Văn Miếu - Võ Miếu - Quốc Tổ Miếu
Việt Nam còn mấy ngôi Văn Miếu ?
Cổ nhất có lẽ là Văn Miếu Quốc Tử Giám ở thành Thăng Long nay là Hà Nội, và ở miền Bắc.
Tiếp theo là Văn Miếu ở Cố đô Huế ở miền Trung.
Và cuối cùng là Văn Miếu Vĩnh Long ở miền Nam.
Chẳng biết còn ngôi Văn Miếu nào nữa không ? Nhưng những ngôi Văn Miếu vừa kể trên muộn nhất là Văn Miếu Vĩnh Long cũng có trên trăm năm. Mình thì cũng chưa từng đến viếng một ngôi miếu nào kể trên, chỉ đọc trên sách báo hay xem trên đài truyền hình. Nhưng mình có dịp đến viếng thăm Văn Miếu Trấn Biên ở Biên Hòa, đây là Văn Miếu mới được xây dựng mới đây, nghĩa là sau năm 1975, và có lẽ vào thời kỳ đổi mới.
Văn Miếu Trấn Biên cũng có những hạng mục công trình tương tự như Văn Miếu Hà Nội như cổng vào Đại Thành Môn, Khuê Văn Các, Thiên Quang Tĩnh...
Văn Miếu được dựng lên là để thờ Khổng Tử và những nho gia hay văn thần, tức là những người đã từng đèn sách với Tứ Thư Ngũ Kinh, và lấy những lời dạy của Khổng Mạnh là kim chỉ nam.
Văn Miếu Trấn Biên thì cũng ngoài lệ ấy, nhưng Khổng Tử được chạm trên một phù điêu và dựng phía ngoài ngay trước sân đối diện với điện chánh của Văn Miếu. Bên trong ngay điện chánh là phù điêu trống đồng phía trước là tượng bán thân lĩnh tụ VN. Hai gian bên cạnh, một gian thờ các nho gia VN đại khái như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du,..; một gian thờ các nho gia của Gia Định Thành như Võ Trường Toản, Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu,...
Thăm Văn Miếu Trấn Biên ra về, mình thầm nghĩ, đã có Văn Miếu thờ các nho gia, văn thần tại sao không có Võ Miếu để thờ các võ tướng, danh tướng Việt Nam. Mà VN từng có Võ Miếu hay không? Mình cũng chẳng rỏ, nhưng học sử thì nhớ rằng, khi thành Hà Nội thất thủ vào tay thực dân, Tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu lúc ấy đã treo cổ tự vẫn tại Võ Miếu Hà Nội. Thật sự thì Hoàng Tổng đốc cũng là một văn thần, hay nho gia chứ không phải là một võ tướng, tức là xuất thân từ khoa cử, vì triều Nguyễn trọng văn khinh võ.
Nghĩ như thế, một Võ Miếu, nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, thay vì một Võ Miếu để thờ những Danh tướng VN, thì tại sao lại không dựng một Đền Thờ Quốc Tổ Việt Nam. Chính giữa Thờ Vua Hùng, cùng những vị vua anh hùng của VN. Hai gian hai bên, một gian thờ các vị anh hùng dân tộc từ thời lập quốc đến trước Ngô Vương Quyền; một gian thờ các anh hùng từ Ngô Vương Quyền đến nay.
Mình nghĩ phải chi mà mỗi tỉnh ở Việt Nam có được một đền thờ Quốc Tổ quy mô cở Văn Miếu Trấn Biên thì mỗi năm khi làm lễ Giổ Tổ Hùng Vương tại đền những người đến dự hay những ai tham quan đền thờ có thể ôn lại toàn bộ Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam.
Ở Việt Nam bây giờ có rất nhiều đền thở liệt sĩ, có thể nói là mỗi huyện, mỗi tỉnh đều có, rất khang trang, chưa kể đền thờ những vị tướng lĩnh, hay lĩnh đạo gần đây của chế độ. Mỗi tỉnh một ĐỀN THỜ QUỐC TỔ quy mô cở Văn Miếu Trấn Biên nghĩ cũng phải là quá đáng!
Trân trọng
Tết: Chùa có thể đi trước trong việc phục hồi y phục truyền thống dân tộc?
Tết: Chùa có thể đi trước trong việc phục hồi y phục truyền thống dân tộc?
http://giacngo.vn/UserImages/2011/02...%20__O%204.jpg
Y phục truyền thống dân tộc được nói đến ở đây là áo dài khăn đóng dành cho nam giới, mà trước đây, ở miền Nam, gọi là quốc phục.
Áo dài khăn đóng dành cho nam giới, ngoài vẻ trang nghiêm như áo tràng lam, còn đậm đà bản sắc dân tộc và thể hiện sự trang trọng đặc biệt trong ngày lễ Tết
Áo dài khăn đóng nam giới trước năm 1975 được giới Phật tử sử dụng rộng rãi, đặc biệt là trong các dịp lễ Tết.
Trên pháp tòa chùa Xá Lợi, trụ sở của Hội Phật học Nam Việt, thường thấy các vị cư sĩ mặc áo dài khăn đóng, thường là màu xanh dương, đăng đàn thuyết pháp, hành lễ.
Mãi tới gần đây, một số cư sĩ cao niên hội viên Hội Phật học Nam Việt cũ vẫn mặc áo dài khăn đóng trong các khóa lễ Phật đản, phong thái rất uy nghi, trang trọng.
Điều đáng tiếc là ngày nay, tại TP.HCM chiếc áo dài khăn đóng dành cho nam giới hầu như không còn được thấy nữa, kể cả ở các cụ ông cao tuổi và trong ngày Tết.
Dịp Hội nghị Apec được tổ chức tại Hà Nội, chúng ta vui mừng được thấy các nhà lãnh đạo quốc tế dự họp mặc áo dài truyền thống Việt Nam dành cho nam giới (nhưng không đội khăn đóng).
Tuy đó là một dấu ấn phục hồi y phục truyền thống dân tộc dành cho nam giới, thế nhưng, đó chỉ là một điểm nhấn hình thức. Việc phục hồi đã không mở rộng ở cấp độ rộng rãi hơn, ngoại trừ một số lễ nghi đặc biệt như Giỗ Tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch).
Nhưng điều lạ, là xem hình ảnh các chùa Việt ở Mỹ, Canada, lại có thể thấy hình ảnh người cư sĩ mặc quốc phục đi chùa lễ Phật, kể cả mặc khi di chuyển ngoài đường, lái xe hơi, điều hầu như không thể đối với áo tràng lam.
Thế thì, tại sao giới cư sĩ Phật giáo Việt Nam trong nước lại không thể đi đầu trong việc phục hồi áo dài khăn đóng truyền thống của dân tộc, trước hết là ở các cụ ông cao tuổi và những bé trai ở lứa tuổi mẫu giáo, tiểu học.
Áo dài khăn đóng dành cho nam giới, ngoài vẻ trang nghiêm như áo tràng lam, còn đậm đà bản sắc dân tộc và thể hiện sự trang trọng đặc biệt trong ngày lễ Tết.
Một điểm thuận lợi nữa là, như đã nói, nếu như áo tràng lam thường chỉ mặc trong chùa, thì áo dài khăn đóng có thể mặc đi lại trên đường phố.
Tuy nhiên, việc phục hồi vẫn còn khó khăn. Nếu không đẩy nhanh được tiến độ, áo dài khăn đóng nam giới, y phục cổ truyền ngày lễ của dân tộc dần dần chỉ còn trên mặt báo, các chương trình video… mà thôi.
Việc đẩy mạnh phục hồi dạng y phục truyền thống dân tộc này có thể bắt đầu từ việc lễ chùa ngày Tết.
Các vị cư sĩ nam giới giữ nhiệm vụ tri khách ngày Tết có thể mặc áo dài khăn đóng trước hết ở chùa.
Áo dài khăn đóng nam giới đánh dấu sự khác biệt của ngày Tết, ngày lễ trong chùa so với ngày thường và đó là một nét nhấn cho sự gắn bó giữa Phật giáo Việt Nam và truyền thống dân tộc.
Nếu tiến trình phục hồi thuận lợi, từ các ngôi chùa, ngôi đình, áo dài khăn đóng trở nên quen mắt hơn, xuất hiện nhiều hơn sẽ là một bước tiến trong việc gìn giữ và phát huy những nét đẹp truyền thống của dân tộc.
MINH THẠNH
---
Bác Minh Thạnh có những đề nghị về truyền thống, khi trước là cây nêu tết, không biết có bao nhiêu người hưởng ứng. Bây giờ là quốc phục, tức là áo dài khăn đóng, khăn xếp. Dĩ nhiên đối với phái nữ, áo dài là quốc phục chắc không ai chối cải. Nhưng áo dài khăn đóng với nam giới, lại còn phải bàn, mà không biết bàn với ai đây. Ai có trách nhiệm về việc này? - Quốc hiệu, quốc kỳ, quốc ca, quốc thiều, quốc huy, rồi vừa rồi mới nghe đến quốc hoa, đã bình chọn. Tại sao bình chọn quốc hoa mà không bàn đến quốc phục?
Ở Sài Gòn, trước bảy lăm, vì quen với cải lương Hồ Quảng, rồi Hát Bội, Hát Bộ hay Hát Tuồng, toàn áo mão xênh xang, tuồng xưa, từ truyện Tàu, thỉnh thoảng cũng có tuồng Việt, rất hiếm, vua quan thì cũng áo mão, không biết theo truyền thống hay cứ tùy hỉ. Sau bảy lăm, được xem nhiều tuồng tích Việt hơn, nhất là những đoàn ở Hà Nội, nhưng sau thấy toàn áo dài khăn đóng, vua cũng áo dài khăn đóng, quan văn cũng áo dài khăn đóng, quan võ cũng áo dài khăn xếp chỉ thêm đai lưng. Thấy hơi tẻ nhạt, chán ngắt, vì quen với áo mũ ngày nào, màu sắc lộng lẫy. Bây giờ thấy lại có chút gì truyền thống của Việt Nam. Đùng một cái phim Đường Đến Thăng Long toàn áo mũ, và phim cũng được dàn dựng quay bên Tàu, không biết có phải cởi mở, đổi mới hay ý gì khác không?
Có lần đọc bài báo thấy một nhà ngoại giao kể chuyện trình quốc thư, một số quốc gia đòi hỏi người trình quốc thư phải mặc quốc phục, mà quy định quốc quyền Việt Nam chưa cho phép áo dài khăn đóng, nên phải mướn bộ đồ có hai cái đuôi lòng thòng, lại không sai quy định (!) để trình quốc thư, lạ nhĩ lại có những nước nào rắc rối thế? Trong khi Việt Nam, phim từng chiếu cảnh áo dài khăn xếp bị cho là phong kiến (Định mang áo dài khăn xếp mà làm cách mạng à?)
Vậy thì nhiệt tình của Bác Minh Thạnh chắc phải phải chờ đến quốc quyền thì quốc phục mới có cơ thành quy chế, nhờ người có quyền thể nghiệm trước trong những lễ hội, phải thế không?
Không của Việt Nam thì của ai?
SGTT.VN - Tuần qua, báo “tập trung oánh lễ hội”. Có mỗi một lễ hội không bị “oánh”, là ngày thơ, nhưng tin tức dành cho nó không nhiều. Báo nào cũng đưa đúng mấy hình – mà nếu dùng nhầm hình năm ngoái thì cũng không ai nhận ra – kèm theo miêu tả không khí không mấy sôi nổi. Từ đó mới thấy, thơ mình bao năm qua không đổi. Thơ không đổi nên lễ hội thơ không đổi, chỉ ngày càng già đi, chết trong sáo ngữ.
Năm nay, cái làm cho ngày thơ trông có vẻ rộn ràng không phải là nhờ thơ, mà nhờ… hệ thống đèn lồng treo ở cửa Văn Miếu.
Đèn lồng – cũng như thơ – bao lâu nay vẫn thế, chỉ khác là vì có hình dạng vừa xinh vừa vui nên xuất hiện chỗ nào thì cứu nguy cho cái không khí tẻ nhạt của chỗ đó – những chỗ nào cần tính văn hoá, tính dân tộc, tính lễ hội… mà chưa biết làm gì cho ra mấy tính ấy, như tiền sảnh của các khách sạn lớn, các trung tâm du lịch “cổ”, các nhà hàng có tên hay tiếng “xưa”… chẳng hạn (ngay ở chỗ đã văn hoá lắm rồi, dân tộc lắm rồi như đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn – Kiếp Bạc, Hải Dương, hay là trong lòng phố cổ Hà Nội, cũng thấy người ta treo lủng lẳng đèn lồng trước cửa).
Cũng chung ý đó nên đã có năm, ở thành phố được coi là mới mẻ, hiện đại, hội nhập như Sài Gòn cũng có đèn lồng đỏ treo rợp trên cây xanh của đường Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Đồng Khởi. Không đợi đến đêm, ban ngày đèn cũng rực. Dân chúng thích thú đi dạo dưới đèn, chụp ảnh về đố nhau, “tao đang ở đâu?”.
Tết mấy năm trước, có tỉnh, thành còn có cả dãy phố hè nhau treo đèn lồng. Ý chẳng biết từ đâu, nhưng mỗi nhà nghe nói đã đóng tiền cho việc mua đèn lồng và mắc đường dây cho đồng bộ. Những chiếc đèn lồng được làm bằng vải màu đỏ và có những hoa văn độc đáo có các chữ phúc, lộc, thọ viết bằng tiếng Hoa. Ai cũng sung sướng ra mặt vì sau pháo, giờ nhờ có cái đèn lồng mà… ra không khí tết.
Nhưng mà bây giờ hết rồi, cái phong trào “không nằm trong chủ trương chỉ đạo” này bị dẹp rồi, là vì tuy không vi phạm pháp luật, tuy không ảnh hưởng gì về kinh tế nhưng mà… nó là văn hoá không thuần Việt. Nhìn vào phố đèn lồng như thế, chẳng biết ta hay Tàu. Trung tâm Sài Gòn cũng đã sửa, mấy tết gần đây thôi đèn lồng, chỉ thấy hoa mai xốp và chim én nhựa lượn giữa đèn dây xanh, dây đỏ, dây vàng.
Vậy cái đèn nào là thuần Việt?
Cái gì yếu tự nó chết, cái nào mạnh (không cần hô, gọi, cầu, ép) thì nó vẫn hiên ngang đứng đó.
Đèn trắng, vàng đầy đường mừng năm mới? Đèn xanh đỏ mừng Giáng sinh? Hay đèn… cầy lúc thành phố cúp điện thường xuyên? Trong phong trào cả nước đang đi tìm những cái “quốc” (quốc hoa, quốc phục, quốc sắc…) chưa thấy nghĩ đến quốc đăng?
Cũng phải thôi. Vì thưa, có tìm cũng chẳng thấy. Việt Nam mình không có đèn lồng cũng chẳng có đèn dây. Chỉ có một cái đèn là đèn ông sư xoay tròn, lắc lư vào Trung thu, giờ đã chết tức tưởi trước cái đèn bằng nhựa, có pin chớp nháy từ Trung Quốc mang sang rồi. Giờ đòi cái gì thuần để mà đấu với hai cái kia?
Nhưng mà nói thật, cuộc đấu tranh ấy, thấy dân tình chẳng ai còn hứng thú gì nữa, vì đã đến thời này rồi (cái thời mà chúng ta ra sức kêu gọi hưởng ứng “thế giới phẳng”), cái gì yếu tự nó chết, cái nào mạnh (không cần hô, gọi, cầu, ép) thì nó vẫn hiên ngang đứng đó.
Ví như, đèn lồng, dẹp ở đâu không cần biết, nhưng mà ở Lương Nhữ Học – quận 5, Sài Gòn thì vẫn sáng rực vào mỗi dịp Trung thu. Người ta vẫn rào rào ra đó mua đèn, coi đèn, chụp hình. Nhìn vào đó, vẫn vui vẻ gọi là phố Tàu giữa Sài Gòn. Sài Gòn không mất, phố Tàu cũng không mất. Và cũng đèn lồng như thế, treo thành cả dãy phố như thế, chúng ta vẫn gọi Hội An là phố cổ của Việt Nam. Hội An không mất. Việt Nam cũng không mất. Chúng ta chẳng phải lo gì chuyện này, vì cái phố cổ này, nếu không của Việt Nam thì là của ai?
Vậy nên, suy đi tính lại rồi, hoàn toàn yên tâm được, tết đến, có thể treo các đèn Âu đèn Mỹ. Như thế còn hơn cảnh quyết không về thăm nước, rồi đến ngày tết lủi thủi một mình ăn bánh chưng mua siêu thị Tàu ở quận 13.
Ch.e