong mười người chỉ còn lại có ba người. Đất Bắc Việt sau này đổi thành ruộng sâu, trong mười người chỉ còn có một người, phải chăng vì tội làm thịt cáo cầy mà trong kinh Phật đã cấm:
Việc Nam-bang nhiều kẻ khôn lanh,
Thất phần dư tử thiểu sanh tam phần.
Thấy việc xa chẳng biết việc gần,
Việc Nam còn mấy việc Tần như nhau.
Đất Bắc-kỳ sau lại ruộng sâu
Mười phần thác chín khó âu cho người .
Về Bắc-kỳ , ông Ba quả quyết như vậy, cho nên nhiều nơi ông thường lặp lại:
Đất Bắc địa giăng câu đặt lọp,
Ăn cá đồng không cọp ở rừng.
Chắc sao cũng có người hỏi: nước Việt Nam nhỏ bé như thế này làm gì lại đứng đầu các nước? Ông Ba cho biết rằng sau khi quả địa cầu biến hình, nhiều chổ đất bằng sụp đổ, nhiều nơi biển cả nổi lên đất liền, nước Việt Nam với sự thay hình đó sẽ trở thành một đại quốc.
Hậu Bắc-địa tứ trấn cõi ngòai,
Nam-bang đại quốc lâu dài trường sanh.
Ông Ba còn cho rằng: sau cuộc đại biến thiên, về đời Thượng-Ngươn, ranh giới nước Việt Nam sẽ lên đến Lào –hạ:
MẤT TRANG 67+ 68
Chốn thị thành sau lại hóa rừng
Chát chua trong dạ ớt gừng xát tâm
Chính vì luật tuần hòan đó mà phần đất Nam-Việt chịu nhiều cảnh khổ hạ:
Xử việc trong lục tỉnh hao mòn
Nam bang khổ hạ chìu lòn hết hơi,
Mà cảnh khổ nhứt là thảm họa sau này của lộ Văn Giáo là con đường đi từ núi Sam vào Nhà Bàn:
Mặc thế tình kẻ dọc người ngang,
Rồi đây tới đó ngay gian thời tường.
Kẻ thị phi niệm Phật đưa đường,
Qua lộ Văn giáo vô thường huyết lưu.
Về lộ Văn-Giáo , ông Ba còn cho biết :
Qua hậu xử Văn-Giáo giáo giăng
Thây phơi ngọn cỏ vô căn Phật Trời.
Con trong nhà nói chẳng nghe lời,
Huống chi hàng xóm nói đời ai nghe.
Đó là những điều mà ông Ba cho biết về nước Việt Nam ở đời Hạ-Ngươn, nhưng chừng nào đến giai đọan chuyển biến?
Những điều tiên tri
Muốn hiểu chừng nào mới đến giai đọan chuyển biến, cần phải xét coi những điều tiên tri của ông Ba có phần nào thực hiện chưa? Đứng về phương diện nhật xét, đã thấy nhiều điều thực hiện rồi, như cuộc đảo chánh của Nhựt vừa qua là một, ông Ba cho biết:
Tây chưa mãn tới việc U phân
Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề.
Câu này đủ cho ta thấy tình hình Việt Nam từ ngày Nhựt để chân lên đất này. Không còn lúc nào dân khổ cho bằng lúc đó trở đi. Ông Ba còn cho biết từ năm mươi năm về trước, thời kỳ chiếm đóng của Nhựt dây dưa cho đến năm tuất (chó) :
Trâu Nhựt Bổn Nam-Việt bắt cày,
Gay go chó sủa hằng ngày sủa dai.
Đó là một giai đọan người Việt-Nam bắt trâu Nhựt bổn cày cho mình, ông Ba cho biết còn một giai đọan nữa người Việt-Nam bắt trâu Chệt cày:
Trâu của Chệt Nam-Việt bắt cày,
Khỏi sưu khỏi thuế khỏi rày lao đao.
Tuy ông BA cho biết phải có trâu của Chệt cày nhưng khi nói đến nước Tàu thì ông Ba không khỏi đau thương mà thống trách;
Đường gian nan dễ dấu khó bày,
Căm hờn Tàu tặc hại rày Nam-bang.
Ông thương hại cho Tàu là vì phải tội bày ra bán hình bán tượng của Phật và tranh dành chiếm đọat nước Nam:
Tội Tàu man ước chất như thành,
Bán hình bán tượng tranh hành nước Nam.
Bởi thế khi lập đời lại, người Tàu chỉ sống sót có một ngừời trong mười người:
Tội Đại Thanh bán tượng bán tranh,
Họa hình bán Phật bất sanh chín phần.
Ngòai nước Tàu, ông Ba còn cho biết Ấn-độ cũng mang đại khổ:
Trời khiến xui ách nước từ đây,
Chà-và hai nước mất thây chẳng còn.
Ông Ba không cho biết vì lý do gì Ấn-độ bị đại nạn như Tàu, nhưng điều này làm cho người ta kinh ngạc là ông Ba gọi Chà-và không phải một nước mà là hai nước đúng như như hiện tình chia rẽ của Ấn-độ làm hai nước Hồi, Ấn.
Một nước ở gần ta nhứt là nước Tần, ông Ba cho biết sẽ gặp nhiều tai nạn như Tàu và Ấn-độ:
Có ai từng ăn ốc không gai,
Ăn cơm không đũa đại tai nước TẦn.
Và sau này nước Tần sẽ hiệp về với Hớn-bang ở thời kỳ Thượng Ngươn:
Ai từng làm ruộng không trâu,
Nước TẦn sau lại lai thâu Hớn-Trào.
Nhưng trước khi đi đến Hội Long-Hoa, nước Tần phải trãi qua một thời gian đói khó:
Cao Miên phải lo dùng cơm gói,
Người khá lo đói trước bây giờ.
Việc minh mông chưa tới bực bờ,
Thấy Tần-quốc vật vờ hồn phách.
Nhìn đói lạnh chớ than chớ trách,
Một con sâu làm đổ trách canh.
Chịu nạn đói lạnh như thế là vì con sâu làm đổ trách canh, do nước Tần khởi lọan trước làm cho Việt-Nam phải lâm cảnh khổ:
Việc trước thì Tần khởi lọan ra.
Sát nhơn-vật người ta thậm khổ.
Tần khởi lọan, theo ông Ba , là một điềm mở màn cho biết cuộc đời đã tới. Nhưng muốn xác định thời giờ, ông Ba cho biết rằng: khi đời tới thì tự nước nào đánh nước nấy
Mình hại mình nói việc có căn,
Nước nào hại nấy lăng xăng trở đời.
Sự tận diệt của lòai người, theo ông Ba sẽ diễn ra bằng cuộc nội chiến của mỗi nước, cùng một lúc xảy ra nước nào đánh nước nấy:
Giặc dậy lăng xăng,
Lăng xăng giặc dậy.
Đánh nhau tầm bậy,
Tầm bậy đánh nhau.
Nước nào ở đâu,
Ở đâu đánh đó,
Vận nghèo thấy ngó,
Thấy ngó vận nghèo.
Người thác bá bèo,
Bá bèo người thác.
Đâu đâu tan nát,
Tan nát đâu đâu.
Thật là những điều quá sức tưởng tượng, ngoài ý nghĩ của mọi người. Ông Ba cũng vẫn biết: người đời sẽ có kẻ không tin:
Tôi cho ngừời thấy,,
Việc máy thiên cơ.
Người cũng ngó lơ,
Tôi ngơ ngẩn dạ.
Nhưng vì quá thương đời cho nên ông phải tỏ bày, để sau người đời không trách:
Thương chúng sanh Phật mới tỏ bày,
Chẳng nghe lời Phật hội này rã thây.
Với những người thiện căn: ông bảo ghi nhớ những lời của ông rồi sẽ biết:
Nói rồi cho nhớ lời ghi,
Chừng nào thấy việc lọan ly biết lời,
Nơi nơi khổ não cho đời,
Dư trăm việc khổ biết lời để ghi.
Nhưng hỡi ôi! Mặc dầu ông hết tiếng nhắc nhở mà người đời vẫn hý hởn không lo:
Bây giờ hý-hởn không lo,
Gặp cơn bát lọan nằm co kêu Trời.
Lo giàu ít kẻ lo đời,
Gặp cơn bát lọan kêu Trời thấu đâu.
Và chính vì đó mà các đấng Phật, Tiên bởi quá thương xót chúng sanh, nên lâm phàm, chẳng dứt ra Sấm kinh, Cơ bút thức tỉnh người đời. Với sứ mạng cao cả ấy, các đấng thiêng liêng còn mượn xác một cậu nhỏ chín tuổi để viết bộ Tứ-Thánh cho nguời đời thấy thế có tin.
III.- TỨ THÁNH
Phải chăng vì thấy người đời còn ngờ vực, bán tín bán nghi mà lần này đấng thiêng liêng phải mượn xác chín tuổi ra thơ khuyên đời. Với xác chín tuổi thì không còn ai chẳng tin là có một đấng thiêng liêng nào trong đó, chớ làm gì từng tuổi ấy lại thông minh lỗi lạc , nói ra những giọng Phật Tiên, cứu dân độ thế, một cách cao-siêu thóat-tục như vậy . Đây là lời tự thuật của đấng thiêng liêng ấy:
Thương dân khuyên nhủ hết tình,
Mượn xác chín tuổi một mình ra thơ.
Và đấng thiêng liêng ấy tự xưng là Tứ-Thánh, vì buồn đời không chịu nghe lời khuyên nhủ, nên lâm phàm cảnh tỉnh:
Buồn đời coi lại làm ngơ,
Nói rằng nói dối làm thơ bắc vần.
Để rồi cuộc lọan quân Tần,
Biết cho Tứ-Thánh bắc vần hay không?
Thật là một điều mà người đời không ngờ. Càng làm cho người đời ngạc nhiên hơn nữa là những điều tiên tri, khuyên răn của Tứ-Thánh, đem so sánh lại không khác với những điều mà ông Sư-Vãi Bán-Khoai hay ông Ba Thới đã cho biết.
Nói về Hạ-Ngươn và Hội Long-Hoa
Trước hết Tứ-Thánh cũng nhận như ông Sư-Vãi Bán-Khoai và ông Ba Thới rằng: thời kỳ này là đời Hạ-Ngươn sắp có cuộc biến thiên thay đổi cả núi sông:
Hạ-Ngươn mỗi việc mỗi mòn,
Mòn sông mòn biển lại còn mòn non.
Sự biến thiên ấy là do Thiên định, nó đã kề một bên rồi:
Bây giờ kẻ Sở người Tề,
Đến kỳ Thiên định cũng kề một bên.
Tứ-Thánh cũng cho biết rằng rồi đây nhơn lọai sẽ đi đến Hội Long Hoa mở ra để chọn người hiền đức, nhưng trước ngày hội họp nhơn lọai phải trãi qua bao nhiêu cuộc biến thiên thảm khổ. Nào là cảnh đói khổ:
Lo đời sắp đói một bên,
Quần sao không bận lại quên ở truồng
Nào là nạn quỉ vương khuấy nhiễu
Quỉ vương nào kể miễu đình.
Thánh thần vào dộng ình ình vang tai.
Nào là sấm nổ làm cho cha con rã rời :
Cơ gian mặt biển đầu non
Điễn thinh chớp nháng cha con rã rời.
Nào là nạn chiến tranh tàn khốc mà Tứ-Thánh không tả ra nước nào đánh với nước nào, lại ngụ ngôn trong một cuộc đánh cờ, người nào khéo tri cơ sẽ biết đâu là đâu:
Ngó dân ta lắm nổi buồn,
Trở về non đảnh lập tuồng cờ Tiên.
Cả kêu các vị Đạo Tiên.
Ai mà muốn đánh để tiền năm quan.
Có thua xin chớ thở than
Sắp cờ ngồi lại năm quan dễ liền.
Các Tiên nghe nói chịu liền,
Nước đỏ nước trắng chớ phiền lộn con.
Đi đầu chốt trắng quá ngon,
Bên kia pháo đỏ lòng son cặp kề.
Chốt trắng ra bị xe nghề,
Xe đỏ nghề nghiệp trở về chống ngăn
Pháo đỏ tượng trắng đã ăn,
Xe nghề đương chống đón ngăn nước cờ.
Pháo đầu xuất tướng bơ phờ,
Xe đâm ngựa chết hẫng hờ tướng thua
Thiếu tướng bắt sĩ làm vua,
Cờ ai đánh vậy mà thua uổng tiền.
Sở dĩ Tứ-Thánh không chịu nói trắng là vì thiên cơ bất khả lậu:
Bá gia hãy ráng chịu phiền,
Thiên cơ bất lậu khó quyền tôi phân.
Mặc dầu nói thiên cơ bất lậu, nhưng rốt rồi Tư-Thánh cũng lậu như thường
Mây trắng chớp nháng như gương,
Tiếng vang nổ dậy Thái-dương ánh trời.
Thiên binh thiên tướng đổi đời,
Núi xương sông máu góc trời khá ghê
Lìa gia chia rẽ phu thê,
Tiếng kêu khóc kể, gia quê chẳng còn
Xích-tinh phưởng phất lổ tròn,
Nguyệt-tinh chớp nháng mọc tròn năm châu.
Lao xao dân chúng khó âu,
Sao giăng tứ hướng sức thâu ngân hàng.
Phiên-bang, đảng Cộng đôi đàng,
Chiến tranh giành giựt xóm làng thác oan,
Hắc long giá võ một phang,
Lửa tuôn sấm chớp kêu vang góc trời.
Tân Kim phải chịu đổi đời,
Thành-Thang biến cải biết đời ma chưa.
Ba màu phải chịu thớt thưa,
Cậy cùng nòi giống sớm trưa giúp rày.
Thanh-long nối gót trổ tài,
Thòng vòi lấy nước bên ngòai Âu quân.
Kim chi khó nổi bền quân,
Rút về Gia-Định ngăn chừng Đồng-nai.
Trời ôi! Sao ó biếng bay,
Xe kia biếng chạy tại ai xe ngừng.
Súng sao biếng nổ không chừng,
Chư bang thập bát ngập ngừng ngẩn ngơ.
Ngồi buồn nói chuyện bá vơ,
Cho ai hiểu chút Thiên cơ tại Trời.
Tuy Tứ-Thánh lộ thiên cơ nhưng thiên cơ ấy chẳng dễ gì đóan nổi với những danh từ: Xích-tinh, Nguyệt-tinh, Hắc-long, Kim-quân, Thanh-long… Có điều người ta để ý là Tứ-Thánh cho biết khi sấm nổ thì súng hết nổ, ó (phi cơ) biếng bay, xe tăng biếng chạy.
Nói về nước Việt Nam sau này
Như đã thấy Tư-Thánh viện lý là thiên cơ bất lậu, cho nên dùng cách đánh cờ để nói bóng bãi về thời kỳ Ngươn-hạ, hay nói úp mở bằng cách dùng danh từ mà người đời chẳng dễ gì đóan cho ra; nhưng rốt lại Tứ-Thánh lậu thiên-cơ như thường khi nói về hậu nhựt của Việt Nam. Phải chăng cần phải bộc lộ thiên cơ cho người đời thức tỉnh mà Tứ Thánh cho biết cuộc biến đổi ở Việt Nam trong thời kỳ Hạ-Ngươn này:
Hạ-Ngươn mỗi việc mỗi mòn,
Mòn sông, mòn biển lại còn mòn non,
Đổi chồng, đổi vợ, đổi con,
Đổi non, đổi núi, đổi hòn Hà-Tiên.
Đổi Châu-đốc, đổi Tịnh-biên,
Thất-Sơn lại đổi qua liên Nhà-bàn
Qua liền năm nước chật đàng,
Qua lộ Văn-Giáo máu tràn như sông,
Đổi nhựt, đổi nguyệt, đổi phong,
Đổi năm, đổi tháng, đổi trong ngày giờ,
Đổi cha lại đổi nhà thờ,
Đổi cồn, đổi bãi, đổi cờ Nam-bang.
Trời xây Âu, Á bốn phương,
Nước tràn bờ cõi khó an thời kỳ.
Chuyển luân bỏ bực biên-thùy,
Ngửa nghiêng Trời-Đất lập kỳ Thượng-Ngươn
Khuyên trong anh chị làm ơn,
Ăn ngay ở thật còn hơn làm giàu
Giữ sao cho khỏi máu trào
Giữ sao cho được cẩm bào Phật ban.
Mặc dầu Tứ-Thánh không nói rõ, nhưng ai có đọc qua những đọan của ông Ba Thới cho biết cũng đều nhận thấy giữa ông Ba Thới và Tứ-Thánh vẫn cùng một nhận định về thời Thượng-Ngươn.
Như ông Ba cho biết khi sấm nổ thì có cuộc biến đổi về địa hình như núi thì vỡ, cù lao thì sụp, còn biển thì nổi đất liền. Và cũng trong lúc ấy, con người thì đê mê bất tỉnh, giữa chồng vợ khi tỉnh dậy không còn biết nhau. Về những biến động này Tứ-Thánh tóm lược trong những câu: mòn sông, mòn biển, đổi non, đổi núi.
Về lộ Văn-Giáo, ông Ba cho biết:
Kẻ thị phi niệm Phật đưa đường
Qua lộ Văn-Giáo vô thường huyết lưu.
Còn ở đây thì Tứ-Thánh nói:
Qua liền năm nước chật đàng.
Qua lộ Văn-Giáo máu tràn như sông.
Cũng là một nhận định như ông Ba. Ta còn thấy Tứ-Thánh cũng nhận có trận Đại Hồng-thủy như ông Ba, với câu:
Nước tràn bờ cõi khó an thời kỳ.
Nhưng Tứ-Thánh còn mạnh dạn hơn ông Ba về sự bộc lộ hậu vận của nước Việt Nam. Tứ-Thánh dám nói Hội Long Hoa lập ngay ở Nam-bang:
Núi rừng trổ ngọc trổ ngà
Long Hoa lại trổ trên tòa Thượng-ngươn.
Nam-bang một lá quế đơn,
Năm châu tựu hội Thất-Sơn đông vầy.
Và Tứ-Thánh lặp lại một lần nữa:
Ngày sau có một không hai,
Thất-Sơn duy nhứt Như-Lai lập đời.
Trăng lặn rồi kế mặt trời,
Gío thời hai ngọn đổi dời cũng không
Ngồi buồn nói chuyện mênh mông
Kẻ lành nghe vậy thì mong tới đời
Một lần nữa lời tiên tri của ông Ba Thới cho biết ngày sau đêm nào cũng có trăng, nay được Tứ-Thánh xác nhận.
Nhưng đến thời kỳ nào mới có cuộc biến đổi và đời Thượng Ngươn được lập? Tứ-Thánh cho biết là mỏng manh lắm rồi:
Cũng gần sắp trổ nhà Nam,
Nay còn phong kiến tứ tam tranh giành
Sắp đời như sợi chỉ mành,
Treo chuông khó nổi chuông lành hỡi chuông!
Và nó sẽ báo hiệu bằng cuộc khởi lọan của quân Tần, Đúng như sự nhận định của ông Ba Thới:
Để rồi cuộc lọan quân Tần,
Biết cho Tứ-Thánh bắc vần hay không?
Và đến khi đó thì nhơn sanh phải chịu nạn đó thế nên Tứ-Thánh khuyên:
Khoai lang lại với khoai mì
Đến khi Tần khởi độ thì khẩu ta.
Cứ theo Tứ-Thánh thì cuộc biến động vẫn xảy ra ở thị thành trước rồi sau lan tràn đến nông thôn:
Châu thành pháo nổ khói bay,
Tiếng rền dậy đất họa lây xóm làng.
Trời ôi! Khó nổi dân nhàn,
Giỏi chi thầy pháp đặt đàn tống ôn
Tống châu thành lại tống thôn
Thuốc Nam rồi lại cũng huờn về Nam
Nhưng chịu khốn khổ nhứt trong nước Việt Nam có lẽ là miền Long-Châu (Long-xuyên và Châu-đốc):
Ghe thuyền kẻ tới người lui
Giữ lời Phật dạy nhủi chui núi rừng.
Xử tiêu một cuộc không chừng.
Long-Châu ướt giáp Phật trừng lòai gian
Thây nằm chật đất ngổn ngang
Đầu trôi sóng dập ngổn ngang hai hồ.
Mà sở dĩ có cảnh núi xương sông máu như thế là vì người đời không ưa Phật Trời:
Nghĩ thương dân chúng thớt thưa
Cũng vì bá tánh không ưa Phật Trời
Nói rằng Phật ở xa vời,
Trời cao giấp-giới vậy thời biết chi.
Hay có dạ ưa Phật Trời, nhưng tu không thật tâm, không thương đến kẻ nghèo đói:
Tu sao thây chết như bèo,
Ngỗ-ngang đầu sóng kẻ nghèo chẳng thương
Rao cùng khắp hết bốn phương,
Sao không thức giấc hòan lương dòm đời.
Ngòai hai tỉnh Long-xuyên, Châu-đốc chịu đại nạn, Tứ-Thánh còn cho biết một vài nơi khác như Sài-gòn và Gia-định:
Sài-gòn Gia-định ai ngờ
Nước đâu mà lại lở bờ gốc cây.
Như Nam-vang:
Nam-vang nhà gạch nhà vôi.
Ngày sau kiếm trại lá ngồi không ra.
Như ai cũng biết quỵển Tứ-Thánh ra đời từ năm sáu mươi năm nay, trong lúc nước Việt-Nam còn đặt dưới quyền bị trị, thế mà đã cho biết về cuộc độc lập sau này. Anh em cứ nghiệm lấy tình hình hiện nay với những câu Tứ-Thánh nói đây coi có phần nào đúng không?
Nói ra nước mắt chan hòa,
Thương cho anh chị khó mà thoát thân,
Tang điền thương hải khó phân,
Không tòan độc lập nhân dân như bèo,
Tại ai cầm lái phăng lèo,
Tìm tân thế giới chịu nghèo lâu năm,
Và đây là lời tiên tri chỉ còn chờ giải đáp cả thời gian :
Thương công chú Cộng chan dầm
Vào sanh ra tử lại lầm kế ai.
Rồi đây Đức Giáo-chủ Hòa-Hảo còn tiên tri nhiều điều rất ứng nghiệm với thời cuộc hơn nữa.
-
CHƯƠNG THỨ 5
Phật Giáo Hòa hảo
I – Đức Hùynh Giáo Chủ
Như mọi người đều biết ở Việt Nam có 2 đạo giáo mạnh nhất là Cao Đài ở miền Đông và Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây.
Đức Hùynh Giáo chủ mở đạo nhằm năm Kỷ Mão (1938) cho đến nay, trong vòng 14 năm, một thời gian rất ngắn đối với các đạo giáo khác thế mà hấp dẫn một số tín đồ không thể tưởng tượng. Hầu hết các tỉnh miền Tây, đa số dân chúng đều qui ngưỡng theo đạo Phật-giáo Hòa-Hảo
Riêng 2 tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên, tỷ số tín đồ Hòa Hảo chiếm từ 80% đến 90% tòan số dân chúng. Như thế Đức Hùynh Giáo chủ phải có sức mầu nhiệm gì mới có thể thức tỉnh một số chúng sanh to tát dường ấy.
Theo sự nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có nhiều nguyên nhân mà chúng tôi tóm lược như dưới đây :
1/ Bản thân của Đức Huỳnh Giáo chủ: - Ngài vốn xuất thân là người ít học. Cứ như được biết thì Ngài học đâu hết lớp 3 trường làng, vì mãi đau ốm mà không theo đuổi được. Bỗng một hôm, Ngài được sáng tỏ phi thường, đến các hàng cự nho ở trong thôn, các nhà Tây học ở khắp nơi, một khi đến hầu chuyện với Ngài đều phải ngạc nhiên trước sự thông minh phi thường của Ngài.
Nhiều ông cự nho đem thơ đến thử đều được Ngài họa lại ngay khi ấy, không cần phải bốp trán suy nghĩ. Thế mà bài thơ nào của Ngài làm cũng đều siêu nhiên thóat tục, ai đọc cũng tưởng là của một đấng siêu phàm nào giáng cơ. Chẳng những thế, Ngài còn có tài hùng biện, ứng khẩu thành thi, diễn giải thao thao bất tuyệt.
Nhất là những người lão thông kinh điển nhưng còn thắc mắc một vài nghi vấn nào đều được Ngài làm thỏa mãn bằng những giải thích cao siêu. Đứng trước một người không học mà thông minh lỗi lạc dường ấy, thử hỏi ai chẳng ngạc nhiên hay thán phục? Chính vì đó mà một phần lớn trong hàng cự nho và Tây học, người có căn lành đều sớm tỉnh ngộ quay về Phật pháp dưới sự phổ hóa của Ngài.
2/ Cách chữa trị của Ngài – Giáo chủ được nổi tiếng và được dân chúng ngưỡng mộ qui y, một phần lớn là nhờ cách chữa trị của Ngài. Đại đế chúng tôi xin kể ra một vài trường hợp mà Ngài thâu phục tín đồ bằng phương pháp mầu nhiệm, có nhiều bịnh điên từ lâu không phương cứu chữa, hung dữ một cách lạ thường khi đem đến, Ngài chỉ lấy dây chuối cột để ngồi đó, rồi bắt niệm Phật và uống nước lã, thế mà hết bệnh. Còn nhiều bịnh ngặt nghèo khác, các thầy thuốc Tây thuốc Nam đều chạy, đến Ngài chỉ cho uống lá xòai, lá ổi, lá mú, bông trang… mà hết bịnh mới kỳ. Điều kỳ diệu nhứt là nhiều người ghiền á phiện đã uống nhiều thuốc cai mà không bỏ được, đến Ngài chỉ cho uống nước lã, là bỏ hút cái một, không hành phạt gì cả. Với sự cứu binh bằng phép huyền diệu ấy, còn ai chẳng hồi tâm hướng thiện. Thế là Đức Hùynh Giáo chủ, bằng phương pháp Tiên thuật, hóa độ một phần lớn chúng sanh.
3/ Những lời tiên tri cảnh tỉnh – Ngài sáng tác Sấm giảng văn thơ rất nhiều, trong đó Ngài tiên tri nhiều điều hoặc thực hiện nhãn tiền hay lần lượt được thời gian xác nhận. Một điều làm cho người ta kinh ngạc là Ngài nói ngay ý tưởng của người đời.
Đây là một ví dụ : một hôm có một ông lão cự nho đến tính thử Ngài có làm sẳn 2 bài thi, nắn nót suốt đêm.
Khi lão nhà nho ấy vừa bước đến, chưa kịp trình thơ ấy ra thì Ngài đã ra đón trước, vỗ vai ông lão mà rằng : Ý ông muốn làm thơ lắm phải không? Được, thôi thì vào đây làm thơ với tôi chơi. Nói rồi, Ngài mời ông lão vào nhà, liền lấy viết làm hai bài thơ trao cho ông lão ấy. Một điều làm cho ông lão kinh hồn là hai bài thơ ấy đã họa nguyên vận 2 bài thơ còn trong túi của ông. Chính nhờ có tha-tâm-thông và những lời tiên tri linh ứng mà Đức Hùynh Giáo chủ đã cảnh tỉnh một phần lớn người đời.
4/ Những pháp môn hành đạo – Mặc dầu đạo Phật đã mở ra khắp nước, nhưng kẻ sùng ngưỡng lại rất ít. Một phần là do các nhà sư tu theo Thần-Tứ, bày ra bao nhiêu điều mị dối làm cho Phật-pháp một ngày một suy đồi. Dân chúng một ngày một xa cửa thiền, một phần lớn cũng vì chán ghét cách tu giả dối ấy. Đức Hùynh Giáo chủ ra đời nêu lên một pháp môn vô vi đúng chân truyền của Đức Thế-tôn, cực lực bài xích những điều mị dối của phái tu theo Thần-Tứ. Những người có căn lành
nhận thấy pháp môn của Ngài rất thích hợp nên quay về với pháp vô vi của Phật.
Ngòai số người tu theo pháp vô-vi, còn những tín đồ của Đức Phật-Thầy Tây-An trước kia, cũng quây về với Đức Hùynh Giáo-chủ.
Ai cũng nhận thấy ở miền Tây nhứt là tỉnh Châu-đốc và Long-xuyên, đa số dân chúng đều tu theo phái của Đức Phật-Thầy Tây An.
Nay Đức Hùynh Giáo-chủ ra đời nêu lên một giáo pháp mà những tín-đồ phái Phật-Thầy nhận thấy không có chỗ nào khác với những điều mà Đức Phật-Trùm, Đức Phật Thầy Tây An, Ông Sư-Vãi Bán-Khoai đã dạy, nhứt là Đức Phật Thầy Tây-An. Chẳng hạn như Đức Hùynh Giáo-chủ giải về Tứ Ân :
1- Ân tổ-tiên cha mẹ
2- Ân đất nước
3- Ân Tam-bảo
4- Ân đồng bào nhơn lọai
Thì không có chỗ nào khác Đức Phật-Thầy Tây-An cả.
Thứ nhứt là khi đọc Sấm-giảng của Đức Hùynh Giáo-chủ, những người tu theo Đức Phật-Thầy, ông Sư-Vãi Bán-Khoai…thấy sao, cả vừa tư tưởng lẫn câu văn, nó giống như do một người sáng tác. Về những nhận xét này, rồi đây chúng tôi sẽ đem đối chiếu nhiều đọan văn của Đức Hùynh Giáo-chủ với những đọan văn của ông Sư-Vãi Bán-Khoai, sẽ thấy rõ chỗ giống nhau ấy.
Đứng trước sự trùng ngôn ấy trùng ý như thế, các tín-đồ của phái Phật-Thầy không còn ngần ngại gì nữa mà chẳng qui y theo Đức Hùynh Giáo chủ, vì họ đã nhận biết Ngài là ai rồi. Do đó mà đa số tín đồ của Đức Phật-Thầy ngày trước, nay đã trở thành tín-đồ Phật-giáo Hòa-Hảo.
Nhưng sứ mạng của Ngài ra sao? Tưởng không gì bằng trích ra đây bài lịch sử của đời Ngài, do Ngài viết ra từ năm 1942.
Lịch-sử Đức Hùynh Giáo-chủ
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, vì thời cơ đã đến, lý Thiên-đình hoạch định cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan. Ta đây tuy không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai họa chiến tranh tàn khốc do loài người tàn bạo gây nên, nhưng mà thử nghĩ: Sinh trong vòng đất Việt-Nam này, trải qua bao kiếp trong địa cầu lăn lộn mấy phen, tuy có phải chuyển kiếp luân hồi ở nơi hải ngoại để thu thập những điều đạo học kinh nghiệm huyền thâm, lòng mê si đã diệt, sự vị kỷ đã tan, mà kể lại nguồn gốc phát sinh, trải bao đời giúp nước cũng đều mãi sinh cự nơi đất Việt, dầu thác cũng quỉ Thần đất Việt chớ bao lìa. Những kiếp gần đây, may mắn gặp minh sư, cơ truyền Phật-pháp, gội nhuần ân đức Phật, lòng đà quảng-đại từ-bi, hiềm vì nổi cảnh quốc phá gia vong, máy huyền cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh đồ lao, chỉ biết xót thương chúng sanh vạn khổ.
Nghĩ lúc còn làm người trong biển tục,lăn lộn chốn mê đồ, mà chẳng quản thân giúp thế cứu dân, vong thân vị quốc, huống chi nay cơ mầu đã thấu tỏ, sớm chiều hầu chơn Phật nghe kinh, ngao du tứ hải, dạo khắp Tiên-bang, cảnh an nhàn của người liễu-đạo, muôn ngày vô sự lòng sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngai vị hưởng quả bồ-đề trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần, đặng chịu cảnh chê khen? Vì lòng từ bi chứa chan, thương bá tánh tới hồi tai họa. Phật-vương đã chỉ rõ máy diệu huyền, chuyển lập Hội Long-Hoa, chọn những đấng tu-hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn giáo truyền đại đạo, định ngôi thứ, gây cuộc hòa-bình cho vạn quốc chư-bang.
Thiên-tào đã xét định, khắp chúng sanh trong thế-giới trong cái buổi Hạ-Ngươn này, say mê vật dục, chìm đắm trong cái biển lợi danh, gây nên nghiệp quả, luật Trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ-bi cùng các vị chơn Tiên phải lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện, quây đầu, cải tà qui chánh thì mới mong Thiên-đình ân xá bớt tội căn để kịp đến Long-Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật-pháp nhiệm mầu, kiến diện bực chơn sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc, hưởng sự thái bình, bởi đời nay pháp môn bế mạc Thánh đạo tăng du, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma-vương quấy rối. Ta là một trong các vị cứu đời ấy.
Ai liễu đạo nơi quốc-độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân, vì thể từ bi bác ái cùng thu dắp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp Ta nương cậy tu hành, nên ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão Ta hóa hiện ra đời cứu-độ chúng sanh. Tuy là nhơn –dân mới rõ Pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng, chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu cho đến ngày ra trợ thế. Nên phương pháp của Ta tùy trình độ cơ cảm của Tín-nữ Thiện-nam, trên thì nói Phật-pháp cho kẻ có lòng mộ đạo qui căn, gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ, dưới dùng huyền diệu của Tiên gia độ bịnh để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ của chư vị với trăm quan, thảm thiết lê dân, lầm than thống thiết mà lời lành nghe tựa hồ như nhớ như quên, nên kẻ xa xôi từ nan chẳng tới, người láng giềng tiếng kệ nhầm tai. Đến trung tuần tháng tám, Ta cùng Đức Thầy mới tái hiện khùng điên, mượn bút mục tiết lộ lấy Thiên cơ, truyền cho kẻ xa gần đều rõ biết hầu ăn năn cải quá làm lành, còn kẻ chẳng tỉnh tâm sau đền tội cũng chẳng trách Phật Tiên không chỉ bảo.
Vẫn biết đời Lang-sa thống trị, phép nước nghiêm hình, dân chúng nếu yêu thương sẽ lắm điều hiềm khích, nhưng mà Ta nghĩ nhiều tiền kiếp Ta cũng hy sinh vì đạo, nào quản xác thân. Kiếp chót này đây há lại tiếc chi thân phàm tục, song vì tình cốt nhục tương thân, cũng ủng-hộ, che chở cho xác phàm bớt nỗi cực hình.
Bạc-liêu ngày 18-5 Nhâm Ngọ(1942)
Đối chiếu tư tưởng
Để nhận thấy chỗ liên hệ giữa Đức Phật-Thầy Tây-An, Ông Sư-Vãi Bán-Khoai với Đức Hùynh Giáo-chủ, tưởng cũng nên đem đối chiếu những tư tưởng đồng nhất giữa ba Ngài.
Trước hết ta nhận thấy rằng: Trong phái Phật-Thầy, các ngài một khi lâm phàm cứu thế đều xưng Khùng xưng Điên, ý chừng đối lại người đời xưng khôn xưng lanh, thường khinh khi Phật, Tiên, Thần, Thánh.
Mặc dầu xưng Khùng, xưng Điên , nhưng đối với những người có thiện căn, các Ngài không hẹp lượng mà chẳng cho biết rằng: Khùng Điên là của PHật, của Thầy, chớ không phải của người lảng trí. Đây là đọan văn ông SưVãi Bán-Khoai xưng Khùng xưng Điên:
Điên này Điên Phật, Điên Thầy,
Chẳng sợ ai rầy nên nói cù nhây.
Ta hãy xem một đọan văn dưới đây của Đức Hùynh Giáo-chủ thì sẽ thấy chỗ đồng nhất tư tưởng ấy:
Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,
Chớ chẳng phải của người lảng trí .
Bởi Khùng Điên của Phật của Thầy, cho nên rõ thiên-cơ, đóan biết âm dương kết liễu. Đây ta hãy đọc ông Sư-Vãi Bán-Khoai:
Khùng sao mà biết thiên cơ,
Cũng là Phật khiến cho Khùng dại điên.
Cũng đồng một tư tưởng này, Đức Hùynh Giáo chủ đã viết:
Khùng đóan biết âm dương kết liễu,
Khùng huyền cơ, Khùng đạo Thích Ca
Ngòai sự xưng hô giống nhau, chúng ta còn thấy cả sự nhận định thời cơ giống nhau nữa. Ông Sư Vãi Bán Khoai viết :
Hết đây đến nước dị kỳ,
Dỗ dành thiên hạ vậy thì chẳng an.
Đến Đức Hùynh Giáo chủ cũng thế :
Hết đây rồi đến dị kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.
Xưa nay, sự trùng ngôn trùng ý vẫn là điều thường thấy xảy ra luôn, nhưng chúng tôi dám chắc chẳng bao giờ có sự đồng nhứt tư tưởng như thế này. Trong quyển Sấm Giáng đời người, ông Sư Vãi Bán Khoai trong cuộc đi phổ độ chúng sanh thường nói là Thầy ba tớ. Đây là lời ông Sư Vãi Bán Khoai tự thuật :
Chừng nào nước chảy dòng nguồn,
Một thầy ba tớ hết đường lao đao.
Ông thường nhắc đến luôn:
Nào khi nắng bụi bay tuôn,
Một thầy ba tớ chẳng buồn lại vui.
Đến Đức Hùynh Giáo chủ cũng thế, trong Sấm Giảng, Ngài nhắc lại cuộc châu du độ thế, cũng cho biết là một Thầy ba tớ :
Khùng thời ba tớ một Thầy,
Giảng dạy dẫy đầy rõ việc Thiên cơ.
Rằng ngày nay có Phật có Trời,
Kẻo dân chúng người người kiêu ngạo.
Xuống mượn xác nhằm năm Kỹ Mão,
Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.
Nếu trẻ già có biết thì dùng,
Chẳng có ép có nài bá tánh.
Thử hỏi, khi đọc đến đoạn này, tín đồ nào của Đức Phật Thầy Tây An, chẳng nhận ra Đức Hùynh Giáo chủ là ai ? Chắc sao cũng có người sẽ hỏi : Đức Hùynh Giáo chủ lại vừa ông Sư Vãi Bán Khoai chuyển kiếp, lại vừa Đức Phật Thầy Tây An chuyển kiếp ? Điều này, chúng ta đã biết : giữa Đức Phật trùm, Đức Phật Thầy Tây An, ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Hùynh Giáo chủ vẫn không có sự sai biệt. Chính Đức Hùynh Giáo Chủ trong bài Lịch Sử về đời của Ngài, có đoạn cho biết : “ Tuy là nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng ta thượng xác cỡi đồng, chớ dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu cho đến ngày ta trợ thế “ đủ hiển thị chỗ nhận định ở trên.
Bởi do nhiều “ chuyển kiếp đã từ lâu “ cho nên Đức Hùynh Giáo chủ diễn giải về Tận Thế và Hội Long Hoa không khác ông Sư Vãi Bán Khoai và ông Ba Thới.
Giảng Về Tận Thế
Như ta đã biết ông Sư Vãi Bán Khoai mở đầu quyển Sấm Giảng người đời, bằng câu :
Hạ Ngươn giáp Tý bằng nay,
Cơ Trời đã khiến lập đời Thượng lai.
Thì Đức Hùynh Giáo chủ cũng mở đầu quyển Sấm Giảng khuyên đời tu niệm của Ngài cũng bằng câu :
Hạ Ngươn nay đã hết đời,
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang.
Ngài cũng nhận thời kỳ này là thời kỳ Hạ Ngươn và danh từ này được Ngài lặp lại nhiều lần :
Đời Hạ Ngươn nhiều hung dữ,
Nên xảy ra lắm sự tai ương.
Hoặc là :
Chữ vinh hoa giờ chớ có màng,
Bởi giả tạm của đời Ngươn Hạ.
Ngài cho đời này là đời giả tạm vì rồi đây tuồng đời sắp hạ :
Khuyên răn trần thế một khi,
Tuồng đời sắp hạ bằng ni rõ ràng.
Nghĩa là nhơn loại sẽ đến ngày tận thế và ngày ấy theo Đức Hùynh Giáo chủ còn chẳng bao lâu nữa :
Tận thế gian còn có bao lâu,
Mà chẳng chịu làm tròn nhơn đạo.
Người đời chưa chịu làm là vì người đời còn lần lựa, bởi thế Ngài không ngớt nhắc nhở :
Đời tận thế mà còn lần lựa,
Chẳng chịu mau cải dữ về lành.
Và Ngài cho biết là nó mỏng mẻo lắm rồi :
Đời Ngươn Hạ ngày nay mỏng mẻo,
Khuyên thế trần hãy ráng kiêng dè.
Vì lý do gì tuồng đời sắp hạ, lòai người sắp đến cơ tận diệt? Đức Hùynh Giáo-chủ cùng một nhận xét như ông Sư-Vãi Bán-Khoai, cho rằng người đời gây ra hằng ngày biết bao tội ác. Các du-thần đem những tội ác ấy tâu lại Ngọc-Hòang Thượng Đế, Ngài muốn xử tiêu cho rồi:
Lưỡng thần ghi chép liên miên,
Nào tội nào phước dưới miền trần gian
Tâu qua ThượngĐế Ngọc-Hòang,
Dương trần hung ác đa đoan quá nhiều
Chúng sanh ngang ngược làm liều,
Ngọc-Hòang Ngài muốn xử tiêu cho rồi
Nhưng đứng trước sự phán quyết của Đức Ngọc Hòang Thượng-Đế, Đức Minh-Vương vô cùng thương xót đến cầu Phật-Tổ cứu trần. Về đọan này ông Sư-Vãi Bán-Khoai đã viết:
Hạ-Ngươn gian ác rất nhiều,
Thiên-đình Ngài muốn xử tiêu cho rồi.
Minh-Vương không xiết hỡi ôi!
Lo mưu định kế cứu rày Hạ-Ngươn.
Liền qua Tây-vực Linh-Sơn,
Cầu Phật giải cứu cõi trần Hạ-Ngươn
Chư Phật đến trước đơn trì,
Tâu cùng Ngọc-Đế chớ hờn chúng sanh.
Để cho Phật dạy làm lành,
Chừng nào chẳng đặng sẽ hành bịnh căn
Về đọan này Đức Hùynh Giáo-chủ cũng cho biết như thế:
Minh-Vương khó đứng không ngồi
Thảm thương lê thứ mắc hồi gian truân.
Trước đền mắt ngọc lụy rưng,
Quỉ yêu bá tánh biết chừng nào nguôi
Làm sao dạ nọ được vui
Cúi đầu lạy Phật cầu xin cứu trần.
Và Đức Hùynh Giáo-Chủ còn nhắc thêm rằng:
Lời khuyên xưa cũng một lần
Nay mượn xác trần xuống bút ra cơ
Để nhắc lại một lần nữa rằng Ngài đã khuyên một lần rồi, chớ phải không sao. Câu này ám chỉ rằng: Với chuyển kiếp ông Sư-Vãi Bán-Khoai, Ngài đã khuyên một lần rồi.
Chính nhờ có Phật xin cứu trần mà chư Phật chư Tiên lâm phàm. Về điều này Đức Hùynh Giáo-chủ cũng cho biết như ông Sư-Vãi Bán-Khoai rằng:
Kể từ ngày vàng lộn với thau,
Phật, Tiên, Thánh cùng nhau xuống thế
Hoặc giả:
Cờ thế-giới ngày nay gần thúc,
Nên Phật Tiên phải xuống hồng trần.
Đức Hùynh Giáo-chủ cho biết Ngài cũng “ là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu-đạo nơi quốc-độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân”, vì thế mà Ngài lâm phàm, nhằm khi thế gian đương gặp lúc não nùng:
Xuống dương thế dạo trong lê thứ,
Thấy bá gia gặp lúc não nùng.
Ngài cho biết Ngài đã xuống thế mấy lần rồi mà nào ai có hay:
Chim Ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót mấy lần không hay.
Và ngài cho biết Ngài xuống An-giang, tức là tỉnh Châu-đốc trong miền Nam nước Việt:
Tây-phương trở gót quá xa đàng,
Thương xót Nam-kỳ lại An-giang.
Đóai thấy xóm làng thêm bắt chán,
Yêu đời mê muội luống bầm gan.
Và chuyển kiếp vào một xác “thanh sắc trẻ”, họ Hùynh ở thôn Hòa-Hảo. Chính với danh từ này Ngài đặt cho nền đạo của Ngài hoằng-hóa là Phật-giáo Hòa-Hảo:
Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta
Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà
Tạo sắc Hùynh danh thanh-sắc trẻ
Chờ thời Thiên định thiết hùng-ca
Năm Ngài lâm phàm là năm Kỷ-Mão (1938):
Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-Mão,
Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng
Hoặc giả:
Kỷ-Mão hạ san mượn xác trần,
Cảnh tỉnh đồng loại lão khuyên dân
Thậm thâm đây đó niềm liên ái
Hợp tác cùng nhau nối bước thần.
Ngài xuống thế để “ nối bút thần” tiếp tục công cuộc cứu thế của Ngài, nhưng lần chuyển kiếp này, sứ mạng của Ngài ra sao? Có giống mấy lần chuyển kiếp trước không?
Sứ-mạng của Đức Hùynh Giáo-chủ.
Đức Hùynh Giáo-chủ cho biết lần xuống thế kỳ này là Ngài vưng lịnh của Phật-tổ:
Ta vì vưng sắc lịnh Ngọc-Tòa,
Đền Linh-Khứu sơn trung chịu mạng.
Ngài cho biết là Ngài xuống thế gian mà truyền diệu pháp cho đời cải tà qui chánh:
Ngọc-Tòa Phật Tổ nấy sai Ta,
Xuống cứu thế gian nẻo vạy là.
Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu pháp
Cho đời thấu rõ đạo Ma-ha.
Đã đành “ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân”. Nhưng cái lý chánh là vì cõi đất Việt-Nam sau này sẽ là cõi Trung-ương. Nên chi Ngài cho biết rằng:
Tuy là nương dựa non Tần,
Ngày sau thế cuộc xoay vần về Nam
Câu này ám chỉ trong một chuyển kiếp làm ông Sư-Vãi Bán-Khoai ở nước Tần, nhưng cũng về Nam vì nước Nam sẽ là cõi Trung-ương:
Cõi Trung-ương luân chuyển phương Nam,
Mở hội Thánh chọn người trung-hiếu.
Bởi hội Thánh sẽ mở tại Trung-ương, cho nên các vị Phật Tiên đều xuống thế ở Việt-Nam:
Nước Việt-Nam nhằm cõi Trung-Ương,
Sau sẽ có Phật Tiên lại thế.
Và chính vì thế mà Đức Hùynh Giáo-chủ được lịnh lâm phàm:
Ngài vâng chỉ đáo lai trần thế,
Cõi Trung-Ương nhằm đất nước Việt-Nam.
Chọn một chàng tuổi trẻ tục phàm
Mượn tay gã , tờ hoa thần hạ bút.
Để thi hành sứ mạng cao cả của Ngài trong công cuộc dắt dìu sanh chúng đi đến Hội Long-Hoa, để cảnh tỉnh người đời như Đức Phật-Thầy Tây-An và ông Sư-Vãi Bán-Khoai trước kia, Ngài xưng Khùng, xưng Điên mà người đời mấy ai có biết:
Ra đời xưng hiệu Khùng, Điên
Nào ai có rõ Thần , Tiên là gì!
Mặc dầu người đời không biết, Ngài vẫn không vì đó mà không giục thúc người đời tầm Tiên lánh tục:
Điên như ta Điên giống Tiên Rồng
Điên gở ách xích xiềng thế tục,
Chuông Linh-Khứu ba hồi giục thúc,
Đờn Lôi-Âm khởi điệu êm tai.
Con lành duyên khá trở gót hài
Điên quyết chí dắt người lánh tục
Trong lúc đi hóa độ. Ngài hóa hiện ra đủ hạng người khi thì già, khi thì trẻ:
Khi già lúc lại trẻ thơ
Giả quê, giả dốt khắp trong thị thành
Khi thì làm người tàn tật
Giả người tàn tật đón xe
Rồi lại nói vè ròng việc thiên-cơ
Khi thì giả người buôn bán
Nói ra thêm thảm thêm thê
Ông-Lãnh dựa kề giả bán trầu cau
Khi thì giả ra người nhà quê
Gỉa quê dốt khuyên người tỉnh ngộ
Giả bán buôn thức giấc người đời
Rằng ngày nay có Phật có Trời
Kẻo dân thứ nhiều người kiêu ngạo
Đức Hùynh Giáo-chủ không ngại mà bày tỏ:
Cảnh Thiên trước thơm tho nồng nặc,
Chẳng ở yên còn xuống phàm trần
Ấy vì thương trăm họ vạn dân
Nên chẳng kể tấm thân lao khổ
Đức Phật-Thầy hay ông Sư-Vãi Bán-Khoai lâm phàm với sứ mạng chỉ thức tỉnh người đời tu hành cho kịp Hội Long-Hoa, đến như Đức Hùynh Giáo-chủ thì Ngài cho biết chẳng những Ngài có sứ mạng nhắc nhở người đời mà Ngài còn đóng vai trò quan trọng trong Hội Long-Hoa nữa:
Muôn thu Thiên định khắc kỳ
Hạ-Ngươn sắc lịnh khai kỳ Long-Hoa
Ráng dẹp phá sương mù ttrước mắt
Chớ để cho quỉ dắt linh hồn
Lão đây vưng lịnh Phật-Tôn
Lãnh câu thưởng phạt chư môn dữ lành
Khá chí tâm học hành kinh sấm
Thóat với miền hắc ám phong ba
Trở chân cho kịp Long-Hoa
Long-Hoa có mặt ấy là hiền-nhân.
Bởi thế, Hội Long-Hoa là một trường thi, lập ra để chọn người hiền đức:
Long-Hoa Tiên Phật đáo ta bà
Lừa lọc con lành diệt quỉ ma
Nên mãi mê mang mùi tục lụy
Linh hồn chìm đắm chốn nê hà
Có lập Hội Long-Hoa mới biết người hiền đức còn được bao nhiêu:
Lập rồi cái Hội Long-Hoa
Đặng coi hiền đức được là bao nhiêu?
Gian tà hồn xác cũng tiêu
Thảm thương bá tánh chín chiều quặn đau
Nhưng Hội Long-Hoa sẽ lập ra như thế nào?
Long –Hoa Hội ân cần lo lập,
Lập cho rồi tam-thập lục nhơn
Lôi-âm dục khởi tiếng đàn
Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm nghèo
Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc.
Đứng sau lưng hình vóc dãy chơn
Nước kia lửa nọ tưng bừng,
Thảm cho thế sự lẫy lừng nạn tai.
Thời cũng tại không ai tu niệm,
Cứ lẳng lơ ngạo biếm khoe khoang.
Đến nay là buổi tai nàn
Tam-Thiên lục bá khắp tràng hại dân
Đến Thân Dậu Thánh Thần náo động
Thảm cho trần , nhà trống ruộng hoang
Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,
Nạn tai dồn dập xóm làng còn chi.
Đại lược thảm trạng của Hội Long-Hoa sẽ diễn ra như htế. Nhưng trước khi đi đến Hội Long-Hoa, cuộc thế sẽ biến chuyển ra làm sao?
Giảng về các tai biến
Cũng như ông Sư-Vãi Bán –Khoai và ông Ba Thới, Đức Hùynh Giáo-chủ cũng nhận Hội Long-Hoa là một trường thi lập ra để chọn người hiền đức. Bởi thế muốn đi đến Hội Long-Hoa, có mặt trong Hội Long-Hoa
Không phải là một việc dễ, vì người có mặt trong Hội Long-Hoa hẳn là người hiền mới được:
Trở chơn cho kịp Long-Hoa
Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.
Có mặt trong Hội Long-Hoa đã là một việc khó , thì Hội Long-Hoa chẳng phải lập lên trong một sớm một chiều hay lập lên trong cảnh thái bình. Vốn là một cuộc lọc lừa để chọn con Tiên cháu Phật, cho nên được đi đến Hội Long-Hoa, con ngừơi phải trải qua bao nhiêu biến-thiên nguy khốn, trong sự chuyển xoay trái đất:
Phải chuyển xoay trái đất một bầu
Đặng lừa lọc con Tiên cháu Phật
Và sự chuyển biến ấy, sẽ diễn ra những cảnh thảm sầu khổ não báo hiệu rằng đời đã tới:
Hạ-Ngươn lòng dạ đổi dời,
Bây giờ khổ não đến đời là đây
Cảnh thảm khổ đã xảy ra ở ngọai quốc rồi đây nó sẽ diễn đến nước Nam:
Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến
Sao dân còn triều mến trần mê
Mắt nhìn ngọai quốc thảm thê
Nam-bang cảnh khổ cũng kề bên tai
Lời trên đây đã xuất hiện từ năm 1938 trong lúc nước Nam còn yên tịnh. Mặc dầu thấy yên nhưng Đức Hùynh Giáo-Chủ cho biết trước:
Ai mà biết đặng ngày mai
Ngày nay yên tịnh ngày mai thảm sầu
Từ rày gặp cảnh buồn rầu
Cho người tàn bạo cứng đầu khinh khi
Và cuộc biến chuyển sẽ đổi thay quá mau, từ giờ từ phút:
Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,
Máy thiên cơ mỗi phút mỗi thay.
Ngài khuyên dân chúng hãy nhìn xem thì thấy:
Thôi thôi cảnh khổ hầu gần,
Ta khuyên dân chúng ân cần nhìn xem.
Như ông Sư-Vãi Bán-Khoai thì cho biết là sẽ có những điềm trời, còn đức Hùynh Giáo-Chủ thì nhắc cho người đời để ý về mùa tiết, nay đã khác xưa rồi:
Trời dông gió sái mùa , sái tiết,
Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi.
Và người đời cứ mãi ước sao đời không tới phứt cho rồi:
Thấy trần thế ai ai cũng ước,
Đời sao không tới phứt cho rồi
Nhưng Đức Hùynh Giáo-chủ cho biết là đã tới rồi, mà khi đã tới người đời vẫn còn ngơ ngẩn:
Nay tới nơi khó đứng khôn ngồi,
Lúc đói cơm buồn lòng ngơ ngẩn.
Dầu vậy cũng chưa mấy thê thảm, rồi đây sợ khi nhìn thấy phải lạc phách bay hồn, trước cảnh máu sông xương núi:
Khổ với thảm ngày nay có mấy.
Sợ mai sau dòm thấy bay hồn
Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn
Cảnh sông máu núi xương tha thiết.
Trần với thế bây giờ nào biết,
Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường.
Thật vô cùng thảm thương cho lê thứ:
Thấy thiên-cơ khó nỗi yên ngồi,
Thương lê thứ tới hồi khổ não
Bởi từ đây sẽ có nhiều cuộc biến đổi dị kỳ:
Từ đây biến đổi dị-kỳ,
Dương thế chuyện gì cũng có chuyển xoay
Đức Hùynh Giáo-chủ còn cho biết rồi đây sẽ xảy ra nào là cảnh người đời đua nhau đất cày:
Mai sau nhiều cuộc đất cày,
Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa.
Và chừng đó khó đứng khôn ngồi vì quá thương nhà tiếc của:
Để sau khó đứng khôn ngồi,
Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi.
Là vì nhà cửa ấy , nó tuôn trong một giờ là sạch:
Giàu sang như nước trên nguồn,
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ
Nào giặc-giã bốn phương nổi lên:
Đến chừng đó bốn phương có giặc
Khắp hòan cầu thiết thiết tha tha.
Nào là nạn đói khổ:
Trong bổn đạo từ đây kim chỉ.
Đói với nghèo sắp đến bây giờ.
Mà một khi nạn đói xảy ra thì người đời phải điêu linh, vì nó kéo dài đến 5 năm 6 tháng:
Bửu ngọc trường quang ẩn-tích kỳ
Sơn đài lộ vẻ liễn huyền vi
Kỳ thâm tá giả thi thành thủy
Hương vị âm thầm mộc túy vi
Năm năm lục ngoạt cơ hàn thử
Non lịch đài mây rạng tu mi
Bảy niên hòa địa nhơn hiền thủ
Núi ngự Hòang-san tự Đỉnh-Chi
Cái nạn đói này, Đức Hùynh Giáo-chủ cho biết kéo dài cho đến ngày lập đời Thượng Ngươn mới dứt:
Ngũ niên viễn lự cơ hàn,
Đến chừng qui phục Hớn-Đàng mới yên.
Bởi thế Ngài hằng khuyên những người giàu có:
Kẻ phú quí đừng vong cơm nguội,
Sau đói lòng chẳng có mà dùng
Cũng như Ngài đã khuyên cả mọi người:
Khuyên trần sớm liệu bắp khoai,
Cháo rau đở dạ tháng ngày cho qua.
Về nạn đói, chúng ta thấy Đức Hùynh Giáo-chủ nhận định như ông Sư-Vãi Bán-Khoai về thời hạn năm năm sáu tháng. Đây là lời của ông Sư-Vãi Bán-Khoai:
Năm năm sáu tháng long đong,
Nhơn dân thiên hạ mắc vòng gian nan.
Hoặc là:
Năm năm sáu tháng cơ hàn,
Quỉ vương gây lọan nào an thế trần
Nào là nạn Quỉ vương gây tai nạn cho dân chúng, như ông Sư-Vãi Bán-Khoai vừa nói trên:
Đạo Quỉ-vương rất nhiều chi nhánh,
Khuyên dương trần sớm tránh mới mầu.
Để ngày sau đến việc thảm sầu,
Ráng nghe kỷ lời Ta mách trước.
Đức Hùynh Giáo-chủ cho biết là Trời đã mở cửa cho nó xuống:
Thời kỳ này nhiều quỉ nhiều ma,
Trời mở cửa qủi vương xuống thế
Nó rất tinh tường biết cả tên người mà kêu:
Sau Quỉ-vương đi đứng nửa lừng,
Thêm tên tuổi chúng sanh nó biết.
LÀm đủ cách xuống lên tha thiết
Ở ngòai đường nó biết tên mình
Nào là cửa nhà tan nát:
Khắp thế giới cửa nhà tan nát
Cùng xóm làng thưa thớt quạnh hiu
Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu,
Nay tận diệt lập đời trở lại.
Nào là cha con, chồng vợ lạc nhau, nhà không ai ở:
Cha nọ bồng con vợ khóc òa,
Tan nát xóm giềng khổ dữ a!
Nhà không người ở, ôi! Nói trước.
Nếu chẳng tin lời gặp thiết tha.
Ngòai những tai biến vừa kể, Đức Huỳnh Giáo-chủ còn cho biết nào là nạn ác thú kỳ-hình dị dạng sát hại sinh-linh đúng như ông Sư-Vãi Bán-Khoai và ông Ba Thới đã cho biết. Chúng ta thử so sánh: đây là lời ông Sư-Vãi Bán-Khoai:
Thú sao nhiều thứ dị-kỳ.
Biết sao cho hết khác thì thú nay,
Lớp bay lớp chạy lăng xăng,
Chừng đó cầu nguyện Phật ngừa đặng đâu
Và đây là lời ông Ba Thới:
Có hổ lang ác thú tới nhà,
Hùm tha sấu bắt trẻ già thương ôi!
Còn đây là lời của Đức Huỳnh Giáo-chủ:
Mưu sâu thì họa cũng thâm,
Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.
Hùm beo tây tượng bộn bề
LẠi thêm ác thú mảng –xà rít to
Các lòai thú ấy đều biết bay, đúng như ông Sư Vãi Bán –Khoai đã viết:
Hổ lang ác thú muôn bầy,
Lớp bay lớp chạy sau này đa đoan
Ai mà ăn ở nghinh-ngang,
Đón đường nó bắt xé tan xác hồn.
Mặc dù là kỳ hình dị tướng, nhưng lòai thú ấy có tánh linh, biết phân biệt kẻ hiền người ác. Với kẻ hiền đức thì nó cúi đầu, còn với người hung ác thì nó sát phạt:
Sau kẻ ấy làm mồi mãnh hổ,
Cảnh núi non nhiều thú dị-kỳ.
Nó trọng ai hiền đức nhu-mì
Sát phạt kẻ bội cha phản chúa.
Nào là nạn binh Trời mà ông Sư-Vãi Bán Khoai và ông Ba Thới gọi là âm binh. Đây là lời ông Sư Vãi Bán Khoai nói về âm binh:
Lại còn một mối âm binh.
Làm đau nhiều chứng trong mình chẳng an.
Kẻ thời nát ruột nát gan,
Người lại nát thịt tan xuơng chẳng còn.
Và đây là lời của ông Ba Thới:
Xuất ngôn vô độ hữu âm binh,
Xử phân bất chánh bất minh khổ đời.
Còn đây là lời của Đức Hùynh Giáo-chủ nói về nạn binh Trời:
No chiều rồi lại đói mơi,
Dương trần sắp vướng binh Trời từ đây.
Nào là nạn Bàn-môn tả đạo nhiễu hại sanh-linh. Về đọan này ông Sư-Vãi Bán-Khoai có cho biết:
Bàn –môn thả thú rất nhiều,
Kỳ-lân sư-tử lại nhiều thú hung
Hay là:
Bàn-môn diệu thuật đa đoan,
Hóa lửa nó đốt muôn ngàn người ta.
Còn Đức Hùynh Giáo-chủ thì cho biết:
Ai mà Ta dạy chẳng gìn,
Thì sau đừng trách mất tình yêu đương.
Bàn-môn tài phép nào tường,
Kêu Trời giậm đất cũng thì dạ rân.
Nói cho trần thế liệu toan,
Chớ theo tả đạo mà tan xát hồn
Nó làm nhiều phép nhiều môn,
Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng sanh
Thành binh sái dâu cũng rành,
Nếu tin thì mắc tan tành về sau
Nào là nạn Thiên-la địa võng, ngăn đường đón ngõ, kẻ hung ác không chạy đâu cho thóat:
Đến chừng đó Thiên-la lưới bủa,
Mới biết rằng Trời Phật công bằng.
Nào là nạn sơn băng thủy kiệt
Sau đến việc sơn băng thủy kiệt,
Khùng thảm thương bá tánh quá chừng.
Nhìn xem trần nước mắt rưng trưng,
Cảnh áo não kể sao cho xiết.
Nào là nạn Đại Hồng thủy và lửa Trời cháy rực. Về đọan này ông Sư-Vãi Bán-Khoai có viết:
Nước đâu ngập lút gò cao,
Lửa đâu dậy cháy lao xao khắp ngàn.
Và đây là lời Đức Hùynh Giáo-chủ nói về nạn Đại Hồng-thủy:
Ngọn thủy triều nô nức sụt sôi,
Bầu trái đất một phen luân chuyển.
Và nói về nạn nước và lửa:
Nước kia lửa nọ tưng bừng,
Thảm cho thế-sự lẫy lừng nạn tai.
Trải qua những Thiên-tai Địa-ách ấy, người đời chết chẳng biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Ông Sư-Vãi Bán-Khoai mô tả thảm trạng ấy với câu:
Ngồi trên đỉnh núi cheo leo,
Thấy trong thiên-hạ như bèo trôi sông.
Ông Ba Thới thì cho biét người ta chết đến không ai chôn:
E thân thác chẳng đặng bó bì,
Bây giờ quan quách cô dì chế tang.
Về cảnh trạng này Đức Hùynh Giáo-chủ viết:
Lớp đau chết kể thôi vô số,
Thêm tà ma yêu quái chật đường.
Hay là:
Chinh chinh bóng xế về tây.
Đóai nhìn trần thế xác thây ê-hề.
Trong các Thiên-tai Địa-ách, riêng về hai tỉnh Long-Châu(Long-xuyên và Châu-đốc) còn chịu một tai nạn khủng khiếp của con Long ác-nghiệt.
Trong lịch-sử Đức Phật-Thầy Tây-An có đọan nói rằng:
Một hôm ông Đình Tây, một môn-đệ của Đức Phật-Thầy Tây-An, Được lịnh Thầy đi xuống vùng Láng gặp lúc vợ tên Xinh chuyển bụng đẻ mà không có chồng ở nhà. Ông Đình Tây thấy vậy chạy lo làm giường và rước mụ giùm. Khi tên Xinh đi bắt rắn bắt rùa ờ ngòai đồng về nghe rõ tự sự thì hết sức cám ơn ông Đình Tây. Ông này thấy trong giỏ của Xinh có một con sấu con, mũi đỏ có năm giò, thì rất thích bèn nài nỉ hỏi mua. Nhưng vì thọ ơn ông Đình Tây mới vừa giúp vợ mình sanh đẻ nên Xinh vui lòng biếu con sấu ấy cho ông. Được con sấu ấy, ông Đinh Tây đem khoe với Thầy. Té ra Thầy biết đó là lọai sấu Thần, nên có bảo ông Đình Tây đem giết, để trừ hậu họan. Đã không nghe lời Thầy, ông Đình Tây lén nuôi con sấu ấy. Được ba năm, con sấu ấy một hôm bò đi mất. Không dám giấu-giếm, ông bèn đem việc ấy bạch lại với Đức Phật-Thầy thì Ngài chắt lưỡi, rồi cắt nghĩa cho ông Đình Tây biết sau này con sấu ấy sẽ nhiễu hại dân-chúng không biết bao nhiêu mà kể.
Trong Sấm-giảng của Đức Hùynh Giáo-chủ, chúng ta thấy Ngài không dứt nói đến tai nạn phải chịu về con sấu năm giò ấy mà dân-chúng miệt Long-xuyên và Châu-Đốc kêu tên là ông Năm Chèo, còn Đức Hùynh Giáo-chủ thì gọi là con Long ác nghiệt.
Về con Long ác nghiệt, Đức Hùynh Giáo-chủ có chỉ vị trí của nó và những tai nạn do nó gây ra:
Con sông nước chảy vòng cầu,
Ngày sau có việc thảm sầu thiết tha.
Chừng ấy nổi dậy phong ba,
Có con nghiệt thú nuốt mà người hung
Đến chừng thú ấy phục tùng,
Bá gia mới biết người Khùng là ai.
Con thú ấy phục tùng ai? Đức Hùynh Giáo-chủ không ngại mà cho biết rằng:
Ta chịu lịnh Tây-phương thọ-ký,
Gìn nghiệt-long đặng cứu dương trần.
Nên ra đời dạy dỗ ân cần,
Khuyên bá tánh vạn dân liệu lấy
Và đến chừng đó khắp nơi mới mến yêu Ngài:
Thâu cho được con Long ác nghiệt.
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.
Trong bao nhiêu tai trời ách nước mà người đời phải chịu trong thời-kỳ Hạ-Ngươn này, tuy là vô cùng khốn khổ, nhơn lọai điêu linh, nhưng chưa khủng khiếp bằng tiếng sấm nổ, báo hiệu thời kỳ chuyển biến bước qua cõi đời Thượng Ngươn.
Giảng về tiếng sấm nổ
Tiếng sấm nổ sẽ gây ra nhiều hiện tượng như: Sự thay đổi địa hình, người đời đê-mê bất tỉnh, các vị Phật Tiên thừa vân lai thế công đồng thưởng phạt, lập lên đời Thượng-Ngươn…
Về tiếng sấm nổ, ông Sư-Vãi Bán-Khoai có viết:
Thương thay trần hạ hết tình,
Sấm Trời sao lại thình lình nổ ra.
Chừng ấy mới thấy qủi ma,
Ai lành ai dữ ai là Phật Tiên?
Còn ông Ba Thới thì viết:
Chừng nào nghe một tiếng âm thinh.
Lạ quê lạ kiểng bình minh lạ người.
Lạ non núi lạ dạng nói cười,
Mặt mày lơ láo như người cuồng phu.
Đều cho biết những hiện tượng vừa kể trên trong khi sấm nổ.
Về sấm nổ Đức Hùynh Giáo-chủ giải rất dài, vì đây là một hiện tượng quan trọng . Trước hết, tiếng sấm nổ ấy, làm bọc lộ kiểng Tiên:
Vang vầy sấm nổ chuyển luân,
Kiểng Tiên lộ vẻ vui mừng cha con.
Sau nữa, tiếng sấm nổ làm lộ bảng vàng, các nước vì tham báu kéo qua gây chiến tranh thảm khốc:
Sấm vang thì lộ bảng vàng,
Chư nhu thế giới khắp tràng đến thi.
Chữ thi gần chữ sầu bi,
Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi,
Tại đâu các nước kéo qua tranh báu, và báu ấy ở đâu? Về vấn đề này ông Sư-Vãi Bán-Khoai có viết:
Chừng nào bảy Núi thành vàng
Thời là mới đặng thanh nhàn tấm thân.
Hay là:
Chừng nào Núi Cấm hóa lầu,
Thời là bá-tánh đâu đâu thái bình.
Còn ông BA Thới thì cho biết:
Vận nghèo ai chẳng phi ơn,
Của Trời Phật để Thất Sơn thiếu gì!
Đức Hùynh Giáo Chủ thì Ngài không dứt nhắc đi nhắc lại:
Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Coi là coi được Phật Trời,
Coi phép lạ của Tiên của Thánh.
Ngài cho biết rằng tuy nay là chốn rừng sâu u-minh nhưng mà trong đó có vàng:
Hỡi bá tánh rừng sâu có mạch,
Tuy u-minh mà có đền vàng.
Và Ngài không ngớt khuyên dân chúng hãy ráng tu để sau xem báu ngọc ấy:
Đời cùng tu gấp kịp thì,
Đặng xem báu ngọc ly kỳ Năm Non.
Ngài quả quyết trong ruột Năm Non ấy có lâu đài.
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột Năm Non có các đài.
Chờ đợi con hiền noi tục cổ,
Tới thời Thượng Cổ điểu hòa mai
Và Ngài cho biết lầu đài ấy sẽ lộ nay mai:
Lầu đài Núi Cấm lộ nay mai,
Thức tỉnh chúng sanh sớm tỏ bày.
Khuyên dạy dân tình minh đạo đức.
Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai
Mà khi lầu đài lộ vể rồi thì chừng ấy sẽ thấy nhiều việc ly-kỳ ở Năm Non:
Làm cho rồi phận tu mi,
Sau này sẽ thấy ly-kỳ Năm Non,
Và những chuyện ly-kỳ ấy không chi khác hơn là các nước khi thấy đền đài châu báu lộ ra quá tham mà kéo đến:
Lao xao bể Bắc non Tần.
Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua.
Tranh phân cho rõ tài ba
Cùng nhau giành giật mới là thây phơi.
Bởi thế Đức Hùynh Giáo chủ thường khuyên:
Khuyên bổn đạo chớ nên mê ngủ,
Thức dậy tầm đạo chánh của khùng
Đặng sau xem liệt quốc tranh hùng,
Được sanh sống nhờ ơn chín bệ.
Hoặc là:
Đức Diêm chúa yêu người hiền thảo,
Trọng những ai biết niêm Di-Đà.
LẠi được gần bệ ngọc long xa
Coi chư quốc tranh giành châu báu.
Hay là:
Hãy mau khuya sớm chuyên cần,
Đặng xem chư quốc non TẦn giành chia.
Nhưng đến khi ấy người hiền thảo thì được dựa kề bệ ngọc các lân xem chư quốc tranh hùng, còn người hung ác thì chịu cảnh vợ xa chồng, con lạc mẹ vì cuộc chiến tranh tàn khốc ấy:
Thảm cho trẻ hài nhi lịu điệu
Vợ xa chồng bận bịu thê lương.
Phong trần dày dạn gió sương.
Chư bang ham báu hùng cường đau tranh.
Còn một cuộc chiếu manh giành xé
Khắp hòan cầu ó ré một nơi
Dòm xem châu ngọc chiều mơi,
Sao đời không sớm tách dời cõi mê.
Tuy biết rằng vì ham báu mà các nước kéo qua tranh giành gây nên cuộc xâu xé nhau làm cho lê dân phải chịu họa lây , nhưng có đến cảnh thê thảm ấy người hiền đức mới thấy phép mầu của Phật Tiên Thần Thánh:
Thất Sơn lộ vẻ đài lầu,
Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta
Bởi vì chính lúc thảm khổ ấy, lúc sanh linh chết thôi vô số kể, các đấng Tiên Phật mới hiện ra, mà Đức Hùynh Giáo-chủ đã khuyên tín-đồ lo tu để sau sẽ thấy việc gì trên mây:
Tu hành tâm trí rán trì,
Sau này sẽ thấy việc gì trên mây.
Hoặc là:
Này này lời lẽ rán ghi,
Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây.
Chừng đó những người hiền đức sẽ được tận mắt nhìn thấy Phật Tiên và lầu đài quốc vương:
Nguyện cầu qua khỏi nạn tai,
Đặng coi Tiên Thánh lầu đài quốc vương.
Hay là
Chữ Nam-mô dẹp được lòng sầu.
Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh.
Chẳng những được thấy Tiên Phật mà còn được xem phép mầu của mấy ngài nữa:
Thương sanh chúng tỏ bày quá kỹ,
Hỡi dương trần nên sớm quầy đầu!
Đặng sau xem PHật-pháp nhiệm mầu
Với báu quí lầu đài tươi tốt,
Về những phép lạ này, Đức Hùynh Giáo-chủ có nói đến nhiều đọan như:
Sớm chiều rèn đúc kinh tinh
Ngày sau mới thấy phép linh của Trời.
Những phép lạ ấy sở dĩ Phật Tiên hóa hiện ra là để trừ lũ Hung-Nô:
Gắng công tu xem nhiều phép lạ,
Của Thần Tiên trừ lũ Hung-Nô.
Phải có phép Phật mới trừ nổi lũ Hung-Nô, vì chúng nó tài phép đa đoan lắm. Về đọan này, ông Sư-Vãi Bán-Khoai có viết:
Các nước vây phũ tư bề,
Phật cùng chư-vị nào bề rảnh đâu.
Minh-Hòang ngự tại Nam-lầu.
Phật cùng chư-vị lo thâu phép Thần.
Còn ông Ba Thới viết:
Mãn nhất thinh các nước đều vô,
Đầu sơn giao chiến Nam-mô tranh tài
Thập bát quốc vây phủ ở ngòai,
Thiền trung xuất trận phép tài quan Thiên.
Đóai Ngũ-long tiền trận nữ Phiên,
Giao chinh tam trận chư Tiên lai đầu.
Phật thâu phép chư quốc chư hầu,
Qui lai thiền nội ứng hầu Phật vương.
Và Đức Hùynh Giáo-chủ thì viết:
Địa Tiên tài phép đa đoan
Phi đao bửu kiếm mê mang mắt trần.
Phật truyền thâu hết phép Thần,
Cứu an bá tánh một lần nạn nguy.
Phiên binh bốn phía tứ vi
Kể sao cho xiết chuyện ni sau này
Lớp thì thú ác dẫy đầy
Lớp thì tranh đấu tối ngày chẳng thôi.
Kẻ hung chừng đó làm mồi
Cho bầy ác thú đền bồi tội xưa
Nhưng khi Phật thâu hết phép rồi, Phiên binh đầu hàng bằng cách nào? Ông Ba Thới cho biết Việt-Nam có một vị quân-sư thượng trí anh hào coi mười tám nước:
Nam triều sau có quân sư
Coi mười tám nước chư châu phục tùng.
Ngày sau nhiều kẻ anh hùng
Nghề văn nghiệp võ trí trung không cùng.
Vị quân sư ấy đóng một vai trò quan trọng mà ông Ba Thới cho biết thêm rằng:
Hữu quân sư thượng trí anh hào,
Dạy mười tám nước chỗ nào văn thơ.
Mười tám nước tài phép trơ trơ,
Phật thâu trả quả ngẩn ngơ chư hầu.
Mười tám nước lai giáng hàng đầu,
Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn-bang.
Chỉ dùng thượng trí mà vị quân sư ấy làm cho tài phép của các nước phải trơ trơ. Về đọan này Đức Hùynh Giáo-chủ nói rõ cho người đời thấy rằng:
Thất Sơn tiếng nổ,
Qui cổ diệt kim
Cửu cửu y nhiên,
Tình riêng tham báu
Đổ máu tuôn rơi
Khùng mới nói chơi,
Chư bang hàng phục.
Cũng đồng một ý nghĩa như ông Ba Thới rằng: Khùng mới nói chơi, chư bang hàng phục, nghĩa là khắc phục Phiên-binh bằng phương pháp bất chiến. Để bọc lộ tánh cách bất chiến ấy Đức Hùynh Giáo-chủ viết thêm rằng:
Anh hố hò khoan,
Tình tang xự xế
Bỏ phế hương thôn
Ác đức vô môn,
Rồng mây hội yến
Ra đời bất chiến
Nổi tiếng từ bi,
Lờilẽ ráng ghi.
Thành công êm thắm,
Có lắm người yêu.
Về đọan này, nhiều người đem so sánh cho rằng giống một đọan sấm của cụ Trạng Trình.
Phân nhân lòng bắc khởi,
Nhiểu nhiểu xuất đông chinh.
Bảo-Sơn thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành.
Chắc sao cũng có kẻ hỏi: tại đâu chỉ có mới nói chơi mà chư bang hàng phục, chẳng chiến mà thành? Có người giải thích rằng: khi sấm nổ rồi thì súng chai, các võ khí không còn hiệu lực nữa. Trong lúc ấy chỉ còn đấu phép hay đấu trí. Xưa nay sở dĩ có chiến tranh , nước khai hấn bao giờ cũng có giữ nhiều mưu-đồ chiến-lược bí mật, chắc chắn rằng bên địch không lường nổi. Nay nước Việt Nam có một vị quân-sư thượng-trí, có lục thông ( Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Thần túc thông, Tah tâm thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông) , ngồi một nơi mà thấy xa, nghe xa, biết cả ý muốn của người nữa, thử hỏi khi chiến lược của mình mà người biết, điều toan tính trong lòng mình mà người ta lại hay, còn ai có gan dạ nào khai chiến, chẳng đầu hàng chớ.
-
Giảng về Thượng Ngươn
Một khi mười tám nước phục tùng thì tam-giới cộng đồng hội hiệp để trừng trị những người hung ác, ban thưởng người hiền lương:
Người hung chết rất chật thây
Nhìn xem bắt thảm ngày rày cho dân
Mấy người còn được xác thân
Thì là đài ngọc, các lân mới kề.
Về đoạn tam giới cộng đồng hội hiệp ông Sư-Vãi Bán-Khoai có viết:
Thiên-đàng Địa ngục hiệp sang
Trung-Ương tam giới xuê-xang phỉ tình
Nói cho bá tanh làm tin
Đừng mê đạo khác mà quên Nam đình
Đến chừng gặp hội bình minh
Gươm nào tội nấy chớ tình thở than.
Còn ông Ba Thới thì viết
Sau Tam-giới hội lại một ngôi,
Muôn dân lạc nghiệp chúa tôi thuận hòa.
Về đoạn này Đức Huỳnh Giáo Chủ giải rất rõ
Hiền lành chừng đó sum vầy
Quân thần cọng lạc mấy ngày vui chơi
Đến đó ta mới mừng cười
Nhìn xem Ngọc-Đế giữa Trời định phân
Thiên hoàng mở cửa các lân,
Địa-hoàng cũng mở mấy từng ngục môn
Mười cửa xem thấy ghê hồn
Cho trần coi thử có mà hay không?
Nhơn-hoàng cũng lấy lẽ công
Cũng đồng trừng trị kẻ long tà gian
Ấy là đến lúc xuê-xang,
Tam hoàng trở lại là đời Thượng-Ngươn
Về việc Đức Ngọc Đế định phân, Đức Huỳnh Giáo chủ còn cho biết thêm rằng;
Có ngày mở rộng quỉ khôi,
Non thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân.
Huyền-cơ máy tạo xoay vần.
Đồng về Phật cảnh mười phần xinh tươi.
Chẳng những Ngài dự một phần trong việc phân định của Đức Ngọc-Đế, mà còn lãnh một trọng trách trong việc lập bảng Phong-Thần nữa.
Về bảng Phong-Thần Đức Hùynh Giáo-chủ có viết:
Các nơi Tiên trưởng đâu đâu.
Lư đồng hội hiệp đồng chầu Thánh-vương.
Trụ kia bạo ác phải nhường,
Võ-vương hữu đức đường đường trị dân
Thì rõ vịệc Phong-Thần trở lại,
Thuyền Đông –Pha lèo lái cánh trương.
Và chỉ có người hiền đức mới xem được cuộc Phong-Thần đăng bảng:
Nhờ ơn Trời ban bố đức ân,
Xem chung cuộc Phong-Thần tại thế.
Nhưng vị nào lãnh phần đứng ra dựng bảng Phong-Thần? Đức Hùynh Giáo-chủ không e ngại mà cho biết:
Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn.
Chỉ có một hội này mới biết ai được ai mất. Bởi thế Đức Hùynh Giáo-chủ không dứt khuyên răn:
Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần,
Có một hội này rán lập thân.
Chớ để trể chầy rèn chẳng kịp,
Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.
Và một khi được bước đến cõi Tiên-bang mới hưởng được sự an nhàn dựa kề cửa thánh:
Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,
Sum vầy một cuộc Hớn-đàng tọai thay!
Người nào vẹn được thảo ngay,
Dựa kề cửa thánh đài mây an nhàn.
Nhưng hỡi ôi! Những người được hưởng phước huệ ấy còn chẳng được bao nhiêu.
Theo ông Sư-Vãi Bán-Khoai thì trong mười người còn lại hai người:
Tôi buồn bốn phía không yên,
Kẻ dữ hết tám, người hiền còn hai.
Nhưng theo ông Ba Thới thì trong mười người chỉ còn có một:
Càng ngày càng hao càng mòn,
Mừơi phần hết chín chẳng còn người hung.
Còn Đức Hùynh Giáo-chủ thì cho biết cả thế giới số người còn lại lối hai ba phần:
Thiên cơ biến đổi can qua,
Gẫm trong thế-giới còn đôi ba phần.
Mau mau kíp kíp chuyên cần,
Chúng sanh còn có lập thân hội này.
Nhưng số người còn lại ấy, có thể giữ được tấm thân ô trược trong thời kỳ Thượng Ngươn chăng? Một thời kỳ mà quả đất đổi hình, cảnh vật đều sinh tươi, khí hậu thanh khiết ôn lương, ngày thì mặt trời mọc, đêm thì có trăng sáng như ban ngày? Từ ông Sư-Vãi Bán-Khoai , trãi qua ông Ba Thới đến Đức Hùynh Giáo-chủ, đều nhìn nhận là có sự thay đổi xác, phản lão hòan-đồng.
Về vấn đề này ông Sư-Vãi Bán-Khoai có viết:
Tu hành nhơn đức thì hơn,
Thay hồn đổi xác nhờ ơn Cửu-trùng.
Hết tục rồi lại đến Tiên,
Giữ lời Phật dạy mới yên mới lành.
Ông Ba Thới cũng nhận sự phản lão hòan đồng hết tục đến Tiên ấy là nhờ phép Phật:
Khá bủa câu thả lưới đợi chờ,
Phật cho tài phép một giờ thóat mê.
Cõi dương gian ba kiểng ba quê
Ba ngôi ba chúa châu phê nhứt điều.
Thương cho người sống ít thác nhiều,
Linh đơn PHật rưới mai chiều hóa Tiên.
Về vấn đề này Đức Hùynh Giáo-chủ có viết:
Chừng Bảy Núi lầu son lộ vẻ
Thì người già hóa trẻ dân ôi!
Tu hành ắt được thảnh thơi,
Lại xem được Phật được Trời báu thay.
Đức Hùynh Giáo-chủ còn cho biết cái hiện tượng thay hồn đổi xác chẳng riêng gì ở Việt-Nam mà ở khắp hòan-cầu:
Sau lập hội thì già hóa trẻ.
Khắp hòan cầu đổi xác thay hồn
Đức Ngọc Hòang mở cửa thiên môn,
Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh.
Và Ngài cho biết cũng như ông Sư-Vãi Bán-Khoai và ông Ba Thới rằng: việc thay hồn đổi xác, già hóa trẻ ấy là nhờ phép Tiên, phép Phật:
Cổ ngữ hằng ghi thậm khổ đa,
Tận diệt nhân –gian, trực Tiên khoa.
Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,
Ly-kỳ Thiên định dĩ thiên la.
Thế là đời Thượng Ngươn đã lập với sự đổi mới địa hình, nhơn vật. Về đọan này ông Sư-Vãi Bán-Khoai có viết:
Phật Trời nói chẳng sai lời
Long-Hoa là hội Phật Trời lập ra
Lập rồi cái Hội Long-Hoa,
Chọn người tu niệm đặng rày bao nhiêu?
Chọn lựa coi thử ít nhiều
Người lành kẻ dữ còn tiêu kẻ nào?
Minh-Vương xuất đế ngôi cao,
Lập đời Thượng –cổ anh hào hiền lương.
Chọn người của Phật mến thương
Đặng giao mối nước cho Vương Minh-Hòang.
Còn ông Ba Thới thì viết:
Phật thâu phép chư quốc chư hầu,
Qui lai thiền nội ứng hầu Phật-vương
Đồng chúc Thánh vạn thọ an khương
Tuế tăng vạn tuế Phật vương thọ trường
Phân chư quốc cống lễ minh tường.
Tiểu bang lãnh sắc thường thường thọ ân
Đãi yến diên chư quốc quan dân,
Chỉnh tề trở lại hương lân an phần.
Phân thượng hạ quan chức quân thần,
Phân ngôi phân thứ định phần quan dân.
Chúa Hớn-trào miên viễn hòang-ân,
Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh nhàn.
Thế là ông Sư-Vãi Bán Khoai và ông Ba-Thới đồng nhận ở thời-kỳ Thượng Ngươn sẽ do Đức Minh Vương ngự trị.
Đến Đức Hùynh Giáo-chủ, Ngài cũng nhận như thế:
Khắp lê thứ biến di thương hải,
Dùng phép mầu lập lại Thượng Ngươn.
Việc thiên-cơ Khùng tỏ hết trơn,
Cho trần hạ tường nơi lao lý.
Lão nào có bày điều ma mị,
Mà gạt lường bổn đạo chúng sanh.
Đức Minh-Vương ngự ở Nam-thành,
Đặng phân xử những người bội nghĩa.
Và Ngài cho biết có Đức Minh-Vương sửa trị thì đời mới an cư:
Đạo đời nào có tư riêng,
Minh-Vương sửa trị mới yên ngôi Trời
Và đời an cư ấy là ngày Thượng Ngươn hồi phục:
Làm cho rõ mặt râu mày,
Thượng Ngươn hồi phục là ngày an cư.
Ông Sư-Vãi Bán-Khoai cũng nhận Đức Hùynh Giáo-chủ rằng có Đức Minh-Vương trị nước thì dân mới thái bình:
Các nước chư quốc khiêm nhường,
Minh-Vương trị nước như Đường Cao-Tôn.
Nam trào Phật ngự rất đông,
Vua lên chánh điện thì dân thái bình.
Về thời kỳ thạnh trị ấy, Đức Hùynh Giáo-chủ cho biết như thế này:
Ngày nào mà Phật, Tiên tạo vị,
Ấy thời lai bình trị muôn dân.
Khắp các nơi chư quốc xưng thần
Trong bốn biển chúng dân lạc nghiệp.
Theo dõi gót người xưa mới kịp,
Vừng mây lành ngũ sắc hào quang.
Phật, Thánh ,Tiên Đông-độ bước sang,
Miền Nam-địa phân chia đẳng cấp
Nước cờ mới nay đà khởi sấp,
Trổ tài hay biển lấp non dời
Dưới cùng trên ảm đạm khí trời
Cả thế giới mưa hòa gió thuận
Tạo nền móng Thánh quân đặt vững
Nơi triều ca gầy dựng tôi hiền.
Mà sở dĩ khắp thế giới đều một niềm hòa thuận, là vì ở thời kỳ Thượng Ngươn sẽ có Phật Tiên tại thế, và việc nước đều gom về một mối, đặt dưới sự sửa trị của một vị thánh quân:
Và sau này, khi đời Thượng Ngươn được lập thì nước Việt Nam sẽ đổi quốc hiệu là Hớn-bang. Về điều này ông Sư-Vãi Bán-Khoai đã có nói:
Nói cho già trẻ lo âu
Minh-Vương khôi phục Hớn- châu Phong-Thần.
Còn ông Ba Thới thì viết:
Mười tám nước lai giáng hàng đầu
Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn-bang.
Hay là:
Phân thượng hạ quan chức quân thần,
Phân ngôi phân thứ định phần quan dân
Chức Hớn trào miên viễn hòang ân,
Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh nhàn.
Về quốc hiệu sau này của Việt-Nam , Đức Huỳnh Giáo-chủ cũng nhận là Hớn-bang hay Hớn-đàng.
Ngũ niên viễn lự cơ hàn,
Đến chừng qui phục Hớn-đàng mới yên.
Bởi Hớn-bang là một cõi Tiên-bang sau này, cho nên muốn đi đến cõi ấy, Đức Hùynh Giáo-chủ hằng khuyên hãy cố gắng tu hành:
Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,
Sum vầy một cuộc Hớn-đàng tọai thay!
Người nào vẹn được thảo ngay,
Dựa kề cửa Thánh đài mây an nhàn.
Và muốn đi đến cõi tốt đẹp ấy, cần phải nhẫn nại trông chờ:
Duyên sự đê mê cảnh Hớn-đàng,
Lần dò cho thấu nẻo Tiên-bang.
Xuê xang mấy kiểng nhìn sương gió,
Lòn cúi chờ trông lúc khải hòan.
Mà ngày khải hòan ấy là ngày thấy được phụng-hòang xuất hiện, tức là điềm Thánh-chúa ra đời:
Chừng nào thấy được phụng-hòang,
Rồng chầu chớp nhóang Hớn-đàng hiển vinh.
Và ngày hiển vinh ấy là ngày Hớn –đàng vững đặt:
Một tay lá quốc an bang
Nước nhà vững đặt Hớn-đàng hiển vinh.
Cứ theo Đức Hùynh Giáo-chủ thì ngày hiển vinh, vui tươi ấy đã gần ló bóng, chớ không còn xa
Ngày vui tươi cũng đã ló bóng
Cớ sao đời còn mãi say sưa?
Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa
Ngày lập hội tay vịn cành quế.
Cái cơ hội được vịnh cành quế, chỉ có một hội này mà thôi. Bởi thế Ngài khuyên hãy ráng chuyên cần, bằng để trễ chầy thì chẳng kịp. Nhưng chừng nào Hội Long-Hoa mới lập? Ngày tận diệt còn xa chăng?
Những lời tiên tri
Đọc qua các Sấm Giảng từ ông Sư-Vãi Bán-Khoai, trãi qua ông Ba Thới cho đến Đức Huỳnh Giáo-chủ, ai cũng nhận thấy có nhiều đọan nói về thời gian rất phù hạp nhau, mà phù hạp cả Sấm của Trạng Trình nữa.
Trong Sấm Trạng Trình có đoạn viết:
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên gian kiến thái-bình.
Ông Sư Vãi Bán-Khoai cũng nhận định như thế, nên có nhiều đọan viết như:
Mèo kêu nghe tiếng ai bi
Quân thần phụ tử xiết chi ưu phiền.
Rồng bay xao xiến nào yên,
Rắn bò giáp giới đảo điên dương trần.
Chừng nào có ngựa có lân,
Có qui có phụng có quân có thần.
Hay là:
Năm Mẹo tháng Mẹo chưa buồn,
Năm Mẹo tháng Hợi lụy tuôn dầm dề.
Vậy mà chưa thấy ủ ê,
Trung ương rồng lộn ê hề thây thi.
Mèo kêu riết tới ai bi
Tới gà về ổ dân thì bình an
Như thế là cùng nhận như Đức Trạng qua Dậu mới thái bình.
Ông Ba Thới cũng nhận rằng:
Con Mèo ngồi sợ rắn xa đàng
Dê thời ghét khỉ xóm làng sạch trơn.
Thập bát quốc làm hội đầu sơn,
Thăng thiên độn thổ nhờ ơn Phật Trời.
Trong Sấm Giảng của Đức Hùynh Giáo –chủ cũng thấy đồng một nhận định ấy:
Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉnh ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gia lao
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.
Và cho biết đến Dậu là có Phật ra đời:
Chừng nào mới đặng thảnh thơi,
Dậu Phật ra đời thế giới bình yên.
Và nhắc lại rằng những điều cho biết trên đây là đúng theo Sấm truyền của Đức Trạng:
Ngày nay xe lết xe lôi
Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
Là năm Rồng , Rắn, Ngựa , Dê.
Chúng sanh thế giới ê hề thay phơi
Trạng Trình truyền sấm mấy lời
Ngày nay dân chúng vậy thời rán tri
Về bài sấm của Trạng Trình, có người cho rằng đã ứng hiện trong trận đại chiến thứ hai vừa rồi. Nhưng trong quyển Phi Lạc sang Tàu, ông Hồ-hữu-Tường cãi lại rằng: bài sấm của Đức Trạng chỉ vào trận giặc cuối cùng là trận giặc thứ ba.
Nhưng có điều mà các Sấm Giảng đều nhận là thế nào giặc Tần cũng khởi trước, mở màn cho cơ tận diệt.
Về điểm này ông Ba Thới viết:
Lòng tưởng Phật có người bảo hộ,
Của bá gia cứu độ bá gia
Việc trước thời Tần khởi lọan ra,
Sát nhơn vật người ta thậm khổ.
Tứ Thánh cũng có viết:
Để rồi cuộc lọan quân Tần,
Biết cho Tứ Thánh bắc vần hay không.
Ếch ngồi đáy giếng mắt trông
Vịt nghe tiếng sấm cũng không biết gì.
Khoai lang lại với khoai mì,
Đến khi Tần khởi độ thì khẩu ta.
Trong Sấm Giảng , Đức Hùynh Giáo-chủ cũng cho biết Tần sẽ điều động trước:
Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa.
Thập bát chư bang động can qua
Dương gian mãnh thú trừ tàn ác
Lê thứ hậu lai khổ thiết tha
Tần bang hậu hận tiêu diêu động.
Nam quốc lương dân kiến linh xa
Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,
Dư đảng dọc ngang cấp ma ha.
Nhưng dầu sao cũng chỉ là những lời tiên tri, vì chưa thực hiện nên còn chưa tin. Đức Hùynh Giáo-chủ cũng biết thế nên chỉ nói trước
Nữa sau đến việc biết đời,
Bây giờ chưa thấy nó thời không tin.
Mặc dầu tin hay không tin Ngài cũng nói:
Nghe không thì cũng mặc tình,
Nói cho rõ rệt dân tin không là.
Và đây là những lời tiên tri đã ứng hiện: chúng tôi muốn nói về hiện tượng lúa bay.
Nói lúa mà biết bay thiệt không ai ngờ, nhưng hiện tượng ấy đã xảy ra. Cứ theo báo chí đăng tải thì hiện tượng này đã xảy ra ở tỉnh Bạc-Liêu mà người tường thuật không ai khác hơn là một vị cao cấp trong tòa án ở Bạc Liêu trước kia đã từng lăn lộn trong nghề báo, cô đứng chủ-trương cả tuần báo lẫn nhựt báo.
Như thế thì lời tường thuật không còn nghi ngờ là bịa đặt. Người ta có đưa ra giả thuyết cho rằng con trốt hốt lúa bay đi, nhưng theo lời tường thuật thì không thể cho đó là một hiện tượng do con trốt gây ra, vì rằng khi thấy lúa bay thì người nhà cố đậy ém nó lại nhưng nó vẫn chui ra như thường, trong lúc không có gió dông gì cả.
Cái hiện tượng này cũng thấy xảy ra ở trong tỉnh Long-Xuyên và Châu-Đốc, ngặt vì không có ai tường thuật lên mặt báo nên không ai hay biết.
Cái hiện tượng này đã được Sấm-Giảng từ mười mấy năm về trước cho biết và cắt nghĩa lúa ấy bay về đâu. Đây là đọan Đức Huỳnh Giáo-chủ giải thích về lúa bay:
Ngồi chơi đạo lý bàn qua,
Mấy bà có biết lúa mà bay không?
Có người đạo lý hơi thông
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày:
Lúa bay về núi để dành ngày sau.
Thế là lúa ấy bay về núi để dành ngày sau mà trong Kim cổ kỳ quang của ông Ba Thới đã cho biết:
Đói ăn bắp, nói nữa ăn khoai.
Hết khoai hết bắp chiều mai ăn đá.
Thế là lời tiên tri về lúa bay từ mười mấy năm về trước ngày nay đã ứng hiện.
Và đây là lời tiên tri mà Đức Hùynh Giáo-chủ cho biết trước rằng ngày sau này khó kiếm được Ngài:
Tu kíp kíp nếu không quá trể.
Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.
Hay là:
Rán nghe lời dạy của Thầy,
Đến chừng đến việc kiếm Thầy không ra.
Ngòai ra Ngài còn cho biết trước những biến chuyển về thời cuộc Việt-Nam mà lần lượt thấy ứng hiện không sai. Như khi Nhật chiếm đóng, Ngài cho biết Nhựt ăn không hết nửa con gà, trong lúc người ta tin chắc Nhựt sẽ thắng Đồng Minh.
Lời tiên tri ấy được ứng hiện rõ ràng.
II.-Ông Thanh Sĩ hay người có Huệ
Dân chúng ở miệt Hậu-Giang và một số người ở Saigon không còn lạ với ông Thanh-Sĩ. Ông tên tộc là Trần-duy-Nhứt mà người đời thường gọi là Cậu Hai nhỏ. Năm nay, ông mới 25 tuổi, vốn là người sansh trưởng ở Nha-mân thuộc tỉnh Sa-đéc. Mồ côi cha từ nhỏ, ông sống với mẹ già, nhà nghèo nên sự học hành chểnh-mảng. Ông chỉ học đến lớp ba trường làng rồi thôi. Ông sống với mẹ và lo việc tu hành theo phái cư-sĩ tại gia, pháp môn của Đức Huỳnh Giáo-chủ hoằng-hóa , chú trọng vào đạo Tứ-Ân, học Phật tu nhơn, chớ không có khổ hạnh trường chay, hay luyện đơn hóa khí gì, nghĩa là tu như bao nhiêu tín-dồ Phật Giáo Hòa-Hảo.
Ấy thế, mà khi ông lên mười sáu tuổi thì bỗng nhiên ông sáng tỏ, thông minh một cách lạ thường, nhưng hồi ấy ông chưa biểu lộ cho ai biết. Gặp lúc lọan lạc , ông và mẹ bỏ đất Nha-mân tản cư lên miệt Châu-đốc và Long-xuyên. Và vào mùa xuân năm 1948, lúc ông được 21 tuổi thì ông ra đời nói pháp.
Và đây là những điều kỳ-diệu mà người đời phải ngạc nhiên. Ông có tài hùng biện mà xưa nay chưa từng thấy.
Chúng ta thường thấy các vị cao tăng thuyết pháp, người kém học thì hoặc viết bài sẵn rồi đọc, kẻ lão thông thì hoặc ứng khẩu , nhưng hầu hết đều dùng lọai văn xuôi. Đến như ông Thanh-Sĩ thì chẳng thế. Bất cứ ở đâu ông cũng ứng khẩu và thuyết pháp bằng thi trường thiên, khi thì thượng lục hạ bát, khi thì tứ cú liên hòan, thao thao bất huyệt, cả ba bốn giờ đồng hồ mà không ngưng , đứng trước hằng năm bảy ngàn thiện-nam tín-nữ. Nhưng chớ tưởng ứng khẩu như thế là thì không điêu luyện.
Những nhà thi bá một khi nghe ông thuyết pháp phải lắc đầu le lưỡi, vì lối thi của ông rất điêu luyện và trác tuyệt. Nếu phải là tay thi gia, chưa hẳn ngồi nặn nọt mà làm được . Có người nghi ngờ cho ông đã làm sẵn, rồi học thuộc lòng. Điều nghi ngờ bị phá tan khi có nhiều nơi đưa đầu đề ra nhờ ông giảng là ông liền ứng khẩu giảng cả hai ba tiếng đồng hồ mà không dứt.
Hoặc giả người ta muốn thử coi ông có làm sẳn không, bèn đưa ra cùng một đầu đề đó mà ở nơi này thì giảng khác, còn ở nơi nọ thì lại giảng khác nữa. Nói tóm một điều là ông tùy căn cơ và trình độ của thính giả mà hóa độ. Ông biết rõ căn cơ và đi thấu vào ý tưởng của mỗi người đến hầu chuyện với ông.
Chính vì chổ cơ huyền này mà nhiều người đến hoặc hỏi pháp hoặc xin thơ đều được ông làm thỏa mãn. Ông cho thơ ngay tại chỗ, viết trước mắt mọi người. Và điều kỳ diệu mà người đến xin thơ phải ngạc nhiên là bài thơ ấy nói đúng vào bản tính của mình. Có một lần, có một người được ông cho thơ, khi đọc đến phải khủng-khiếp, vì những lời mà người ấy nguyện hằng đêm trước bàn phật đều được lặp lại trong bài thi.
Còn một điều mà các nhà thơ phải khâm phục là ông thường làm một lối thơ khóan yêu nghĩa là ban chữ ở nửa chừng câu.
Đây chúng tôi xin đơn cử ra một bài thơ ông cho một ông đốc-phủ nọ ở Sai-gon, một bài thơ bằng chữ nho, mặc dầu từ bé đến lớn ông không hề có học, vừa khóan thủ , vừa hai lần khóan yêu. Bài này làm ngay khi ông đốc-phủ ấy đến xin:
Cứu trần Thiền duyệt Kiếp mê si
Dân chúng Tông đồ Hối sự phi.
Mạt pháp Tịnh diêu Tà chánh khởi
Kiếp phàm Độ tái Lọan binh thi,
Phật sanh Kiêm thế Qui liên tọa
Tiên họat Hành nhơn Kiến ngọc trì
Lâm khổ Bất cầu Long hổ trợ
Trần Hòan Di dịch Hội chí nguy
Xin tạm lược đại ý như vầy:
- Xuống trần cứu người khỏi kiếp mê si, trở lại vui thích ở cửa thiền.
- Cho dân chúng tông đồ hối cải việc quấy.
- Ở thời kỳ mạt pháp thì khởi ra hai mối tà chánh.
- Ở kiếp phàm thì vẫn trở qua trở lại, lọan với binh thi nhau.
- Phật ra đời để đem về tòa sen.
- Tiên giáng trần khiến người thấy được bệ ngọc.
- Cảnh khổ đã đến sao chẳng cầu Long hổ cứu trợ.
- Cuộc trần hòan sắp thay đổi, nổi nguy khổ dồn đôn.
Đọc tòan bài đã có nghĩa, mà khi đọc dọc xuống hàng thứ nhứt, thứ ba và thứ năm, chúng ta sẽ thấy ba câu:
Câu đầu: Cứu dân mạt kiếp Phật Tiên lâm phàm, có nghĩa: Phật Tiên xuống phàm cứu dân trong thời kỳ mạt kiếp.
Câu thứ ba: Thiền-tông Tịnh-độ kiêm hành bất di, có nghĩa: Hãy tu hành cả pháp môn Thiền-tông và Tịnh-độ chớ dời đổi.
Câu thứ năm: Kiếp hối tà lọan qui kiến Long-Hội, có nghĩa: Hãy mau cải tà qui chánh thì sẽ thấy Hội Long-Hoa.
Như thế đủ thấy tài làm thi của ông là tuyệt và sự nhận định huyền cơ của ông cũng siêu phàm.
Đây chúng tôi xin trích thêm một bài thơ bằng văn Việt để cho ai ai cũng có thể thưởng thức , chẳng những cái hay của lối thơ khóan yêu mà còn nhận thức những lẽ huyền cơ của ông Thanh-Sĩ về cõi đời Hạ-Ngươn này:
Xót thương Hạ giới chịu tan tành,
Ấy cũng Ngươn do nghiệp bất lành
Đến lúc Gần đây tuồng nhị Chúa
Sẽ ra Có cuộc trổ tam Thanh
Nước tràn Tẩy sạch phường vô đạo
Lửa dậy Trần thiêu lũ bất minh
Hỡi trẻ Bớ già mau tỉnh-ngộ !
Tu cầu Dân chúng sớm thăng bình.
Ngòai ý nghĩa của tòan bài cho biết cuộc biến thiên trong những ngày sắp tới mà ai ai cũng nhận thấy., chúng ta khi đọc câu thứ ba theo chiều dọc xuống còn thấy câu khóan yêu này: Hạ Ngươn gần có tầy trần bớ dân ! Như thế thật là tài tình, tài tình ở chỗ tòan ý bài thơ với câu khóan yêu cùng một ý nghĩa.
Cái lối thơ khóan yêu là lối thơ sở-trường của ông Thanh-Sĩ. Nói thế , chẳng phải về các loại thơ khác ông không tinh đâu. Cho đến nay ông sáng tác được ba tập thơ: Châu thuyết, Tiếng chuông cảnh tỉnh và Tỉnh thê. Ngòai ra ông cho thơ rất nhiều và viết nhiều bài trường –thiên, nhưng tiếc vì tản mác một nơi một mớ, nên không kết tập được. Một điều đáng tiếc nữa là mỗi lần thuyết-pháp, ông đều dùng lối ứng khẩu không được ký âm, cho nên không còn dấu tích lưu lại.
Một người từ chổ vô học mà trở nên sáng tỏ , thông minh như thế , thật là một việc hy-hữu. Trong người ấy hẳn có cái gì siêu phàm lắm.
Thế nào là người phát Huệ ?
Trước khi đi sâu vào tư tưởng giới của ông Thanh-Sĩ, tưởng cũng nên biết qua thế nào là người phát Huệ và có phải đó là một hiện tượng thần bí không?
Về sự phát Huệ trong Sấm giảng của Đức Hùynh Giáo-chủ có đọan viết:
Nếu ai mà biết chữ tu trì,
Tâm bình tịnh được thì phát Huệ
Như thế đủ thấy rõ rằng hễ cái tâm đã định thì tức nhiên Huệ phát. Cũng như một hồ nước mà cứ mãi động, cặn cáu nổi lên thì không làm sao thấy được đáy hay ngồi trên bờ hồ dòm xuống mà thấy rõ diện mục. Phải làm cho cái hồ yên tịnh , cho cặn cáu lắng xuống thì nước hồ tự nhiên trong, tức nhiên ngó thấy được đáy. Cái tâm con người cũng thế, hễ nó xao động thì nó gây thêm vô minh, duy có yên tịnh thì nó mới phát Huệ, nghĩa là đạt đến sự sáng tỏ.
Để đạt được Huệ, trong nhà Phật có sáu pháp Ba-la-mật phải tu, mà Tàu dịch là Lục Độ, nghĩa là sáu chiếc đò đưa đến bến giác, tức Huệ vậy.
Sáu pháp Ba-la-mật ấy là:
1/ Đàn-na( Dana) tiếng Phạn, Tàu dịch là Bố-thí, nghĩa là đem tiền của, thân mạng, pháp mà ban bố cho chúng sanh.
2/ Thi-la( Sila) tiếng Phạn, Tàu dịch là Trì-giới, nghĩa là giữ các giới luật của kẻ tu tại gia hoặc tu xuất gia.
3/ Sằn-đề ( Ksanti) tiếng Phạn, Tàu dịch là Nhẫn-nhục nghĩa là nhẫn chịu mọi sự đau khổ trên đời.
4/ Ti-lê-da( Virya) tiếng Phạn , Tàu dịch là Tinh-tấn nghĩa là nhứt tâm sấn bước tới, không hề nản chí.
5/ Thiền-na ( Dhyana) tiếng Phạn, Tàu dịch là Thiền-định nghĩa là yên tịnh cõi lòng và dứt tâm tán lọan.
6/ Bát-nhã (Prajna) tiếng Phạn, Tàu dịch là Trí-huệ nghĩa là trí thông suốt các pháp, thấu hiểu chân lý.
Cứ theo sáu pháp này mà tu-hành chơn chánh thì sẽ đạt được Huệ. Sáu pháp này có thể giản-súc lại làm ba pháp: Giới, Định, Huệ, nghĩa là phải giữ giới và thiền-định thì đạt được Huệ.
Như thế muốn được Huệ phải hành sáu pháp Ba-la-mật. Như trường hợp của ông Thanh-Sĩ, có phải ông cũng đã hành y theo pháp Lục-độ kia không? Như chúng ta đã biết: ông Thanh-Sĩ chỉ tu theo phái cư-sĩ tại gia, pháp-môn của Đức Hùynh Giáo-chủ, một pháp môn chỉ tu nhơn đạo, học Phật tu nhơn, thì nhờ đâu ông lại phát Huệ? Vì đâu người không học mà nói pháp rất rành?
Về điều này trong Sấm giảng của Đức Hùynh Giáo-chủ có đọan giải rằng:
Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp quá rành.
Lựa làm chi cao chữ học hành,
Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo.
Như thế rất rõ: trường hợp của Lục-Tổ Huệ-Năng không có học mà nói pháp rất rành, cũng chẳng qua là nhờ tỏ ngộ mà thôi.
Nhưng biết đâu sự tỏ ngộ của Đức Huệ-Năng chẳng chỉ để hòan-thành bao nhiêu sự học hỏi ở tiền kiếp?
Về điều này, ông Thanh-Sĩ trong quyển Châu-thuyết cũng có viết:
Có học có biết có tường,
Không học mà biết phi thường khó thay !
Có bông có trái nhờ cây,
Có công tu luyện được tài thần thông.
Cũng là một ý nghĩa cho biết đã có công tu luyện ở tiền kiếp, chớ chẳng phải không. Như thế trong những người sáng tỏ, phát Huệ ngày nay hẳn có một tiền kiếp siêu phàm.
Về trường hợp của ông Thanh-Sĩ, không thấy ông cho biết điều gì quá sự hiểu biết của người phàm tục . Ông rất khiêm tốn mà cho biết rằng:
Lòng nguyền một kiếp một thân,
Vừa lo tự giác ,vừa lần giác tha.
Và bổn phận của ông là để nhắc nhở lại những điều giáo hóa của Thầy, cho người đời phấn khởi tu hành:
Kể từ ngày lố dạng Sĩ Thanh,
Miền Châu-đốc chỉ rành đường lối.
Khi vắng mặt Đức Thầy tăm tối.
Giục giã người phấn khởi tu hành
Mặc dầu ông quá khiêm nhượng, không xưng hô, nhưng người ta cũng nhận thấy ở ông một bậc siêu phàm, trong bài thơ tự thán khóan thủ dưới đây:
Thân do tứ đại hợp nên hình
Ta đã hồi quan rất bạch minh
Sống ngụ hồng trần gieo giống thiện
Thác hồi cựu vị dạo non linh
Vẫn không nhiễm lọan nơi phàm tục
Xem khắp ta bà độ chúng sinh
Như phải quyên thân vô lượng kiếp
Thường vui tái hiện cứu mê tình
Với câu “ thác hồi cựu vị dạo non linh” đủ biểu lộ tánh siêu phàm ấy. Càng bọc lộ tánh siêu phàm và lòng quảng ái của ông hơn nữa là bài thơ “Lòng ta” sau đây;
Mong mỏi trau giồi tánh Phật nhi
Độ đời nối chí đấng từ bi
Chúng sanh nếu mãi còn luân chuyển,
Nguyện gánh cho trần cái khổ ni !
*
* *
Khổ ni lãnh chịu cái trần gian
Lần lượt non dài đặng rảnh rang
Nếu một phút nào dân thống khổ
Ta dầu cực lạc khó ngồi an.
*
* *
An ngồi tự tại một mình ta
Hạ-giới điêu linh mấy vạn nhà
Dám hỏi tâm phàm đau đớn chẳng
Huống hồ Phật Thánh đặng nhàn ca.
Trường hợp của ông Thanh-Sĩ là như thế thì những người phát Huệ khác cũng như thế.
Luật tuần hòan của đời sống vô-vi và hữu-vi.
Về vấn đề Tận-thế và Hội Long-Hoa, ông Thanh-Sĩ nhận thức không khác Sấm-giảng . Ông nhận thời-kỳ này là thời kỳ Hạ-Ngươn, đúng như lời di-giáo:
Đức Thầy dẫn bảo cạn lời,
Hạ-Ngươn nay đã hết đời rán tu.
Vì là thời kỳ tận diệt:
Rằng Hạ-Ngươn tận diệt từ đây,
Phật Thánh Tiên xuống thế đông vầy.
Và ông cho biết trong muôn thuở mới có một lần như thế:
Đời tới đây lai khổ lu-bù
Vì tận thế muôn thu mới có.
Mà sở dĩ có cuộc Tận Thế là vì số Trời đã định:
Chẳng qua phải lúc tai nàn,
Nghiệp trần số hệ Thiên-hòang đã phân.
Đúng với luật tuần hòan vũ trụ:
Có câu thiên địa tuần hòan
Đáo đầu thiện ác một cơn tan tành.
Cái luật tuần hòan ấy đã định trong thế kỷ hai mươi này và ông Thanh-Sĩ cũng nhận cái luật ấy đúng với lý Tam-Ngươn, như Cao-Đài giáo đã nêu ra. Sở dĩ phải lập lại Tam-Ngươn là bởi con người trong thế kỷ hai mươi này quá trầm-luân đọa-lạc:
Trong rất nhiều kinh pháp siêu sinh,
Người đọa lạc trầm luân mãi mãi.
Nên mới đành Tam-Ngươn lập lại
Đời hai mươi thế-kỷ tiêu-điều
Trong hội này công quả ít nhiều,
TẨy duyên nghiệp luật triều thưởng phạt.
Ông Thanh-Sĩ cho biết cái luật tuần hòan của Tam-Ngươn không bao giờ dứt.
Sự tuần hòan ấy có nghĩa là một cuộc sa thải, một cuộc chọn lọc có ý nghĩa tiến hóa, chớ không phải có ý nghĩa thối hóa, một cuộc chọn lọc tùy ở duyên nghiệp của chúng sanh hoặc được thưởng, tiến hóa cất nhắc lên, hoặc bị phạt, thối hóa ngưng trệ lại.
Trong thời kỳ Thượng Ngươn con người về tánh chất rất hồn nhiên, đã cảm ứng với lý siêu-nhiên cho nên sự tiến-hóa rất dễ dàng, một phần lớn đã đắc đạo vượt lên một thế giới cao khiết hơn. Phần nào không tiến hóa thì đọa lạc xuống thời kỳ Trung-Ngươn.
Trong thời kỳ này cũng có một phần được tiến-hóa thì vượt lên, còn phần nào không tiến-hóa thì trầm luân xuống thời-kỳ Hạ-Ngươn. Nhưng đến thời kỳ này thì phần không tiến-hóa không còn được lưu lại, vì là thời kỳ cùng tột. Phần nào được chọn lọc thì đem về đời Thượng-Ngươn để có dịp tiến-hóa lên, còn phần nào không được chọn lọc thì sẽ bị sa thải, đọa lạc, đợi cho đến mấy muôn năm sau, khi từ Thượng-Ngươn chuyển dần xuống Hạ-Ngươn, tùy cảnh đời nào thích hợp với căn cơ, nghiệp quả của mình mà lộn trở lại.
Cái luật tuần-hòan của Tam-Ngươn là như thế. Mà cả luật huyền-vi, ông Thanh-Sĩ cũng cho biết sẽ diễn tiến như thế nữa.
Ở thời kỳ Thượng-Ngươn , con người sống về vô-vi. Trong con người chứa đựng đủ sự nhiệm-mầu của vũ-trụ, vì con người lúc bấy giờ sống phù hợp với lý siêu-nhiên. Con người có thể bay được, nghĩa là có đủ phép thần thông: như đằng vân, độn thổ, có huệ nhãn, ngồi một nơi mà thấy xa được, có huệ nhĩ, ngồi một nơi mà nghe được xa, có tha tâm thông, ngồi một nơi mà biết chuyện xảy ra ở phương xa hay tai biến sắp xảy đến.
Nhưng con người huyền-linh ấy qua đến thời-hỳ Trung-Ngươn trở đi, vì sống xa với lý siêu-nhiên, cho nên cái bản-tánh huyền-linh ấy dần dần mất đi, hay giải thích một cách khác, lớp người huyền-linh đã được tiến-hóa qua thế giiới khác, chỉ còn hạng người không tiến-hóa, nghĩa là kém huyền-linh ở lại. Vì mất bản tánh huyền-linh cho nên con người phải sống về hữu-vi, nghĩa là giả-tá vật chất bên ngòai để bù đắp lại chỗ bản-tánh huyền-linh của mình.
Vì vấn-đề cần sống và để giúp đở cho cuộc sống dễ-dàng, con người phải tìm phương sáng chế về vật chất. Chính vì đó mà sự phát minh máy móc xuất hiện. Để thỏa-thích cái bản-tánh đằng vân, người ta sáng chế ra phi cơ, để nghe được xa, người ta sáng chế ra vô-tuyến truyền-thanh, để thấy được xa người ta sáng chế ra vô-tuyến truyền-hình. Người ta còn đương tìm kiếm và sáng chế ra nữa để đạt đến tha tâm-thông nhưng chưa có kết quả.
Mặc dầu , nhờ sự sáng chế, con ngừơi đã đạt được một phần mà bản tánh huyền-linh của mình đã có, nhưng sự sáng-chế ấy , kể ra chỉ đạt được một phạm vi rất hẹp, chớ không được như bản-tánh huyền-linh vô-biên vô-tận.
Như máy vô-tuyến truyền-hình chỉ giúp cho ngừơi ở xa thấy được những hình nào mà người ta cho thâu vào, chớ không như huệ-nhãn muốn phóng đến cõi nào cũng không hề có chướng ngại.
Con ngừơi một khi sáng chế ra được máy móc thì lấy làm thỏa thích với sự sáng chế của mình, cho nên một ngày một đi sâu vào đời sống vật chất , chẳng màng đến đời sống vô-vi. Họ không màng hay không còn nhớ là vì họ đã sống xa thời-kỳ vô-vi lâu quá rồi. Chẳng những không màng nghĩ mà họ còn phủ-nhận đời sống vô-vi, cho đó là một sự huyền-ảo không thực.
Đó là căn tánh của con người sống trong thế-kỷ hai mươi này, nhứt nhứt đều lấy khoa-học làm chuẩn thẳng. Hễ cái gì khoa-học không có thể khám phá ra hay không có thể đạt đến, họ cho là phản khoa-học, phản tiến-hóa.
Ông Thanh-Sĩ cho biết rằng: Vì quá sùng phụng vật-chất máy móc mà rồi đây con người phải đi đến chỗ tiêu diệt bằng những máy móc do họ sáng-chế ra. Đó là luật tuần-hòan của lý vô-vi.
Xã hội lòai ngừơi tiến từ đời sống vô-vi đến đời sống hữu-vi, để rồi đây trở lại đời sống vô-vi trong thời kỳ Thượng-Ngươn sẽ tới. Cuộc Tận-Thế lần này là một cuộc tiến-hóa lớn của nhơn-lọai. Rồi đây khi đời Thượng-Ngươn được lập, xã hội lòai người sẽ tiến-hóa bằng cả muôn ngàn lần xã-hội văn minh ngày nay.
Luật tuần-hòan dĩ đáo, cơ tận diệt đã hầu kề. Vì thế, Phật , Tiên, Thánh lập ra Hội Long-Hoa để chọn ngừơi hiền đức, nghĩa là có bản tánh vô-vi, lập nên đời Thượng-Ngươn.
Những tai biến trước ngày Hội Long-Hoa.
Luật tuần hòan đã hiển nhiên như thế và lý tận diệt cũng đã rõ như thế, tận diệt để tẩy sạch lớp nhược trần.
Nhìn cuộc đời quá ác-trược, ông Thanh-Sĩ không dứt tiếng than;
Mở lời hột lụy muốn tuôn,
Thấy đời tồi tệ lòng buồn nào hơn !
Ngòai môi trau chuốt nghĩa nhơn
Trong lòng bội bạc óan hờn ai hay.
Lời ngay mà dạ chẳng ngay
Đời này miệng ngọt lòng cay thiếu gì.
Buồn ai đem bạc đổi chì
Tiên bồng chẳng tưởng, tưởng thì trần mê.
Và vì quá đắm mê mà người đời gây ra bao nhiêu tội ác, lọan-luân cang-kỷ:
Tình anh em gây ra thù hận,
Đạo cha con giết lẫn với nhau.
Tranh tước quyền xâu xé đồng bào
Nghĩa chồng vợ hại nhau tàn nhẫn
Ở chòm xóm lắm điều nhơ bẩn,
Nào dâm-ô nghịch lẫn oán thù
Phạm tội tình cướp trộm lu bù,
Đường đạo đức mờ lu thái quá.
Nếu cái dòng đời ác-trược như thế cứ lôi cuốn đi tới mãi, lòai người sẽ tiến đến đâu? Nếu không đến ngày tận diệt. Và cái cơ tận diệt ấy đã được báo hiệu bằng những cuộc biến-chuyển, bằng những cuộc chiến tranh ác liệt:
Đời Hạ-Ngươn loạn lạc chiến tranh,
Chúng áp dụng thăng bình dân chủ.
Ỷ thông thái chê đè cổ hủ,
Lo đua chen hấp thụ văn minh.
Nào tự do trai gái kết tình,
Chúng mặc sức ăn xinh mặc tốt.
Đời mạt hạ nay đà cùng tột
Đến đây là ráo rốt cuộc đời.
Cuộc tuần huờn chuyển động chiều mơi
Tiếng gầm thét rụng rời thân thể
Khắp thế giới từ đây hết kể,
Sự cạnh tranh cấu xé lan tràn
Miễn cho mình danh vị cao sang,
Mặc ai bị tai nàn trối kệ.
Chẳng những lòai người điêu linh mà cả vạn vật cũng chung số phận:
Đời tận thế lắm cơn dông tố
Cả muôn người chịu chỗ điêu linh
Giống cỏ cây sắt đá vô tình,
Cũng chung chịu với mình bi-thảm.
Vì thấy đời sắp đến cơ tận diệt. Đức Thế-Tôn động lòng bi-cảm , truyền cho các Bồ-Tát xuống trần phổ hóa cứu vớt chúng sanh:
Phật từ bi lấy lòng thâm cảm,
Thấy chúng sanh tai nạn dập dồn.
Động lòng thương Đức Phật Thế-Tôn
Truyền Bồ-Tát tách chơn xuống thế
Khai đạo pháp tùy duyên phổ tế
Có dắt dìu những kẻ chúng sanh
Quá mê si tham mhiễm tập tành,
Vì quyền tước lợi danh chen lấn.
Và các đấng Phật , Bồ-Tát đã xuống trần vào thế-kỷ hai mươi này.
Đạo ngày nay hai mươi thế kỷ,
Phật ra đời dẫn chỉ trần ai
Đặng sớm lo tạo cảnh nguyệt-đài
Dìu bá tánh khỏi nơi khổ hải
Đạo từ bi muôn đời ban rải
Nay vẫn còn tồn tại trường miên
Buổi Hạ-Ngươn sanh chúng đảo điên
Đem đạo đức tạo giềng an-lạc.
Các đấng Thiêng-liêng ấy , ngày nay vì mượn xác trần cho nên dân chúng không tin, nhưng rồi đây sẽ thấy các Ngài tại thế:
Rồi sau đây thấy rõ Phật Tiên
Cõi thế gian tháo mở gông xiềng
Đưa nhơn loại non Tiên dựa kế
Đó là tới thì giờ biến-thế
Nay còn đang lọc lựa chánh tà
Nên thảm sầu khắp cả bá gia
Chịu lắm cuộc phong ba cuồn-cuộn
Bởi còn trong thời kỳ lừa lọc, cho nên cuộc đời ngày càng bối rối, muôn dân đồ thán đảo điên:
Cả muôn dân đồ thán đảo điên
Cam siết chặt truân chuyên nhiều nỗi
Ngày càng ngày việc đời bối rối
Đường rộng dài khó nổi tới lui
Mà nhứt là miền Á-Đông thì còn chịu biết bao nhiêu tang tóc
Từ đây cho đến định quyền
Biết bao tang tóc khắp miền Á –Đông
Và ông Thanh-Sĩ cho biết rằng đời khổ đã tới rồi, nên khuyên bá gia gắng bó tu –hành:
Lời dục thúc tu hành gắng-gổ,
Này bá-gia đời khổ tới rồi
Và sự khổ ấy diễn ra bằng tai nạn dập dồn:
Lòng lo lắm việc bất tường
Một ngày một đến đủ đường nạn tai.
Nào là nạn đạn lạc tên bay:
Nỗi sầu đạn lạc tên bay
Nỗi thương giặc giã trong ngoài hại dân
Làm cho cửa nát nhà tan:
Giang-san phải nhuộm máu điều
Giống nòi rời rã sanh nhiều việc hư.
Có thấy chăng gia cư tan nát?
Cả xóm chòm xơ-xác đảo điên.
Nào là giặc nổi lên khắp thế giới:
Khắp thế-giới thảm thê thê thảm
Giặc bao trùm xe trạm đua chen.
Và cái nạn binh đao sở-dĩ xảy ra , sát hại sanh linh bỏ thây thi ê-hề là bởi thời kỳ tận-diệt:
Từ đây nước lửa tràn trề,
Binh đao dồn dập ê hề thây thi.
Đó cũng bởi thời kỳ tận diệt,
Nên nhiều điều thảm thiết lê dân.
Nào là nạn đói đau, nên chi ông Thanh-Sĩ thường khuyên:
Lo cần kiệm tu hành chánh kỷ,
Vì đói đau lộ vĩ gần đây.
Nên cần lao trồng trặc lúa khoai,
Đặng chi độ qua ngày thống khổ.
Ông mãi lặp lại rằng nạn đói đau ấy đã gần lắm rồi:
Đói đau cuộc thế hầu gần,
Cơ Trời xoay chuyển cõi trần ngày nay.
Càng siết chặt nhiều ngày khổ não.
Vì chịu bao nhiêu tai họa dập dồn,nên gia cư lần lần thưa thớt:
Việc sắp đến trời long đất lở.
Cảnh điều hiêu vỏ-vỏ sầu tư
Mãi lần lần thưa thớt gia cư,
Đó mới biết trường đồ mã lực.
Nhưng bấy nhiêu tai nạn cũng chưa hết, vì từ nay cho đến ngày lập đời Thượng Ngươn còn nhiều nỗi đau khổ chông gai:
Từ nay đến gặp đời Thượng –cổ,
Lướt bụi bờ nhiều chỗ gai chông.
Nào là nạn sơn băng thủy kiệt:
Cũng đừng ỷ chúng hiếp cô,
Sơn băng thủy kiệt đói khô bây giờ.
Cùng một nhận định với Sấm giảng của Đức Hùynh Giáo-Chủ về đọan:
Sau đến việc sơn băng thủy kiệt,
Khùng thảm thương bá tánh quá chừng.
Nào là nạn ác thú nhiễu hại sanh linh như sấu bắt hùm tha. Về tai nạn sấu bắt hùm tha này, ý kiến ông Thanh-Sĩ không khác ông Ba Thới . Đây chúng ta thử so sánh.
Ông Ba Thới thì viết:
Có hổ lang ác thú tới nhà,
Hùm tha sấu bắt trẻ già thương ôi !
Còn ông Thanh-Sĩ thì viết
Để rồi đến việc can qua,
Đầy đường sấu bắt hùm tha túng cùng.
Ông Thanh-Sĩ còn mô tả cảnh thảm khốc ấy, ai trông đến cũng lạc phách kinh hồn:
Mắt trông thấy tứ vi hổ báo,
Tai nghe rền cầy cáo mài nanh
Mảng xà núp ẩn rừng xanh,
Lội bơi uốn khúc hòanh hành gớm ghê.
Dưới sông thời lỉnh kỉnh sấu to.
Dưới trên con hét , con hò,
Lớp bay lớp chạy vày vò người hung.
Lũ gian ác vô cùng sợ hãi,
Người lương hiền chậm rải bước đi
Nhờ ơn các bậc Thần-kỳ,
Thương người trung hậu hộ trì bình an.
Kẻ bạc ác thầm than trộm trách,
Phật Trời không mở vạch rừng mê
Đến nay gặp việc thảm thê,
Hồn phi phách tán tái tê mặt mày.
Lời bút tích trưng bày thâm diệu
Bởi tối tăm chẳng hiểu thời thôi.
Để chừng đến việc khổ rồi,
Biết đâu trốn khỏi, lưới trời bủa giăng.
Và đây là cảnh mà người hung ác bị ác thú phân thây xẻ thịt.
Kéo lũ lượt qua truông vượt ải.
Bị thú hùm giết hại thớt thưa
Ruột rà muối xát tớt tưa.
Nhăn mày nhíu mặt đổ thừa cho ai ?
Con đứa cỏng đứa đai lịu điệu,
Phận túng nghèo kẻ kéo người lôi;
Yêu tinh bắt giết làm mồi,
Thương người ăn ở bạc vôi không còn.
Nào là nạn nước lửa sấm sét làm chuyển động khắp hòan cầu:
Nạn thủy hỏa phong lôi sấm chớp,
Khắp hòan cầu Trời Đất chuyển xoay ;
Dụng thần thông Nam BẮc Đông Tây,
Cả vạn vật muôn lòai ngơ ngác.
Mà sở dĩ loài người chịu bao nhiêu tai nạn thê thảm như thế, vì đây là cuộc lọc lừa chọn người hiền –đức đặng chầu Chúa Thánh.
Từ đây lựa lọc sạch tinh,
Đặng chầu Chúa Thánh Long đình xướng ca.
Và cũng như các Sấm giảng ông Thanh –Sĩ nhận cuộc lừa lọc là một trường thi cho những người tài đức:
Từ đây nhiều bực nhiều trang,
Siêu quần bạt chúng lập đàng công danh.
Trường thi Trời Phật đã dành,
Ai ngừoi tài đức ra tranh bảng vàng.
Cái trường thi này không như trường thi của người đời chọn kẻ văn hay võ giỏi mà là một trường thi đạo đức, chọn căn hạnh, bản tánh:
Trong hội này công quả ít nhiều,
Tày duyên nghiệp lậut triều thưởng phạt.
Đáp những công hiền nhu khao khát,
Nhờ mưa lành tưới mát bá tòng.
Cái trường thi đạo đức rất thông,
Mà cũng ở vào trong căn hạnh.
Thi đức trí , thi trong bản tánh.
Chỗ bại thành do bởi lòng người.
VÀ cái trường thi ấy không chi khác hơn là Long Hoa Đại Hội.
Giảng về Hội Long Hoa
Ông Thanh-Sĩ còn cho biết cái trường thi đạo đức ấy, cuộc Đại –hội ấy sẽ mở tại Nhà-bàn:
Long Hoa Đại Hội Nhà-bàn,
Thương thay những kẻ bạo tàn còn chi !
Bởi Long-Hoa là một trường thi chọn người hiền-đức, cho nên muốn đi đến phải là những bực trung lương đã sửa thân, cải tánh. Bởi thế, ông Thanh-Sĩ thường khuyên:
Rán mà cải tánh sửa thân,
Long-Hoa mới đặng hầu gần Phật Tiên,
Chín tòa sen báu hoa liên.
Phật Ngai lộ vẻ nhơn hiền ai dương.
Rạng mày những bực trung lương.
Gian dâm vô đạo đầy đường huyết lưu.
Và chỉ khi nào Hội Long-Hoa mở ra mới biết cơn khổ não, nước trị nhà an:
Muốn cho nước trị an nhà.
Cầu Trời mở Hội Long-Hoa non đoài.
Và đây là cảnh Long-Hoa Đại Hội được ông Thanh-Sĩ mô tả rất rõ:
Muốn hầu dưới cội Hoa Long,
Được xem Tiên Phật công đồng thưởng ban
Đem bao tiếng ngọc lời vàng,
Tuôn nghe như suối trên ngàn đổ ra.
Vừa thâm vừa diệu lại xa,
Khiến cho vạn vật hiền hòa như nhau:
Mùi hương phảng phất ngọt ngào,
Khắp trong vũ trụ nơi nào cũng nghe.
Mây mù thấy chẳng còn che,
Trăm ngàn nhựt nguyệt sua se ánh hồng
Nổi lên nhiều trận mưa bông,
Thập phương chư Thánh tỏ lòng cúng dưng.
Côn trùng thảo mộc đồng mừng
Được nhờ Đức Phật gội nhuần phước dư,
Thế gian tử hiếu phụ từ,
Khắp trong thiên hạ an cư thái bình.
Thật là một cảnh tượng vô cùng đẹp xinh, một cảnh do phép của Phật Tiên tạo ra. Như thế, muốn được thấy cảnh tượng ấy, đâu phải là dễ. Nhưng chừng nào mới mở ra Hội Long –Hoa? Ông Thanh-Sĩ bảo hãy chờ cho sấm nổ thì sẽ rõ:
Sấm vang rõ biết rừng tòng,
Điễn quang chớp nháng Lạc Hồng khởi phong.
Sẽ rõ biết Long-Hoa Đại Hội,
Cân công bình chẳng mối vị tư.
Tiếng sấm nổ, ông Thanh-Sĩ cho biết cũng như các Sấm-Giảng, từ ông Sư-Vãi Bán-Khoai cho đến Đức Hùynh Giáo-chủ, sẽ là một hiện tượng vô cùng quan trọng, vì tiếng sấm ấy sẽ làm lộ lầu đài cung điện:
Sấm vang điện ngọc lộ ra.
Hào quang Đức Phật Di-Đà sáng trưng.
Trên nhạc thổi chín từng mây bạc,
Dưới điện đài lầu các nguy nga.
Vì đâu sấm nổ lại lầu các lộ ra? Và lộ ra ở đâu? Ông Thanh-Sĩ không nói ra, nhưng cho biết rằng những cảnh đẹp xinh ấy nay vẫn còn ở chốn sơn lãnh, đương chờ người trọn lành bước tới:
Chốn sơn lãnh nay còn chờ đợi,
Người trọn lành bước tới xem qua.
Kìa tường vân năm thức chói lòa.
Nọ rực rỡ trăm hoa ngũ sắc.
Cảnh xinh đẹp cửu-trùng đài các.
Đời thiếu chi vàng bạc của tiền.
Ông Thanh-Sĩ vẫn nhắc cho người đời nhớ rằng: mặc dầu ngày nay thấy là núi rừng, nhưng mai sau chính nơi đó sẽ có nhiều quí báu, qui tụ Thánh-Thần:
Nay núi rừng chim kêu vượn hú,
Sau rồi xem qui tụ Thánh Thần,..
Được trưng bày phép lạ phi thân,
Đầy hạnh phúc muôn dân thọ hưởng.
Ban đầu ông Thanh-Sĩ còn nói bao quát rằng những đền đài châu báu ấy còn ẩn trong lâm san, sau ông tiến gần một chút nữa mà cho biết những châu báu ấy còn ở trong đá, và rồi đây đá ấy hóa vàng, nên chi ông khuyên:
Lời lành khuyên nhủ thế gian,
Rán tu gặp đá hóa vàng mà coi.
Và ngày mà đá hóa vàng ấy sẽ là ngày phụng hòang chớp cánh:
Đợi chờ xem núi đá hóa vàng,
Cảnh lâm sơn chớp cánh phụng hòang ;
Nhà Thượng –cổ sửa sang cho chúng.
Tuy nói ẩn ước nào là đền đài châu báu còn ẩn trong lâm sơn, trong đá, nhưng rốt cuộc rồi, ông Thanh-Sĩ cũng không thể giấu mà chỉ ngay ra :
Long-Hoa riết tới cho bền,
Rõ ràng Bảy Núi lầu đền nguy nga,
Nhưng cũng chưa rõ cho bằng câu sau đây :
Chờ cho non Cấm hóa lầu,
Phật ra công dụng phép mầu mới an.
Như thế là ông Thanh-Sĩ cùng một nhận-đinh như ông Sư-Vãi Bán-Khoai và Đức Hùynh Giáo-chủ.
Về điều này ông Sư-Vãi Bán-Khoai đã viết :
Chừng nào núi cấm hóa lầu,
Thời là bá tánh đâu đâu thái bình.
Và Đức Hùynh Giáo-chủ thì viết :
Lầu đài Núi Cấm lộ nay mai,
Thức tỉnh chúng sanh mới tỏ bày,
Khuyên dạy dân tình mình đạo đức,
Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai.
Ông Thanh-Sĩ cũng nhận như ông Sư-Vãi Bán-Khoai rằng chừng nào Cấm sơn lộ vẻ thì thiên hạ mới yên :
Chừng nào cá nọ hóa long,
Cấm sơn lộ vẻ đền rồng mới yên
Về Thất-Sơn, ngòai hiện tượng hóa hiện đền đài châu báu, ông Thanh-Sĩ còn cho biết nhiều hiện tượng khác nữa như cảnh Phật Tiên xuất hiện trên mây :
Xem coi đến việc Thất-Sơn,
Hào quang Phật hiện nghe đờn trên mây.
Và Thất sơn sau này sẽ là bãi chiến trường ghê gớm giữa các nước đến tranh giành châu báu:
Ngày sau dân sự chật đường,
Thất-Sơn đồng lớn chiến trường gớm ghê.
Kẻ ác đức chịu bề khói lửa,
Nỗi đao binh chan chứa một bầu.
Từ đây đến việc không lâu,
Tu đừng mạnh yếu nạn sầu bên lưng.
Và khi sanh linh đồ thán, máu chảy thành sông, xương chồng tợ núi thì khi ấy người đời mới thấy rõ Phật Tiên :
Rồi sau đây thấy rõ Phật Tiên,
Cõi thế-gian tháo mở gông xiềng,
Đưa nhơn lọai non Tiên dựa kế.
Các Ngài từ trên chín từng mây bạc thừa hạc xuống trần :
Phật Tiên Thánh mấy từng mây bạc,
Lìa vị ngôi thừa hạc phàm gian.
Thiêng-liêng Phật định vén màn,
Đủ đầy mầu nhiệm pháp tràng trị dân.
Chỉ có phép mầu của Phật mới thâu phục và định phân các nước:
Sấm vang điện ngọc lộ ra,
Hào quang Đức Phật Di-Đà sáng trưng.
Trên nhạc thổi chín từng mây bạc,
Dưới điện đài lầu các nguy nga.
Phật Tiên Thần Thánh hằng hà,
Định phân chư quốc phục hòa từ đây.
Lúc khải hòan Thầy tớ xướng ca.
Và chính lúc Phật Tiên thừa hạc lâm phàm, Chúa Thánh mới trổ mặt:
Chín từng mây chư Tiên thừa hạc,
Đồng ứng thinh khúc nhạc reo vang.
Chúc vạn dân hưởng được an nhàn.
Đặng phò tá tôn nhan Thánh Chúa.
Khắp thế-giới mây lành bay tủa,
Được vui cười Thượng-cổ thanh tâm
Đồng gội nhuần Minh-đức Tân-dân.
Trời phân định cõi trần chí thiện.
Và cũng chính lúc ấy mới thấy bảng Phong-Thần, trong mấy ngàn năm mới thiết lập lại một lần :
Nền Phật-pháp thành lòng yêu chuộng,
Nếu bỏ qua rất uổng bớ dân !
Mấy ngàn năm mới có một lần,
Non nhược thủy Phong-thần thiết lập.
Tạo lư-bồng trận đồ bủa khắp,
Có định tuồng tam thập lục-nhơn.
Người tu hành đặng hưởng phước dương,
Kẻ hung ác Thần-Tiên nã tróc.
Về câu “ tam thập lục nhơn”, ông Thanh-Sĩ cùng một nhận định như Đức Hùynh Giáo-chủ ở câu:
Long-Hoa Hội ân cần lo lập,
Lập cho rồi tam thập lục nhơn,
Và khi bảng Phong-Thần được thiết lập, kẻ hung ác đã bị xử tiêu thì sẽ đến lúc Long-đình hội yến ban thưởng kẻ hiền-đức :
Xem rõ biết Phong-Thần dựng bảng,
Hội Mây-Rồng tỏ rạng non thiều.
Chư Thiên hưởng cảnh tiêu-diêu,
Đờn ca sáo thổi thêm nhiều báu xinh.
Sẽ đến lúc Long đình hội yến,
Trên thiên nhan ban thưởng tôi hiền.
Chói ngời đền ngọc Rồng Tiên,
Muôn thu thạnh thới trường miên Lạc-Hồng.
Để hiểu tổng quát những biến cố xảy ra từ sấm nổ cho đến ngày Thánh Chúa trị an, ông Thanh-Sĩ tóm lược trong mấy vần thơ gọn-ghẽ này:
Chừng nghe đặng tam thinh tiếng nổ,
Cảnh rừng lòng nhụy trổ hoa đơm.
Non đòai bát ngát hương thơm.
Thần Tiên xuất thế tiếng đàm Ma-ha.
Phong-Thần hội Tiên-gia trổ mặt,
Dụng phép mầu dẹp giặc trừ thù.
Cơ đồ minh chúa tay thu,
Trị an bá tánh đâu đâu thanh nhàn.
Chỉ có Thánh-vương trổ mặt mới đem lại thái bình trong thiên hạ :
Lời kêu gọi gái trai tỉnh thức,
Nhẹ gót hồng chầu chực bệ đơn.
Giọng vàng phụng gáy Kỳ-Sơn,
Thánh-vương trổ mặt thần dân thái-bình.
Và chỉ có Thánh chúa trị vì, chư quốc mới khâm tôn, thần phục
Ngai vàng Chúa Thánh chăn dân,
Rồng chầu hổ phục quần thần kim giai.
Đến chừng đó nước ngòai tùng phục,
Đồng tung hô cầu chúc Minh-vương
Tuế tăng vạn tuế thọ trường,
Khâm tôn chư quốc hầu vương trị vì.
Và chừng đó nước Việt-Nam sẽ lấy hiệu là Hớn-bang , có dựng lên một cây Châu-kỳ, nghĩa là cây cờ có hột ngọc minh châu, chói sáng cả thế-giới, thấy tốt đẹp vô cùng, rực rỡ như ánh thái dương :
Chừng đến đó Châu-kỳ hạnh phúc.
Hiện ngày nay trong đục chưa tường.
Chờ ngày hội hiệp âm dương,
Thì là Hậu-Hớn Tiền-Đường bình an.
Giảng về đời Thượng – Ngươn
Như chúng ta đã biết : tiếng sấm nổ làm cho núi tan vỡ, đền đài châu ngọc hiện ra, đã là một hiện tượng không ai ngờ, nhưng ngòai hiện-tượng ấy, còn một điều kỳ diệu nữa là sự thay hồn đổi xác của chúng sanh, tùy căn hạnh mà thành Tiên, thành Phật . Về hiện tượng này ông Thanh-Sĩ có viết :
Chúng sanh được thay hồn đổi xác,
Tùy thiện căn làm Phật làm Tiên.
Đó mới tri rõ việc cơ huyền,
Trong bá tánh bình yên vô sự,
Chẳng những được thay hồn đổi xác mà còn phản lão hòan đồng nữa :
Long-Hoa hội xem vào qúi báu,
Phật Thần-thông phản lão hòan đồng.
Kim liên đua nở núi sông,
Hào quang Phật rọi dặm hồng ngũ vân.
Ngày ngày được hầu gần bệ ngọc,
Rất toại lòng mưa mốc gội nhuần.
Và được như thế là nhờ phép mầu của Phật:
Đến khi náo lọan quỉ tà,
Có bầu linh dược của Bà cứu cho.
Một khi đời Hạ-Ngươn được giải thóat, tức là đi đến đời Thượng-Ngươn an lạc:
Đời Ngươn Hạ một lần giải thóat,
Cảnh Thượng-Ngươn an lạc nhà nhà.
Và đây ông Thanh-Sĩ cho chúng ta biết về đời Thượng-Ngươn tốt đẹp mà mọi người đều mong ước. Trước hết ông Thanh-Sĩ cho biết đời Thượng Ngươn là một đời mà khắp thế giới đều an-cư lạc-nghiệp, cách ăn thói ở đều khôn ngoan, không có cảnh gái trai lăng lòan:
Khắp thế giới an-cư lạc-nghiệp,
Đời Thượng-cổ giữ theo nề-nếp.
Cách ở ăn bặt thiệp khôn ngoan.
Cả gái trai chẳng có lăng lòan
Bỏ thói mới văn minh cặn bã.
Con người ở thời kỳ này đều là hạng tài ba, từ ngòai đường cho đến trong nhà đều an hòa, thuần phong mỹ tục :
Tu cho sống sót mà coi,
Coi người Thượng cổ hẳn hòi tài ba.
Dựng lên quốc tịch dân hòa,
Ngòai đường mỹ tục trong nhà thuần phong.
Chẳng những đời sống xã hội Thượng-Ngươn được mỹ lệ mà còn hòa-hợp nhau không có tư riêng, dẫy đầy châu báu cho đến của rơi không người lượm :
Hòa hợp nhau chẳng có tư riêng.
Đời bình trị nhà không đóng cửa.
Giữ thức lệ cách ăn thói ở.
Chẳng lưu manh gian trá mị dân.
Đời dẫy đầy báu ngọc châu trân.
Không có kẻ gian thần dòm ngó.
Đức Thánh Chúa như trang vua Võ.
Trị vì dân lớn nhỏ an cư.
Nhờ từ-bi Phật xuống phước dư.
Cho bá tánh được câu hạnh phúc.
Con người thì thanh nhàn thong thả, phải chăng khỏi cần lo miếng ăn vật uống, vì ngòai đồng đã có lúa trời mọc sẵn như ông Ba Thới cho biết, cho nên tiêu-diêu tư-tại, ngao du bốn biển năm hồ :
Đời nay nặng việc thuế sưu,
Thượng-Ngươn thong thả óan cừu cũng không.
Nghêu ngao rao Bắc hò Đông,
Trầm ngâm như gã Tử-Phòng sáo tiêu.
Năm hồ bốn biển tiêu-diêu,
Vui vầy đất Thuấn Trời Nghiêu khỏe lòng.
Ở ăn trên dưới giữ đồng,
Thánh-quân nhiếp chánh thời thần thuận trung.
Ông Thanh-Sĩ cho biết Thánh-Vương ở đời Thượng-Ngươn sẽ noi theo gương của vua Nghiêu , vua Thuấn mà trị dân, cho nên đời ấy rất hiền đức :
Đức Thánh Chúa noi theo Nghiêu-THúân,
Đời an khương gầy dựng tôi trung.
Khắp thần dân hưởng sự thung-dung
Cả muôn họ vui mừng hả dạ.
Đời hiền-đức gìn theo phong-hóa,
Khắp hòan cầu một dạ yêu nhau,
Mà sở dĩ khắp hòan cầu đều một dạ yêu nhau, hòa thuận nhau, là vì ở đời Thượng Ngươn, tam giáo qui nguyên, các nước đều tu có một đạo, cùng một lối giáo-dục như nhau. Chính nhờ đó mà xã hội Thượng-Ngươn sẽ được thái bình vĩnh viễn cả mấy muôn năm :
Lập đời Thượng cổ huy hòang,
Dưới trên hòa thuận gia-đàng ấm no.
Mùi bát nhã thơm tho khắp chốn,
Tam giáo đều một bổn thủy nguyên,
Thánh tài xuất thế bình yên,
An bang tế thế vô biên trí mầu.
Khắp thiên hạ cúi đầu khâm phục,
Cả hòan-cầu giáo –dục như nhau.
Đại đồng bác-ái thanh cao,
Phật Trời phân định nước nào cũng tu.
Thương lẫn nhau không thù không óan,
Xớt ngọt bùi giới hạn nào phân.
Sạch lòng chẳng chấp ngã nhân,
Trên vua ngay thẳng dưới thần cúc cung.
Trong gia đạo ngòai cùng lân quốc,
Nhường nhịn nhau ở thật ăn ngay.
Đâu đâu thạnh trị trong ngòai,
Từ trên nhân vật đến lòai cỏ săn,
Cũng được hưởng gió trăng đằm ấm,
Vẻ tươi cười đượm thắm hoa xinh.
Về vấn đề tam giáo qui nguyên , chúng ta cũng đã thấy ông Ba Thới nói tới với những câu :
Qua ngày sau không miễu không đình.
Hội-tề công sở nhứt tình quốc gia.
Nước tây phiên nhà thờ không cha,
Niệm Trời niệm Phật quốc gia an –hòa.
Mười tám nước như con một nhà,
Đến thời niệm Phật Di-Đà công phu.
Như thế chúng ta đủ thấy rằng ông Thanh-Sĩ nhận định huyền-cơ, nhứt nhứt đều phù hợp với sự nhận-định, tiên tri của ông Sư-Vãi Bán-Khoai, ông Ba-Thới và Đức-Hùynh Giáo-chủ, nghĩa là cả phái của Đức Phật Thầy Tây An.
Ông Thanh-Sĩ cũng như mấy Ngài trong phái Phật Thầy , cho biết thế nào người đời cũng sắp đến cơ tận diệt và Hội Long-Hoa sắp mở ra để chọn người hiền đức lập đời Thượng Ngươn , nhưng định ngày giờ chừng nào Hội Long-Hoa mở ra thì không ông nào dám nói. Tứ Thánh đã than: “ Thiên-cơ bất lậu” . Đến ông Thanh-Sĩ, ông cũng thú nhận là không dám bàn :
Thiên-cơ đây chẳng dám bàn,
Chỉ đem ý nghĩ phổ tròan vậy thôi.
Mặc dầu ông không dám định ngày giờ, nhưng ông luôn luôn nhắc cho người đời nhớ rằng : Thế cuộc đã cận lắm rồi, không còn lâu :
Ngày nay thế cuộc hầu gần,
Rán mà để dạ ân cần chùi lau.
Hay là:
Từ đây đến việc không lâu,
Tu đừng mạnh yếu nạn sầu bên lưng.
Và muốn cho người đời nhận thức ý nghĩa của những danh từ “ hầu gần” hay “ không lâu” đó thế nào, ông không ngần ngại mà ví nó như trái chín mùi muốn rụng :
Chín mùi trái nọ muốn rơi,
Mà còn chim chuột khuấy chơi lỡ làng.
Hoặc là :
Đời nay như trái chín mùi,
Sao còn lắm kẻ ham vui lợi quyền,
Và đây là một tin quan trọng mà ông báo trước cho người đời sớm liệu lấy thân, tu hành tinh tấn:
Than ôi ! sắp khởi ngòi chiến quốc,
Vận Nam-bang quả đất Trung-ương.
Và đây là một bài thi khoán-thủ , có ý nghĩa thức tỉnh người đời mà ông đã thân tặng một vị bác sĩ nọ ở Sai-gòn:
Trong trần khởi động cuộc phong ba,
Hai lẽ trầm thăng với nghịch hòa.
Ngàn việc cao sang như ảo mộng,
Năm điều giới-luật tợ châu sa.
Tận kim bởi quả kim điêu xảo,
Thế cổ vì nhân cổ thật thà
Đến lúc châu nhi huờn phục thỉ.
Nơi nơi hãy tỉnh giấc Nam-kha.
Ông Thanh-Sĩ cho biết với câu khoán thủ : Trong hai ngàn năm Tận –Thế đến nơi.
-
CHƯƠNG THỨ SÁU
Phần giải thuyết
I .- NGƯỜI CÓ ĐIỄN LÀNH:
CÔ TRÚC LÂM NƯƠNG
Thế nào là có điễn lành? Và điễn lành với huệ khác nhau thế nào?
Như chúng ta đã biết người có huệ là người tự tâm sáng tỏ. Và cho được có huệ phải tu luyện phép Lục-Độ, lắng lặng cái tâm, nghĩa là nói theo danh từ Phật-học do Tự-lực mà có. Còn người có điễn lành là người , nhờ có một vị siêu phàm nào tiếp diễn cho, nghĩa là sự sáng tỏ do Tha-lực mà có. Bởi thế, người có huệ thì sự sáng tỏ, giờ phút nào cũng có, còn người có điễn lành thì sự sáng tỏ chỉ có trong những lúc được tiếp diễn.
Muốn cho dễ hiểu, chúng tôi xin đưa ra một thí dụ cụ thể. Như một chiếc xe hơi, sở dĩ chạy được là do viên tài xế điều khiển. Ở người có huệ thì sự sáng tỏ do tâm, cho nên có thể ví như viên tài xế tự mình điều khiển lấy chiếc xe, bất cứ lúc nào muốn cho xe chạy cũng được. Còn người có điễn lành thì khác. Chiếc xe cử động là do viên tài xế điều khiển, ở đây là một đấng thiêng liêng, còn người có điễn lành ví như người ngồi một bên viên tài xế. Bởi thế chiếc xe chạy được là do viên tài xế chớ không do người ngồi một bên. Hễ viên tài xế không có thì chiếc xe không có thể chạy được. Trường hợp của người được tiếp diễn là như thế.
Tuy rằng sự sáng tỏ của người có điễn lành là do sự tiếp điễn mà có, nhưng cũng nhờ sự tiếp điễn ấy mà người được tiếp, nếu biết dọn mình và gắng chí tu hành chơn chánh cũng được mở tâm linh và lần lần cũng sáng tỏ.
Nhưng trường hợp này rất hiếm.
Người có điển lành chẳng những khác với người có huệ, mà cũng khác với đồng bóng và cầu cơ.
Về đồng bóng thì phải thượng xác, mỗi khi muốn cầu một đấng thiêng liêng nào đó. Người thượng xác mỗi lần là mỗi lần ợ ngáp, biểu hiện một trạng thái không còn tự biết mình, vì phần xác đã cho đấng thiêng liêng nào đó mượn rồi.
Thế cho nên, khi đấng thiêng liêng thăng thì phần xác không còn nhớ những điều gì của mình đã làm hay nói trong lúc lên đồng. Người có điễn lành thì không thế. Khi muốn ra thi bài hay giảng giải điều chi thì người được tiếp diễn không có đổi trạng thái, vẫn ngồi nói năng như thường.
Người có điễn lành còn khác với cầu cơ ở chỗ : cầu cơ thì phải có đàn cơ, có đồng-tử. Mỗi lần cầu là mỗi lần phải nguyện vái và muốn cầu phần thiêng liêng nào thì nguyện thỉnh phần thiêng liêng ấy.
Bởi thế một đàn cơ có thể tiếp nhiều vị thiêng liêng xuống cơ. Còn người có điễn thì không thế. Bất cứ giờ phút nào hễ muốn cầu một điều gì thì người có điễn lành được vị thiêng liêng tiếp điễn ngay, và chỉ có một vị thường trực ; cũng có khi được một vài phần thiêng liêng khác tiếp diễn, nhưng trường hợp này ít xảy ra.
Như thế chúng ta có thể hiểu rằng người có điễn lành là người được một đấng thiêng liêng nào đó tiếp điễn. Về những thi bài hay diễn giảng trong lúc được tiếp điễn, ai cũng nhận thấy là siêu phàm thoát tục. Một điều kỳ-diệu là những người được tiếp điễn lại vốn là người ít học hay có học cũng ở mực phàm nhơn.
Ấy thế, mà khi được tiếp diễn thì sáng tỏ một cách lạ thường, viết văn thơ lưu loát, chưa hẳn người có học uyên-bác hay những tay thi-bá sánh kịp. Chẳng những thi bài thoăn-thoắt siêu nhiên mà còn đượm mùi huyền cơ mầu nhiệm, óc phàm không thể lường nổi. Bởi thế những người đến thử thách đều phải ngạc nhiên trước những phút người được tiếp điễn, mà bình sanh họ biết sức học hỏi, hiểu biết không đến đâu.
Đó là một điều huyền diệu mà các đấng thiêng liêng tá-hiện để thức tỉnh người đời trong thời-kỳ mạt kiếp này. Một điều mà ai ai cũng phải kinh ngạc là người được tiếp điễn giải-thuyết về Tận-Thế và Hội Long-Hoa rất phù hợp với Sấm-Giảng hay những điều tiên-tri cuả các bậc siêu phàm đã cho biết.
Phải chăng cơ tận diệt đã gần mà người có điễn lành xuất hiện rất nhiều?
Trong số đó , chúng tôi xin giới thiệu cô Trúc-Lâm nương ở Gia-định mà nhiều người được biết. Vậy cô giải thuyết về Tận-Thế và Hội Long-Hoa thế nào?
Giải-thuyết về tận-Thế và Hội Long-Hoa
Cô Trúc-Lâm nương cũng giải thuyết rằng : thời kỳ này là thời-kỳ mạt-pháp, cuộc đời sẽ tiến đến cơ tiêu diệt. Mà đó cũng chẳng qua là luật tuần-hoàn đã định, vì chúng sanh quá đắm say trần trược, gây quá nhiều quả báo, cho nên hễ vay nhiều thì phải trả nặng. Trong bài “ Nhân, Xuân vấn đáp”, cô mượn lời xuân mà tỏ bày cái lý siêu-mầu ấy :
Thiện Nhân hỡi ! đôi lời ta xin gởi
Cuộc tuần hòan tạo hóa đã định phân
Vì chúng sanh say đắm vị hương trần,
Thời mạt pháp, vay nhiều nên trả nặng.
Và để cứu vớt chúng sanh trong thời kỳ mạt pháp các đấng Phật, Thánh, Tiên lâm phàm và xuất hiện ở nước non nhà. Cô Trúc-Lâm nương cũng mượn lời xuân để đáp :
Là tri-kỷ, đôi lời ta xin nhắn,
Phạt, Thánh, Tiên xuất-hiện nước non nhà.
Độ chúng sanh, giữ vững khắp san hà,
Đời mạt-pháp hoằng khai thành chánh –pháp.
Chính nhờ phép mầu của Phật, Thánh, Tiên mà các hùng binh đều giải giáp. Thánh Chúa xuất hiện lập lên đời Thượng-Ngươn rực rỡ
Cơ mầu nhiệm hùng binh đều giải giáp,
Đời Thượng-Ngươn rực rỡ ánh mây hồng.
Khắp bầu Trời tỏ rạng bóng Lạc-Long,
Cùng Chúa Thánh điểm tô sông núi Việt.
Trong các Sấm Giảng cho biết rằng : trước khi đi đến Hội Long-Hoa, Loài người phải điêu linh về tai trời ách nước, như nạn binh đao, nạn sấm nổ, nạn lửa trời, nạn Đại Hồng-Thủy…
Thì đây cô Trúc-Lâm nương cho biết những biến-cố xảy ra từ đây đến ngày Hội Long-hoa và đời Thượng-cổ.
Chúng tôi xin tuyển chọn những bài trong đó cô có nói đến sấm nổ :
Bão tố đầy trời ngại xứ Âu.
Nước tràn lợp đất đổ nghiêng bầu.
Đau lòng bạt gió chim, sa bầy,
Não dạ mê mồi cá mắc câu.
Rồng lộn sông vàng mây tái mặt,
Sấm rền rừng thẩm núi tơi đầu.
Việt-Nam tỏ rạng màu Anh Thánh,
Rưới đức năm châu, chủ bá hầu.
Câu “ Sấm rền rừng thẩm núi tơi đầu” đủ mô tả cảnh tượng khi sấm nổ thì núi phải vỡ tan, như các Sấm-Giảng đã nói.
Về nạn nắng lửa , mưa dầu, cô Trúc-Lâm nương có đề cập đến trong bài thơ dưới đây:
Đốt nén tâm hương tựa mái lầu,
Đoái nhìn khói lửa khắp năm châu.
Mây giăng chẳng phủ bao giòng lệ
Trăng tỏ khôn soi mấy đoạn sầu.
Xót bấy nạn dân chan nắng lửa,
Thương thay ách nước đẵm mưa dầu.
Cơ Trời mầu nhiệm cơ huyền định,
Tiếng khóc nhơn sinh tiếng khóc đầu.
Và đây bài thơ cô nói đến nạn lửa Trời và Hồng-Thủy :
Bốn phương cùng động can qua,
Tìm cho được chốn Tam-Hòa bảo thân.
Có lời nhắn khách tu chân,
Đừng ngơ-ngác giữa đàng trần mà nguy.
Cuộc thế suy, lòng người suy.
Đông Nam đại loạn chia ly muôn phần.
Lửa trời hực cháy rần rần,
Hồng –thủy nước xóay, xoay vần càn khôn.
Tìm cho đến Bảo-giang môn,
Là nơi Chúa Thánh Chí-Tôn tọa thiền.
Cầu xin được phép diệu huyền
Hải-vân thoăn thoắt đến miền Đế kinh
Đợi thời trăng lặng bể kình
Long-Hoa thành tựu phỉ tình ngao du.
Về Hội Long-Hoa cô Trúc-Lâm nương có bài thơ sau đây, với câu khoán thủ : “ Long-Hoa Đại-Hội hợp nhứt linh-căn”:
Long môn Di-Lặc ngự tòa sen,
Hoa qúi Quan-Âm tọa trước đền.
Đại mở chơn thần nhuần thạch thủy.
Hội hòa kim tánh đượm hương sen
Hợp hòan chín cõi trên thềm ngọc.
Nhứt thống năm châu dưới ánh đèn.
Linh diệu pháp mầu qui một mối.
Căn nguyên huờn bổn thắm mùi sen.
Trong bài thơ này cô chỉ dùng hai câu : sen và đèn, cũng là một lối thơ rất khéo như thơ độc vận.
Cũng như Sấm-Giảng, cô Trúc Lâm nương cho rằng giống dân Lạc-Hồng sẽ trổ mặt, bình trị bốn phương, các nước đều lai đầu Minh-Chúa:
Non lòng vị thắm chảy tràn Âu.
Bát-ngát hương bay khắp trọn bầy.
Đương lúc gió đùa cây đổi lá.
Giữa mùa sóng bủa cá vương câu.
Ra nhân mở khóa năm châu hội,
Trổ đức khai cơ tắm hương đầu
Hồng-Lạc làu làu tòa ngọc chiếu
Bốn phương bình trị đến Minh hầu.
Giải thuyết về Thượng-Ngươn và Chúa-Thánh.
Cô Trúc-Lâm nương cho rằng khi Hùm sa lưới và Ngạc vướng câu, ám chỉ hai cường quốc tranh hùng mong bá chiếm hoàn cầu thì giống dân Lạc-Hồng qui phục được năm cõi mà lập lên đời Nghiêu-Thuấn :
Thuyền giác muốn chèo đến bến Âu,
Đó đưa căn qúi hội chung bầu.
Bởi xa rừng Thánh , Hùm sa lưới,
Vì đắm bến trần, Ngạc vướng câu.
Rối dạ gió đùa dân tản lạc,
Thỏa lòng biển cạn nước quây đầu
Ai hay Hồng-Lạc qui năm cõi,
Đất Thuấn Trời nghiêu tụ bá hầu.
Phụ họa theo Sấm-Giảng, cô Trúc-Lâm nương nhận rằng đến thời kỳ lập đời Thượng-Ngươn, đất Thuấn Trời Nghiêu, thì tam giáo qui nguyên, Đức Phật Di-Lặc ra hoằng khai chánh pháp, qui tụ thất thập nhị hiền, tam thiên đồ đệ :
Lập đời Thượng-Cổ đạo cao thâm,
Tam giáo qui nguyên định chẳng lầm
Chánh-pháp hoằng khai , ngôi Di-Lặc,
Quần tu phổ độ: sắc Quan-Âm
Tam thiên ngũ hiệp qui lai thế,
Thất thập nhị hiền, tụ giáng lâm.
Bốn hướng tuần du công Thánh-mẫu,
Bàn đào mở hội đón linh căn.
Chính đó là thời kỳ bình trị muôn dân lạc nghiệp âu ca. Chừng đó mới biết nhà Nam có Bảo Hà, giống dân Lạc-Hồng rỡ rỡ :
Lạc-Hồng rỡ rỡ chốn triều ca,
Mới biết nhà Nam có Bảo-Hà.
Xích –Tử ra đời an vạn quốc,
Hào quang chói rạng khắp gần xa.
*
* *
Xà chuyển ánh hồng rọi sắc long,
Mới hay cháu phụng với con rồng.
Càn khôn chuyển máy âm dương định
Rực rỡ muôn năm ánh Lạc-Long.
*
* *
Thượng-Cổ lai hườn dấu Lạc-Long.
Huyền cơ xoay chuyển rực trời hồng.
Vân môn, Trước-địa tri thiên lý.
Hội chốn Bảo Hà mới rõ thông.
Nhưng chốn Bảo-Hà cũng gọi là Bảo-giang ở đâu? Chính đó là bí quyết để tìm chỗ Thánh-Vương xuất, mà cô Trúc-Lâm nương thường thử thách :
Đố ai biết Bảo-giang môn?
Là nơi Thánh-địa Thiên tôn định phần.
Làu làu ngọc chiếu cảnh trần,
Là nơi Tiên, Phật, Thánh, Thần xuất thân.
Xuất kim thân hóa kim thân,
Ly nơi Đông thổ xoay vần Tây-phương.
Về danh từ Bảo –giang hay Bảo-hà chúng ta thấy cô Trúc-Lâm nương vẫn nhắc đến luôn. Nhưng Bao-giang ở đâu ?
Danh từ Bảo-giang có phải là một danh từ mới lạ không ? Nếu ai có nghiên cứu về Sấm Trạng Trình chắc nhận thấy danh từ Bảo-giang hay Bảo-giang môn được lặp đi lặp lại mãi.
Đây chúng tôi xin trích ra một vài đoạn có nói đến Bảo-giang như :
Lại nói sự Hoàng-giang sinh Thánh,
Sông Bảo-giang Thiên định ai hay ?
Hoặc là:
Trí xem nhiệm nhặt cho tường,
Bảo-giang Thánh xuất Trung-ương thuở này.
Hay là:
Bảo –giang Thiên-tử xuất,
Bất chiến tự- nhiên thành
Cũng cho biết Bảo-giang là nơi xuất Thánh và Thánh xuất ở Trung-ương, nhưng không chỉ Bảo-giang là ở nơi nào.
Sở dĩ chúng tôi đem đối chiếu mấy đoạn văn của Sấm Trạng-Trình với những danh từ của cô Trúc-Lâm nương đã dùng là để cho ta thấy cô Trúc-Lâm nương chịu ảnh hưởng của Sấm Trạng-Trình rất nhiều.
Chẳng những về danh từ, cô Trúc-Lâm nương chịu ảnh hưởng của Sấm Trạng-Trình mà về sự nhận định thời-cơ, chúng tôi cũng thấy cô ngã theo Sấm Bạch –Vân và các Sấm Giảng.
Đây chúng ta hãy đọc bài này của cô Trúc-Lâm nương:
Xà chuyển long thăng Thánh xuất trần,
Còn chờ thân dậu mới an dân.
Ngọ mùi thảm họa sầu không tả,
Thìn tỵ can qua khổ chẳng phân.
Phất phới cờ hồng xâm đất Việt,
Chập chồng xương trắng ngất non Thần.
Mưa dầu nắng lửa mười năm chẳng,
Nước nảy tôi hiền trổ Chúa nhân.
Như thế chúng ta thấy không xa với Sấm Giảng và Sấm của Trạng Trình về bài “ Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh”, nhưng có điều cô nói rõ về việc qui kỳ Thánh-vương xuất hiện.
Cô rất tha thiết trông mong Thánh-vương xuất hiện, trong bài thơ khoán7 thủ dưới đây :
Chí khí công minh chí nguyện thành
Tâm hòa ý đẹp nhứt tâm sanh,
Mộng người Đại-đức nơi thềm ngọc.
Tưởng kẻ từ-bi chốn cửa thanh.
Thánh đạo nghiệp duyên còn chọn đón
Vương minh ngôi vị sẵn riêng dành.
Xuất năm rồng giỡn cùng non nước
Hiện giữa trời Nam một giống lành.
II .- THIÊN THƠ
Trong các Sấm-giảng, cũng như mấy vị có huệ và điễn lành đều nhận rằng nước Việt-Nam sau này sẽ dẫn đầu thế-giới và trong ngày Hội Long-Hoa, Thánh-Chúa xuất hiện trên đất Việt-Nam, Nhưng chưa giải bày rõ tại đâu nước Việt-Nam hữu phước và sẽ là cõi Trung-Ương sau này, nghĩa là trung tâm điểm của nền văn-minh Thượng Ngươn. Cô Trúc-Lâm nương có cho biết Thánh-Chúa sẽ xuất hiện ở Bảo-giang môn, nhưng không nói Bảo-giang môn ở đâu?
Nay nhơn đọc quyển Con đường nào? Của tác giả A.T.Y có thấy giải thuyết những chỗ thắc mắc ấy, nên chúng tôi xin trình bày ra đây để giúp thêm sự hiểu biết về vấn đề Tận-Thế và Hội Long-Hoa.
Cứ theo tác giả thì quyển Con đường nào ? viết theo tài liệu quyển Huyền Diệu Thiên Thơ mà tác giả may mắn được một dị nhân tặng cho ở vùng Thất-Sơn.
Trước khi vào đề tác giả nêu lên một bài thơ, có thể nói, tóm lược những điều Sấm-giảng đã giải về cõi đời Hạ-Ngươn, hiện tượng khi sấm nổ, Hội Long-Vân và Long-Hoa, Tam giáo qui nguyên, ngũ chi hiệp nhất, giống dân Hồng-Lạc lập nên dòng Bích-Ngọc sau này… Chỉ có tám câu thơ mà gồm đủ các biến thiên của nước Việt.
Việt-Nam xuất hiện Hạ-Ngươn kỳ,
Thánh-Tổ lâm phàm hiệp ngũ chi
Ba tiếng sấm vang khai địa huyệt,
Bảy nguồn thủy dựng tảo sơn kỳ.
Rồng Mây, Phật hội Phong-Thần mạng,
Sen nở, Long-Hoa vạn quốc qui.
Ớ hỡi ! Lạc-Hồng nền Bích-Ngọc,
Vững lòng Chúa ẩn, hạnh duyên tùy.
Cốt yếu của quyển Con đường nào? Là “ quyết định chắc chắn có Thánh-Nhân ra đời hay chăng?” . Đó là cả mục đích của quyển Con đường nào? Mục đích tìm Thánh-Nhân và vì đâu nước Việt-Nam có phước được Thánh-Nhân xuất hiện và được nảy nở một giống dân Bích-Ngọc sau này?
Muốn đạt được mục-đích tìm Thánh-Nhân ấy, tác giả nêu lên hai ngưyên-lý để làm mục tiêu trong sự suy-cứu :
1.- Nguyên-lý cõi trần sắp có Thánh-Nhân ra đời.
2.- Nguyên-lý Thánh-Nhân ra đời.
Trước hết chúng tôi đề cập đến nguyên-lý thứ nhứt.
Muốn biết có Thánh-Nhân ra đời hay không, tác giả xét qua mấy khỏan sau đây:
a) VĂN MINH VẬT CHẤT HIỆN TẠI.- Về phương diện khoa học, thì lòai người đã thông minh tuyệt bực, phát minh nhiều máy móc tân xảo. Nếu sánh với năm mươi năm về trước thì trình độ ngày nay đã tiến hóa rất nhiều, từ chỗ phiền phức đến chỗ giản tiện mỹ thuật.
Về phương diện sinh lý, tình cảm, tư tưởng và xác thân của người đời nay, biến hóa đến chổ mịn-màng, sắc-xảo, thông minh, một hiện tượng là trẻ con ngày nay có nhiều cảm tưởng rất sâu xa.
b )PHONG TỤC.- Nhờ sự giao thông mau lẹ, phong tục của xứ này chịu ảnh hưởng của xứ kia mà thay đổi. Con người ở bên Á-châu tiêm nhiễm trực tiếp hay gián tiếp văn minh thế giới mà không hay.
c ) SỰ CHÊNH-LỆCH VỀ TINH THẦN.- Bị văn minh khoa học cám dỗ, con người ham
mê theo vật chất kim thời, lăn mình vào cuộc tranh đấu để thỏa thích tâm phàm . Vì
quá say mê vật chất mà một ngày một xao lảng phần cao siêu của tinh thần. Chính vì
đó mà “ cuộc thế đảo lộn xoay vần, đang lôi cuốn chúng-sanh vào đời mạt pháp.
d )GIÁO LÝ XƯA HẾT HIỆU LỰC.- Tác giả đưa ra gương Phật-giáo suy vi ngày nay,
để chỉ rằng giáo-lý xưa không còn hiệu-lực, “mặc dầu hôm nay chúng ta thấy Phật-
giáo còn thạnh hành nhưng chẳng qua là sự tín-ngưỡng thờ phượng mà thôi. Đường
tu-luyện bị sai siển rất nhiều, hòan cảnh hỗn loạn lôi kéo con người càng ngày càng xa
đường đạo, mặc dầu còn mỗi ngày lễ bái đốt hương”. Mà sở dĩ có cảnh tượng suy đồi
ấy là bởi ngày nay “ cảnh đời hiện tại khiến người giàu thì ham mê vật chất, đeo đuổi
theo danh lợi nhãn tiền, sung sướng tạm thời trong vật dục , không cần đến đường đạo
hạnh cao thâm”. Còn kẻ nghèo vì vấn đề “cần sống” còn đâu đầu óc lo nghĩ đến đạo-
đức. Chính vì thế “ tâm phàm không thể bình tỉnh mà tu niệm được. Nơi am tự chùa
chiền còn bị tàn phá, nơi miếu võ còn bị tiêu tan, huống chi là kẻ thường dân làm sao
cho khỏi bị đảo điên trăm bề?”
e )THỜI LỌAN BẮT BUỘC.- Tác giả nhận rằng: hiện nay chẳng riêng gì nước Việt-Nam mà hầu hết các nước trên thế giới đều lâm vào tình cảnh của một cuộc nội lọan. Vì sự cần sống mà con người nhập phe đảng để tranh đấu nhau, chính đó là nguyên nhân của cuộc nội lọan nước nào theo nước nấy.
g ) ĐỜI SẮP TÀN.- Vì đâu đời sắp tàn? Tác giả đưa ra hai nguyên-mhân.
1.- Vì sự cần sống mà lòai người sanh ra tội ác đến cực điểm, sát hại nhau không biết gớm. “ Đời càng chế tạo máy tinh vi mầu nhiệm, khí giới tối tân lợi hại mà thiếu đức hạnh hiền lương thì càng dẫn con người đến chỗ tàn sát nhau không dứt”. Mà đó cũng là cơ Tạo hóa khiến hạng người hung ác phải tiêu diệt, còn hạng người hiền lương thì được sống sót để lập nền-tảng cho giống dân thứ sáu ra đời.
2.- “ Theo luật vũ trụ trái đất phải thay đổi cảnh vật núi non , sông biển vào khỏan 2.100 năm một lần và biến chuyển, lấp biển dời non, biên giới sụp đổi một kỳ là 12.000 năm. Mỗi lần thay đổi san hà thì mỗi lần hcúng sanh biến-động tâm lý, xác thân cũng theo cảnh trần mà biến-hóa”.
h) TỪ TRÍ HUỆ ĐẾN GIẢI THÓAT.- Với sự phát minh khoa học, con người đã tiến đến một trình độ quá cao về vật chất lẫn tinh thần. “Trong thế kỷ này chúng sanh phần nhiều đã đến trình độ tiến hóa vật chất cực điểm, tầm đến nguyên lý sanh tồn của vạn vật, cái luật vũ trụ tiến hóa vô cùng hơn hồi đời Xuân Thu bên Tàu nữa”. Nhưng vì quá đắm theo vật chất mà thành ra mê chấp. Chính vì sự mê chấp mà con người phải đi đến chổ tiêu diệt.
Hạng người tiến hóa không kịp trình độ giải thoát thì bị tiêu diệt, còn hạng người đủ điều kiện giải thoát thì được sống sót tạo lập đời mới cho giống “Dân Bích-Ngọc” . Giống dân này phải nhờ bực Thánh Nhân lâm phàm chỉ dạy phương pháp giải thoátt đường mê chấp.
Xét qua các nguyên nhân vừa kể trên tác giả kết luận: thế nào cũng có Thánh-Nhân ra đời trong thời kỳ này.
Nguyên lý Thánh Nhân ra đời
Muốn biết Thánh-Nhân giáng sanh ở xứ nào, cần phải xét qua ba điều kiện:
Thời thế.- Thời thế là thời cơ vận mạng của một nước và thế lực thạnh suy của nhơn dân. Thời thế hiện ra cho đúng sự cần dùng sức lực của Thánh-Nhân.
Hòan-cảnh.- Phải đủ hoàn- cảnh thuận tiện, địa thế và xã hội. Nghĩa là Thánh-Nhân giáng trần trong cảnh: trên thì hạp lòng Trời, dưới thì hạp lòng chúng sanh để cho Ngài dạy-dỗ được mau lẹ.
Nhân-tâm.- Do duyên nghiệp và trình độ con người trong đường tu niệm. Nếu nhơn-dân không đầu óc tu niệm, tâm trí hoang mang theo vật chất, lòng dạ độc ác tham lam. Thánh nhân nào có ra đời nơi ấy được đâu . Ngài ra đời không hạp nhơn tâm , ai hưởng ứng theo Ngài? Bởi vậy Ngài lựa xứ nào có tiền duyên , hiền lành với Ngài. (Vì bậc Thánh-Nhân thường được chứng quả đến La-Hán Phật, được quyền tự-do chọn lựa cho đầu thai giúp đời, nếu như không giúp đời bằng cách giáng trần thì không đầu thai cũng được, vì La-Hán Phật là hạng đã thóat luân-hồi quả báo rồi phần đông có chí tu-hành và phải đến nấc thang tiến hóa cần thiết Ngài mới lâm phàm giúp đỡ.
“Xứ nào đủ ba điều kiện trên kia, thì nơi đó Thánh-Nhân xuất hiện chẳng sai. Bây giờ các nước trên thế giới coi xứ nào có đủ ba điều kiện ấy?”
Trước hết tác giả xét qua các nước bên Châu Âu thì thấy rằng :” Gần hết các nước văn-minh bị khoa học trói buộc, lôi kéo vào cảnh tham vọng tài-sản, vật-chất, quên hết sự quí báu tinh thần. Tuy rằng từ 1800 có một vài người tu hành đắc đạo như Le Comte de Saint Germain, và có hội Thông-thiên học xuất hiện ban rải thuyết “ Huynh-đệ đại đồng” trong các dân tộc. Chúng ta không quên phong trào Thôi miên học P.Jagot, anh em ông Durville và thần linh học A. Kardee, giúp đỡ người Âu rất nhiều về sự thức tỉnh tinh thần khỏi đường lầm mê vật chất. Nhưng người Âu bị khoa-học có kết quả nhãn-tiền làm thỏa-mãn tâm phàm, vật chất lôi cuốn quá mạnh, thành thử một bên thì lăn xả vào đường tranh đấu, còn một bên thì an-phận với chủ nghĩa “Huynh-đệ đại đồng” của giáo-lý Thông-thiên học đang hồi thạnh hành khắp nơi”.
Xét qua Ấn-độ thì mặc dầu ở nước này có Trung-ương hội thánh Adyar Madras, truyền-bá giáo-lý Thông –thiên học nhưng các bực ấy còn thiếu điều kiện kiến tạo đời An-lạc, vì một vị Tiên hay Phật muốn xuống trần phải có đủ sáu điều kiện căn bản này:
1 Phải đắc quả La-Hán Phật, hoặc chiếm được sắc lịnh Tiên ban.
2 Phải đi vào đường hy-sinh hạnh phúc cõi Bồng-lai Cực-Lạc để chịu đầu thai làm phàm tục.
3 Phải đủ năng lực tiến-hóa vật chất, tinh thần cho hạp hoàn-cảnh và thời thế dưới cõi trần.
4 Phải lập lời Thệ-nguyện gánh vác công việc của chúng sanh đến nấc thang tiến-hóa nào?
5 Phải có nhân-duyên với phần đông dân sự ở xứ đó.
6 Phải có nhân duyên đầu thai xuống cõi trần cho kịp lúc nhân dân đang cần gấp người giúp đỡ.
“ Tất cả điều kiện trên, có hai khỏan Nhân-duyên là quan trọng nhứt. Bởi vì nếu một vị Tiên, Phật quyết hy-sanh giúp đời, có nhân-duyên tiền căn với nước Mỹ, không thể giáng trần vào con nhà Việt-Nam được. Lại nữa , nếu nhân-duyên Thánh-nhân giáng sanh, chưa nhầm lúc chúng sanh cần gấp sự giúp đỡ thì công phu lâm phàm của Thánh- Nhân không còn hiệu lực gì nữa”.
Sau khi xét qua các nguyên-lý về Thánh-Nhân xuất hiện và các nước trên thế-giới, tác giả kết-luận: Việt-Nam là Thánh-địa vì Việt-Nam có đủ điều kiện đại lý và dân tộc cho Thánh-Nhân ra đời.
Việt-Nam Thánh-địa
Và đây, tác giả xét qua phương diện địa lý của Việt-Nam.
“ Nước Việt-Nam có hai địa thế đặc biệt là hai mảnh đất phù sa do các sông lớn bồi đắp, Hồng-Hà và Cửu Long-giang, lập thành Bắc-phần và Nam-phần Viêt-Nam. Nếu lấy khoa học địa lý mà xét thì cái đầu ở Nam còn cái đuôi ở Bắc. Nước Việt-Nam được thắm nhuần con sông lớn nhất, dài nhứt trên thế giới. Nguồn nó bắt đầu tại núi Tây-Tạng Hy-mã-lạp sơn, chạy sang bên Tàu, bỏ ngọn về Việt-Nam, hả miệng ra biển Đại Thành. Miệng Cửu-Long vừa kết tụ nguơn khí, đầu Cửu-Long vừa hiện đủ hình, thì nước Việt-Nam có Tổ xuất hiện, Thánh-Nhân ra đời giúp chúng sanh vào đường hạnh-phúc.
“ Một con sông lớn nhứt thế-giới, khởi nguồn nơi dãy núi Tây Tạng cao nhứt, dài nhứt, lớn nhứt ở hoàn cầu, làm sao khỏi linh hiển lạ thường?
“Khoa địa lý dạy rằng hễ một dòng sông , bắt nguồn từ nơi đất địa hiển linh, núi cao ngàn năm không người ở, rừng rậm ngàn năm không ai tới lui, phóng lượn sóng nghênh ngang ngàn thu không cạn thì con sông ấy sẽ kết tụ nơi huyệt “ Long đảnh” một địa huyệt rất linh hiển phì nhiêu về vật chất, cao siêu tột bực về tinh thần. Ngọn Cửu Long-giang là một dòng Bảo giang oanh-liệt, oai nghiêm, vừa tạo thành nên vóc vạc hoàn toàn lối 100 năm nay. Kết liên với các núi Cửu Long-giang xuất hiện ra 12 huyệt huyền diệu chấm đậm nét hùng vĩ trên địa cầu này.
“ Bắt đầu khởi kết tụ nguơn khí Âm Dương xây nên địa huyệt thứ nhứt tại THẤT-SƠN (Châu-đốc). Chỗ ấy ba huyệt thiên tiên hiệp lại làm Nê-huôn cung, xuất hiện đúng ngày linh hiển TAM HUỆ TỰ ĐẢNH mùi hương lạ kỳ bí mật bay ra từ núi Sam đến núi ông Tượng. Chỗ ấy là cân não, cốt tủy của Cửu-Long tên nó được hưởng ứng theo luồng điện thiên-nhiên, oai nghiêm, từ bi, hùng vĩ đời sau gọi là KIM THÀNH HUYỆT. Đó là huyệt dương đã hiện. Cửu –Long kết lầu với hai cốt núi Âm-Phong , cô độc, liên hiệp thành c8ạp mắt Hà-tiên và Phú-quốc là THỦY TRUNG HUYỆT. Tây-Ninh núi Điện Bà là HÙYNH MÔN HUYỆT, hai đỉnh núi ấy thuộc về Âm, kết tụ nguơn khí tại Trung-ương tạo nên ẤN ĐƯỜNG HUYỆT (Dương) để khai mở luồng điễn quang cho các huyệt kia vừa ngưng tại lối miệt Long-xuyên, Bình-mỹ (một dãy cù-lao lớn chạy dài từ Bình-mỹ xuống gần đến Cần-thơ).
Từ KIM THÀNH HUYỆT phóng xuống mũi Cà-Mau và núi Kỳ-Vân, hai huyệt dương nữa, một bên thì thành sóng mũi Cửa-Long chấm đến Cà-Mau (tức là LÂM HUYỀN HUYỆT) một bên thì Hàm-Rồng tại Kỳ-VÂn (tức là huyệt BÍCH NGỌC). Đồng cân với hai huyệt âm (Thủy-trung huyệt và Hùynh-môn huyệt) hiện ra một huyệt thứ sáu (BÌNH NAM HUYỆT) tại núi Côn-Nôn là chót lưỡi của Cửu-Long.
“ Sáu huyệt Âm Dương vừa kết tụ nguơn khí thì tại Trung-ương huyệt, yết hầu Cửu-Long, vừa khai mở gần Cần-thơ bây giờ, gọi là Trung-ương Cửu-Long huyệt. Lần lần ba cửa mở ra cửa Đại, Tiểu .v..v.. vừa thành tựu (năm Nhâm Thìn 1892) khiến cho ba nguồn thủy dựng tại Bình Nam châu chuyển-động (lưỡi Cửu-Long) làm cho các miền ở chánh cửa khẩu phải bị nạn lụt (Vàm-cỏ, Gò-công, Bến Tre và các cù-lao nhỏ..v..v.) ba ngày ba đêm. Đó là bảy huyệt linh thiêng chánh gốc của xứ Việt-Nam mới ngưng kết được lối 100 năm nay. Đứng giữa hòan cầu sự linh thiêng tân tạo là đầu Cửu-Long giang, một nguồn Bảo-giang thiên cơ đã định phải chói rạng sự huyền-diệu nhứt hạng khắp bốn bể năm châu. Vì địa hình ấy mới sanh nhơn kiệt, các vị Thánh Tổ kim thời hễ thuộc Âm-mạng thì phải xuất-hiện (chớ không phải giáng sanh) dạy đời trong ba huyệt Âm (Thủy-trung huyệt, Hùynh-môn huyệt và Bình-Nam huyệt) còn thuộc Dương thì phải xuất hiện ở Thất Sơn, Kỳ-VÂn và Cà Mau (Kim-Thành, Bích-Ngọc, Lâm huyền huyệt). Nhưng mặc dầu Âm hay Dương mạng, tại gần Cần-thơ cũng là kết tinh mối Trung-ương, yết hầu Cửu-Long, lập nền tảng bình-phân nguồn sống vật chất cho nhân dân, còn Kim Thành huyệt là nơi kết tụ tinh thần khiến cho Thánh Tổ sẽ lập căn-bản, ban rải mùi Từ-bi, Bác-ái, Minh-triết cho chúng sanh.
“ Bởi nguồn thiên-cơ định cho xứ Việt-Nam được hưởng ân huệ của Cửu-Long giang cho nên chúng ta phải rút địa thế , mà đoán ra thạnh suy, hung kiết, vận mạng của một nước , một giống dân. Còn ngoài Bắc phần Việt-Nam là cái đuôi Cửu-Long lan tràn đến vịnh Ha-long là dứt tại cốt Hậu-Đà của Long-Vĩ huyệt, ngang Vinh lên Lạng-Sơn Cao-Bằng , có nhiều hầm mỏ và các tiểu huyệt, đã hiện ra từ 4.000 năm nay, bây giờ đã gần tàn rụi, bao nhiêu đời oanh-liệt các bực tiên-đế tiền-vương đều lần lượt ẩn vào mây mù tịch mịch của thời gian.
“ Tạo hóa có một định luật bất tuyệt là vạn vật sanh hóa tiêu diệt theo thời gian, hết trồi đến sụt, hết thạnh đến suy, hết cao siêu đến hồi hỗn-loạn. Cái luật tuần hoàn bí mật của giọt nước mưa luân chuyển từ hải hà minh mông không bờ bến, bay bổng lên tận trời xanh, ngưng kết mây mù, rơi tan xuống đất từ giọt nhỏ lăn lộn qua các cảnh gió bụi, sạch trong, rồi đến lúc thoát dòng “ Gian nan đau khổ” hiệp nhau thành một con sông lăn mau về biển cả, rồi cũng đến ngày kia bay trở lại lên trời biến chuyển theo luật tuần hoàn Trời-đất, không ngừng không nghỉ. Chúng ta nào có biết đâu đời sống con người cũng như giọt nước mưa của vũ trụ? Nhưng lạ lùng thay ! Hiện tượng của : đất địa, san hà, hồ hải . Đó cũng là một sự “sống” vô cùng bí mật của quả địa cầu này, và cũng là một “ đòn cân tạo-hóa để bình phân thiên-luật điều hòa các tinh tú trong vòng càn khôn vô-tận.
“ Việt-Nam ! Việt-Nam ! Việt Nam là một xứ tùy vận-mạng thiên-cơ địa hậu, sanh được ở chỗ linh huyệt thiên nhiên của tạo hóa, thật lành thay ! Quí thay ! Xứ tân tạo , nước tân tạo, dân tân tạo, Kỳ hương sẽ phưởng –phất tại huyệt Kim-Thành khiến cho chúng sanh trên hòan cầu sẽ được hưởng mùi hạnh phúc ngàn thu. Đất phù nguyên vừa kết thành, tự nhiên các huyệt mạch được tích tụ khí nguơn-thỉ Trời Đất, khiến cho tất cả con người (95 % ) Nam-phần Việt-Nam xu hướng theo đường đạo hạnh. Vì sao? Bởi xứ Việt-Nam là nơi Thánh-địa, tạo hóa đặt để Nam phần Việt Nam đúng theo luật vũ trụ và ở nhằm trụ cốt huyền diệu của trái đất này.
“ Thất-Sơn ( bảy hòn núi đắp theo hình của huyệt tiên-thiên trong thân thể con người) cho nên gọi là núi Bảo-Sơn (hay là Bửu-Sơn cũng vậy). Số bảy là số hóa sanh vô tận (Vô cực- Thái cực- Lưỡng nghi – Tứ-Tượng, 3 trong rồi biến ra bảy, ngôi thứ tư Trời Đất đến bảy từng vũ-trụ hóa-sanh sẽ hiệp nhứt trong vô-tận. Trong số bảy ấy phân ra hai giai-đọan. Thứ nhứt ngôi đầu tiên (A-Di) là ngôi Âm-dương chưa phân định. Đến lúc Âm-dương vừa phân, A-Di vừa sáng tỏ thì chính trong ngôi ấy đã có hiện ra Tam-Thanh (Huyền-hóa Tam-Thanh). Đó là Tam-Thanh nhứt thể (một Ba-Ba một). Tam-Thanh nhứt thể biến hiệp với khí ngươn-thỉ biến thành cõi Trời phụ (nếu kể tam-thanh là ba, thì 6+3=9, còn nếu kể nhứt thể thì 6+1=7). Ấy là những số huyền-diệu bí mật thiên-cơ. Một, Ba. Bảy, Chín, thành Tam-giác (Ba) tứ dịện (Bốn) là hình thức của một người ngồi thiền đúng cách (kiết già). Hiệp nhứt Trung-Ương là thức-tánh rồi huờn hư. Thật ra một sự bí-mật của người tu-hành đang tầm hiểu.
Bởi vậy nước Việt-Nam sanh vào một địa huyệt thật linh-diệu vô cùng (Thất-Sơn, bảy núi, Dương và Cửu-Long , chín rồng, Âm). Sơn tiền điểm Long-mạch, trong số bảy có sanh-hóa, trong số chín Âm-dương kết tụ huờn hư, thật là không có xứ nào được như vậy. Toán theo khoa-học địa lý thì nhờ có sự huyền-diệu trên đây, xứ Việt-Nam trở nên một Thánh-địa, một nước chứa đầy dân tộc hiền hậu, thông-minh nhơn-đức. Nhưng từ ngày bí mật của ngọn sông Cửu-Long vừa lập thành bảy huyệt chánh gốc đến nay (gần 100 năm) các huyệt ấy khai mở mà con người Việt-Nam đã tiến lần đến chỗ hiền nhân thánh triết”
Cứ theo khoa-học địa-lý mà xét nước Việt-Nam hẳn là một địa linh, các huyệt vừa kết tụ trong vòng một trăm năm nay. Ảnh hưởng của cuộc địa linh ấy đã gây nên một phong trào đạo hạnh tưng bừng chưa từng thấy.
“ Phong trào đạo Tiên hồi 1880 (huyệt vừa kết tụ tại Thất-Sơn và Kỳ-Vân)., có nhiều nhân-vật đắc quả Tiên-ban như các vị: Phật Thầy, Cử Da, ông Danh, Đạo Nổi, Thầy Thím….Từ 1880 đến 1920 thì có phong trào Thiên-Chúa giáo sang , qua lan tràn khắp xứ, kế đó có cuộc chấn hưng Phật-giáo ,, người chót được sắc lịnh phổ-thông ba năm là nhà sư Nguyễn-kim-Muôn (sắc lịnh đây là sắc lịnh của hội chư Phật chớ không phải bằng cấp thầy chùa). Sứ mạng ngài có ba năm với Pháp-môn Tịnh-độ mà thôi. Trong thời-kỳ ấy gần hết dân chúng miền Nam theo Tịnh-độ Cư-sĩ tu hành nhiệt tâm. Sớm chiều trong các làng đều nghe tiếng chuông mõ. Ba năm sứ mạng của Sư vừa dứt thì có hội Thần-linh học gầy dựng đạo Minh-lý rồi kế Cao-Đài giáo tiếp theo bành trướng , cơ quan Tam-kỳ Phổ-độ làm rúng động nhơn tâm dân chúng tín ngưỡng theo hằng triệu. Như vậy còn chưa kể các vị tu Tiên như Tây-ninh có Bà Cô, Nha-trang, Phan Thiết có Cô tư Bê, Kỳ -Vân có Cô-Cậu, hiện nay vẫn còn linh diệu, mỗi phái được hàng ngàn đệ-tử.
“ Kế thấy cuộc chấn hưng Phật-giáo ở tại Linh-Sơn tự có cơ-quan truyền bá bằng kinh sách ; ông Minh Trí lập ra nhánh Lễ-bái Lục-phương. Phật-học chùa lớn tại Phú-định (Chợ lớn) do ông Lâm-văn-Hậu chủ trương và các hội như Lưỡng –xuyên và Phật-giáo, mùi chân lý của kinh PHật được đem ra học hỏi nhiệt thành; chùa lớn nhứt tại Huế, bên nữ cô Diệu Tịnh (Thích- Nữ) lập chùa Từ-Hòa, vận động phái nữ ra trường “ Ni trường Phật-học” ngòai Huế, dìu dắt nữ lưu trên đường sáng suốt . Kế Diệu Tịnh có Võ-phụng-Kiều, pháp danh Diệu-Minh, mở các am vân tại Mỏ-cày (Bến-Tre) truyền bá pháp luyện tinh thần và ăn hoa quả (cô dùng hoa quả trên ba mươi năm mà mập mạp mạnh khỏe như thường). Lối 1935 ông Bạch-Liên tại Châu-Đốc có lập chi nhánh Thông-thiên học do tận gốc bên Ấn-Độ (Adyar Madras). Đồng thời ảnh hưởng Phật-Tiên hiệp nhứt nổi lên, vị cầm đầu giáo-hội là ông Hùynh-phú-Sổ (bây giiờ gọi là Đức Giáo-chủ Hòa-Hảo).
“Như chúng ta xét rõ, không nước nào mới trong vòng một trăm năm mà nổi lên hơn cả chục phong-trào đạo đức rất nhiệt thành. Thứ nhứt là từ 50 năm nay, người Việt-Nam (riêng Nam phần) hết lòng lo tu niệm. Ấy cũng là nhờ một phần lớn ở địa lý, đất-linh, ở vào các vĩ-tuyến địa cầu kết thành những huyệt-mạch cực-kỳ huyền-diệu về tinh thần đạo đức”.
Tác giả cho biết phần đất Nam-Việt đóng vào 12 huyệt sáng-suốt (6 huyệt chánh , 6 huyệt phụ và huyệt Trung-Ương là huyệt hội các huyệt) mà số 12 huyệt lại thuộc về Tâm-điền huyệt ; “ Cho nên khiến các hạng con người lần lần xu-hướng vào đường đạo hạnh hết. Các huyệt vừa kết tụ thì các tôn giáo, giáo hội mọc lên như nấm, nhân dân niệm Phật Trời vang lừng một cõi. Đến lúc cửa huyệt Kim-Thành, Bích –Ngọc, Lâm-Huyền, khai mở trong ba tiếng Ngũ-lôi vang động, bảy nguồn thủy dựng trào lên, thì Thánh-Nhân xuất hiện ra đời, đem mùi bác-ái yêu thương nhơn-vật vô cùng vô tận mà giúp chúng sanh vào đường hạnh-phúc…
“Về dân tộc Việt-Nam, chúng ta không phải xem xét nước da hay là giống sanh –sản lai người ngoại quốc. Nhưng chúng ta có thể lấy nội dung tiến-hóa theo chiều thiên-cơ. Nhơn vật ở địa cầu này đã đến thời kỳ biến chuyển lần thứ ba ( lần thứ nhì bên Châu-Âu sụp đất Atlantide thành biển Océan Atlantique bây giờ, có trên 12.000 năm) . Giống dân thứ tư tiêu diệt, còn sống sót các giống dân phụ của giống dân thứ năm trở lại sanh-sản rải rác dưới cõi trần, để ngày sau gầy tạo nên hoàn-cảnh, nhơn tâm và nòi giống cho giống dân thứ sáu ra đời hiệu là giống dân BÍCH –NGỌC , màu da trắng trong như ngọc-bích, thông minh tiến-hóa vô cùng, tự-do dùng thân cảm tưởng trong Danh, Lợi, Tình mà lòng không mắc chấp…
“Trước khi giống dân thứ sáu ra đời, phải có một phong-trào hỗn lọan ( như khi xưa, mỗi lần tạo lập nền tảng cho giống dân mới, thì giống dân cũ sắp tàn, sự hỗn lọan tự nhiên phải có). Lịch sử hằng ghi chép những gương xưa, chúng ta thấy rõ. Kế thời tạo lập nền tảng cho giống dân mới, thì có Thánh-Nhân ra đời dạy chúng-sanh.
“Dân tộc Việt-Nam theo thời cơ Thiên-định có rất nhiều linh hồn thông minh, tài trí, đức hạnh của các giống dân phụ thứ năm chuyển kiếp làm con người, vì Nam phần Việt-Nam là nơi địa huyệt hạp với sự tiến hóa của các linh-hồn ấy. Dầu rằng các linh-hồn khắp nơi hội hiệp tại Nam-phần Việt-Nam , nhưng chẳng qua là do luật Trời biến-động, khiến luồng Từ-Ân xuyên tạc. Nguồn Ân Thánh-Triết lâm phàm sẽ thâu các linh-hồn ấy vào hàng đệ-tử cùng nhau tạo lập “ Đài gương An-Lạc”, đem hạnh phúc cho nhơn sanh. Vì dân tộc Việt-Nam quan hệ vô cùng đến sự tiến-hóa trên địa cầu này, cho nên Nguồn Ân Thánh Triết (hiện nay chứng quả Phật La-Hán) phải tùy theo thiên-cơ mà chuyển kiếp vào dân Việt-Nam, lập đời mới, văn minh tuyệt điểm vật-chất và tinh thần phối hiệp, rồi Ngài sẽ đắc quả Bồ-Tát vào cõi Trời Cực-Lạc”.
Tuy biết rằng “Nguồn Ân” xuất hiện và tạo nền hạnh phúc ở Việt-Nam, nhưng Ngài còn giúp đỡ cho cả thế giới. Ngài sở dĩ giáng sanh ở Việt-Nam là “vì nơi đây hạp với thiên-cơ địa hậu, hoàn cảnh, nhơn tâm, nhưng Nguồn-Ân vẫn là hạnh phúc chung cho nhân loại, giúp chúng sanh thoát khỏi dòng lao khổ”.
“Hạnh phúc thay dân Việt-Nam!
“ Hãy sửa sọan tâm hồn trong sạch lạy mừng Nguồn-Ân cứu thế , muôn đời mới có một”
Đó là tất cả nguyên-lý để tìm hiểu tại dân nước Việt-Nam sẽ là cõi đất Trung-Ương trong thời-kỳ Thượng-Ngươn và dân tộc Việt-Nam được hữu-phước dẫn đạo sau này, như Sấm-Giảng đã từng cho biết.
Chúng ta đã biết qua đâu là huyệt Kim-Thành , đâu là huyệt Bích-Ngọc, đâu là Bảo-Sơn, đâu là Bảo-giang?
Thế thì bức màn huyền-vi đã hé mở cho chúng ta khi đọc đến Sấm Trạng-Trình với những câu như:
Bắc hữu Kim-THành tráng.
Nam lạc Ngọc-Bích thành.
Hay là:
Bảo-giang Thiên-tử xuất,
Bất chiến tự-nhiên thành.
Hoặc là:
Bảo-Sơn Thiên-tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành..
-
III .- Nhà Bác-học Ông Hồ-hữu-Tường
Ngoài lối giải thuyết Sấm-giảng bằng khoa-học địa lý còn lối giải thuyết bằng phương pháp khoa học cuả ông Hồ-hữu-Tường. một học giả mà ông Tam-Ích đã liệt ngang hàng với Đào-duy-Anh, Phan-văn-Hùm, Nguyễn-văn-Tố..v..v…
Nhưng trước khi đề cập đến lối giải thuyết của ông, tưởng cũng nên tìm hiểu tại đâu ông Hồ-hữu-Tường thay đổi quan-niệm một cách đột-ngột mà ông Thiếu-Sơn gọi ông Tường là “ một nhà học-giả đương khủng hoảng về tinh thần”.
Mà quả ông Tường có khủng hoảng về tinh thần chăng, khi ông đưa ra thuyết “ Xuân Thu mới” và tuyên bố ly-khai học thuyết mác-xít, vì theo ông, học thuyết này đã quá thời trong giai đọan tiến hóa tư-tưởng hiện nay và sau này.
Nhưng do đâu ông Tường xây dựng thuyết “ tân Xuân Thu” một danh-từ mà chúng ta được thấy Sấm-Giảng nêu lên để chỉ thời tiết sau này của thời-kỳ Thượng-Ngươn.
Hẳn ông Tường đã khám phá được cái gì, nhận thấy một chơn lý cao siêu nào, nên ông mới thay đổi tư-tưởng một cách đột ngột như thế.
Nếu không thế, thì có lý đâu ông lại kêu lên “những tiếng gọi đàn” tha thiết trong quyển Tương-lai văn-hóa Việt-Nam mà chúng tôi xin trích ra đây một đọan :
“Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thực to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha-thiết. Thực tha-thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm tin….., để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt-Nam.
“Đây là một gia-đình nghèo nàn, khốn khổ. Mẹ bịnh la-liêt, không tiền chạy thuốc. Gạo trong vò hết sạch. Em nhịn đói không nổi, kêu khóc vang tai. Tất cả anh, chị, em đều đuối sức, mệt hơi, vì thời buổi làm ăn vất vả… Ngẫu nhiên, một đứa con trong gia đình này gặp ở giữa rừng một khối vàng to. Khối vàng quá to, thừa sức cung cấp để chạy thuốc cho mẹ, mua gạo nuôi cả nhà, trang trải các mối nợ và làm cho gia đình trở nên mấy ngàn lần triệu phú. Khối vàng quá to, nên sức mình ôm về, hay lăn về không nổi. Rồi hối hả, đứa con ấy chạy đi kêu anh, chị, em , lên “tiếng gọi đàn”, để vào rừng cùng đem khối vàng về…
“Trong lòng của đứa con ấy dồn dập những luồng thổn thức e ngại. Làm sao mà có được những lý lẽ đanh thép để cho anh , chị, em tin? Cảm hóa, tin rằng mình đây không phải là điên rồ, không phải là mê-mộng lại sáng suốt mà báo tin mừng cho gia đình và lên tiếng gọi đàn, để cùng nhau chung sức, nắm ngay lấy hạnh phúc và vinh quang.”
Ông Tường đã bọc lộ sự khám phá của ông bằng một lối văn ngụ-ngôn ẩn-ước quá khéo léo.
Nếu ông không khám phá được cái gì hay không nhận thấy một chơn lý cao-siêu nào thì có lý đâu từ địa vị một nhân viên trong phái-đoàn Hội-nghị Dalat, đương được người tín nhiệm lại từ khước trách nhiệm của mình, mang gói từ Hà-Nội trở về Sàigòn, tuyên-bố một câu làm ngơ ngác cả mọi người : ông tuyên –bố từ giã trường chánh-trị trong năm năm.
Từ sự kinh ngạc này, ông đưa người ta đến kinh ngạc khác . Ông lẳng lặng như một thầy tu, nhưng lâu lâu ông đăng báo nhiều ý-tưởng mà không ai ngờ. Ông cho rằng học-thuyết mác-xít đã lỗi thời, rồi ông đưa ra thuyết “ Tân Xuân Thu” làm cho phái của ông Tam-Ích cực lực chỉ trích.
Nhưng đó cũng chưa mấy ngạc nhiên bằng khi ông Tường đưa ra đời bộ “Ngàn năm một thuở” trong đó ông mượn vai Phi-Lạc để đưa ra bao nhiêu lời tiên tri của Sấm-Giảng, giải thuyết lý Tận-Thế, Lý Tam-Ngươn và đồng thời phủ-nhận những điều người đời nay đương tin tưởng ở máy móc, thờ phụng cái cũ của người ta để làm cái mới của mình mà không nhận rằng mình đã có “ một khối vàng to”.
Đây chúng ta thử đọc một đọan văn này của ông Tường đủ thấy quan niệm của ông về cái nghĩa “mới” và “cũ” :
“Những nhà lập luận thiển cận thường có luận-điệu này : Triết gia Tàu hay lấy những học thuyết cũ rích của Tây-phương mà nhập cảng vào Trung-Quốc và bảo đó là “mới” thì nguyên nhân là bởi các triết gia ấy có bịnh “cóp”. Rồi thì họ kiêu-hãnh với lời giải-thích tạm bợ : “ Á-phiện làm buồn ngủ vì á-phiện có tính làm buồn ngủ”.
“Ta thì không thế. Ta lại tìm thêm :” Tại sao các triết gia Trung-Hoa hay cóp?”.
“Nhưng hỏi mãi cũng chán. Bởi vì lòng ta muốn làm sao cho ta được như chim bằng của Trang-Tử, vỗ cánh bay mấy muôn dặm, sáng tạo ra được một nền triết học nào mới mẻ đối với Tây-phương ! Chớ cái việc cóp các học-thuyết của Tây-phương rồi đem ra mà nói rằng “tân” với đồng bào mình, thì thú thực “tân” này không khác cái “tân” của các bà đã nằm bếp !
“…..Muốn cầm đầu thế-giới hay chịu phận làm em của người, làm nước chư-hầu hiến cống cho một nước thiên-tử nào đó, thì hãy một mực đi theo triết học của nước đó đi. Còn nếu nuôi chí lớn : thì lập một nền triết-học khác làm cơ-sở cho một đạo sống khác”.
Nhưng những tư tuởng trên đây chưa làm đảo lộn cả ý-thức-hệ của con người bằng đọan văn vấn-đáp sau đây :
“ – Học sách à ? Học sách tức là nhận kẻ viết sách làm thầy sao ? Tôi không học nơi sách nào cả !
“ – Họ tức mình hỏi :
“ Không học anh làm sao biết được ?
“ Thì nó dõng dạc rằng :
“ – Không học mà biết mới hay chứ ! nếu phải học mà biết cũng như các ông nghè , ông cống khác, chớ nào có hơn, mà tranh có một địa vị hơn họ !”
Thật là một ý-tưởng ngạo nghễ, nhưng thật ra thì không ngạo-nghễ tý nào ! Không học mà biết là một hiện tượng không còn lạ với người đời nay nữa.
Hẳn quý ngài còn nhớ Đức Hùynh Giáo-chủ đã viết :
Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp rất rành.
Và ông Thanh-Sĩ cũng có viết :
Có học có biết có tường,
Không học mà biết phi tường khó thay !
Cũng đồng một ý-nghĩa ; không học mà biết mới hay, như ông Tường đã nói.
Tại đâu ông Tường có những ý-tưởng giống trong Sấm-Giảng ? Nếu ông không khám-phá một điều gì !
Có người cho biết rằng : sở dĩ ông Hồ-hữu-Tường thay đổi ý-tưởng một cách đột-ngột như thế là vì ông đã được một quyển Thiên-thơ cũng như tác giả quyển Con đường nào? Ông dựa vào quyển Thiên-thơ ấy viết ra bộ Ngàn năm một thuở, giải thuyết Sấm-Giảng với sự hiểu biết cuả một người đi sâu vào đạo-giáo.
Sau khi đặt ra bao nhiêu nghi-vấn về sự thay đổi chí hướng của ông Hồ-hữu-Tường, nhiều người quả quyết ông có được Thiên-thơ và đây là điều mà người ta đã khám phá được về chỗ bí-ẩn ấy.
Chỗ bí-ẩn ấy là ông Tường đã tự nhận có được một quyển sách , rồi dựa theo đó viết ra chuyện Ngàn năm một thuở.
Đây là đọan ông Tường tự nhận có được quyển sách :
“ Số là tác giả này, sau khi lánh nạn ra đến Hà-Nội ngụ được vài tháng thì nạn binh lửa nổi lên phải rút lui theo ngã Thụy-khê, làng Bưỡi, rồi đến làng Cổ Nhuế..v…v.. Rồi đến khi hồi cư về Hà-Nội, thì cũng do đường ấy. Khi trở về Cổ-Nhuế , thì làng mạc tiêu điều, xơ xác, phải đến một góc đình con, dùng mà ngủ tạm một đêm. Không dè lượm quyển sách ghi tên những ai đến hỏi nơi vị “ Cố vấn học thuật” của làng . Nhờ vậy mới biết câu chuyện rồi do đó tìm thêm để thuật lại ở đây câu chuyện lạ đời “ Ngàn năm một thuở”.
Mọi người đều cho rằng chỉ một đọan văn này đủ cho chúng ta thấy ông đã tự-nhận có được Thiên-thơ một cách hết sức khéo léo, cũng như dùng thuật ngữ “ tìm được một khối vàng trong rừng” để ám-chỉ rằng tìm được sự vinh quang của Việt-Nam.
Nếu quả thật ông Hồ-hữu-Tường đã được quyển Thiên-thơ, sao ông không lấy đó mà lập thuyết một cách chững chạc của một nhà sáng –tạo , hay phát minh mà lại dùng lối văn trào-phúng viết úp mở, nửa hư, nửa thiệt?
Muốn hiểu dụng-ý của ông, hãy nghe ông biện-luận thế nào là trào phúng, thế nào là không trào-phúng, trong một đọan văn dưới đây :
“ – Ngài nói sao mà nghe như giọng trào-phúng vậy ?
“ Phi-Lạc cả cười hỏi lại :
“ – Nếu là trào-phúng thì sao ?
“ Cả thảy đều nói:
“ – Nếu là trào-phúng thì ngài nói chơi. Nếu không trào-phúng thì là ngài nói thiệt.
“ Phi-Lạc cười dài nói:
“ – Lầm to ! Lầm to! Trào phúng thuộc về cái giọng nói mà không về nội-dung có xác sự thật hay không. Có thể nói với giọng đạo-mạo như giọng của Đạo Nhân Dĩ-Nhân mà không xác với thực-tế chút nào. Còn nói đùa như tôi khi nãy mà không phải là trái với sự thật. Chính là ta phải dựa theo vào sự thật thì trào phúng mới được.”
Như thế, còn ai nghi trong giọng trào phúng của ông Tường không hàm có sự thật.
Nhưng sở dĩ ông Tường dùng thuật-ngữ trào phúng là vì ông còn hoài nghi. Ông thấy tương lai khoa-học và đồng thời ông lại thấy cảnh giới sau này vô cùng đẹp đẽ hơn khoa-học, nhưng cảnh giới ấy lại do Thiên-lực mà có, còn khoa-học thì do nhơn-lực mà có. Ông thấy hay nhờ quyển Thiên-thơ giúp cho ông thấy, ông thấy nhưng ông chưa tin trọn, vì nó xa với ông quá, còn khoa-học thì nó gần với ông hơn.
Chính vì đó mà ông đâm ra hoài-nghi và cũng vì hoài-nghi mà ông Tường giải-thuyết Sấm-Giảng bằng một lối văn nửa hư, nửa thật.
Giải-thuyết lý Tam-Nguơn và Tận-Thế.
Nhưng dầu với hình thức nào, ông Tường cũng đã cho người ta thấy ông đi sâu vào Sấm-Giảng.
Một cách gián tiếp, ông nhìn nhận lý Tam-Nguơn và cơ tận diệt, như ông đã nêu ra trong bộ Ngàn năm một thuở.
Đây chúng ta hãy nghe ông Hồ-hữu-Tường luận về lý Tam-Nguơn:
“ Trước thời này, đã có một thuở thái bình mà các thi sĩ gọi là “Thời đại hoàng kim” chăng ? Đó là một câu hỏi không lấy đâu làm bằng để trả lời cho được.
Làm bằng để trả lời cho được.
“ Các tôn giáo bảo :
“ Hồi xưa ., trên trái đất này, đã có một nền văn minh chói lọi, người sáng suốt, thông cảm được cùng Tiên , Phật, biết phép nhiệm mầu, đoạt quyền tạo hóa, hiểu được quá khứ vị lai. Rồi đến một lúc kia, hồng thủy dâng lên, đất sụp núi lở, ấy là thời kỳ tốt đẹp kia đã tận thế. Thật ra chỉ là dứt thời “Thượng Ngươn” để sang “ Trung-Ngươn”.
“ Đến thời “Trung Nguơn” này, tuy loài người không được ai ai cũng là hạng địa tiên như trước, song cả thảy an cư lạc nghiệp, chung hưởng thái bình, đường không lượm của rơi, nhà ngủ không đóng cửa.Và có một ít thánh hiền, hồi ức được sự sáng suốt của thời thượng ngươn, có ghi chép điều hiểu biết vào những kinh sách mà đến nay , dầu ai thông minh đến bực nào cũng không hiểu nổi. Thời trung nguơn này chấm dứt với đời Nghiêu Thuấn. Và từ đây bắt đầu “Hạ Ngươn”.
“ Thời “ Hạ-nguơn” là một thời đen tối cho loài người. Người, lòng nuôi đầy ác ý, tranh nhau mà bóc lột nhau, giành nhau mà chém giết nhau. Kẻ giẵm lên xương máu của phần đông để lập sự-nghiệp của mình thì được thế nhân ca tụng là anh hùng, vĩ nhân. Bao nhiêu óc sáng –suốt đều bị lợi dụng để chế tạo các khí giới tàn sát lẫn nhau, đưa nhân lọai dần dần đến cảnh tận thế.
“Nhưng các tôn giáo chỉ muốn đem cảnh “ tận thế” mà dọa loài người, cho họ sợ sự trừng phạt của Trời-đất mà theo các giáo điều. Các tôn giáo quên rằng : trời đất xoay vần, hết năm cũ sang năm mới ; thì cảnh đông qua xuân tới là dĩ nhiên. Vậy nên Hạ-ngươn có dứt rồi thì một Thượng –ngươn khác sẽ đến. Ấy là “ đổi đời” . Lý trời là vậy đó”.
Đọc đoạn này chúng tôi thấy ông Tường luận rất xác đáng về lý Tam Ngươn, nhưng vì mang phải tật hoài nghi mà ông cho rằng tôn giáo muốn đem cảnh Tận-Thế dọa loài người cho họ sợ sự trừng phạt mà theo các giáo-điều. Có hẳn muốn cho loài người theo giáo-điều mà tôn giáo nêu ra vấn-đề tận thế chăng?
Chẳng hiểu dựa vào đâu ông Tường nhận thấy điều ấy, chớ từ Cao-Đài giáo cho đến Phật-giáo phái Phật-Thầy đều nhận : hễ mãn thời-kỳ Hạ-Ngươn thì đến thời-kỳ Thượng-Ngươn. Như thế thì tôn giáo đâu có quên cái lý tuần hoàn của vũ-trụ mà ông Tường hòai nghi
Mặc dầu ông Tường phủ nhận danh từ “Tận Thế” và nhận giai-đọan chấm dứt thời-kỳ Hạ-Ngươn là một cuộc “đổi đời”, song rốt cuộc ông cũng nhận “cuối thời Hạ-Ngươn này là cảnh tận thế của nhân lọai”.
Đây chúng ta hãy nghe lý giải của ông Tường về Tận-Thế , do Ngài Tả-quân Lê-văn-Duyệt cắt nghĩa cho ba nhà sư người Tàu nghe:
“ Nãy giờ phải đòi ông Nguyễn-văn Tố đến cắt nghĩa rõ về nguồn gốc của Thánh-Nhân , ấy muốn cho ba vị biết rằng khi mà Quỉ vương suy đồi là do tay Thánh Nhân chấm dứt. Lúc ấy là cuối thời Hạ-Ngươn.
“ Ba nhà sư hỏi :
“ Làm sao mà biết rằng cuối Hạ-Ngươn?
“ Tả-quân đáp :
“ Cái đặc sắc của cuối đời Hạ-ngươn này là cảnh tận-thế của nhân-lọai. Xưa nay, lòai người đã chứng kiến những cuộc tàn tạ của lắm cái văn minh, như văn minh của Ai-Cập, của Ấn-độ, của Tàu. Nhưng mà những cuộc tàn tạ này không dữ dội và không phổ biến. Đó là những cuộc suy nhược lần mòn ở một địa phương. Nay là cảnh tận thế dữ dội phổ biến của nhân-loại.
“Ba nhà sư nghe nói đồng hỏi :
“ Vì sao các nền văn-minh trước lo việc nhân nghĩa đạo đức, lo việc tu dưỡng của loài người. Như gần đây, Khổng, Phật, Gia-tô, Hồi-Hồi thảy đều lo việc cứu vãn nhân-lọai…..
“ Nghe Tả-quân ví sự trút đổ của văn minh Âu-Tây như hai người ôm vật nhau, thì cả thảy muốn biết rõ hơn nữa. Thấy vậy Tả quân giải:.
“Hiện nay các nước theo Âu-Tây hãy còn đông. Đáng kể có Nga, Mỹ, Đức, Anh, Pháp, Nhựt, Ý, có bảy nước. Kỳ dư chỉ là mới phết một lớp sơn bề ngoài thôi. Với bảy nước này, thế giới phải sống cảnh tượng như hồi liệt quốc của nhà Châu. Một trận chiến tranh thứ nhứt đã đưa chúng vào một phen vật lộn. Nay lại bắt đầu một cuộc chiến tranh thứ hai. Nhưng chưa hết đâu ! còn có một lần chiến tranh thứ ba nữa. Mà lần thứ ba này, cái văn minh Âu-Tây lại kết tinh thành hai khối chọi nhau.
“ Sư Hồng Hac hỏi thêm :
“ Hai khối này có phải là khối dân-chủ và khối phát-xít chăng?
“ Nghe hỏi vậy, Tả-quân cười đáp :
“ Dân chủ hay phát xít , tự-do hay độc-tài, đó chỉ là những phương tiện như thế nào cũng không cần, miễn là họ đạt đến mục đích.
“ Sư Hồng-Hạc nghe nói không hiểu, bèn hỏi:
“ Ngài nói văn minh Âu-Tây đuổi theo cái lợi thì biết dựa vào đâu mà bảo rằng bảy nước ấy lại phân làm hai khối?
………………………………………… ………………………..
“Bởi là chiến tranh toàan diện, nên sức tàn phá của nó mãnh liệt không ngần. Không có một địa hạt nào tránh khỏi sự tiêu diệt. Giữa các nước, thì nước này diệt nước kia bằng những khí giới lạ lùng, nguy hiểm. Trong một nước thì đoàn thể này chống với đoàn thể kia một cách quyết kiệt chẳng kể mạng người, Chẳng động lòng nhân. Hễ khác đảng phái thì dầu cho anh em , chồng vợ, cha con cũng không dung nữa. Bao nhiêu thâm tình đều xóa bỏ, chỉ nghe mạng lịnh của đảng phái mà thôi. Rốt cuộc mọi người đều phải đau đớn khổ sở vì không biết làm sao mà dung hòa ý, tình, lý của mình với mạng lịnh khắt khe của đòan thể. Không lúc nào con người thấy mình bị một cái ách quá nặng nề như thế !
“ Ba nhà sư nghe tả cảnh tận-thế rùng rợn như vậy thì kinh hồn và chấp tay đồng hỏi :
“ Nếu nhân loại bị loạn lạc như vậy, thì còn có hy vọng gì mà sửa đổi lại, lấy trí dẹp loạn, lấy thái bình trừ chiến tranh chăng ?
“ Tả-quân đáp :
“ Bởi cái thời loạn lạc như vậy , nên loài người khổ sở vô ngần. Những hoạn, những nạn có Quỉ Vương gieo rắc sẽ tràn ngập, làm chết ngợp chúng sanh. Thế mà có người cứu vãn được y như lời quẻ thứ mười hai của Khổng-Minh. Quẻ ấy là :
Chủng họan cứu nạn,
Thị duy Thánh Nhân
Dương phục nhi tri
Hối cực sanh minh.
“ Câu thứ nhứt và câu thứ hai có nghĩa là :
“ Lấy họan mà chữa cái nạn , thì chỉ có Thánh Nhân mới làm được. Còn hai câu sau lại định kỳ hạn mà Thánh Nhân xuất hiện. Hết cái thời ám này, nghĩa là dứt cái Hạ-Ngươn, bắt đầu Thượng-Ngươn khác thì dương trở lại, chuyện ấy sẽ rõ. Ấy là hết tối tới sáng vậy. Lời sấm rõ lắm rồi. Nay dứt Hạ-Ngươn Thánh Nhân là Xích Tử ra đời, đổi đời mới, lập thiên hạ lại.
“ Ba nhà sư cũng hỏi :
“ Còn “chủng hoạn cứu nạn” là làm sao ?
“ Cái đó là việc riêng của Xích Tử, là sự nghiệp của người, ta không có phép lo trước. Thiên cơ bất khả lậu !
“ Rồi Tả-Quân nói tiếp :
“ Còn như quẻ thứ mười ba :
Hiền bất di dã
Thiên hạ nhứt gia.
Vô danh vô đức
Quang diện Trung Hoa.
“Là tả cái cảnh thiên hạ đại đồng, mọi người được dùng, không bỏ sót ngoài đồng như thuở Hạ-Ngươn, tất cả thiên hạ sống chung một nhà, yêu thương nhau. Cảnh ấy là thiên đường trên quả địa cầu .”
Ngoài những lý-do Tận –Thế mà ông Hồ-hữu-Tường mượn lời Ngài Tả-Quân để phân giải như đã nói trên, ông Tường còn giải –thuyết lý Tận-Thế về phương diện lý-số và tôn giáo nữa.
“ Về mặt lý số , những nhà lãnh đạo cho phong trào muốn cho tất cả dân chúng tin tưởng vào một ngày mà mọi người phải dọn chỗ, dự bị, ngày mà hết thời âm sang thời dương , hết thời tối tới thời sáng sủa, hết thời khổ não tới thời hạnh phúc, hết thời lọan lạc tới thời thanh bình, hết thời tủi nhục tới thời vinh quang. Họ là những nhà lý số, dựa theo những thuyết của các nhà triết học đời Tống như Thiệu-nghiên-Phu, mà định rằng cái ngày vinh quang ấy ở vào thế hệ của chúng ta.
“ Thời về mặt tôn giáo, học thuyết của sư tổ Huệ Năng cũng đồng một dự đóan như vậy. Phật Di-Lặc xuống thế độ trần cũng vào khoảng này. Và đến như Gia Tô giáo, ngày tận thế hai ngàn năm sau Jésus giáng sanh cũng hiệp với tiên tri của phái lý số.
“Mấy triệu người theo Lão học, tin vào phép dưỡng sinh. Mấy trăm triệu người theo Nho giáo, mấy trăm triệu người theo Gia Tô giáo đồng một tin tưởng. Kẻ theo khoa học, dầu có hoài nghi cũng không cưỡng lại một trào lưu ngày càng mãnh liệt và đến lúc, nghiêng về một phía.”
Đọc đến đoạn này, người ta sẽ thấy rõ mối hoài nghi của ông Tưởng đã vỡ tan khi ông viết :
“ Kẻ theo khoa học, dầu có hoài nghi cũng không cưỡng lại một trào lưu ngày càng mãnh liệt”
Như vậy người ta có thể hiểu thêm rằng dầu ông Tường dùng một lối văn nửa hư, nửa thực để cho người đọc có cảm tưởng rằng ông còn hoài nghi, nhưng thật ra trong thâm tâm, ông vẫn tin ở Sấm Giảng.
Ông tin chắc đến đỗi ông dám quả quyết cho trận đại chiến thứ ba sẽ nổ vào năm 1952.
Đây là một đọan văn, ông Hồ-hữu-Tường nói về trận đại chiến thứ ba :
“ mấy năm mà Ngài gọi là không lâu?
“Nay là cuối 1945. Cái kế-họach đánh cuội của tôi vạch ra đó ít lắm bốn năm mới xong. Nghĩa là đến gần hết năm 1949 thì Tưởng-giới –Thạch mới nhượng hoàn toàn cho đảng Cộng, thì còn mấy năm nữa đâu ?
“ Mà mấy năm chớ ?
“ Thì ba năm, đến năm 1952, ắt có chiến tranh thứ ba. Xứ tôi ai mà chẳng biết. Ông Trạng-Trình có để lại lời Sấm.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ động đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân dậu niên lai kiến thái bình.
“ Bài Sấm này không phải chỉ chiến tranh thứ nhì sao ?
“Lầm ! Lầm to ! cuộc chiến tranh thứ nhì hoặc kể là khởi ở Tàu, nơi vụ Lư cầu Kiều là năm 1937 tức là năm Đinh Sửu, hoặc kể là khởi ở Châu Âu là năm 1939 tức là năm Kỷ Mão chớ nào phải năm Thìn đâu mà gọi là Long vĩ , năm rồng, cuối năm Thìn ?
“ Vã lại lời Sấm là bàn về cuộc chiến tranh thứ hai có ăn thua gì mà làm Sấm chi cho mất công ? Mà câu “ Mã đề dương cước” đâu có ứng ? Bởi anh hùng không có tận mà ?
“ Vậy theo Ngài thì cuộc chiến tranh thứ ba ra làm sao?
Giải thích trận Đại Hồng Thủy và Thiên-hỏa
Đây chúng ta thử nghe ông Tường giải thích về Đại Hồng Thủy.
Ông Tường cho rằng từ trước đến nay chưa có trận chiến tranh nào mà sự tàn sát lớn lao bằng trận đại chiến thứ ba, bởi vì kỳ chiến tranh lần này, bao nhiêu phát minh về nguyên tử đều được đem ra phụng sự cho việc sát hại. Chính võ khí nguyên tử ấy sẽ gây ra bao nhiêu tai nạn cho loài người như làm cho quả địa cầu phải ngập lụt, làm cho nhân loại phải cháy thiêu.
Trước hết ông Tường cho rằng thế nào trận Đại chiến thứ ba cũng nổ ra giữa Nga và Mỹ. Nhưng khu vực chiến đấu là khu vực nào ?
“ Bây giời chú thử tính lại xem con đường nào là đường chiến lược của cuộc giao-phong của đôi bên ? Ta sắp hai giả thuyết. Một là Nga lấn thế mà công kích. Hai là Mỹ thừa sức mà tràn tới.
“ Nếu Nga muốn công kích Mỹ hay là Mỹ đánh Nga thì con đường gần hơn hết là con đường hàng không vòng trên bắc cực. Thế là các nước ở nửa trên sẽ bị dội bom, bom thường, bom nguyên tử, bom vi trùng mà bị tàn phá cả.
“ Anh nói như vậy rõ lắm ! Tôi thấy bên Tân-thế-giới thì Gia-nã Đại, Hiệp-chủng-quốc, còn bên Cựu thế-giới thì cả Âu-châu, Tây-bá-lợi-Á, Nhựt Bổn và miền Bắc Nước Tàu sẽ bị tàn phá không thua gì một cuộc tận thế.
“ Còn nếu Lục quân của Nga muốn tấn công Mỹ thì phải noi theo ba đường.
“ Con đường phía Tây là phải tràn qua nước Đức, nước Pháp, nước Y-pha-Nho, Bắc phi để tiến tới Tây-phi và Nam-phi, vì hai chỗ này sang qua Nam Mỹ gần hơn để rồi đó đánh lên Bắc Mỹ.
“ Con đường phía Đông là từ Tây-bá-lợi-Á đánh tan Nhựt Bổn để đổ sang A-lát-Ka, rồi đánh sang Gia-nã-đại và Huê-kỳ :
“ Con đường phía Nam là tấn công Ấn-Độ rồi từ đó đánh sang qua Úc-châu để sang qua Nam-Mỹ nữa.
“ Và con đường chiến lược của Mỹ cũng chỉ là ba con đường ấy mà thôi.”
Sau khi vạch rõ khu chiến đấu của Nga và Mỹ ông Hồ-hữu-Tường không ngần ngại mà nói đến cách hành quân của đôi bên.
Theo ông thì “ con đường tấn công gần hơn hết bằng phi cơ, bằng bom nguyên tử là xuyên qua Bắc cực và Nam-cực. Thì tất nhiên chiến trường là hai chỗ ấy, Nga thì bọc phía Bắc cực, Mỹ thì lo Nam mỹ, còn Anh thì lo Nam-Phi. Vậy cuộc chiến tranh nguyên tử tàn khốc sẽ diễn ở Nam cực và Bắc cực, mỗi bên toan phá hủy căn cứ của đối phương.
“ Mỗi bên sẽ ném nhiều bom nguyên tử mà không hạn chế được… Sức nóng của bom nguyên tử làm nước đá kia chảy ra, sôi lên thành hơi nước nóng và có một trận lụt khổng lồ, một trận lụt nước sôi từ Nam cực và Bắc cực tràn về miền Xích-đạo.
“ Người ta muốn làm gì để ngăn trận lụt nước sôi do nước đá ở Bắc cực và Nam cực chảy ra mà sôi sùn sục ấy cũng không được, bởi sức nổ chuyền của nguyên tử chạy cũng không kịp nữa.”
Nếu đó chẳng phải là trận Đại Hồng-thủy, chớ còn gì nữa, mà là trận Đại Hồng-thủy bằng nước sôi. Nếu vậy thì nhân loại bị tiêu diệt hết sao? Hay có phương gì tránh nạn lụt nước sôi ấy?
Ông Tường cho biết rằng: “ Ở Nam Mỹ châu và Bắc Mỹ Châu, người ta giành nhau mà chạy đến cái eo đất nhỏ xíu ở giữa . Nội cái đứng không cũng đủ chật đất rồi, còn chỗ đâu mà cày cấy có lúa mà ăn? Tránh nạn phỏng nước sôi thì cũng bị nạn đói .
“ Còn ở Âu-châu thì hết đường mà chạy. Ở trên tràn xuống thì bị Địa-trung-hải chận lại, tàu đâu mà chở cho hết. Và chở đem đi đâu bây giờ? Ở Phi-châu thì phía Nam dồn lên lại đụng sa mạc Sahara. Tránh nước sôi lại bị khát nước. Ở Bắc-phi thì chạy xuống đụng Sahara vậy.
“ Còn ở Nga thì chạy đâu ? Chạy qua xứ Á-rập, sa mạc, chỉ chạy sang Ấn-độ, xứ Ấn-độ không đủ mễ cốc nuôi dân, nay lại thêm người nữa làm sao mà sống nổi.
“ Còn dưới kia, Úc-châu sẽ bị nạn lụt nước sôi tràn tới, không còn đường chạy, vì nó là một hòn đảo.
“ Chung qui lại, chỉ có vùng Đông Nam Á châu của chúng ta là Miến-điện, Xiêm-la, Việt-nam, miền Nam nước Tàu là thoát được cái nạn lụt khổng lồ ấy.”
Ngoài nạn lụt ông Tường còn cho biết cái nạn lửa cháy rực Trời mà Sấm-Giảng gọi là Thiên Hỏa. Ông Tường nói rằng : “Cuộc chiến tranh thứ ba sẽ là một cuộc chiến tranh nguyên tử. Mà cái lợi hại của nguyên-tử-lực không phải là mấy quả bom như kỳ rồi đã nói ở Nhật Bản đâu. Sự hại của nó là sức nổ chuyền. Một nguyên tử này nổ ra, phát điện tử bắn vào nguyên tử kế đó, thì nguyên tử này nổ luôn theo rồi chuyền như vậy mãi ra và tràn lan vô cùng tận. nhiệt độ phát ra không thể tưởng tượng được.”
Nhưng rất may, nạn Thiên-hỏa ấy cũng như nạn lụt nước sôi không tràn đến miền Xích Đạo. Nhờ đó mà nước Việt Nam được an toàn, dẫn đạo các nước trong thời kỳ Thượng Ngươn.
Giải thích về Thượng-Ngươn và Xã-hội Tân Xuân-Thu.
Ông Hồ-hữu-Tường cho biết rằng : “ Cuối trận chiến tranh thứ ba hầu khắp quả địa cầu đều bị tàn phá. Các đô thị lớn đã biến thành những đống gạch ngói ngổn ngang bắn ra những tia quang tuyến của nguyên tử lực cho đến cỏ cũng không mọc được. Đó là kết quả của nguyên tử. Đâu đâu, đầy xác chết bốc ra muôn ngàn loại vi trùng. Thành thị thì như thế. Còn thôn quê thì chỉ còn có một thứ cỏ dại mới khởi sự mọc le the, bởi cái lẽ dễ hiểu rằng: khi làn nước sôi tràn lụt qua một lượt, thì cỏ cây thảy chết sạch, hột giống thảy luộc chín tất cả. Loài người cũng chết sạch. Có ai sống sót khỏi nạn nước sôi cũng bị nạn đói, bởi còn gì đâu mà ăn? Riêng có vùng nhiệt đới thì cỏ cây còn thạnh mậu, các giống mễ cốc hãy còn sót lại. Nhưng ở nơi khác từ mấy năm, người chết gần hết, ai mà trồng trọt, nên phần đông đã trở nên hoang vu.”
Chính nhờ ở vào vị trí của miền Xích-đạo mà nước Việt-Nam cũng như Miến-điện, Xiêm-la và miền Nam nước Tàu “ thoát được cái nạn tàn phá của trận lụt khổng lồ ấy. Lại là xứ sản xuất rất nhiều lúa ăn. Có bà con tản cư đến thêm gấp đôi dân số, nghĩa là đến hai trăm triệu người cũng có thể nuôi được”.
Vốn là một khu “phi chiến”, cho nên nước Việt-Nam sau này sẽ “bất chiến tự nhiên thành” đúng như Sấm Trạng-Trình đã tiên tri, mà ông Hồ-Hữu-Tường ví sự “ bất chiến tự nhiên thành” ấy như miếng võ thuật “Hầu tử xuất động”. Nước Việt Nam yếu ớt cũng như con khỉ trong hang không làm gì chống lại nổi với cọp, beo, lang, gấu, rắn, thế mà biết len lỏi, chờ cho các nước mạnh như cọp, beo, lang, gấu kia choảng nhau cho đến sụm hết, đúng với lời Sấm “ Mã đề dương cước anh hùng tận”, rồi xuất động thì làm gì chẳng làm chúa.
Đó là nhờ vị trí “phi chiến” của nó mà sau này nó trở nên một nước dẫn đầu thế giới.
Nếu thế thì nước Việt-Nam chẳng có gì tốt đẹp, vẫn giữ cái cảnh tượng điêu tàn cỏ khô đồng cháy, hoang vu như thế sao?
Ông Tường cũng tin rằng thế-giới sẽ bước qua thời kỳ Thượng Ngươn, nghĩa là vô cùng tốt đẹp, khí hậu ôn hòa như trong Sấm Giảng đã nói. Nhưng làm thế nào thế giới biến hình, thay đổi khí hậu và trở nên một xã hội Tân Xuân-Thu nghĩa là trong một năm chỉ có hai mùa ấm và mát?
Sự biến đổi ấy, ông Tường cũng qui cho kết quả của bom nguyên tử mà ra.
Ông Tường giải thích như thế này: bom nguyên tử mà Nga và Mỹ đem ra dùng sau này sẽ còn mãnh liệt gấp trăm , ngàn lần thứ bom nguyên tử đã dội xuống nước Nhựt. Sức nổ của nó, nếu không làm núi tan đất vỡ thì cũng làm quả địa cầu, vì chịu không nổi mà xê dịch vị trí khác. Nó sẽ từ vị trí hiện hữu mà xê dịch qua một vị trí khác. Do sự xê dịch ấy, quả địa cầu ở vào một vị trí một năm chỉ có hai mùa : Xuân và Thu, khí trời quanh năm rất ấm áp mát mẻ, còn ban đêm thì luôn luôn có mặt trăng mọc, sang cả đêm này qua đêm khác, không hề sai chạy. Cái thế giới đó, ông Tường gọi là thế giới Xuân Thu.
Đã đổi vị trí như thế, đã thay đổi mùa tiết ngày đêm như thế, không nói ai cũng biết : chịu ảnh hưởng của khí hậu ôn nhu như thế, từ loài khoáng vật, dến thực vật, cũng như động vật, thế giới sau này sẽ vô cùng đẹp đẽ. Cây cối hẳn tốt tươi, đất đai hẳn thích hợp cho các loài cây quí báu thì con người hẳn cũng đẹp đẽ và thông minh tiến hóa hơn nhiều.
Ông Tường cho rằng cái xã hội sau này sẽ tột bực văn minh, thái bình muôn thưở, con người sẽ tài trí phi thường. Nếu đem sánh với thời kỳ Hạ-Ngươn này thì cách biệt không biết bao xa.
Cứ lấy theo thiên văn học mà xét thì ông Tường thấy rằng: quả địa cầu của chúng tra đương chuyển từ cung con cá qua cung con cừu, trong mười hai Thiên-cung (Zodiaque). Hiện nay chúng ta còn ở trong cung con cá, một cung mà người đời có tâm trạng như con cá, hễ gặp nhau là đá, cắn nhau. Bởi thế, ở vào thời kỳ này, nhơn loại xô đẩy nhau vào con đường chiến tranh không dứt, tương tàn tương sát . Cung con cá biểu thị thời kỳ Hạ-Ngươn. Trái lại, cung con cừu biểu thị thời kỳ Thượng Ngươn, một thời kỳ con người thông minh tiến hóa cao siêu nhứt trong các thời kỳ. Ông Tường gọi là thời kỳ của hạng minh triết. Chẳng những con người trí hóa thông minh mà xã hội lại thạnh trị dân chúng đâu đâu cũng an cư lạc nghiệp. Các nước rất tương thân tương ái cho nên thế giới trải qua một thời kỳ thái bình cả muôn năm, giống như đời Nghiêu-Thuấn.
Đó là cả quan niệm của ông Hồ-hữu-Tường về vấn đề Tận-Thế và sự xây dựng cõi đời Thượng Nguơn mà ông gọi là xã hội Xuân Thu, quan niệm dựa theo khoa học để giải thích Sấm-Giảng.
Như chúng tôi đã nói : ông Tường vì vướng phải chủ nghĩa hoài nghi mà ông mãi tắc tị, không tiến đến đâu.
Ông Tường nói rằng : Sau trận giặc thứ ba các nước ở miền tiếp cận với Bắc-cực và Nam-cực đều bị nạn lụt nước sôi và sự nổ chuyền của bom nguyên tử mà tiêu tàn, đến cây cỏ cũng không mọc.
Trong tình trạng hoang-vu như thế, nước Việt Nam nhờ ở khu-vực phi chiến mà tồn tại, phỏng làm gì với nhân lực mà xây dựng cõi đời Thượng Ngươn?
Nếu thế thì cõi Thượng Ngươn cũng vẫn là cõi thế-giới cũ-kỹ này thì lấy gì phân biệt Thượng Ngươn với Hạ-Ngươn. Còn mong rằng bom nguyên tử nổ sẽ làm xê-dịch vị trí của quả địa cầu và nhờ đổi vị trí ấy mà thế giới sau này sẽ đổi mùa tiết, nhưng lỡ như sức nổ chuyền của bom nguyên tử không hãm lại được, nó cứ nổ chuyền mãi, phỏng quả địa cầu có bị cháy thiêu, loài người có bị chết luộc vì nạn lụt nước sôi chăng?
Nhưng thật ra Tận Thế có đúng như các nhà khoa học, bác học đã nghiên cứu không?
-
III .- Nhà Bác-học Ông Hồ-hữu-Tường
Ngoài lối giải thuyết Sấm-giảng bằng khoa-học địa lý còn lối giải thuyết bằng phương pháp khoa học cuả ông Hồ-hữu-Tường. một học giả mà ông Tam-Ích đã liệt ngang hàng với Đào-duy-Anh, Phan-văn-Hùm, Nguyễn-văn-Tố..v..v…
Nhưng trước khi đề cập đến lối giải thuyết của ông, tưởng cũng nên tìm hiểu tại đâu ông Hồ-hữu-Tường thay đổi quan-niệm một cách đột-ngột mà ông Thiếu-Sơn gọi ông Tường là “ một nhà học-giả đương khủng hoảng về tinh thần”.
Mà quả ông Tường có khủng hoảng về tinh thần chăng, khi ông đưa ra thuyết “ Xuân Thu mới” và tuyên bố ly-khai học thuyết mác-xít, vì theo ông, học thuyết này đã quá thời trong giai đọan tiến hóa tư-tưởng hiện nay và sau này.
Nhưng do đâu ông Tường xây dựng thuyết “ tân Xuân Thu” một danh-từ mà chúng ta được thấy Sấm-Giảng nêu lên để chỉ thời tiết sau này của thời-kỳ Thượng-Ngươn.
Hẳn ông Tường đã khám phá được cái gì, nhận thấy một chơn lý cao siêu nào, nên ông mới thay đổi tư-tưởng một cách đột ngột như thế.
Nếu không thế, thì có lý đâu ông lại kêu lên “những tiếng gọi đàn” tha thiết trong quyển Tương-lai văn-hóa Việt-Nam mà chúng tôi xin trích ra đây một đọan :
“Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thực to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha-thiết. Thực tha-thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm tin….., để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt-Nam.
“Đây là một gia-đình nghèo nàn, khốn khổ. Mẹ bịnh la-liêt, không tiền chạy thuốc. Gạo trong vò hết sạch. Em nhịn đói không nổi, kêu khóc vang tai. Tất cả anh, chị, em đều đuối sức, mệt hơi, vì thời buổi làm ăn vất vả… Ngẫu nhiên, một đứa con trong gia đình này gặp ở giữa rừng một khối vàng to. Khối vàng quá to, thừa sức cung cấp để chạy thuốc cho mẹ, mua gạo nuôi cả nhà, trang trải các mối nợ và làm cho gia đình trở nên mấy ngàn lần triệu phú. Khối vàng quá to, nên sức mình ôm về, hay lăn về không nổi. Rồi hối hả, đứa con ấy chạy đi kêu anh, chị, em , lên “tiếng gọi đàn”, để vào rừng cùng đem khối vàng về…
“Trong lòng của đứa con ấy dồn dập những luồng thổn thức e ngại. Làm sao mà có được những lý lẽ đanh thép để cho anh , chị, em tin? Cảm hóa, tin rằng mình đây không phải là điên rồ, không phải là mê-mộng lại sáng suốt mà báo tin mừng cho gia đình và lên tiếng gọi đàn, để cùng nhau chung sức, nắm ngay lấy hạnh phúc và vinh quang.”
Ông Tường đã bọc lộ sự khám phá của ông bằng một lối văn ngụ-ngôn ẩn-ước quá khéo léo.
Nếu ông không khám phá được cái gì hay không nhận thấy một chơn lý cao-siêu nào thì có lý đâu từ địa vị một nhân viên trong phái-đoàn Hội-nghị Dalat, đương được người tín nhiệm lại từ khước trách nhiệm của mình, mang gói từ Hà-Nội trở về Sàigòn, tuyên-bố một câu làm ngơ ngác cả mọi người : ông tuyên –bố từ giã trường chánh-trị trong năm năm.
Từ sự kinh ngạc này, ông đưa người ta đến kinh ngạc khác . Ông lẳng lặng như một thầy tu, nhưng lâu lâu ông đăng báo nhiều ý-tưởng mà không ai ngờ. Ông cho rằng học-thuyết mác-xít đã lỗi thời, rồi ông đưa ra thuyết “ Tân Xuân Thu” làm cho phái của ông Tam-Ích cực lực chỉ trích.
Nhưng đó cũng chưa mấy ngạc nhiên bằng khi ông Tường đưa ra đời bộ “Ngàn năm một thuở” trong đó ông mượn vai Phi-Lạc để đưa ra bao nhiêu lời tiên tri của Sấm-Giảng, giải thuyết lý Tận-Thế, Lý Tam-Ngươn và đồng thời phủ-nhận những điều người đời nay đương tin tưởng ở máy móc, thờ phụng cái cũ của người ta để làm cái mới của mình mà không nhận rằng mình đã có “ một khối vàng to”.
Đây chúng ta thử đọc một đọan văn này của ông Tường đủ thấy quan niệm của ông về cái nghĩa “mới” và “cũ” :
“Những nhà lập luận thiển cận thường có luận-điệu này : Triết gia Tàu hay lấy những học thuyết cũ rích của Tây-phương mà nhập cảng vào Trung-Quốc và bảo đó là “mới” thì nguyên nhân là bởi các triết gia ấy có bịnh “cóp”. Rồi thì họ kiêu-hãnh với lời giải-thích tạm bợ : “ Á-phiện làm buồn ngủ vì á-phiện có tính làm buồn ngủ”.
“Ta thì không thế. Ta lại tìm thêm :” Tại sao các triết gia Trung-Hoa hay cóp?”.
“Nhưng hỏi mãi cũng chán. Bởi vì lòng ta muốn làm sao cho ta được như chim bằng của Trang-Tử, vỗ cánh bay mấy muôn dặm, sáng tạo ra được một nền triết học nào mới mẻ đối với Tây-phương ! Chớ cái việc cóp các học-thuyết của Tây-phương rồi đem ra mà nói rằng “tân” với đồng bào mình, thì thú thực “tân” này không khác cái “tân” của các bà đã nằm bếp !
“…..Muốn cầm đầu thế-giới hay chịu phận làm em của người, làm nước chư-hầu hiến cống cho một nước thiên-tử nào đó, thì hãy một mực đi theo triết học của nước đó đi. Còn nếu nuôi chí lớn : thì lập một nền triết-học khác làm cơ-sở cho một đạo sống khác”.
Nhưng những tư tuởng trên đây chưa làm đảo lộn cả ý-thức-hệ của con người bằng đọan văn vấn-đáp sau đây :
“ – Học sách à ? Học sách tức là nhận kẻ viết sách làm thầy sao ? Tôi không học nơi sách nào cả !
“ – Họ tức mình hỏi :
“ Không học anh làm sao biết được ?
“ Thì nó dõng dạc rằng :
“ – Không học mà biết mới hay chứ ! nếu phải học mà biết cũng như các ông nghè , ông cống khác, chớ nào có hơn, mà tranh có một địa vị hơn họ !”
Thật là một ý-tưởng ngạo nghễ, nhưng thật ra thì không ngạo-nghễ tý nào ! Không học mà biết là một hiện tượng không còn lạ với người đời nay nữa.
Hẳn quý ngài còn nhớ Đức Hùynh Giáo-chủ đã viết :
Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp rất rành.
Và ông Thanh-Sĩ cũng có viết :
Có học có biết có tường,
Không học mà biết phi tường khó thay !
Cũng đồng một ý-nghĩa ; không học mà biết mới hay, như ông Tường đã nói.
Tại đâu ông Tường có những ý-tưởng giống trong Sấm-Giảng ? Nếu ông không khám-phá một điều gì !
Có người cho biết rằng : sở dĩ ông Hồ-hữu-Tường thay đổi ý-tưởng một cách đột-ngột như thế là vì ông đã được một quyển Thiên-thơ cũng như tác giả quyển Con đường nào? Ông dựa vào quyển Thiên-thơ ấy viết ra bộ Ngàn năm một thuở, giải thuyết Sấm-Giảng với sự hiểu biết cuả một người đi sâu vào đạo-giáo.
Sau khi đặt ra bao nhiêu nghi-vấn về sự thay đổi chí hướng của ông Hồ-hữu-Tường, nhiều người quả quyết ông có được Thiên-thơ và đây là điều mà người ta đã khám phá được về chỗ bí-ẩn ấy.
Chỗ bí-ẩn ấy là ông Tường đã tự nhận có được một quyển sách , rồi dựa theo đó viết ra chuyện Ngàn năm một thuở.
Đây là đọan ông Tường tự nhận có được quyển sách :
“ Số là tác giả này, sau khi lánh nạn ra đến Hà-Nội ngụ được vài tháng thì nạn binh lửa nổi lên phải rút lui theo ngã Thụy-khê, làng Bưỡi, rồi đến làng Cổ Nhuế..v…v.. Rồi đến khi hồi cư về Hà-Nội, thì cũng do đường ấy. Khi trở về Cổ-Nhuế , thì làng mạc tiêu điều, xơ xác, phải đến một góc đình con, dùng mà ngủ tạm một đêm. Không dè lượm quyển sách ghi tên những ai đến hỏi nơi vị “ Cố vấn học thuật” của làng . Nhờ vậy mới biết câu chuyện rồi do đó tìm thêm để thuật lại ở đây câu chuyện lạ đời “ Ngàn năm một thuở”.
Mọi người đều cho rằng chỉ một đọan văn này đủ cho chúng ta thấy ông đã tự-nhận có được Thiên-thơ một cách hết sức khéo léo, cũng như dùng thuật ngữ “ tìm được một khối vàng trong rừng” để ám-chỉ rằng tìm được sự vinh quang của Việt-Nam.
Nếu quả thật ông Hồ-hữu-Tường đã được quyển Thiên-thơ, sao ông không lấy đó mà lập thuyết một cách chững chạc của một nhà sáng –tạo , hay phát minh mà lại dùng lối văn trào-phúng viết úp mở, nửa hư, nửa thiệt?
Muốn hiểu dụng-ý của ông, hãy nghe ông biện-luận thế nào là trào phúng, thế nào là không trào-phúng, trong một đọan văn dưới đây :
“ – Ngài nói sao mà nghe như giọng trào-phúng vậy ?
“ Phi-Lạc cả cười hỏi lại :
“ – Nếu là trào-phúng thì sao ?
“ Cả thảy đều nói:
“ – Nếu là trào-phúng thì ngài nói chơi. Nếu không trào-phúng thì là ngài nói thiệt.
“ Phi-Lạc cười dài nói:
“ – Lầm to ! Lầm to! Trào phúng thuộc về cái giọng nói mà không về nội-dung có xác sự thật hay không. Có thể nói với giọng đạo-mạo như giọng của Đạo Nhân Dĩ-Nhân mà không xác với thực-tế chút nào. Còn nói đùa như tôi khi nãy mà không phải là trái với sự thật. Chính là ta phải dựa theo vào sự thật thì trào phúng mới được.”
Như thế, còn ai nghi trong giọng trào phúng của ông Tường không hàm có sự thật.
Nhưng sở dĩ ông Tường dùng thuật-ngữ trào phúng là vì ông còn hoài nghi. Ông thấy tương lai khoa-học và đồng thời ông lại thấy cảnh giới sau này vô cùng đẹp đẽ hơn khoa-học, nhưng cảnh giới ấy lại do Thiên-lực mà có, còn khoa-học thì do nhơn-lực mà có. Ông thấy hay nhờ quyển Thiên-thơ giúp cho ông thấy, ông thấy nhưng ông chưa tin trọn, vì nó xa với ông quá, còn khoa-học thì nó gần với ông hơn.
Chính vì đó mà ông đâm ra hoài-nghi và cũng vì hoài-nghi mà ông Tường giải-thuyết Sấm-Giảng bằng một lối văn nửa hư, nửa thật.
Giải-thuyết lý Tam-Nguơn và Tận-Thế.
Nhưng dầu với hình thức nào, ông Tường cũng đã cho người ta thấy ông đi sâu vào Sấm-Giảng.
Một cách gián tiếp, ông nhìn nhận lý Tam-Nguơn và cơ tận diệt, như ông đã nêu ra trong bộ Ngàn năm một thuở.
Đây chúng ta hãy nghe ông Hồ-hữu-Tường luận về lý Tam-Nguơn:
“ Trước thời này, đã có một thuở thái bình mà các thi sĩ gọi là “Thời đại hoàng kim” chăng ? Đó là một câu hỏi không lấy đâu làm bằng để trả lời cho được.
Làm bằng để trả lời cho được.
“ Các tôn giáo bảo :
“ Hồi xưa ., trên trái đất này, đã có một nền văn minh chói lọi, người sáng suốt, thông cảm được cùng Tiên , Phật, biết phép nhiệm mầu, đoạt quyền tạo hóa, hiểu được quá khứ vị lai. Rồi đến một lúc kia, hồng thủy dâng lên, đất sụp núi lở, ấy là thời kỳ tốt đẹp kia đã tận thế. Thật ra chỉ là dứt thời “Thượng Ngươn” để sang “ Trung-Ngươn”.
“ Đến thời “Trung Nguơn” này, tuy loài người không được ai ai cũng là hạng địa tiên như trước, song cả thảy an cư lạc nghiệp, chung hưởng thái bình, đường không lượm của rơi, nhà ngủ không đóng cửa.Và có một ít thánh hiền, hồi ức được sự sáng suốt của thời thượng ngươn, có ghi chép điều hiểu biết vào những kinh sách mà đến nay , dầu ai thông minh đến bực nào cũng không hiểu nổi. Thời trung nguơn này chấm dứt với đời Nghiêu Thuấn. Và từ đây bắt đầu “Hạ Ngươn”.
“ Thời “ Hạ-nguơn” là một thời đen tối cho loài người. Người, lòng nuôi đầy ác ý, tranh nhau mà bóc lột nhau, giành nhau mà chém giết nhau. Kẻ giẵm lên xương máu của phần đông để lập sự-nghiệp của mình thì được thế nhân ca tụng là anh hùng, vĩ nhân. Bao nhiêu óc sáng –suốt đều bị lợi dụng để chế tạo các khí giới tàn sát lẫn nhau, đưa nhân lọai dần dần đến cảnh tận thế.
“Nhưng các tôn giáo chỉ muốn đem cảnh “ tận thế” mà dọa loài người, cho họ sợ sự trừng phạt của Trời-đất mà theo các giáo điều. Các tôn giáo quên rằng : trời đất xoay vần, hết năm cũ sang năm mới ; thì cảnh đông qua xuân tới là dĩ nhiên. Vậy nên Hạ-ngươn có dứt rồi thì một Thượng –ngươn khác sẽ đến. Ấy là “ đổi đời” . Lý trời là vậy đó”.
Đọc đoạn này chúng tôi thấy ông Tường luận rất xác đáng về lý Tam Ngươn, nhưng vì mang phải tật hoài nghi mà ông cho rằng tôn giáo muốn đem cảnh Tận-Thế dọa loài người cho họ sợ sự trừng phạt mà theo các giáo-điều. Có hẳn muốn cho loài người theo giáo-điều mà tôn giáo nêu ra vấn-đề tận thế chăng?
Chẳng hiểu dựa vào đâu ông Tường nhận thấy điều ấy, chớ từ Cao-Đài giáo cho đến Phật-giáo phái Phật-Thầy đều nhận : hễ mãn thời-kỳ Hạ-Ngươn thì đến thời-kỳ Thượng-Ngươn. Như thế thì tôn giáo đâu có quên cái lý tuần hoàn của vũ-trụ mà ông Tường hòai nghi
Mặc dầu ông Tường phủ nhận danh từ “Tận Thế” và nhận giai-đọan chấm dứt thời-kỳ Hạ-Ngươn là một cuộc “đổi đời”, song rốt cuộc ông cũng nhận “cuối thời Hạ-Ngươn này là cảnh tận thế của nhân lọai”.
Đây chúng ta hãy nghe lý giải của ông Tường về Tận-Thế , do Ngài Tả-quân Lê-văn-Duyệt cắt nghĩa cho ba nhà sư người Tàu nghe:
“ Nãy giờ phải đòi ông Nguyễn-văn Tố đến cắt nghĩa rõ về nguồn gốc của Thánh-Nhân , ấy muốn cho ba vị biết rằng khi mà Quỉ vương suy đồi là do tay Thánh Nhân chấm dứt. Lúc ấy là cuối thời Hạ-Ngươn.
“ Ba nhà sư hỏi :
“ Làm sao mà biết rằng cuối Hạ-Ngươn?
“ Tả-quân đáp :
“ Cái đặc sắc của cuối đời Hạ-ngươn này là cảnh tận-thế của nhân-lọai. Xưa nay, lòai người đã chứng kiến những cuộc tàn tạ của lắm cái văn minh, như văn minh của Ai-Cập, của Ấn-độ, của Tàu. Nhưng mà những cuộc tàn tạ này không dữ dội và không phổ biến. Đó là những cuộc suy nhược lần mòn ở một địa phương. Nay là cảnh tận thế dữ dội phổ biến của nhân-loại.
“Ba nhà sư nghe nói đồng hỏi :
“ Vì sao các nền văn-minh trước lo việc nhân nghĩa đạo đức, lo việc tu dưỡng của loài người. Như gần đây, Khổng, Phật, Gia-tô, Hồi-Hồi thảy đều lo việc cứu vãn nhân-lọai…..
“ Nghe Tả-quân ví sự trút đổ của văn minh Âu-Tây như hai người ôm vật nhau, thì cả thảy muốn biết rõ hơn nữa. Thấy vậy Tả quân giải:.
“Hiện nay các nước theo Âu-Tây hãy còn đông. Đáng kể có Nga, Mỹ, Đức, Anh, Pháp, Nhựt, Ý, có bảy nước. Kỳ dư chỉ là mới phết một lớp sơn bề ngoài thôi. Với bảy nước này, thế giới phải sống cảnh tượng như hồi liệt quốc của nhà Châu. Một trận chiến tranh thứ nhứt đã đưa chúng vào một phen vật lộn. Nay lại bắt đầu một cuộc chiến tranh thứ hai. Nhưng chưa hết đâu ! còn có một lần chiến tranh thứ ba nữa. Mà lần thứ ba này, cái văn minh Âu-Tây lại kết tinh thành hai khối chọi nhau.
“ Sư Hồng Hac hỏi thêm :
“ Hai khối này có phải là khối dân-chủ và khối phát-xít chăng?
“ Nghe hỏi vậy, Tả-quân cười đáp :
“ Dân chủ hay phát xít , tự-do hay độc-tài, đó chỉ là những phương tiện như thế nào cũng không cần, miễn là họ đạt đến mục đích.
“ Sư Hồng-Hạc nghe nói không hiểu, bèn hỏi:
“ Ngài nói văn minh Âu-Tây đuổi theo cái lợi thì biết dựa vào đâu mà bảo rằng bảy nước ấy lại phân làm hai khối?
………………………………………… ………………………..
“Bởi là chiến tranh toàan diện, nên sức tàn phá của nó mãnh liệt không ngần. Không có một địa hạt nào tránh khỏi sự tiêu diệt. Giữa các nước, thì nước này diệt nước kia bằng những khí giới lạ lùng, nguy hiểm. Trong một nước thì đoàn thể này chống với đoàn thể kia một cách quyết kiệt chẳng kể mạng người, Chẳng động lòng nhân. Hễ khác đảng phái thì dầu cho anh em , chồng vợ, cha con cũng không dung nữa. Bao nhiêu thâm tình đều xóa bỏ, chỉ nghe mạng lịnh của đảng phái mà thôi. Rốt cuộc mọi người đều phải đau đớn khổ sở vì không biết làm sao mà dung hòa ý, tình, lý của mình với mạng lịnh khắt khe của đòan thể. Không lúc nào con người thấy mình bị một cái ách quá nặng nề như thế !
“ Ba nhà sư nghe tả cảnh tận-thế rùng rợn như vậy thì kinh hồn và chấp tay đồng hỏi :
“ Nếu nhân loại bị loạn lạc như vậy, thì còn có hy vọng gì mà sửa đổi lại, lấy trí dẹp loạn, lấy thái bình trừ chiến tranh chăng ?
“ Tả-quân đáp :
“ Bởi cái thời loạn lạc như vậy , nên loài người khổ sở vô ngần. Những hoạn, những nạn có Quỉ Vương gieo rắc sẽ tràn ngập, làm chết ngợp chúng sanh. Thế mà có người cứu vãn được y như lời quẻ thứ mười hai của Khổng-Minh. Quẻ ấy là :
Chủng họan cứu nạn,
Thị duy Thánh Nhân
Dương phục nhi tri
Hối cực sanh minh.
“ Câu thứ nhứt và câu thứ hai có nghĩa là :
“ Lấy họan mà chữa cái nạn , thì chỉ có Thánh Nhân mới làm được. Còn hai câu sau lại định kỳ hạn mà Thánh Nhân xuất hiện. Hết cái thời ám này, nghĩa là dứt cái Hạ-Ngươn, bắt đầu Thượng-Ngươn khác thì dương trở lại, chuyện ấy sẽ rõ. Ấy là hết tối tới sáng vậy. Lời sấm rõ lắm rồi. Nay dứt Hạ-Ngươn Thánh Nhân là Xích Tử ra đời, đổi đời mới, lập thiên hạ lại.
“ Ba nhà sư cũng hỏi :
“ Còn “chủng hoạn cứu nạn” là làm sao ?
“ Cái đó là việc riêng của Xích Tử, là sự nghiệp của người, ta không có phép lo trước. Thiên cơ bất khả lậu !
“ Rồi Tả-Quân nói tiếp :
“ Còn như quẻ thứ mười ba :
Hiền bất di dã
Thiên hạ nhứt gia.
Vô danh vô đức
Quang diện Trung Hoa.
“Là tả cái cảnh thiên hạ đại đồng, mọi người được dùng, không bỏ sót ngoài đồng như thuở Hạ-Ngươn, tất cả thiên hạ sống chung một nhà, yêu thương nhau. Cảnh ấy là thiên đường trên quả địa cầu .”
Ngoài những lý-do Tận –Thế mà ông Hồ-hữu-Tường mượn lời Ngài Tả-Quân để phân giải như đã nói trên, ông Tường còn giải –thuyết lý Tận-Thế về phương diện lý-số và tôn giáo nữa.
“ Về mặt lý số , những nhà lãnh đạo cho phong trào muốn cho tất cả dân chúng tin tưởng vào một ngày mà mọi người phải dọn chỗ, dự bị, ngày mà hết thời âm sang thời dương , hết thời tối tới thời sáng sủa, hết thời khổ não tới thời hạnh phúc, hết thời lọan lạc tới thời thanh bình, hết thời tủi nhục tới thời vinh quang. Họ là những nhà lý số, dựa theo những thuyết của các nhà triết học đời Tống như Thiệu-nghiên-Phu, mà định rằng cái ngày vinh quang ấy ở vào thế hệ của chúng ta.
“ Thời về mặt tôn giáo, học thuyết của sư tổ Huệ Năng cũng đồng một dự đóan như vậy. Phật Di-Lặc xuống thế độ trần cũng vào khoảng này. Và đến như Gia Tô giáo, ngày tận thế hai ngàn năm sau Jésus giáng sanh cũng hiệp với tiên tri của phái lý số.
“Mấy triệu người theo Lão học, tin vào phép dưỡng sinh. Mấy trăm triệu người theo Nho giáo, mấy trăm triệu người theo Gia Tô giáo đồng một tin tưởng. Kẻ theo khoa học, dầu có hoài nghi cũng không cưỡng lại một trào lưu ngày càng mãnh liệt và đến lúc, nghiêng về một phía.”
Đọc đến đoạn này, người ta sẽ thấy rõ mối hoài nghi của ông Tưởng đã vỡ tan khi ông viết :
“ Kẻ theo khoa học, dầu có hoài nghi cũng không cưỡng lại một trào lưu ngày càng mãnh liệt”
Như vậy người ta có thể hiểu thêm rằng dầu ông Tường dùng một lối văn nửa hư, nửa thực để cho người đọc có cảm tưởng rằng ông còn hoài nghi, nhưng thật ra trong thâm tâm, ông vẫn tin ở Sấm Giảng.
Ông tin chắc đến đỗi ông dám quả quyết cho trận đại chiến thứ ba sẽ nổ vào năm 1952.
Đây là một đọan văn, ông Hồ-hữu-Tường nói về trận đại chiến thứ ba :
“ mấy năm mà Ngài gọi là không lâu?
“Nay là cuối 1945. Cái kế-họach đánh cuội của tôi vạch ra đó ít lắm bốn năm mới xong. Nghĩa là đến gần hết năm 1949 thì Tưởng-giới –Thạch mới nhượng hoàn toàn cho đảng Cộng, thì còn mấy năm nữa đâu ?
“ Mà mấy năm chớ ?
“ Thì ba năm, đến năm 1952, ắt có chiến tranh thứ ba. Xứ tôi ai mà chẳng biết. Ông Trạng-Trình có để lại lời Sấm.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ động đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân dậu niên lai kiến thái bình.
“ Bài Sấm này không phải chỉ chiến tranh thứ nhì sao ?
“Lầm ! Lầm to ! cuộc chiến tranh thứ nhì hoặc kể là khởi ở Tàu, nơi vụ Lư cầu Kiều là năm 1937 tức là năm Đinh Sửu, hoặc kể là khởi ở Châu Âu là năm 1939 tức là năm Kỷ Mão chớ nào phải năm Thìn đâu mà gọi là Long vĩ , năm rồng, cuối năm Thìn ?
“ Vã lại lời Sấm là bàn về cuộc chiến tranh thứ hai có ăn thua gì mà làm Sấm chi cho mất công ? Mà câu “ Mã đề dương cước” đâu có ứng ? Bởi anh hùng không có tận mà ?
“ Vậy theo Ngài thì cuộc chiến tranh thứ ba ra làm sao?
-
Nếu tôi đoán không lầm thì khoản 17 ngàn năm nữa sẽ đến lúc Mạt Nhật , tức là Mặt Trời không còn chiếu sáng nữa . Chúng ta phải di cư đến thiên hà mới , muốn vậy phải tìm cho ra nguyên tố mới để có khả năng di chuyển vược qua vận tốc ánh sáng . Khi đó ai mà sống được thì sẽ sống , còn ai không sống được thì cũng đành chịu thôi , vì không ai chịu tin là có Ngày Tận Thế cả ,đến lúc một mai thức giậy , không còn mặt trời đâu mới hoảng loạn ...A Di Đà Phật !
-
Chiến tranh thứ ba sẽ nổ ra ,nhưng việt nam ta sẽ nằm ngoài cuộc chiến này , a di đà phật thật là may mắn . Song chuyện này cũng rất khó đoán trước được , vì nó nằm giữa Âm và Dương , không sao tính ra cho đúng...song với tình hình hiện tại , căng thẳng giữa Nga và Mỹ đang xảy ra , không biết sao nữa...
-
Sắp tận thế chưa hả bác?Để em còn bán ruộng bán trâu để ăn chơi cho đỡ phí!
-
tui cũng đang lo đây , chưa có vợ con gì hết hu hu .
-
Chưa vợ con tha hồ ma tu, có vợ vào rồi nửa đêm đang niệm Phật mà con nó khóc là đầu óc nó quay cuồng ngay, chưa kể ngồi thiền mà vợ nó cứ khều khều gọi anh ơi vào đi ngủ nữa thì gian nan lắm lắm.
-
Giải thích trận Đại Hồng Thủy và Thiên-hỏa
Đây chúng ta thử nghe ông Tường giải thích về Đại Hồng Thủy.
Ông Tường cho rằng từ trước đến nay chưa có trận chiến tranh nào mà sự tàn sát lớn lao bằng trận đại chiến thứ ba, bởi vì kỳ chiến tranh lần này, bao nhiêu phát minh về nguyên tử đều được đem ra phụng sự cho việc sát hại. Chính võ khí nguyên tử ấy sẽ gây ra bao nhiêu tai nạn cho loài người như làm cho quả địa cầu phải ngập lụt, làm cho nhân loại phải cháy thiêu.
Trước hết ông Tường cho rằng thế nào trận Đại chiến thứ ba cũng nổ ra giữa Nga và Mỹ. Nhưng khu vực chiến đấu là khu vực nào ?
“ Bây giời chú thử tính lại xem con đường nào là đường chiến lược của cuộc giao-phong của đôi bên ? Ta sắp hai giả thuyết. Một là Nga lấn thế mà công kích. Hai là Mỹ thừa sức mà tràn tới.
“ Nếu Nga muốn công kích Mỹ hay là Mỹ đánh Nga thì con đường gần hơn hết là con đường hàng không vòng trên bắc cực. Thế là các nước ở nửa trên sẽ bị dội bom, bom thường, bom nguyên tử, bom vi trùng mà bị tàn phá cả.
“ Anh nói như vậy rõ lắm ! Tôi thấy bên Tân-thế-giới thì Gia-nã Đại, Hiệp-chủng-quốc, còn bên Cựu thế-giới thì cả Âu-châu, Tây-bá-lợi-Á, Nhựt Bổn và miền Bắc Nước Tàu sẽ bị tàn phá không thua gì một cuộc tận thế.
“ Còn nếu Lục quân của Nga muốn tấn công Mỹ thì phải noi theo ba đường.
“ Con đường phía Tây là phải tràn qua nước Đức, nước Pháp, nước Y-pha-Nho, Bắc phi để tiến tới Tây-phi và Nam-phi, vì hai chỗ này sang qua Nam Mỹ gần hơn để rồi đó đánh lên Bắc Mỹ.
“ Con đường phía Đông là từ Tây-bá-lợi-Á đánh tan Nhựt Bổn để đổ sang A-lát-Ka, rồi đánh sang Gia-nã-đại và Huê-kỳ :
“ Con đường phía Nam là tấn công Ấn-Độ rồi từ đó đánh sang qua Úc-châu để sang qua Nam-Mỹ nữa.
“ Và con đường chiến lược của Mỹ cũng chỉ là ba con đường ấy mà thôi.”
Sau khi vạch rõ khu chiến đấu của Nga và Mỹ ông Hồ-hữu-Tường không ngần ngại mà nói đến cách hành quân của đôi bên.
Theo ông thì “ con đường tấn công gần hơn hết bằng phi cơ, bằng bom nguyên tử là xuyên qua Bắc cực và Nam-cực. Thì tất nhiên chiến trường là hai chỗ ấy, Nga thì bọc phía Bắc cực, Mỹ thì lo Nam mỹ, còn Anh thì lo Nam-Phi. Vậy cuộc chiến tranh nguyên tử tàn khốc sẽ diễn ở Nam cực và Bắc cực, mỗi bên toan phá hủy căn cứ của đối phương.
“ Mỗi bên sẽ ném nhiều bom nguyên tử mà không hạn chế được… Sức nóng của bom nguyên tử làm nước đá kia chảy ra, sôi lên thành hơi nước nóng và có một trận lụt khổng lồ, một trận lụt nước sôi từ Nam cực và Bắc cực tràn về miền Xích-đạo.
“ Người ta muốn làm gì để ngăn trận lụt nước sôi do nước đá ở Bắc cực và Nam cực chảy ra mà sôi sùn sục ấy cũng không được, bởi sức nổ chuyền của nguyên tử chạy cũng không kịp nữa.”
Nếu đó chẳng phải là trận Đại Hồng-thủy, chớ còn gì nữa, mà là trận Đại Hồng-thủy bằng nước sôi. Nếu vậy thì nhân loại bị tiêu diệt hết sao? Hay có phương gì tránh nạn lụt nước sôi ấy?
Ông Tường cho biết rằng: “ Ở Nam Mỹ châu và Bắc Mỹ Châu, người ta giành nhau mà chạy đến cái eo đất nhỏ xíu ở giữa . Nội cái đứng không cũng đủ chật đất rồi, còn chỗ đâu mà cày cấy có lúa mà ăn? Tránh nạn phỏng nước sôi thì cũng bị nạn đói .
“ Còn ở Âu-châu thì hết đường mà chạy. Ở trên tràn xuống thì bị Địa-trung-hải chận lại, tàu đâu mà chở cho hết. Và chở đem đi đâu bây giờ? Ở Phi-châu thì phía Nam dồn lên lại đụng sa mạc Sahara. Tránh nước sôi lại bị khát nước. Ở Bắc-phi thì chạy xuống đụng Sahara vậy.
“ Còn ở Nga thì chạy đâu ? Chạy qua xứ Á-rập, sa mạc, chỉ chạy sang Ấn-độ, xứ Ấn-độ không đủ mễ cốc nuôi dân, nay lại thêm người nữa làm sao mà sống nổi.
“ Còn dưới kia, Úc-châu sẽ bị nạn lụt nước sôi tràn tới, không còn đường chạy, vì nó là một hòn đảo.
“ Chung qui lại, chỉ có vùng Đông Nam Á châu của chúng ta là Miến-điện, Xiêm-la, Việt-nam, miền Nam nước Tàu là thoát được cái nạn lụt khổng lồ ấy.”
Ngoài nạn lụt ông Tường còn cho biết cái nạn lửa cháy rực Trời mà Sấm-Giảng gọi là Thiên Hỏa. Ông Tường nói rằng : “Cuộc chiến tranh thứ ba sẽ là một cuộc chiến tranh nguyên tử. Mà cái lợi hại của nguyên-tử-lực không phải là mấy quả bom như kỳ rồi đã nói ở Nhật Bản đâu. Sự hại của nó là sức nổ chuyền. Một nguyên tử này nổ ra, phát điện tử bắn vào nguyên tử kế đó, thì nguyên tử này nổ luôn theo rồi chuyền như vậy mãi ra và tràn lan vô cùng tận. nhiệt độ phát ra không thể tưởng tượng được.”
Nhưng rất may, nạn Thiên-hỏa ấy cũng như nạn lụt nước sôi không tràn đến miền Xích Đạo. Nhờ đó mà nước Việt Nam được an toàn, dẫn đạo các nước trong thời kỳ Thượng Ngươn.
Giải thích về Thượng-Ngươn và Xã-hội Tân Xuân-Thu.
Ông Hồ-hữu-Tường cho biết rằng : “ Cuối trận chiến tranh thứ ba hầu khắp quả địa cầu đều bị tàn phá. Các đô thị lớn đã biến thành những đống gạch ngói ngổn ngang bắn ra những tia quang tuyến của nguyên tử lực cho đến cỏ cũng không mọc được. Đó là kết quả của nguyên tử. Đâu đâu, đầy xác chết bốc ra muôn ngàn loại vi trùng. Thành thị thì như thế. Còn thôn quê thì chỉ còn có một thứ cỏ dại mới khởi sự mọc le the, bởi cái lẽ dễ hiểu rằng: khi làn nước sôi tràn lụt qua một lượt, thì cỏ cây thảy chết sạch, hột giống thảy luộc chín tất cả. Loài người cũng chết sạch. Có ai sống sót khỏi nạn nước sôi cũng bị nạn đói, bởi còn gì đâu mà ăn? Riêng có vùng nhiệt đới thì cỏ cây còn thạnh mậu, các giống mễ cốc hãy còn sót lại. Nhưng ở nơi khác từ mấy năm, người chết gần hết, ai mà trồng trọt, nên phần đông đã trở nên hoang vu.”
Chính nhờ ở vào vị trí của miền Xích-đạo mà nước Việt-Nam cũng như Miến-điện, Xiêm-la và miền Nam nước Tàu “ thoát được cái nạn tàn phá của trận lụt khổng lồ ấy. Lại là xứ sản xuất rất nhiều lúa ăn. Có bà con tản cư đến thêm gấp đôi dân số, nghĩa là đến hai trăm triệu người cũng có thể nuôi được”.
Vốn là một khu “phi chiến”, cho nên nước Việt-Nam sau này sẽ “bất chiến tự nhiên thành” đúng như Sấm Trạng-Trình đã tiên tri, mà ông Hồ-Hữu-Tường ví sự “ bất chiến tự nhiên thành” ấy như miếng võ thuật “Hầu tử xuất động”. Nước Việt Nam yếu ớt cũng như con khỉ trong hang không làm gì chống lại nổi với cọp, beo, lang, gấu, rắn, thế mà biết len lỏi, chờ cho các nước mạnh như cọp, beo, lang, gấu kia choảng nhau cho đến sụm hết, đúng với lời Sấm “ Mã đề dương cước anh hùng tận”, rồi xuất động thì làm gì chẳng làm chúa.
Đó là nhờ vị trí “phi chiến” của nó mà sau này nó trở nên một nước dẫn đầu thế giới.
Nếu thế thì nước Việt-Nam chẳng có gì tốt đẹp, vẫn giữ cái cảnh tượng điêu tàn cỏ khô đồng cháy, hoang vu như thế sao?
Ông Tường cũng tin rằng thế-giới sẽ bước qua thời kỳ Thượng Ngươn, nghĩa là vô cùng tốt đẹp, khí hậu ôn hòa như trong Sấm Giảng đã nói. Nhưng làm thế nào thế giới biến hình, thay đổi khí hậu và trở nên một xã hội Tân Xuân-Thu nghĩa là trong một năm chỉ có hai mùa ấm và mát?
Sự biến đổi ấy, ông Tường cũng qui cho kết quả của bom nguyên tử mà ra.
Ông Tường giải thích như thế này: bom nguyên tử mà Nga và Mỹ đem ra dùng sau này sẽ còn mãnh liệt gấp trăm , ngàn lần thứ bom nguyên tử đã dội xuống nước Nhựt. Sức nổ của nó, nếu không làm núi tan đất vỡ thì cũng làm quả địa cầu, vì chịu không nổi mà xê dịch vị trí khác. Nó sẽ từ vị trí hiện hữu mà xê dịch qua một vị trí khác. Do sự xê dịch ấy, quả địa cầu ở vào một vị trí một năm chỉ có hai mùa : Xuân và Thu, khí trời quanh năm rất ấm áp mát mẻ, còn ban đêm thì luôn luôn có mặt trăng mọc, sang cả đêm này qua đêm khác, không hề sai chạy. Cái thế giới đó, ông Tường gọi là thế giới Xuân Thu.
Đã đổi vị trí như thế, đã thay đổi mùa tiết ngày đêm như thế, không nói ai cũng biết : chịu ảnh hưởng của khí hậu ôn nhu như thế, từ loài khoáng vật, dến thực vật, cũng như động vật, thế giới sau này sẽ vô cùng đẹp đẽ. Cây cối hẳn tốt tươi, đất đai hẳn thích hợp cho các loài cây quí báu thì con người hẳn cũng đẹp đẽ và thông minh tiến hóa hơn nhiều.
Ông Tường cho rằng cái xã hội sau này sẽ tột bực văn minh, thái bình muôn thưở, con người sẽ tài trí phi thường. Nếu đem sánh với thời kỳ Hạ-Ngươn này thì cách biệt không biết bao xa.
Cứ lấy theo thiên văn học mà xét thì ông Tường thấy rằng: quả địa cầu của chúng tra đương chuyển từ cung con cá qua cung con cừu, trong mười hai Thiên-cung (Zodiaque). Hiện nay chúng ta còn ở trong cung con cá, một cung mà người đời có tâm trạng như con cá, hễ gặp nhau là đá, cắn nhau. Bởi thế, ở vào thời kỳ này, nhơn loại xô đẩy nhau vào con đường chiến tranh không dứt, tương tàn tương sát . Cung con cá biểu thị thời kỳ Hạ-Ngươn. Trái lại, cung con cừu biểu thị thời kỳ Thượng Ngươn, một thời kỳ con người thông minh tiến hóa cao siêu nhứt trong các thời kỳ. Ông Tường gọi là thời kỳ của hạng minh triết. Chẳng những con người trí hóa thông minh mà xã hội lại thạnh trị dân chúng đâu đâu cũng an cư lạc nghiệp. Các nước rất tương thân tương ái cho nên thế giới trải qua một thời kỳ thái bình cả muôn năm, giống như đời Nghiêu-Thuấn.
Đó là cả quan niệm của ông Hồ-hữu-Tường về vấn đề Tận-Thế và sự xây dựng cõi đời Thượng Nguơn mà ông gọi là xã hội Xuân Thu, quan niệm dựa theo khoa học để giải thích Sấm-Giảng.
Như chúng tôi đã nói : ông Tường vì vướng phải chủ nghĩa hoài nghi mà ông mãi tắc tị, không tiến đến đâu.
Ông Tường nói rằng : Sau trận giặc thứ ba các nước ở miền tiếp cận với Bắc-cực và Nam-cực đều bị nạn lụt nước sôi và sự nổ chuyền của bom nguyên tử mà tiêu tàn, đến cây cỏ cũng không mọc.
Trong tình trạng hoang-vu như thế, nước Việt Nam nhờ ở khu-vực phi chiến mà tồn tại, phỏng làm gì với nhân lực mà xây dựng cõi đời Thượng Ngươn?
Nếu thế thì cõi Thượng Ngươn cũng vẫn là cõi thế-giới cũ-kỹ này thì lấy gì phân biệt Thượng Ngươn với Hạ-Ngươn. Còn mong rằng bom nguyên tử nổ sẽ làm xê-dịch vị trí của quả địa cầu và nhờ đổi vị trí ấy mà thế giới sau này sẽ đổi mùa tiết, nhưng lỡ như sức nổ chuyền của bom nguyên tử không hãm lại được, nó cứ nổ chuyền mãi, phỏng quả địa cầu có bị cháy thiêu, loài người có bị chết luộc vì nạn lụt nước sôi chăng?
Nhưng thật ra Tận Thế có đúng như các nhà khoa học, bác học đã nghiên cứu không?
-
CHƯƠNG THỨ BẢY
TỔNG LUẬN
------------------
NÊN HIỂU TẬN THẾ NHƯ THẾ NÀO ?
Đọc qua loạt bài Tận Thế và Hội Long Hoa, tưởng cũng nên định nghĩa rõ Tận Thế là thế nào ?
Có tôn giáo nêu lên vấn đề Tận Thế với ý-nghĩa là tiêu diệt thế giới của loài người. Quả địa-cầu này sẽ mất luôn, nghĩa là loài người chung số phận tận-diệt thì làm gì phải lo Tận-Thế với không Tận Thế chớ ! Nếu biết rằng sắp có Tận-Thế với với ý nghĩa là loài người tiêu-diệt thì cần gì phải lo nghĩ, mà chẳng phung phí cho sướng thân.
Cái luận điệu này chúng ta thường thấy nhiều người nêu lên để cho rằng : tôn giáo đưa ra vấn đề Tận Thế có ý làm cho người đời sợ sự trừng phạt mà nghe theo các giáo điều. Cái nghĩa Tận-Thế ấy trái hẳn với luật tuần hoàn của vũ-trụ.
Ngoài luận điệu ấy , chúng ta còn thấy luận điệu của các nhà chiêm tinh học và các nhà khoa học tính tuổi trái đất nêu ra bao nhiêu kết quả của cuộc tìm tòi và tính toán cho rằng nào là mặt trời còn mấy triệu năm nữa mới nguội, ảnh hưởng của nó sẽ làm cho quả địa cầu nguội theo mà tắt hẳn đi ; nào là quả địa cầu ngày một khô lần, vì nước một ngày một thấm vào trong ruột trái đất như thuyết của ông Martel; nào là mặt đất ngày một thấp dần vì thời tiết làm hao mòn núi non đất cát, nước mưa đem xuống biển, do các nguồn sông rạch, khối đất hao mòn ấy lấp dần đáy biển làm cho nước biển một ngày kia sẽ nhận chìm những phần đất của dân cư; nào là cái trục của quả địa cầu một ngày một nghiệng dần, làm cho sức quay của nó một ngày một chậm đi, rồi đến một ngày kia nó sẽ trút đổ v..v..
Những luận điệu vừa kể cũng đồng hiểu Tận-Thế là một cuộc tiêu diệt của quả địa cầu.
Nhưng thật ra danh từ Tận-Thế nêu ra trong quyển sách này có đồng một ý-nghĩa tiêu diệt quả địa cầu, tiêu diệt loài người không?
Mặc dầu danh từ Tận Thế được nhắc đến luôn nhưng khi đọc qua Sấm-Giảng, ai cũng nhận thấy rằng : thời kỳ Hạ-Ngươn sắp chấm dứt để bước sang thời kỳ Thượng Ngươn. Như thế Tận-Thế có nghĩa là chấm dứt một thế hệ này để bước sang một thế hệ khác đúng theo cái nhịp tuần hoàn của vũ-trụ. Nhưng khổ nổi, lần đổi đời này của thời kỳ Hạ-Ngươn , nó không được êm thắm như lần đổi đời của thời-kỳ Trung-Ngươn qua thời kỳ Hạ-Ngươn. Vì đó là những cuộc đổi đời thuận chiều.
Còn lần đổi đời này của thời kỳ Hạ-Ngươn trở lại thời kỳ Thượng-Ngươn, từ cái thật xấu trở lại cái thật tốt bởi nó không thuận chiều cho nên nó phải đau đớn. Nhơn loại vì đó mà phải điêu linh trong cuộc lừa lọc quá khắt khe của luật đào thải : tốt còn xấu mất. đó là một cuộc lừa lọc, một cuộc đổi đời, chớ không phải là một cuộc tiêu diệt.
Mà làm gì có sự tiêu diệt quả địa cầu trong thời kỳ này. Nếu xét theo thuyết của nhà Phật thì không thể đặt ra vấn đề Tận-Thế. Nếu nói Tận-Thế, tức nhiên là có sáng thế, mà như thế là không đúng luật vũ-trụ vô thủy vô chung của nhà Phật.
Thế giới sở dĩ được thành lập là do tạo nghiệp, do tâm niệm vọng động của chúng sinh, cũng như nhà ngục sở dĩ có là vì người đời còn phạm tội. Chỉ khi nào không còn tội nhân thì mới không có nhà ngục, cũng như khi nào chúng sanh không tạo nghiệp, tâm niệm không vọng động thì mới không có thế giới này. Có thể chúng sanh hết tạo nghiệp chăng? Nói tỷ dụ như chúng sanh đều đoạn cái gốc luân hồi, dứt được cái tâm vọng động đi nữa, thì thế giới chẳng vì đó mà bị hủy hoại đi, hay không thành lập?
Tại sao vậy?
Cứ theo thuyết nhà Phật thì trong vũ trụ có tam-giới : cõi Dục-giới, cõi Sắc-giới và cõi Vô-sắc-giới. Quả địa cầu của chúng ta ở là một thế giới trong cõi Dục giới là cõi còn các điều dục lạc như : ăn, uống, ngủ, thức, trai, gái. Còn cõi Sắc-giới tuy đã ly được những điều dục vọng nhưng còn có đủ sắc thân. Đến như cõi Vô-sắc-giới thì không còn sắc thân nữa mà chỉ còn tâm thức.
Nếu chúng sanh còn trong vòng luân hồi thì không sao tránh khỏi luật thăng trầm do nghiệp lực gây ra. Bởi có luật thăng trầm cho nên trong lúc có người được sạch nghiệp vượt lên thì cũng có chúng sanh vì nghiệp lực mà giáng xuống. Thế cho nên dầu cho chúng sanh ở cõi đời này mà được vượt lên hết đi nữa thì cũng chẳng vì đấy phá tan tam-giới được. Chắc gì trong lúc ấy chẳng có chúng sanh ở cõi Sắc-giới trở xuống cõi Dục giới. Huống chi theo luật tiến hóa còn bao nhiêu chúng sanh ở cõi thấp kém hơn cõi đời này chẳng có lúc vượt lên thế giới này.
Cái luật tuần hoàn còn thì chưa có thể hiểu theo các nhà chiêm tinh học hay khoa học tính tuổi trái đất kia rằng Tận-Thế có nghĩa là hủy diệt quả địa cầu.
Đây là một cuộc đổi đời đúng theo lý tam-ngươn.
Có người nhắc chuyện lại rằng : lúc Đức-Huỳnh Giáo-chủ dưỡng bệnh ở nhà thương Chợ-quán, một hôm bác sĩ Trần-văn-Tâm cai quản bệnh-viện ấy đến hỏi Ngài về ý-nghĩa của hai tiếng Tận Thế trong các Sấm-Giảng thì Ngài đáp rằng: ông hãy tìm quyển sách nói về trận sụp đất Atlantic mà đọc. Trận sụp đổ tới đây sẽ giống như trận sụp đất ấy.
Như thế thì danh từ Tận-Thế không có nghĩa là một sự hủy diệt quả địa cầu mà chỉ là một cuộc thay đổi địa hình như kỳ sụp đất Atlantic.
Nhưng thế giới Atlantic thế nào và sự sụp đổ của nó ra sao?
Tận-Thế sẽ giống lần sụp đất Atlantic.
Khảo cứu về Atlantic, trên thế giới hiện nay, có thể chia ra làm hai phái: một phái gồm những nhà ngữ-ngôn học và cổ vật học, muốn tìm lại đất Atlantic như nhà triết học Platon đã tả là một cù-lao trước kia nằm giữa khoảng Phi-châu và Mỹ-châu, trong biển Đại-tây-dương ngày nay, sau một trận Đại-Hồng-Thủy , hòn đảo ấy sụp đổ không còn dấu vết ; còn một phái gồm những nhà địa-chất học, nhân-loại học và tiền-sử học, phái này hiện nay rất đông, muốn tìm đất Atlantic là thế giới nguyên thủy đã di-lưu một giống dân văn minh.
Cái thuyết nhận rằng Atlantic là một nền văn minh tối cổ đã tàn tạ sau trận Đại Hồng-thủy, được các giới bác học ngày nay nhìn nhận, nhưng tìm để hiểu cái xã hội tàn tạ ấy thế nào thì mỗi người đưa ra một giả thuyết không giống nhau. Nhà địa-chất học thì dựa theo sự khai quật của mình mà chấp lấy luận thuyết của mình là đúng, nhà nhân loại học thì dựa theo sự nghiên-cứu của mình mà cho rằng lý-thuyết của mình là hơn.
Ông A. Bessmertny trong quyển “ L’Atlantic” khi khảo qua các giả thuyết về Atlantic, đã nhận rằng : “ Nếu có thể kiểm diểm mọi lý-thuyết về Atlantic nói về sự phân liệt của địa cầu, người ta sẽ thấy một quan niệm này thay thế một quan niệm khác, một quan niệm rất cũ kỹ được lặp lại với những tài liệu khác nữa, và như thế, bức tranh toàn diện sẽ luôn luôn trở thành hỗn tạp”.
Như thế thì với những phương pháp mò-mẫm từ cuộc khám phá này đến cuộc khám phá khác của những nhà địa chất học, nhân loại học..v..v không tìm thấy lại những xã hội, những thế giới có trước tiền sử. Mà dầu có tìm được chăng nữa cũng chỉ tìm được một đôi phần tài liệu, chớ không thể xây dựng lại những xã hội nguyên thủy đúng với toàn diện của nó.
Trong lúc cuộc nghiên cứu mò-mẫm chưa đi đến đâu , thì có một phái người phát giác một cách đầy đủ thế giới Atlantic, không bằng phương pháp mò mẫm mà bằng phương pháp trực giác , nghĩa là dùng tâm linh soi tỏ lại những việc quá khứ. Với phương pháp này , người ta có thể hồi ức lại nguồn gốc bất diệt của quá khứ và thấy rõ những điểm mà người thời nay không thể hiểu nổi.
Cái phương pháp trực giác này, theo nhà Phật, không phải là khó hiểu. Cái năng khiếu trực giác ấy không chỉ khác hơn Túc-mạng thông trong Lục thông của nhà Phật. Kẻ tu hành, đắc đến quả A-La-Hán đều chứng được Lục-thông. Túc-mạng-thông là một năng khiếu thấy rõ lại các tiền kiếp .
Ai có đọc truyện Tiền-thân của Phật Thích-Ca cũng nhận thấy khi Ngài đắc đạo rồi, nghĩa là mở Lục-thông, Ngài kể lại chẳng những tiền kiếp của Ngài mà còn bao nhiêu quốc độ trong Tam-thiên , Đại-thiên thế giới. Ngày nay những người có huệ cũng có cái năng khiếu mà người Âu-Tây gọi là trực giác đó. Ai có đến hầu chuyện người có huệ, thử đem chuyện cổ kim ra hỏi, mới thấy chổ kỳ-diệu là người phát huệ ấy vốn là kẻ không học, nhưng đối đáp một cách thông minh lạ thường, thông hiểu cả việc quá khứ vị lai. Tuy gọi rằng huệ chớ kỳ thật là đã mở Túc-mạng-thông.
Ông Rudolf Steiner đã dùng năng khiếu trực-giác ấy mà thuật lại thế-giới Atlantic. Theo ông, sở dĩ người thời nay không còn hiểu gì về thế-giới thần tiên của đất Atlantic , là vì “khi thế giới này sụp đổ thì khí trời rất dày đặt ở thời kỳ Atlantic, trải qua một cuộc thay đổi”. Đến lúc đó thì cuộc đời thần tiên trước kia tan dần và thế giời chói rọi của dân Atlantic chỉ còn lưu lại trong ý thức của người ở thời kỳ Trung-Ngươn một ký-ức mang máng của thời đại hoàng-kim.
Cứ theo phái trực-giác, thì Atlantic là một thế-giới cực kỳ văn minh, vì trận Đại Hồng thủy xảy ra trước đây 20.000 năm, mà sụp đổ. Dân ở thời kỳ đó rất mực thông minh, có một ký-ức rất phát triển, nhờ đó mà làm chủ được điều mà người đời gọi là sinh-lực. Cũng như thời nay, chúng ta dùng than đá tạo ra sức động cơ, dân Atlantic dùng sức sinh nở của vạn vật mà giúp vào kỹ-thuật của mình.
Ông Steiner cho biết rằng tiền-bối của giống dân Atlantic là giống dân xứ Lemurie, một thế giới ở phía Nam Á-châu hiện nay, đã sụp đổ từ lâu. Một phần ít giống dân ấy còn sót lại xây dựng thế-giới Atlantic. Và đến lượt giống dân này, một phần lớn tàn tạ, còn một phần ít được di-lưu lập thành giống dân Aryens ngày nay. Ông Steiner cho rằng giống dân Lemurie, Atlantic và Aryens là những giống dân nguyên thủy của nhân loại.
Ba giống dân này hiệp với hai giống dân xưa nữa và hai giống dân hậu-duệ của giống dân Aryens, lập thành bảy giống dân chánh của nhân loại.
Cứ theo ông Steiner thì giống dân Atlantic có những quyền lực trong lời nói mà người thời nay không có thể có. Lời nói của họ có năng lực như các câu chú, có thể làm cho cây cối nảy nở hay thú dữ phải phục tùng..v..v…
Cái thời đại hoàng kim của thế giới Atlantic ấy bị sụp đổ sau một trận Đại Hồng-thủy.
Theo ông Frenzold Schmidt thì đã có bốn lần đại tai xảy ra : lần đói kém xảy ra khắp mặt địa-cầu, 70.000 năm trước Tây-lịch ; lần sụp đổ Tháp Babel 50.000 năm ; lần Thiên hỏa 35.000 năm ; lần Đại Hồng-thủy 20.000 năm trước Tây lịch, chính lần Hồng thủy này nhận chìm đất Atlantic.
Lần đại biến sắp tới đây sẽ giống lần sụp đổ Atlantic. Nhưng nó sẽ diễn ra cách nào ?
-
Tận-Thế và hội Long-Hoa xảy ra như thế nào?
Ông Thanh-Sĩ có viết:
Tận-Thế bằng cách nào?
Đó là một cuộc lọc lựa lớn lao và kỳ diệu của Đức Ngọc-Đế mà với trí phàm con người khó thể nghĩ bàn được vì nó sẽ làm thay đổi được tất cả vạn vật một cách mầu nhiệm và chớp nhoáng. Sau một cuộc lỡ đất long trời tối tăm mù mịt, người đứng cách nhau trong gan tấc không thấy, tiếng cây ngã đá xiêu quên nghe và có những lời than khóc kêu cứu thảm thiết mà không ai làm sao đỡ-gạc được cho nhau được. Trong lúc đó hốt nhiên những cái cũ-kỹ, những cái trái ngược đạo-lý, những cái đảo lộn nhân-tâm và những điều không được tương-ứng với cơ tạo-hóa bên trong cũng như bên ngoài con người thảy thảy đều bị tận-diệt hết tất cả.
Về bên ngòai của con người:
- Những loại thuộc về khóang-vật như dao, kiếm, súng ống, bom đạn,v…v
- Những loại thuộc về thực-vật như cây có gai, cây có chất hôi, chất độc và cây vô-dụng vô-ích v..v..
- Những lọai thuộc về động-vật như rắn, rít, sói, lang, heo, gấu, trâu, bò, mèo, chó,v..v.. ( 1 )
Nói tóm lại các loại bên ngoài con người bất kỳ thứ nào, dù khoáng-vật, thực-vật hay động-vật cũng vậy, hễ là loại không có ích cho thời đó về sự mát mẻ cũng như về sự cần dùng mà ngược lại còn làm tổn hại con người thì bị tiêu diệt ngay
Về bên trong của con người:
Nhứt thiết về ngôn ngữ, tư-tưởng, và hành động bất công bất chánh, không đạo không đức đê tiện xấu xa, càn-ngang thô lỗ..v...v mà con người đã có từ trước đến giờ đều bị tiêu diệt ngay trong lúc biến thiên ấy.
Tại sao ? Vì kẻ đã có những bẩm-tánh và hành vi tồi tệ chắc chắn không được tồn tại ; trái lại người được tồn tại trong thời đó nhứt định không có những chỗ xấu xa kia.
Tại sao Đức Ngọc-Đế có quyền tiêu-diệt được cả vạn vật ở quả địa cầu này? Vẫn được và càng được nhiều hơn nữa trong thời kì mạt-pháp này bởi lẽ Ngài là một vị cầm cán một cơ quan chưởng-quản cả vạn vật ở cõi ngũ-trược ác thế này nên chi lúc nào Ngài cũng có quyền chiếu theo công-lý của luật nhân quả báo-ứng mà thưởng phạt vạn vật ở thế gian. Đây chẳng khác nào một cuộc trừng-thanh của một chính phủ.
Tuy nhiên, trước khi đem ra trừng trị vạn vật mà nhất là người về những tội lỗi hung hăng, giảo quyệt thì Đức Ngọc Đế cùng Đức Phật đồng ý cho các vị Thinh-Văn, Duyên-Giác, La-Hán, Bồ-Tát và các bậc thần, tiên gấp rút lâm phàm cùng một khẩu hiệu cùng một giáo pháp ( song có nhiều thể thức khác nhau, ấy là tùy theo căn cơ và địa vực ) để dạy dỗ kêu réo những người có thiện căn, có âm đức mau mau hồi đầu thức tỉnh lánh giữ về lành hầu có nhờ sự ủng hộ của các đấng Tiên, Phật, Thánh, Thần để tránh khỏi cơ tận diệt tới đây. Đồng thời, các vì thiên liêng ấy cho người đời biết trước Hội Long Hoa sẽ mở tại thế gian ở miền Nam nước Việt
Hội Long Hoa như thế nào?
Long Hoa là một hội chọn lựa những phần tử ưu tú có đạo đức chân chánh, có hiếu hạnh đầy đủ, có trung nghĩa vẹn toàn, nói tóm lại là những người tâm tánh trong sạch, hiền lương để lập lại cõi đời an lạc công bằng ở thời kỳ Thượng-Nguơn.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
( 1 ) : Sở dĩ không có lọai trâu bò là vì đến thời Thượng-Nguơn khỏi cày cấy ngòai đổng tự nhiên có lúa mọc sẵng, mỗi khi đến kì lúa chính thì nó tự lăn vào nhà khỏi cần phải gạt hái. Còn không có chó mèo bởi trong nhà không có chuột bọ và không có trộm cắp.
Trong khoảng kế cận Hội Long Hoa, tất cả loài người, loài vật cho đến thảo mộc côn trùng trên thế gian đều ở trong cảnh giết hại, tàn phá và đau đớn hơn hết là con người đua nhau nồi da xáo thịt gây nên nạn đói đau thê thảm.
Đến ngày Hội Long Hoa sẽ có nhiều việc nhiệm màu không thể tưởng tượng được, nào là hai phái Tà Giáo và Chánh Giáo đua nhau trổ tài đấu phép làm kinh thiên động địa, nào là lòai người và loài thú sát hại nhau làm thần sầu quỹ khóc. Trong cảnh ấy, 2 phái Chánh-Giáo và Tà-Giáo xô nhau đến cảnh giết chóc xương chồng tợ núi, máu chảy thành sông mà chung quy phái Chánh-Giáo được trọn thắng, nhờ bí pháp của Đức Phật phù trợ. Còn những loại thú dữ do phép màu của Thần Tiên hoá hiện để sát phạt loài người có lòng ác độc, tuy mang lốp người mà chẳng chút giống người , chỉ biết thu danh trục lợi ích kỷ tổn nhân, nói tóm lại là lòng của họ như thú vật nên bị thú vật giết hại đúng theo phản lực nhân quả. Sau khi trừ xong những hạn ác nhân thì các vị thần tiên thâu phép mầu lại và các lọai thú dữ không còn nữa.
Đến đây là lúc các vị Tiên, Phật, Thánh, Thần đồng giáng phàm để tùy theo nhân duyên mà cứu độ nghĩa là người có duyên với Phật thì được Phật rước về cõi Phật, có duyên với Tiên thì được Tiên rước về cõi Tiên còn những người vào bảng Phong-Thần thì làm Thần, những người kém đức hạnh hơn mấy hạng nói trên thì ở lại làm dân hoặc làm quan phò Chúa Thánh.
Có một điểu lạ nhứt là phần nhiều và có thể nói là gần hết các vị cựu thần trung-quân-ái-quốc của Việt Nam từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần trở lại đều tái kiếp.
Trong cảnh tà chánh phân-tranh nhân vật cấu xé đó, Đức Di-Lặc ra đời lập Hội Long Hoa có cả chúng sanh của ba ngàn thế-giới tham thính như Thình-Văn, Duyên-Giác, La-Hán, Bồ-Tát, chư Tiên, chư Thần, Trời, người, rồng, hổ, điểu,…đều xoanh quanh bửu tòa của Ngài để nghe những lời vi-diệu nhiệm-mầu chưa từng có . Ngài sẽ thống nhứt tất cả kinh luật lại làm một khiến cho tất cả chúng sanh không còn sự tranh-chấp câu-nệ đạo này chánh đạo kia. Ngài là vị thứ năm trong năm vị Phật hiền-kiếp. Vào thời-kỳ mạt-pháp này đến lượt Ngài ra đời kế truyền chánh pháp của Đức Thích-Ca bởi sau khi Đức Thích-Ca diệt-độ đến nay đã hơn 2500 năm ( 2515 năm theo Phật-lịch ), lời di-giáo bị sai lạc tinh-lý vị bị truyền qua dịch lại nhiều lần. Cũng nhờ Ngài mà nhân lọai sẽ được một thế giới trang-nghiêm, thanh -lịch, an lạc, phi-thường. Đường đi như lót cẩm thạch, cỏ tơ nệm bông. Người đẹp như Tiên, không làm có ăn, không may có mặc, cư xử nhau rất nên hiền-hòa lịch-sự. Với cái mỹ lệ ấy, con ngừơi lại có cái đặc biệt là không cánh mà bay, sống lâu muôn tuổi, tri-hóa thông minh một cách dị thường. Vì phần nhiều người thượng-cổ tái-kiếp nên phong-tục tập-quán được giữ gìn nghiêm-minh liêm-khiết.
Đây là nói ngay ở xứ Việt Nam. Sở dĩ nước Việt Nam được cái diễm-phúc như nói trên là bởi các vị vua chúa cho đến quan dân Việt Nam vào đời Đinh, Lê, Lý, Trần trở lại đây phần nhiều đều qui-ngưỡng về Phật-Giáo và Nho-Đạo một cách thâm-khiết. Trong đó có một vị vua có phát-nguyện sau khi thành đạo sẽ trở lại chủ trì nền đạo và phong tục Việt Nam. Nhờ công-quả và công-đức ấy mới khiến thay đỗi được địa vị của nước Việt Nam vậy.
Còn nước Việt Nam sẽ trở thành địa điểm trung-ương của đời Thượng-Nguơn là vì tuần tự theo định luật tuần hòan của cơ tạo-hóa.
Long- Kiến, ngày 20-10-52
Tận Thế lần này là một cuộc đại tiến hóa
Cứ theo lý Tam-ngươn thì luật tuần hoàn của vũ-trụ ( vũ trụ theo nghĩa không gian và thời gian) không bao giờ dứt..
Cứ từ Thượng-Ngươn chuyển sang xuống Trung-Ngươn , và từ Trung-Ngươn chuyển xuống Hạ-Ngươn là một cuộc tuần-hoàn theo chiều thối –hóa. Còn từ Hạ-ngươn chuyển lên Thượng –Ngươn , nghiã là từ cõi đời thật xấu chuyển lên cõi đời thật tốt, là cuộc tuần hoàn theo chiều tiến hóa. Chúng ta ở vào thời kỳ chuyển biến từ Hạ-Ngươn sang Thương-Ngươn tức là ở vào thời kỳ chuyển biến tiến hóa.
Cuộc Tận-Thế hay đúng ra là cuộc chuyển biến lần này là một cuộc đại-tiến-hóa chẳng những cho quả địa-cầu mà cho cả vạn vật, chúng sanh, tiếng chúng sanh gồm cả phàm lẫn Thánh.
Nói về các đấng siêu –phàm, nhờ lần tiến-hóa này mà được tròn bản nguyện.
Đây chúng tôi xin xét qua một vài đấng siêu –phàm.
Ai có đọc kinh Địa-tạng cũng hiểu rằng Địa-Tạng Bồ-Tát từ thác sanh làm Bà-la –môn nữ và Quảng-Mục nữ trong đời quá khứ có phát ra một lời nguyền hết sức bi-thiết. Ngài nguyện rằng : Tôi từ ngày nay cho đến tột đời vị-lai không biết bao nhiêu kiếp số.Quyết vì những chúng sanh tội khổ ở trong sáu đường mà thi thiết ra nhiều phương tiện, khiến cho giải-thoát được hết, rồi thân tôi đây mới thành Phật-đạo.
Vì bản nguyện bi-thiết ấy mà trải qua hằng-hà sa số kiếp, mặc dầu Địa-Tạng đã chứng quả Bồ Tát, song vì số chúng sanh tội lỗi trong sáu đường chưa giải-thóat hết mà Ngài vẫn ở mãi địa-vị Bồ-Tát chưa thành Phật-Đạo . Ngài thường hóa hiện ở cõi Địa-ngục để giáo-hóa chúng sanh, và cũng nhờ nguyện-lực hoằng-thâm của Ngài mà chúng sanh tội lỗi được cứu-độ.
Đến ngày Hội Long-Hoa khai mở để lập lên cõi đời Thượng-Nguơn . Địa-Tạng Bồ-Tát sẽ được thỏa-mãn bản nguyện mà thành Phật-đạo.
Vì sao? Là vì Hội Long-Hoa là một Đại-hội hiệp cả ba cõi : cõi Trời, cõi người và cõi đất tức là cõi âm, để công đồng thưởng phạt. Những vì ở cõi Trời như các vị Bồ-Tát, La-Hán, Duyên-Giác , Thinh-Văn cùng các vị Thiên-Long, Bát –Bộ sẽ qui tụ xung quanh bửu tòa của Phật Di-Lặc, cũng nu chúng sanh ở cõi âm và cõi dương đều hội nhau ở đó để chịu sự phán-quyết lần cuối cùng.
Những người đắc quả lên cõi trên thì được các Ngài ở cõi trên rước, những người chưa đắc quả nhưng không tội lỗi thì ở lại lập đời Thượng-Nguơn, còn nhứt thiết chúng sanh tội lỗi thì đều phải chịu tiêu-diệt. Như thế là cõi Địa-Ngục đã được xóa bỏ, đường tội lỗi không còn ai, thì tất nhiên là bản-nguyện của Địa-Tạng Bồ-Tát đã mãn. Ngài sẽ thành Phật-Đạo.
Cũng như Đức Di-Lặc đã đắt quả Bồ-Tát, bấy lâu vẫn ngự ở cung Trời Đâu-Suất, ngày Hội Long-Hoa mở ra. Ngài sẽ ngồi dưới cội cây Long-Hoa mà đắc quả Như-Lai, hòan thành bản-nguyện của Ngài là tạo lập một quốc-độ vô cùng trang-nghiêm giải-thóat bao nhiêu sự khổ não cho người đời như sự ăn, mặc, ở nhứt là về phương-diên sanh-sống, con người ở thời kỳ Thượng-Nguơn sẽ được giải-thoát một phần lớn, nhờ ở khí-hậu điều-hòa tốt đẹp, nhờ ở đất đai thích hợp cho sự nảy nở của mễ cốc, tự-nhiên mọc lên khỏi cần cày cấy.
Đó là chỉ đơn cử có 2 vị Bồ-Tát đã thõa-mãn bản-nguyện trong cuộc tạo lập thời-kỳ Thượng-Nguơn, chớ ngòai ra còn nào là các vị từ-bục Thinh-Văn, Duyên-Giác cho đến bực La-Hán đã tạo công-đức trong thời-kỳ Hạ-Nguơn này cũng đều được tăng quả vị.
Đó là chưa nói đến chúng sanh trong cõi đời này, đã đàng những chúng sanh tội lỗi phải tiêu-diệt chớ thật ra là thối-hóa. Những chúng sanh ấy vì không còn thích-hợp với đời Thượng-Nguơn phải sa đọa họăc vào một thế-giới thấp hơn nào tương-ứng với trình độ tội lỗi của họ hoặc phải làm cây cỏ trong thời kỳ Thượng-Nguơn, ngưng trệ sự tiến hóa trong mấy chục ngàn năm, chờ chừng đến một ngày kia cõi đời trở nên thích-hợp với trình độ tiến-hóa của họ thì họ sẽ tái-kiếp. Nhưng ngoài hạng người thối-hóa ấy, hầu hết là được tiến-hóa. Người đắc quả về cõi trên thì được rước đi đã đành, mà những người dầu không đắc quả, còn ở lại cõi đời Thượng-Nguơn, cũng sẽ được bao nhiêu cơ hội thuận tiện giúp cho họ tiến-hóa một cách nhau chóng.
Thử đem cõi đời Hạ-Nguơn so sánh với cõi đời Thượng-Nguơn thì đủ thấy người ở cõi Hạ-Nguơn này thiếu điều-kiện để tu cho đắc quả bằng người ở cõi đời Thượng-Nguơn.
Ở cõi đời cơ cực như thế này, ngày nào cũng bao khổ tâm khô trí với miếng ăn, phải làm lụng cày cấy cực nhọc mới có lúa mà ăn thì dầu có muốn tu hành cũng không được nhàn rảnh mà sớm kệ chiều kinh.
Chí như ngừơi ở cõi đời Thượng-Nguơn thì về miếng ăn họ khỏi cần lo : ngoài đồng lúa mọc sẳn lại khi lúa chín tự nó lăn vào nhà : như thế họ rãnh tâm trí mà tu niệm. Chẳng những thế họ được sống gần các vị Tiên Phật, ngày ngày thấy Tiên Phật trước mắt lại còn được Phật Di-Lạc mở trường thuyết-pháp hóa độ dìu dắt cho. Nhờ đó mà họ tiến-hóa rất mau tu hành sớm đắc quả.
Như thế , đủ thấy rằng lần Tận-Thế kỳ này để lập lên cõi đời Thượng-Ngươn là một cuộc đại tiến hóa của chúng sanh. Và cõi đời Thượng-Ngươn sẽ là một nấc thang tiến hóa giúp cho người ở thời đó bước lên quả vị Tiên-Phật.
-
Chắc chắn thấy Phật Tiên thừa hạc lâm phàm.
Có thể nào thấy Phật Tiên Thần Thánh thừa hạc xuống trần ?
Ở thời kỳ Hạ-Ngươn này mà đòi cho thấy được Phật Tiên Thần Thánh thừa hạc lâm phàm, hay thấy được tận mắt mới tin, thì chẳng khác mấy nhà khoa học đòi đi lên cung trăng hay các hành tinh vậy,
Có thể thực hiện những điều đòi hỏi ấy ở cõi đời ác trược này chăng ?
Không có thể được , mà cũng có thể được.
Tại sao không thể được ?
Là vì các đấng thiêng liêng kia ở cõi Thượng giới, còn cõi đời của chúng ta là cõi hạ-giới, cách nhau hai mươi mấy từng Trời, mỗi giới thích hợp cho mỗi thể chất thì làm gì người ở cõi thượng thanh kia có thể xuống cõi hạ trược này với nguyên thể được chớ.
Cứ theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm thì từ cõi Dục-giới trở lên cõi Vô-sắc-giới có 28 từng Trời, mỗi từng thích ứng cho mỗi từng chúng sanh.
Chúng sanh nào toàn về phần tưởng thì nhẹ nhàng bay lên, nên khi chết sanh lên cõi Trời. Bằng tình ít tưởng nhiều thì thể nhẹ cất chẳng được cao lắm, tức làm hàng Tiên.
Bằng tình và tưởng cân nhau thì chẳng bay lên sa xuống, tức là đầu sanh trong cõi người. Cũng bởi có nửa tưởng, nên « tưởng » thuộc về sáng mà thông minh, cũng bởi có nửa tình, nên « tình » thuộc về tối mà ngu độn. Nếu tình nhiều tưởng ít thì trôi tấp vào lòai hoành sanh, nặng thì làm thứ có lông, nhẹ thì làm nòi có cánh. Bằng bảy phần tình, ba phần tưởng thì chìm xuống thủy luân, rồi sanh nơi hỏa-tế là chổ thủy hỏa giáp nhau, mà thọ khí lửa dữ, làm thân ngạ quỉ thường bị lửa thiêu đốt. Còn chín phần tình , một phần tưởng thì chìm dưới suốt thấu hỏa luân, thân bị sa vào chỗ gió lửa, hai thứ giao thông, nhẹ thì sanh nơi Địa-ngục Hữu-gián, nặng thì sanh nơi Địa-ngục Vô-gián. Đến như toàn về phần tình tức là phải xuống tới A-tỳ Địa-ngục.
Như thế đủ thấy ở mỗi cõi chỉ thích hợp cho mỗi loài chúng sanh, khác nhau ở chỗ tình, tưởng nhiều ít mà thôi.
Trong quyển Đại-thừa Chơn-giáo cũng thấy có đoạn nói về sự sai biệt của linh hồn ở các cõi như thế này :
« Linh hồn của con từ cõi Bồng-Lai Tiên-Cảnh hoặc Cực-Lạc Niết-Bàn mà muốn đầu thai xuống cõi hạ-giới này là cõi thứ 7 thì đã phải trải qua 6 cõi hư-linh ở thượng tầng không khí, mà mỗi khi trầm xuống cõi hư-linh thì linh hồn phải chịu dưới quyền cấu tạo của tạo hóa chi cơ, nghĩa là phải thọ bẩm thần khí ở cõi hư linh đó mà bao bọc thêm ra ngoài một lớp thể chất nữa, mà hễ càng trầm xuống xa chừng nào thì lại càng nặng nề thêm chừng nấy. Khi trầm xuống đến cõi Dục-giới này lại còn phải mang thêm một xác thân phàm tục đủ điều... »
Để hiểu hai đoạn vừa dẫn ở kinh Thủ Lăng-Nghiêm và Đại-thừa Chơn-giáo, chúng tôi xin đưa ra một tỷ dụ cụ thể.
Những nhà hải-dương học, khi khảo sát những loài động vật ở sâu tám chín ngàn thước dưới đáy biển Thái-Bình dương và Đại-Tây dương, có gặp một giống cá kỳ-quái, hai mắt sáng như đèn, muốn đem lên mặt nước để khảo nghiệm. Nhưng khi vừa đưa nó lên tới mặt nước thì nó nổ tan. Điều đó đủ chỉ rằng loại cá ấy chỉ thích hợp với áp lực nước dưới đáy biển chớ không như loài cá quen sống gần mặt nước, bởi thế khi đem nó lêm mặt nước, vì chịu không nổi áp-lực ở từng trên, nên chi nó phải nổ.
Điều nhận xét này cho ta thấy rằng : ở cõi trọng-trược này mà muốn thấy tận mắt Phật Tiên Thần Thánh ở cõi thượng thanh kia, thì chẳng khác nào loài cá ở tám, chín ngàn thước sâu dưới đáy biển mà muốn đưa lên mặt nước vậy. Muốn cho loài cá ấy lên mặt nước mà còn sống thì ít ra thể chất của nó phải giống thể chất của loại cá ở mặt nước, có đủ các bộ phận thích ứng với hoàn cảnh sống ở mặt nước.
Đến như người phàm tục mà muốn thấy tận mắt Phật Tiên cũng thế ; hoặc người phàm phải có thể chất nhẹ nhàng như Phật Tiên, nghiã là « tưởng » nhiều, « tình » ít, hoặc hoàn cảnh cõi trần trược này biến-thể để thích ứng cho Phật Tiên hóa-hiện.
Đến khi đó thì người trần sẽ thấy được Phật Tiên tại thế. Và ngày đó là ngày sấm nổ, ngày mở Đại-Hội Long-Hoa. Tiếng sấm nổ có hiệu lực làm thay đổi hẳn hoàn cảnh cuả quả địa cầu, làm biến chất ngũ-hành.
Điều này không có chi là khó hiểu. Ông Rudolf Steiner khi khảo sát về đất Atlantic, nhận thấy rằng ở thời kỳ Atlantic lớp không khí bao bọc quả địa cầu rất dày đặc hơn thời nay, còn trái lại chất nước thì loãng hơn. Như thế đủ chứng rằng trận Đại-Hồng-Thủy làm sụp đổ đất Atlantic , đã làm cho ngũ-hành biến chất. Sau này khi tiếng sấm nổ làm thay đổi địa hình, ngũ-hành cũng biến chất đi, tạo nên một hoàn cảnh thích hợp cho Phật Tiên giáng thế.
Nhưng đến lúc đó, chẳng phải người nào cũng có thể thấy được, vì muốn thấy được Phật Tiên tận mắt, ít nhất thể chất phải phù-hạp với hoàn cảnh ấy thì mới sống được.
Trong quyển Đại-thừa Chơn-giáo có đoạn giải rằng :
« Một ngày kia,những con nào biết đạo đức, ăn chay lạt, thân thể nhẹ nhàng hiệp với khí Tiên-thiên thì lúc dương sanh mói có thể chịu nổi với khí ấy mà còn vững vàng sống đặng ; còn những con vô Đạo bị cả khí Hậu-thiên nên tới ngày âm tuyệt dương sanh ấy, chúng nó sẽ không bao giờ hứng chịu nổi khí chơn-dương, nên phải đứt hơi lìa mạng. »
Ông Thanh-Sĩ cũng nhận rằng : « Nhứt thiết về ngôn-ngữ, tư-tưởng và hành động bất công, bất chánh, không đạo không đức, đê tiện xấu xa, càn ngang thô lỗ..v..v.. mà con người đã có từ trước đến giờ đều bị tiêu diệt ngay trong lúc biến thiên ấy. »
Như thế đủ thấy rằng muốn thấy được Phật Tiên, phải là người có thể chất phù hạp với hoàn cảnh Phật Tiên. Chớ dưng không mà đòi cho thấy được Phật Tiên mới tin thì không khác bầy tôi ở triều vua Tự-Đức không tin lời điều trần của các sứ-thần Việt-Nam đi Pháp về. Ai có đọc lịch sử Việt-Nam cận-đại hẳn còn nhớ vua Tự-đức có gởi phái-đoàn qua Pháp để điều đình. Khi trở về ông Phạm-phú-Thứ cũng như ông Phan-thanh-Giản có làm tờ điều trần kể rỏ về sự văn minh , kỹ-xảo của người Âu-Tây, như cho biết ở xứ người xe không kéo mà chạy, thuyền không chèo mà đi, đèn đốt trở ngọn xuống mà cháy..v..v..rồi yêu cầu nhà vua hãy sớm liệu gởi du-học-sanh ra xứ ngoài. Ngoài ra có ông Nguyễn-trường-Tộ có thảo ra 18 tờ điều trần cũng nói về văn minh cơ xảo Âu-Tây và yêu cầu cho học-sanh xuất dương, nhưng bầy tôi của vua Tự-Đức không tin, cho đó là đặt điều nói dóc. Đến chừng họ tin được, thấy tận mắt xe không kéo mà chạy, thuyền không chèo mà đi, đèn trở ngọn xuống mà cháy..v..v..thì ô hô ! nước Việt-Nam đã mất.
Trước cơ tận diệt hầu kề và Hội Long-Hoa sắp mở chúng sanh liệu thế nào ?
Từ Cơ Đốc giáo trải qua Phật-giáo, Cao-Đài giáo, phái Phật-Thầy Tây-An, Phật-giáo Hòa-Hảo, cho đến nhiều dị nhân ra đời gần đây đều cho biết cơ tận diệt đã gần và HỘi Long-Hoa sẽ mở. Vậy đối với lời cảnh-thế của Phật Tiên, chúng sanh phải liệu cách nào ?
Như chúng ta đã biết ; vì người đời cứ mãi dấn thân trên con đường tội lỗi, nên chi Đức Ngọc-Đế định xử tiêu. Nhưng trước khi phán quyết lần cuối cùng, Ngài đồng ý với Đức phật cho các vị Thánh, Tiên lâm phàm kêu gọi chúng sanh hướng thiện quày đầu một lần chót. Từ cơ bút của cao-Đài giáo cũng như Sấm Giảng của phái Phật-thầy Tây-An và Phật-giáo Hòa-Hảo, đều gấp rút dạy bảo chúng sanh tu sao cho kịp kỳ Đại-Hội Long-Hoa.
Cái mục đích là đạt đến Hội Long-Hoa để rồi qua thời kỳ Thượng-Ngươn có đủ cơ hội thuận tiện, như được Phật Di-Lặc mở trường phổ hóa mà tu cho đắc chánh quả. Đã là thời kỳ gấp rút thì không thể tu với những pháp môn xa vời để đắc ngay quả Phật, Bồ Tát hay La-Hán được, mà phải tu tắt, tu để được sống còn trong ngày Hội Long-Hoa.
Đây chúng tôi xin đưa ra một tỷ dụ dễ hiểu :
Ai cũng biết bất cứ pháp môn tu hành nào cũng để đạt đến cứu cánh là đáo bỉ-ngạn, nghĩa là đến bờ bên kia, bờ của Cực-lạc Niết-Bàn hay Thiên-đàng Tiên-Cảnh. Con đường từ bờ bên này đến bờ bên kia là một cái đại dương to lớn. Như thế muốn đi đến bờ bên kia , phải đóng những thuyền lớn, tất nhiên phải nhiều công phu. Về phương diện tu hành phải dày công tu luyện.
Nhưng trong lúc gia công đóng một chiếc thuyền cho lớn mà chưa xong thì có người cho biết là sắp có trận bão to, lụt lớn, mà ngoài đại dương kia có một đảo giúp cho người ta núp được trận bảo lụt ấy, lại rất dễ là ai ai cũng có thể đi đến được với một chiếc xuồng con, thuyền nhỏ chẳng mất nhiều công kiến tạo. Vậy thì người đời có nên gấp rút dóng một chiếc thuyền nhỏ, xuồng con để ra đảo ẩn nấp bảo lụt, rồi sau sẽ đóng chiếc thuyền có thể đi thẳng đến bỉ ngạn, hay là cứ ngồi đó lui-cui lo đóng chiếc thuyền cho thật lớn mà không rồi để bị trận bão lụt nhận chìm lôi cuốn mất ?
Cái ý-nghĩa câu tỷ-dụ này cũng giống ý-nghĩa của các đấng siêu-phàm cho ta biết về cơ tận diệt và Hội Long-Hoa. Cơ tận-diệt ví như trận bão-lụt còn hội Long-Hoa ví như hòn đảo kia để ẩn nấp cơn giông tố.
Có hiểu như thế, chún ta mới hiểu tại đâu các đấng siêu phàm không bảo chúng sanh đóng những chiếc thuyền to mà chỉ bảo đóng những chiếc xuồng con hay thuyền nhỏ, nghĩa là pháp môn tu tắt, cốt làm sao đạt đến Hội Long-Hoa ?
Nhưng thế nào gọi là pháp môn tu tắt ?
Sở dĩ người đời gây quá nhiều tội lỗi là vì người đời cứ mãi làm ác. Nay muốn cứu vớt họ chì có cách là làm sao cho họ bỏ ác về lành trước đã. Đó là điều căn-bản, bất cứ đạo giáo nào cũng dạy như thế, Phật làm bài kệ rằng :
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành ;
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật-giáo.
Nghĩa là :
Điều ác đừng làm,
Điều lành gồm làm,
Tự lắng lấy lòng.
Phật dạy như thế.
Nhưng thế nào gọi là làm lành ? Nếu không phải là hành nhân-đạo là mối đạo mà đạo giáo nào cũng khuyên làm tròn trước nhất. Nếu không thế, sao lại có câu : Dục tu Tiên-đạo, tiên tu nhân đạo ; nhân đạo bất tu, Tiên-đạo viễn hỹ ; nghĩa là : Muốn tu Tiên-đạo, trước phải tu nhân đạo, nhân đạo, nhân đạo mà không tu thì Tiên-đạo nó đi xa vậy.
Đồng với lý này, Đức Huỳnh Giáo-chủ có viết :
Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần.
Hay là :
Tu đền nợ thế cho rồi,
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.
Như thế đủ hiểu rằng : muốn tu cho thành Phật Tiên chi chi, cũng phải tu cho rồi cái đạo làm người trước đã. Có xem tiền kiếp của Phật Thích Ca mới thấy trước khi đạt đến quả Phật. Ngài đã trải qua baonhiêu kiếp hành tròn nhân-đạo.
Trong truyện Lụcgiả Tiên tung có kể lại rằng : có người lên núi tìm chơn-sư để học đạo, nhưng khi gặp chơn-sư thì ngài không tiếp nhận mà bảo phải trở xuống trần lập cho có công đức rồi trở lên ngài mới truyền giáo cho. Như thế cũng nhận cái lý phải tu nhân0đạo trước. Trong truyện Hứa-Sử cũng dạy như vậy.
Nhưng đạo làm người gồm những gì ? Đức Phật Thầy Tây-An cũng đồng với Phật mà nhận rằng : đạo làm người có bốn cái ân lớn cần phải làm tròn là :
1 ) Ân Tổ-tiên cha mẹ
2 ) Ân đất nước.
3 ) Ân tam-bảo (Phật, Pháp, Tăng)
4 ) Ân đồng bào và nhân lọai ( với kẻ xuất gia thì ân đàn-na thí chủ).
Nếu bốn cái ân này mà làm không tròn thì khó mà tu cho tròn Phật-đạo. Nói thế không thể hiểu nên trọng phần nhân-đạo mà bỏ phần Phật-đạo ; mà nên hiểu rằng : đồng thời tu Phật-đạo, phải làm tròn nhân-đạo, nghĩa là cùng với tu huệ phải có tu phước.
Pháp-môn mà Đức Phật-Thầy Tây-An dạy tu tắt để đi đến Hội Long-Hoa là như thế, nghĩa là pháp môn : học Phật, tu nhân. Nhưng đừng vội tưởng pháp-môn ấy chẳng thu hoạch được kết quả. Bằng chứng cụ thể là đã có nhiều môn-đệ của Phật-Thầy đắc quả và phát huệ-tâm. Như trường hợp của ông Thanh-Sĩ là một và còn bao nhiêu người mà chúng tôi chưa tiện giới-thiệu ra đây.
Sở dĩ chúng tôi phải nói đến pháp-môn của Phật-Thầy là để đáp lại các bạn đã hỏi : Phải làm thế nào khi biết cơ tận-diệt hầu kề và Hội Long-Hoa sắp mở ?
Nhưng những điều chúng tôi đã dẫn ra, chỉ là trong muôn một pháp-môn của Đức Phật Thầy mà ở đây chúng tôi không thể nói nhiều hơn nữa.
Để giúp quí bạn có một ý-niệm tổng quát về Tận-Thế và Hội Long-Hoa, chúng tôi trích ra đây hai bài thơ khoán thủ của ông Thanh-Sĩ :
Ngày tháng trôi qua tợ bóng câu
Giờ ân trên định chẳng còn lâu.
Tận đời vạn cảnh lâm tràng mộng.
Thế diệt thiên bang cuộc bể dâu.
Chập chững nhân-gian nhiều ách nước,
Chờn vờn thế giới lắm oan sầu.
Bên kia bên nọ tranh vô địch,
Lưng lửng rồi thôi chẳng đến đâu.
*
* *
Tóm thâu ý nghĩa một ngày gần,
Tắc diệt cựu phàm lập Thánh tân.
Long hội Thần Tiên qui tư-bộ,
Hoa trì Phât Thánh thống tam-ngươn.
Ông Trời biến cải màu thiên-hạ,
Bà Đất chuyển luân sắc-thế trần.
Để biết huyền-vi cơ báo ứng.
Ý phàm hướng thiện rõ chơn-nhơn.
Viết xong ngày 10 – 11 - 1952
-
Đến đây là kết thúc quyển sách.
Xin gởi đến mọi người để tham khảo thêm về Tận Thế.
-
Cảm ơn người post rất nhiều .Quyển sách này đã tiết lộ thiên cơ rất nhiều !!!