-
Mật Tông Việt Nam
MẬT TÔNG VIỆT NAM
Tại Việt Nam , sau các triều Đinh , Lê , Lý , Trần không có ai đắc truyền về Mật Giáo , nên không có sư đệ tương truyền . Năm 1928 cụ Khánh Hòa có thỉnh ba tạng kinh của Trung Hoa , Nhật Bản đem về VN ; cho mải đến năm 1970 , không có ai dịch phần Mật Giáo trong Đại Tạng , hoặc có dịch cũng rải rác không đáng kể . Các chùa VN vào lúc 4 giờ sáng , cũng có trì tụng khóa bản của Mật Giáo như Đại Bi và Thập Chú , và trong các thời kinh sáng , trưa , tối , các sư ở VN cũng như ở Nhật Bản đều có trì tụng kinh Đại Bi , để khởi đầu các thời kinh . Chú Đại Bi được rút ra trong Thiên Thủ Thiên Nhản Đại Bi Tâm Đà La Ni , là một bản kinh chú lớn của Mật Giáo , đả được mọi tín đồ Phật Tử tại VN biết đến và trì tụng . Dù thế , khi được hỏi về tông phái Mật Giáo , các Phật tử gần như không biết đến , Nhưng lạ hơn thế , chính ngay các Thầy cũng ít người hiểu rỏ ; nên đôi khi lại có những thành kiến sai lầm về Mất Giáo rất tai hại , mặc dù vẩn trì tụng Thần Chú Mật Giáo mổi ngày .
Thỉnh thoảng có một số Sư , Tăng tu tập Mật Pháp , nhưng đều có tính cách ai xem nấy thực hành ; không được sự tương truyền từ các bậc quán đảnh đạo sư ; thế nhưng vì tâm đạo bền vững , đạo hạnh trong sáng , nguyện lực độ tha tương ứng với Chư Phật và Bồ Tác , nên cũng đã đạt được các thần lực bí nhiệm của Mật Giáo từ Chư Tôn bên trên gia trì và làm hiển lộ được các sự kỳ bí thần thông để cảm hóa ngưười thế . Các vị nầy đã xứng đáng thọ hưởng pháp lạc cho riêng mình , nhưng vì thiếu sự tương truyền nên không thể ban phép quán đảnh cho đệ tử . Do đó , Mật Giáo tại VN vẩn giử mải tính cách bí truyền , mà người thọ nhận vẩn là một số ít người được chọn lọc .
Ngày xưa , tại VN có một số vị tu tập Mật Pháp , có vị thế quan trọng ở VN , được nhiều người biết đến như sau :
- Thượng Tọa Thích Viên Đức được Hòa Thượng Vạn Ân và Từ Thạnh ở Phú Yên trao truyền Ấn Khế Bí Mật ; ngài đả tu tập và đạt được thần lực đáng kể , về việc trị các bệnh tim nan y bằng linh phù và các việc kỳ bí khác . Có thể nói Thượng Toạ Thích Viên Đức đả có công dịch thuật và hoằng hóa các bản kinh Mật Giáo , thuộc phần Mật Bộ của bộ Đại Tạng kinh Trung Hoa . Việc học tập Mật Giáo bắt đầu hưng thịnh , do việc mạnh dạn phổ biến các bản kinh của Mật Tông bằng tiếng Việt . Thượng Tọa Thích Viên Đức đả dịch thuật một số kinh Mật Giáo sau đây : Kinh Hiển Mật Viên Thông , Kinh Chuẩn Đề Đà La ni , Kinh Đại Thừa Bảo Trang Nghiêm Vương , Kinh Mạt Pháp Nhất Tự Đà La Ni , Kinh Đại Bảo Quản Bát Lầu Các Thiên Trụ Bí Mật Đà La Ni , Kinh Bảo Nhiếp Ấn Đà La Ni , Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng và một số bản kinh quan trọng khác ; nhất là quyển Đông Mật gồm nội dung của hơn khoảng trăm bản kinh của Mật Giáo . Thật sự về phần giáo pháp , Thượ́ng Toạ Thích Viên Đức đã góp công đức rất nhiều về mặt giáo điển Mật Tông cho người VN ; tuy nhiên vì thiếu chân truyền đặc biệt về phép quán đảnh , nên Mật Giáo chỉ được hưng thịnh về phần giáo tướng , còn về phần sự tướng , thì Thượng Toạ cũng không thể truyền bá được , dù ngài đã đạt được những thần lực đáng kể .
- Hòa Thượng Thích Phổ Ứng , tại Linh Quang Tịnh Xá ở đường Nguyễn Khoái Khánh Hội , hằng ngày Ông đả chửa trị công khai cho những người bị bệnh tà và đã thi triển được nhiều sự kỳ bí trước mặt cać Phật Tử ; tuy nhiên Ông không có ý hướng hoằng truyền bí pháp , cả về sự tướng lẩn giáo tướng , có lẻ Ông xem Mật Giáo là một pháp môn khó tu tập và chỉ dành riêng cho những người xuất gia và đả được tuyển chọn đặc biệt để Mật Truyền mà thôi .
- Thượng Toạ Thích Thiền Tâm , người hoằng truyền pháp môn Tịnh Độ , Ông đả kiêm trì Mật Giáo và đạt được những thần lực đáng kể ; Ông cũng đả dịch được một số kinh Mật Giáo và đem ra hoằng hóa , nhưng Ông không thực hiện được các phần quán đảnh vì thiếu sự chân truyền .
Gần đây , phong trào tu tập Mật Giáo tại Việt Nam dần dần được khơi động trở lại và được nhiều người nhiệt tâm tìm cầu biết đến ; nhờ sự dịch thuật và hoằng hóa kinh điển Mật Giáo của các Sư Tăng Ni Phật Giáo và Cư Sỉ tại gia có tinh thần khai phóng và tinh tấn khai thị , đã giúp cho các hành giả muốn tu tập Mật Tông có nhiều cơ hội tham khảo và tu học , nên sự hiểu lầm và xuyên tạc về Mật tông dần dần được thông suốt và tỏ ngộ , cộng thêm sự khai thông về khoa học tin học của hệ thống Internet đả giúp không ít cho giới tu học Mật Tông tại VN , thu thập được nhiều lợi ích trong việc tu tập và học hỏi . Đương nhiên , sự Mật Truyền Mật Pháp của Mật Giáo vẩn còn có giảng dạy bí mật trong những giới nội môn của các môn phái Đại Thừa và Tiểu Thừa của Phật Giáo tại VN , cũng như các cư sỉ Mật Giáo tại gia .
Vì VN chưa có tạo duyên cho các vị sư Mật Tông Tây Tạng , Mật Tông Trung Hoa , Mật Tông Đài Loan , Mật Tông Thái Lan …..về VN giảng dạy và truyền pháp cùng quán đảnh cho các hành giả tại VN , nên việc tu học chỉ đạt được sự tiến bộ chậm chạp …..
Mật Giáo Việt nam tại hải ngoại :
Sau năm 1975 , do chiến tranh nhiều người Việt Nam đã ra hải ngoại , sau hơn ba mươi năm , giới tu học Mật Tông đả có nhiều cơ hội gặp gở và được sự quán đảnh của nhiều vị Sư Mật Giáo Tây Tạng , Trung Hoa , Thái Lan …….nên đã có nhiều thành tích đáng kể , cộng thêm đả có nhiều kinh điển , sách vở về sự tướng lẩn giáo tướng được dịch thuật sang tiếng Việt ; nhiều trung tâm Mật Giáo Việt Nam được xây dựng và hoằng hóa Mật Giáo cho người Việt tại hải ngoại ; nhờ thế giới tu học Mật Tông Việt Nam tại hải ngoại có nhiều cơ hội tu học dể dàng …..
Khoảng thập niên 90 , tại Mỹ , có Hội Ái Hữu Mật Giáo , đoàn Mật Giáo Virgina – 3628 Annadale rd - Annadale VA 22003 ; Mật Giáo Colorado – 917S . Ventura St – Aurora , CO 80017 , do cư sỉ Triệu Phước , pháp danh Bửu Sơn , pháp hiệu Đức Quý thành lập ; Hội nầy ấn hành các bản kinh như : Mật Tông Phật Giáo Tinh Hoa Yếu Lược - Mật Tông Phật Giáo Tinh Hoa quyển trung - Tông Phật Giáo Tinh Hoa quyển thượng – Phật Giáo Thánh Kinh – Kinh Chuẩn đề Đà La Ni Hội Thích – Tập San Mật Giáo …….
Cư Sỉ Đức Quý đả được các vị sau đây truyền giao ấn khế và y pháp : Thượng Toạ Thích Viên Đức trao truyền ấn khế bí mật và toàn bộ y pháp của Mật Giáo Bắc Tôn ; Tu Sỉ Phạm Công Triệu , trao truyền toàn bộ y pháp của Mật Tông Nam Tôn thuộc mật Giáo Cao Miên ; Ông Sau , tu sỉ mật Giáo Thái Lan trao truyền toàn bộ y pháp của tôn phái Thập Bát La Hán ; Cư Sĩ Đức Quí đả có cơ hội trao đổi ý chỉ về mật Giáo với các nhà tu huyền bí thuộc nhiều tông phái khác nhau : Hòa Thượng Phổ Ứng ở Linh Quang Tịnh Xá Khánh Hội , Thượng Tọa Thích Từ Huệ trưởng đoàn một giáo phái khất sỉ tại Mỹ Tho , các cao đồ của Đức minh Sư Minh Trí , Hội Tịnh Độ cư sỉ VN như : Tu sỉ Như Pháp , Sư Cậu Hai thuộc Bửu Sơn Kỳ Hương , tại chùa nhà Bàng Thất Sơn Châu Đốc , Đức Tăng Thống Phật giáo Cao Miên tại VN , và nhiều tu sỉ khác như : Ông Ba nước lạnh , Cô Năm Cửu Thiên , Bà năm cây Đa ....
Một số thông tin trích trong sách
Mật Tông tinh hoa yếu lược
do cư sĩ Triệu Phước viết.
-------------------------------------------
Các sách Mật Tông đã được các cư sỉ và Tăng Ni dịch thuật gần đây là :
Cư Sỉ Trần Ngọc Anh , Pháp Danh Như Pháp Quân đã dịch :
- CƠ SỞ MẬT GIÁO TÂY TẠNG – FOUNDATIONS OF TIBETAN MYSTICISM của Lama Anagarika Govinda .
- NGHIÊN CỨU KINH ĐẠI NHẬT của R.Tajima .
- KINH ĐẠI NHẬT THÍCH NGHĨA của Nhất hành Thiền Sư thuật ký .
- Và nhiều sách khác còn được gìn giử trong gia đình người thân của Ông ....
Sách Mật Tông có thể thỉnh tại các chùa sau :
- Chùa Dược Sư , có sách Mật Tông của Thầy Huyền Thanh , 10 quyễn Mật Tông của Thầy Như Cường , đường Lê Quang Định – Sàigòn .
- Chùa Mật Tông Tây Tạng ở Bình Dương
Các chùa có giúp trị bệnh và trừ tà tại VN như :
- Chùa Linh Quang Tịnh Xá , Sư Thích Từ Vinh , đường Nguyễn Khoái , Quận 4 . TP HCM.
- Chùa Khánh Anh , Mỹ Tho , Sư Trụ Trì .
- Chửa Hóc xương cổ họng , liên lạc qua điện thoại : Ông Thầy Đoàn Văn Nhâm , xóm Bắc Sơn , Xã Nhân Thành , Huyện Yên Thánh , tỉnh Nghệ An VN . Điện Thoại : 0383631809 .
- Hội Tâm Linh VN tại Mỹ : Main ARM Centre . 12851 Brookhurst Way . Gardengrove CA.92841 .USA Tel:714-5300550 , mở cửa mổi thứ bảy 3.30 Pm đến 8 Pm .
Xin quý Thầy cùng các bạn cùng bổ xung và điều chỉnh thông tin trên cho phong phú và chính xác cập nhật hóa để giúp đở cho những ai cần giúp để trị bệnh hay tu học theo Mật Tông ....
ÁNH SÁNG - T2 - ÚC CHÂU Kính Bái
-
Về tín ngưỡng cột kinh Phật đỉnh Tôn Thắng ở Thế kỷ X - GS. Hà Văn Tấn
GS. Hà Văn Tấn (*)
đăng ngày 03/09/2006
Năm 1963, ở Hoa Lư, đã phát hiện được một cột kinh Phật do Đinh Liễn, con Đinh Tiên Hoàng, dựng năm 973. Tác giả bài này đã nghiên cứu cột kinh đó(1). Năm 1964, phát hiện được cột kinh thứ hai, tác giả bài này cũng đã nghiên cứu cột kinh này(2). Năm 1978, lại phát hiện thêm 14 cột kinh tương tự ở Hoa Lư. Trên các cột kinh này đều có khắc bài Phật đỉnh Tôn thắng Đà-la-ni (Usnisavijaya dharani).
Đây là bài chú bằng chữ Hán phiên âm tiếng Phạn. 14 cột kinh nói trên đều không còn nguyên vẹn, nhưng xét những dòng chữ còn lại thì thấy các minh văn tương đối giống nhau. Trong đó, có ba cột còn khá nguyên vẹn, có thể đọc được đầy đủ các dòng chữ.
Ba cột kinh này khác hai cột được phát hiện năm 1963-1964 một đoạn quan trọng, cho ta nhiều thông tin sử liệu. Đoạn này nằm ngay sau bài Phật đỉnh Tôn thắng Đà-la-ni nói trên. Đoạn này trên ba cột cũng có những chỗ khác nhau. Tôi gọi bản khắc trên ba cột đó là 3A, 3B và 3C.
Sau đây là nguyên văn đoạn đó mà tôi chép lại từ cột 3A: “Đệ tử Suy thành Thuận Hóa, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đặc tiến Kiểm hiệu Thái sư, thực ấp nhất vạn hộ, Nam Việt vương Đinh Khuông Liễn, sở vi vong đệ Đại đức Đính Noa Tăng Noa bất vi trung hiếu phục sự thượng phụ cập trưởng huynh, khước hành ác tâm, vi bội nhược ái khoan dung, huynh hư trước tạo thứ sở dĩ tổn hại Đại đức Đính Noa Tăng Noa tính mệnh, Yếu thành gia quốc vĩnh bá môn phong. Cổ ngôn tranh quan bất nhượng vị, tiên hạ thủ vi lương, trí dĩ như tư. Kim nguyện tạo bảo tràng nhất bách tọa, tiến bạt vong đệ cập tiên vong hậu một nhất hạ thoát, miễn cánh chấp tụng. Tiên chúc Đại Thắng Minh hoàng đế, vĩnh bá thiên Nam, hằng an bảo vị”.
Dịch nghĩa như sau: Đệ tử là Suy thành Thuận Hóa, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đặc tiến Kiểm hiệu Thái sư, thực ấp một vạn hộ, Nam Việt vương Đinh Khuông Liễn, vì vong đệ là Đại đức Đính Noa Tăng Noa không làm điều trung hiếu, không thờ cha và anh, lại có lòng ác, trái với sự yêu thương và khoan dung, anh không thể bỏ qua, nên đã làm tổn hại đến tính mệnh của Đại đức Đính Noa Tăng Noa, để trọn vẹn tình nhà nghĩa nước. Lời người xưa rằng đã tranh quan thì không nhường, ra tay trước mới là hay, đến nỗi ra tình hình như vậy. Nay nguyện làm 100 cột kinh để cúng cho vong đệ và những hồn ma của người chết trước đây và sau này, cầu cho tất cả giải thoát, không phải tranh giành kiện tụng. Trước hết là chúc cho Đại Thắng Minh hoàng đế, mãi mãi làm chủ trời Nam, giữ yên ngôi báu.
Ở câu cuối cùng, bản 3B chép: “Tiên chúc Đại Thắng Minh hoàng đế, vĩnh trấn thiên Nam, thứ vi khuông tá dĩ đế”. Nghĩa là: Trước chúc cho Đại Thắng Minh hoàng đế, mãi mãi trấn giữ trời Nam, sau nữa là phụ giúp cho cơ đồ hoàng đế. Còn bản 3C thì chép: “Tiên chúc Đại thắng Minh hoàng đế, vĩnh trấn thiên Nam, thứ vi Khuông Liễn hằng kiên lộc vị”. Nghĩa là: Trước chúc cho Đại Thắng Minh hoàng đế, mãi mãi trấn giữ trời Nam, sau nữa chúc cho Khuông Liễn mãi giữ vững được lộc vị.
Chúng ta biết Đại Thắng Minh hoàng đế là tên hiệu của vua Đinh Tiên Hoàng. Còn Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đặc tiến Kiểm hiệu Thái sư là tước vua Tống ban cho Đinh Liễn năm 973 khi Liễn đi sứ Trung Quốc (xem Tống sử). Theo chức danh trên cột kinh này thì Đinh Liễn còn có thực ấp 1 vạn hộ. Chúng ta đã biết rằng thực ấp là một hình thức ruộng ban cấp vào thời Lý. Như vậy là cột kinh này ta biết thực ấp đã có từ đời Đinh.
Theo ba cột kinh này thì Đinh Khuông Liễn đã làm 100 cột kinh như vậy để cầu cho người em là Đính Noa Tăng Noa đã bị Liễn giết. Người em này, theo sử ta thì được ghi là Hạng Lang. Chúng ta cần chú ý là chữ Đính rất gần với chữ Hạng.
Việc tạo hàng loạt cột kinh khắc Phật đỉnh Tôn thắng Đà-la-ni ở Hoa Lư có liên hệ với tín ngưỡng kinh tràng Phật đỉnh Tôn thắng Đà-la-ni trong Mật giáo Trung Quốc. Mật giáo Trung Quốc phổ biến tín ngưỡng cột kinh Phật đỉnh Tôn thắng vào thế kỉ VIII. Thời kỳ này, Phật giáo Trung Quốc đã trải qua giai đoạn Trì Minh giáo (Vidya-yana), bước vào giai đoạn Chân Ngôn giáo (Mantra-yana) với sự phổ biến của kinh Đại Nhật Như Lai và bắt đầu hình thành Mật tông với các Tổ như Thiện Vô Uý (Subhakarasimha), Kim Cương Trí (Vajrabodhi), Bất Không (Amoghavajra).
Trong thời kì này, Phật đỉnh là một loại Phật của Mật giáo bắt đầu được thờ phụng như Đại Phật đỉnh, Phật đỉnh luân vương, Kim luân Phật đỉnh, Xí Thịnh Quang Phật đỉnh. Về tiếu tượng cũng có tượng Phật đỉnh, đó là tượng ngồi Kiết già trên tòa sen, tay trái kết ấn Thiền định, tay phải kết ấn Hàng ma. Các bài kinh và thần chú liên quan đến Phật đỉnh Phật cũng được phiên dịch, tạo thành một loại hành trì gọi là Phật đỉnh pháp.
Trong các kinh về Phật đỉnh thì kinh Phật đỉnh Tôn thắng là đặc biệt quan trọng. Kinh Phật đỉnh Tôn thắng được Phật - đà - ba - lợi (Buddhapala) đem vào Trung Quốc và được dịch năm 687 (Đại tạng kinh q. 19, 349). Theo ý kiến của nhiều người thì kinh này được dịch từ niên hiệu Nghi Phượng (676-679).
Tôn thắng Phật đỉnh tu du già pháp nghi quỹ chép: “Tôn thắng Phật đỉnh, cũng có tên là Trừ chướng Phật đỉnh Luân vương, ngồi Kiết già trên tòa sen, da trắng, hai tay Thiền định, trong tay có hoa sen, trên hoa sen đặt Kim Cương câu. Trong tất cả các Phật đỉnh, Tôn thắng Phật đỉnh có thể trừ được tất cả phiền não nghiệp chướng cho nên gọi là Tôn thắng Phật đỉnh hay là Trừ chướng Phật đỉnh”. Vì vậy, năm Đại Lịch 11 (776) vua Đường là Đại tông đã ra lệnh cho tăng ni trong toàn quốc, trong một tháng phải đọc thuộc kinh Phật đỉnh Tôn thắng Đà-la-ni.
Từ tín ngưỡng Phật đỉnh Tôn thắng, xuất hiện hình thức sùng bái đặc biệt, đó là tín ngưỡng Tôn thắng kinh tràng, tức các cột kinh khắc bài Đà-la-ni Phật đỉnh Tôn thắng. Trong kinh Tôn thắng Đà-la-ni có viết: “Đem Đà-la-ni viết lên các tràng, để trên núi cao, hay trên nhà cao, các chỗ cao, hoặc trong tháp, các tăng ni, thiện nam tín nữ, thấy các kinh tràng này, hay gần các kinh tràng, hình các kinh tràng dọi vào người, gió thổi bay vào người, hay gió thổi bụi tràng vào người, thì các tội nghiệp sẽ tiêu tan”. Và phổ biến là dựng các cột kinh bằng đá, gọi là các Tôn thắng thạch tràng. Ở Trung Quốc hiện nay, dựa vào các ghi chép, người ta biết được khoảng 70-80 cột kinh. Tuy có nhiều loại khác nhau, nhưng nói chung người ta chia làm hai loại: Loại thứ nhất là cột kinh dựng để cầu phúc, tu công đức cho chúng sinh. Loại thứ hai là dựng cho người chết. Người dựng kinh tràng có thể lấy danh nghĩa cá nhân, tự viện, gia đình hay quốc gia để lập kinh tràng. Còn có cột kinh khắc cả tượng của người đã mất, lại còn có cột kinh có bình đặt xá lợi, ngoài Phật đỉnh Tôn thắng Đà-la-ni còn khắc cả Pháp thân kệ. Những cột kinh này gọi là Xá Lợi tràng. Như cột kinh ở chùa Long Hưng Hàng Châu năm 842.
Trên các kinh tràng có một đoạn tự ghi rõ lí do, tên người lập, gọi là tràng chủ, tên người cùng dựng và tên người viết chữ. Có những cột, số người tham gia xây dựng khá đông.
Như vậy, những cột kinh tìm thấy ở Hoa Lư là biểu hiện một tín ngưỡng của Mật giáo Trung Quốc. ảnh hưởng của nó đã lan đến Triều Tiên. Và với những phát hiện ở Hoa Lư, ta thấy tín ngưỡng này đã phổ biến ở Việt Nam vào thế kỉ X.
__________________________
*. GS. Viện Khảo cổ học.
1. Hà Văn Tấn. Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư -Nghiên cứu Lịch sử số 76, tháng 7-1965.
2. Hà Văn Tấn. Cột kinh Phật thời Đinh thứ hai ở Hoa Lư. Khảo cổ học số 5-6, tháng 6-1970.
Link: http://www.giaodiemonline.com/noidun...php?newsid=164
-
Đức Lạt Ma Riponche đến Việt Nam truyền lễ quán đảnh.
17/09/2006
(Vanhoaphuongdong) - Tuần qua vào khoảng ngày 15-9 Đức Lạt Ma Riponche và đoàn tùy tùng đã đến thăm Hà Nội và các tỉnh Miền Bắc. Ngài đã nghỉ chân tại chùa Quang Ân gần Khu Đô thị Bắc Linh Đàm mới xây. Tại đây trong 2 ngày 16 và 17 tháng 09, ngài đã truyền lễ quán đảnh Mật tông cho những Tăng ni và người tu Mật tông tại Việt Nam.
Vanhoaphuongdong com
Có thể nói đây là một cơ hội hiếm có và rất quý giá với những người tu Mật tại Việt Nam vì lần đầu tiên Đức Đại Lai Lạt Ma ban lễ quán đảnh cho nhiều người tham dự mà không phân biệt tuổi tác, thứ bậc, xuất gia-tại gia cho nhiều người dân Việt Nam. Từ sáng sớm ngày 16-09-2006, tại Chùa Quang Ân- Bắc Linh Đàm do Thượng tọa Thích Minh Trí (đệ tử của Thượng Tọa Thích Viên Thành) đã đông nghịt cả rừng người. Hơn 1000 người bao gồm cả các Tăng Ni Sinh và Phật tử đến tham dự khi được biết hôm nay Đức Lạt Ma sẽ ban lễ Quán đảnh theo Pháp quán của Đức Quán Âm Tứ Thủ. Có lẽ vì là buổi lễ đầu tiên nên có xảy ra một số lộn xộn và thiếu sót. Trong buổi lễ, ban tổ chức của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam đã rất vất vả khi nhắc nhở nhiều người không nên nói chuyện riêng và giữ chánh niệm trong buổi lễ. Đặc biệt khi Đức Lạt Ma thuyết 1 bài pháp nhỏ xong nhiều người đã vỗ tay- một việc được xem là không tốt theo truyền thống của Tây Tạng. Vì buổi lễ diễn ra bất ngờ nên ban tổ chức cũng chưa kịp liên hệ với Phái đoàn của đức Lạt Ma để in các bài hướng dẫn, các bài Thần chú mà ngài sẽ truyền trao trong lễ Quán Đảnh. Nhiều Phật tử Việt Nam lần đầu tiên dự buổi lễ lớn như vậy nên còn bỡ ngỡ, cũng không ít Phật tử đến tham dự với tâm trạng hiếu kỳ dù chưa hiểu biết về Mật tông và Phật giáo Tây Tạng. Tuy nhiên Buổi lễ vẫn diễn ra hết sức tốt đẹp mang lại lợi ích cho nhiều người. Gần 1000 người đã được nhận Phép Quán Đảnh của đức Lạt Ma và ngài cũng hết sức hoan hỷ trước tinh thần nhiệt tình cầu đạo của Tăng Ni và Phật tử miền Bắc. Buổi lễ kết thúc bằng việc ngài chúc Phúc và ban các tấm hình về đức Quán Âm Tứ Thủ cho mọi người.
Ngày thứ 2 tiếp theo (ngày 17-09-2006), đúng theo dự kiến, Đức Lạt Ma tiếp tục ban lễ Quán Đảnh của Đức Bồ tát Lục Độ Mẫu (Green Tara) và đặc biệt truyền phép quán và tu của 2 vị Độ Mẫu: Buổi sáng đức Bạch Độ Mẫu và buổi chiều đức Tôn Thánh Độ Mẫu.
Buổi thứ 2 đã diễn ra một cách nề nếp và tốt đẹp hơn buổi thứ nhất rất nhiều. Đặc biệt vì buổi lễ này diễn ra vào ngày Chủ Nhật, hơn nữa do ngày thứ nhất ngài ban lễ nhiều người chưa biết đến nên tới buổi thứ hai này số lượng người đã tăng lên đột biến gần gấp đôi so với ngày thứ nhất. Người đến dự lễ ngồi đông chật kín cả Sảnh lớn và lan ra cả khu vườn, nhiều người phải ngồi dưới đất để tham dự nhưng tất cả đều rất hoan hỷ.
Buổi lễ diễn ra theo đúng nghi thức trang trọng của buổi lễ quán đảnh: các vị tăng Tây Tạng lần lượt đi ban gạo, hoa và dầu cho những người tham dự. Thật sự vất vả cho các ngài vì hôm nay có tới cả ngàn người tham dự nên để hoàn thành công việc của mình. Đức Lạt Ma tụng các câu chú xin phủng thỉnh chư vị Bổn Tôn vân tập tại Đạo Tràng ban phước và truyền lễ quán đảnh cho các đệ tử cùng các câu chú khác theo nghi thức của 1 buổi lễ Quán Đảnh. Buổi lễ thứ hai đã diễn ra rất tốt đẹp, khi đến nghi thức Đức Lạt Ma ban lễ quán đảnh cho từng người thì mọi người xếp hàng theo hàng lối nghiêm chỉnh lần lượt đi qua để được ngài Quán Đảnh bằng nước Thánh là nguồn nước trộn từ nước của 108 dòng sông ở các thánh địa Phật giáo trên thế giới, nước Thánh cũng đã được các ngài niệm chú gia trì thần lực rất nhiều. Hiểu được ý nghĩa đó nên các Phật tử lên dự lễ đều rất trân trọng khi được đức Lạt Ma rót nước trên đảnh đầu. Họ biết quý trọng từng giọt nước nhận được. Đây cũng là buổi lễ khá vất vả với đức Lạt Ma Rinpoche vì ngài liên tục phải giơ cao tay lên truyền nước quán đảnh cho cả ngàn người xếp hàng kéo dài liên tục. Nhưng vì lòng từ bi và tâm hoan hỷ ngài nói rằng ngài rất vui trước tấm lòng nhiệt tâm cầu đạo của Phật tử Việt Nam. Tại buổi lễ ngài cũng truyền khẩu các bài thần chú của chư vị Bổn tôn, đặc biệt câu thần chú là tâm chú của đức Lục Độ Mẫu: "OM TARE TUTARE TURE SO HA" được ngài truyền khẩu và lặp lại nhiều lần. Buổi lễ cũng trở lên trang nghiêm hơn khi hàng ngàn người đồng trì niệm câu tâm chú của các vị Độ Mẫu và câu thần chú OM MA NI PADME HUM của đức Quán Thế Âm Bồ tát trong khi nhận lễ Quán đảnh hoặc chờ nhận lễ Quán đảnh của ngài.
Ngài cũng có 1 pháp thoại ngắn về ý nghĩa các Tôn Độ Mẫu mà ngài truyền Pháp và nhắc nhở các đệ tử nên thường trì tụng câu thần chú của các vị để đạt được lợi ích lớn trong đời hiện tại và tương lai. Ngài nói về sự vô thường của đời sống con người, thọ mạng ngắn ngủi của con người sống trong đời hiện tại và sự quý giá khi có được thân người và đặc biệt khi có được Chánh Pháp để giúp con người tu tập giải thoát. Ngài cũng truyền phép quán hình tượng của các vị Độ Mẫu cho người tu Mật tông. Vào lễ quán đảnh mọi người cũng nhận được các tấm hình của đức Lục Độ Mẫu và sau đó được đức Lạt Ma ban truyền thánh lực tới tất cả các tấm hình mà các Phật tử và Tăng ni đã nhận được.
Kết thúc buổi lễ là lễ Phóng Sinh thả chim. Hàng chục con chim được sự đóng góp mua của nhiều Phật tử cũng được đức Lạt Ma ban phước và toàn thể đạo tràng quán tưởng rằng khi những cánh chim này bay tới đâu sẽ mang lại sự an lành, hòa bình, hành phúc tới đó cho tất cả chúng sinh hữu tình.
Mặc dù phải trải qua một buổi lễ hết sức vất vả nhưng Đức Lạt Ma nói rằng ngài rất hoan hỷ khi đã giúp cho rất nhiều tăng ni sinh Phật tử Việt Nam có duyên tiếp nhận Mật Pháp từ chư vị Bổn Tôn. Đó cũng là mầm cho thiện pháp nảy nở mạnh mẽ ở Việt Nam sau này.
Tiếp theo vào ngày thứ ba này 19-09-2006, Ngài sẽ tiếp tục ban phép quán đảnh pháp của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly và Đức Phật A di Đà cho các phật tử hữu duyên.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát.
Namo Đức LatMa Rinpoche đã tìm đến và ban phước lành cho đệ tử chúng con.
-
trả lời
bác cho thêmthông tin vê dòng Đrukpa về viẹt nam hộ em cho đồngbào phậttử biết vừa rồi em lên Tây thiên mật thất cúng dàng hay lắm
-
Huynh Hahahas ơi .
Huynh có thể chỉ đưởng cho tại hạ tới Tây Thiên mật thất được không .
Xin cám ơn huynh trước .
thân ái
Hùng Sơn
-
tây thiên
Tăng Đoàn dòng truyền thừa Drukpa do Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII làm trưởng đoàn sẽ viếng thăm Việt Nam trong ba ngày 7-8-9 tháng 12 năm 2007. Cùng tháp tùng Pháp Vương Gyalwang Drukpa có Nhiếp Chính Vương Thukshey Rinpoche đời thứ II, Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche đời thứ IX và chín Đại đức Tăng khác. Chương trình viếng thăm của Tăng Đoàn như sau:
9/12Buổi chiều viếng thăm chùa Tây Thiên (Vĩnh Phúc) bác Đến TamĐảo hỏi đường ĐếnNúi Tây thiên đi theochỉ Dẫn có 1ngã ba 1lên trúc lâm tây thiên (thiền viện)2là lên mật thât lên núi khó đi nhưng không bằng Tây An cổ tự đâu .
-
Wow, hay quá. NN thấy nếu ai mong muốn nhận được lễ quán đảnh chính thức của Mật Tông tại VN thì đây cũng là một trong những cơ hội hiếm có. Dòng phái này là dòng truyền thửa của "Thần Long Giáo" :) Hình như tổ của dòng này là Drogon Tsangpa Gyare. Có một lần trong lúc tu luyện ngày đã thấy được 9 con rồng cho nên đã đặt tên cho dòng phái của mình là Drukpa. "Druk" là rồng. Vị tổ này có dòng máu của người Hoa. Và Đức Thế Tôn đã biết trước được vị tổ này sẽ ra đời khi Ngài còn tại thế.
Dòng truyền thừa này đã có cách đây 800 năm rồi, và vị tổ Drogon Tsangpa Gyare là hóa thân của Đại Hành Giả Naropa. Nếu NN đoán không lầm thì đây là dòng Mũ Đỏ, Cổ Mật.
Vài hàng góp vui.
Thân
NN
-
Ý, NN muốn vô sửa lại bài nhưng không biết tại sao lại không có "nút nhấn" để sửa.
Sau đây là tin tức của Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII đến VN:
Chương trình sắp tới
CHƯƠNG TRÌNH VIẾNG THĂM VIỆT NAM
CỦA TĂNG ĐOÀN DÒNG TRUYỀN THỪA DRUKPA
7-9/12/2007
Tăng Đoàn dòng truyền thừa Drukpa do Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII làm trưởng đoàn sẽ viếng thăm Việt Nam trong ba ngày 7-8-9 tháng 12 năm 2007. Cùng tháp tùng Pháp Vương Gyalwang Drukpa có Nhiếp Chính Vương Thukshey Rinpoche đời thứ II, Nhiếp Chính Vương Khamtrul Rinpoche đời thứ IX và chín Đại đức Tăng khác. Chương trình viếng thăm của Tăng Đoàn như sau:
Ngày 7/12: Đại lễ quán đỉnh cộng đồng cầu nguyện quốc thái dân an và Pháp thoại tại chùa Quang Ân. Buổi chiều Pháp thoại tại chùa Vạn Niên (Hà Nội)
Ngày 8/12: Đại lễ quán đỉnh cộng đồng cầu nguyện quốc thái dân an tại chùa Hương (Hà Tây)
Ngày 9/12: Đại lễ quán đỉnh cộng đồng cầu nguyện quốc thái dân an và Pháp thoại tại chùa Hà Tiên. Buổi chiều viếng thăm chùa Tây Thiên (Vĩnh Phúc)
CHƯƠNG TRÌNH TỔ CHỨC CHO TĂNG NI PHẬT TỬ QUỐC TẾ
Ngày 5-6/12: Đón các đoàn tại sân bay Nội Bài, đưa về nhận phòng khách sạn, nghỉ ngơi, ăn tối tại khách sạn ở Hà Nội.
Ngày 7-9/12: Tham dự đại lễ theo chương trình trên
Ngày 10-11/12: Tiễn đoàn ra sân bay về nước
Chi phí cho 5 ngày 4 đêm (từ 6-10/12): 300 USD / khách / phòng đôi
380USD / khách / phòng đơn
Chi phí trên đã bao gồm:
1. Tiền phòng khách sạn (bao gồm bữa sáng)
2. 2 bữa tối các ngày 6, 7 (các buổi khác do nhà chùa cúng dường). Tất cả các bữa ăn đều phục vụ cơm chay.
3. Chi phí đi lại theo hành trình của đoàn và đưa đón tại sân bay Nội Bài
4. Nước uống trên đường đi
5. Phí visa
6. Bảo hiểm du lịch
7. Hướng dẫn viên
8. Tiền boa cho hướng dẫn viên, khách sạn
Chi phí trên không bao gồm:
1. Vé máy bay
2. Chi phí cá nhân, đi lại ngoài chương trình, điện thoại, giặt là, …
3. Tiền khách sạn và các chi phí phát sinh đối với những khách đến trước ngày 6/12 và ở lại sau ngày 10/12.
Xin quý Tăng Ni Phật tử liên hệ đăng ký tham dự với Drukpa Việt Nam theo hòm thư điện tử: webmaster@drukpavietnam.org
Thời hạn đăng ký: đến hết ngày 15/11/2007
Please contact Drukpa Vietnam at: webmaster@drukpavietnam.org for registration and settle payment by bank transfer to:
In USD
Intermediary Bank: Wachovia NA, New York, NY, USA
Swift: PNBPUS3NNYC
Beneficiary Bank: Vietnam Technological and commercial Joint Stock Bank
(TECHCOMBANK, THANG LONG BRANCH)
Swift: VTCBVNVX
Beneficiary name: HOANG THI PHUONG HANH
Beneficiary address: PHU HOI DUC TRONG LAM DONG
Beneficiary account: 10320012869021
Deadline for registration and payment: no later than November 15th, 2007
Contact details :
Long Quang pagoda
Thanh Liet commune
Thanh Tri district
Ha Noi city
Viet Nam country
Contact phone number: +84.1688960663
+84.983036800
Fax number : +844 7667297
Email address: webmaster@drukpavietnam.org
Website: www.drukpavietnam.org