-
CÚNG DƯỜNG ĐÈN ( ĐĂNG )
Ý nghĩa và lợi lạc của CÚNG DƯỜNG ĐÈN
Nguồn: http://huongtramthaoduoc.com/news/nc...duong-den.html
“Trong tất cả các phương pháp tích lũy công đức nhờ bố thí, cúng dường đèn bơ chỉ đứng ngay sau cúng dường Tsok.” ( Chagdud Tulku Rinpoche )
Cúng dường đèn bơ là cúng dường mãnh liệt nhất bởi lẽ ánh sáng của chúng tượng trưng cho trí tuệ. Ngay khi ngọn đèn xua tan bóng tối, ánh sáng của ngọn đèn biểu hiện sự tan biến của bóng tối vô minh và chứng đắc trí tuệ sáng suốt của Phật. Dâng cúng đèn là cúng dường tánh thấy lên mắt Phật. Vì mắt Phật là mắt trí tuệ, nên chúng không có sự đối nghịch của sáng hay tối. Mắt thường của chúng ta, dù sao đi nữa vẫn bị che lấp bởi bóng tối của hai bất tịnh – Một bất tịnh thô là cảm xúc phiền não (ngã chấp) và một bất tịnh vi tế là sở tri chướng (pháp chấp). Phật không có tâm mong cầu đối với mọi món dâng cúng, nhưng chúng ta cúng dường để tích lũy công đức và trí tuệ cho chính mình. Nhờ năng lực của tích lũy này, chúng ta có thể loại trừ mọi bất toàn của đôi mắt vô minh của mình và đạt đến tuệ nhãn toàn giác của Phật.
Khi chúng ta cúng dường ánh sáng, kết quả của nó là sự chứng ngộ trí tuệ Tịnh quang trong đời này; xóa sạch tâm phân biệt, dẹp tan sự rối loạn và nhận ra Tịnh quang trong cõi bardo; và tăng trưởng trí tuệ trong mỗi đời sống cho đến khi đạt được giác ngộ.
Đèn bơ cũng được cúng dường và hồi hướng cho người chết để dẫn họ đi trong bardo bởi ánh sáng trí tuệ. Chúng ta cũng cầu nguyện rằng ánh sáng này sẽ soi đường cho toàn thể chúng sanh trong sáu cõi, tịnh hóa mọi che chướng của họ để họ có thể đánh thức tuệ giác chân thật của chính mình. Với niềm tin và lòng sùng kính chân thành, hãy quán tưởng rằng vô số thiên nữ cúng dường sẽ dâng cúng vô lượng ánh sáng đến toàn thể chư Phật, Bồ tát và Thánh chúng. Chúng ta có thể đọc tụng bài cúng đèn trong tuyển tập các bài Cầu nguyện cúng dường.
Theo truyền thống Phật giáo Kim cang thừa, chúng ta tích lũy công đức để tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi trước mắt như sức khỏe, giàu sang và trường thọ và sâu xa hơn là hiển lộ bản tánh trí tuệ của chính chúng ta.
Trong tất cả các phương pháp tích lũy công đức nhờ bố thí, cúng dường đèn bơ chỉ đứng ngay sau cúng dường Tsok.
Ý nghĩa của cúng đèn bơ là gì ?
Chúng ta không dâng đèn vì các bậc Giác ngộ cần nhìn thấy chúng. Đúng hơn, cúng dường ánh sáng là phương tiện để tẩy trừ bóng tối vô minh của chúng ta, thắp lên sự sáng tỏ và trí tuệ. Chúng ta dâng cúng với mong muốn ánh sáng đó sẽ soi sáng các cõi thấp và bardo, làm vơi đi bao nỗi khổ của những chúng sanh đang chìm trong bóng tối. Chúng ta cũng cầu nguyện cho toàn thể chúng sanh có được trí tuệ cao quý để thấu hiểu nhân của hạnh phúc trường cửu là những thiện nghiệp của thân, khẩu và ý. Cuối cùng, chúng ta cúng dường chúng để ánh sáng bí mật của giác tánh sẽ xuất hiện trong tâm của mọi chúng sanh và xua tan bóng tối vô minh và những che chướng của kiến chấp.
Những đối tượng tuyệt hảo và thanh tịnh để chúng ta cúng dường là Tam bảo – Phật, Pháp và Tăng; Tam căn – Bậc thầy, Bổn tôn và Dakini; và các vị Hộ pháp.
Chúng ta phải hết sức cẩn trọng trong việc cúng dường, vì công đức tạo ra phụ thuộc vào động lực thanh tịnh, sự quán tưởng và việc sắm sửa cũng như chuẩn bị vật phẩm của chúng ta. Nếu mọi việc được chú tâm thực hiện, công đức của chúng ta sẽ tăng trưởng. Nếu bạn cúng dường đúng cách thậm chí chỉ một ngọn đèn, thì công đức vô cùng lớn lao như Đức Phật đã nói với ngài Xá Lợi Phất trong kinh “Những lợi ích của cúng dường đèn” đó là vượt qua sự tính toán của toàn thể các bậc Thanh Văn và Duyên Giác, công đức có được là không thể tính đếm, chỉ các bậc Như Lai mới biết rõ tường tận.
Vào thời Đức Phật, vua A Xà Thế có lần đã cúng dường nhiều thùng dầu để đốt đèn dâng cúng Đức Phật ở Tịnh xá Kỳ Hoàn. Có một bà già rất nghèo, có tâm chí thành muốn cúng dường Đức Phật mà không có tiền. Bà thấy vua A Xà Thế làm công đức như vậy, rất lấy làm cảm kích. Bà đi xin được hai tiền, liền đến nhà hàng mua dầu. Chủ hàng hỏi: “Bà rất nghèo túng, xin được hai tiền, sao không mua đồ ăn mà lại mua dầu?”. Bà già đáp rằng: “Tôi nghe ở đời gặp Đức Phật rất khó, vạn kiếp mới được một lần. Tôi nay may mắn được sinh đời Phật, mà chưa có dịp cúng dường. Ngày nay tôi thấy vua làm việc đại công đức, tôi tuy cùng khổ, cũng muốn cúng dường ngọn đèn để làm căn bản cho đời sau”. Lúc bấy giờ người chủ quán cảm phục chí nguyện của bà già, liền đong cho thêm ba tiền thành ra năm tiền dầu. Bà đến trước Đức Phật thắp đèn lên, tự nghĩ dầu thắp không quá nửa đêm, bà phát nguyện rằng:
- Con không có gì cúng dâng Phật, ngoại trừ cây đèn nhỏ này. Nhưng do sự cúng dường này, mong cho con đời sau có trí tuệ. Mong cho con giải thoát tất cả hữu tình ra khỏi bóng tối ngu si. Mong cho con tịnh hóa tất cả những cấu uế chướng ngại của họ, và đưa họ đến giải thoát.
Đêm ấy tất cả các ngọn đèn của vua cúng dường, có ngọn tắt, có ngọn đỏ. Riêng ngọn đèn của bà lão thì chiếu sáng hơn các ngọn đèn khác, suốt đêm không tắt, dầu lại không hao.
Đến sáng, ngọn đèn của bà lão vẫn tiếp tục cháy, khi tôn giả Mục Kiền Liên đi thâu lại những cây đèn. Khi trông thấy ngọn đèn còn cháy sáng, đầy dầu và bấc mới, ngài nghĩ: “Không lý gì để cho cây đèn này vẫn cháy vào ban ngày,” và ngài cố thổi tắt. Nhưng cây đèn vẫn cháy. Ngài lấy tay bóp, lấy y chụp lên cho nó tắt, mà nó vẫn tiếp tục cháy sáng. Đức Phật vẫn nhìn ngài từ lúc đầu, và bảo:
- Mục Kiền Liên, có phải ông muốn dập tắt ngọn đèn ấy không? Ông không làm được đâu. Ông không di chuyển được nó, chứ đừng nói là dập cho nó tắt. Nếu ông đem được bốn biển mà tưới lên cây đèn này, nó vẫn không tắt được, tại sao? Vì cây đèn này đã được đốt lên để dâng cúng với tất cả niềm sùng kính, và với tâm trí thanh tịnh. Chính động cơ ấy đã làm cho nó có công đức vô cùng.
Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đã nêu ra 10 lợi ích của việc cúng dường ánh sáng trong Kinh Phạm Âm :
01. Trở thành ngọn đèn của pháp giới;
02. Có huệ nhãn thanh tịnh nhìn thấy các cảnh giới vô hình ngay trong thân người;
03. Thành tựu thiên nhãn thông;
04. Đạt được trí tuệ thấu suốt thiện pháp và bất thiện pháp;
05. Loại trừ tâm bám chấp vào sắc tướng;
06. Luôn sống trong ánh sáng trí tuệ;
07. Có được tái sinh trong thân người hay chư thiên;
08. Vui hưởng cuộc sống giàu sang phú quý;
09. Sớm được giải thoát;
10. Chóng đạt giác ngộ.
Để hoàn tất việc cúng dường, chúng ta hãy hồi hướng công đức vì lợi ích của toàn thể chúng sanh nhờ đó mà công đức đã tích lũy sẽ không bị hư hoại.
Nyingmapavietnam
7.2012
Tổng hợp các bài giảng của Lama Tharchin Rinpoche và Chagdud Tulku Rinpoche
Tham khảo tiếng Anh
http://www.vajrayana.org/offering-lights/
http://en.chagdud.org
-
Cúng Dường Đèn "Những Ngọn Đèn Thắp Sáng Con Đường và Xua Tan Bóng Tối"
Nguồn: http://www.vietnalanda.org/thong-bao.../cungduongdhen
Bài cầu nguyện cúng dường đèn có tên:
“NHỮNG NGỌN ĐÈN THẮP SÁNG CON ĐƯỜNG VÀ XUA TAN BÓNG TỐI”
RIN-CHEN LE-DRUP MAR-ME KONG-BU DI/
Ngọn đèn bơ này được làm từ chất liệu trân quý,
TONG-SUM JIG-TEN KHAM-DANG NYAM-GYUR CHIG/
Biến hóa thành rộng lớn như cả đại thiên thế giới.
THA-YE GYA-TSHO TA-BU MAR-KHU WU/
Ngay chính giữa đại dương vô tận của bơ tan chảy đó
MAR-ME DONG-BU RI-GYAL TSAM-GYUR CHIG/
Là [ngọn lửa tại] tim đèn bơ, cao ngất như núi Tu-Di,
CHOG-CHU SANG-GYE NAM-KYI CHEN-NGA RU/
Chúng con xin dâng lên chư Phật mười phương.
[Đọc thêm]
Quý vị có thể kiếm bài này ở trang "Giáo Pháp/Hành Trì" trong phần "Các Pháp Hành Trì Mật Tông"
-
PHÁP CÚNG DƯỜNG ĐÈN
Nguồn: https://vi-vn.facebook.com/Nenbo/posts/521738474606908
Con đường Đại thừa của Phật giáo lấy thực hành sáu thiện hạnh (lục độ Ba la mật) làm căn bản, trong đó Bố thí là hạnh đầu tiên. Bố thí có nhiều cách, một trong số đó là cúng dường, đặc biệt là cúng dường đèn. Đại Sư tái sinh Chagdud Tulku đã từng nói: “Trong tất cả các phương pháp tích lũy công đức nhờ bố thí, cúng dường đèn bơ chỉ đứng ngay sau cúng dường Tsok.”
Cúng dường đèn bơ là cúng dường mãnh liệt nhất bởi lẽ ánh sáng của chúng tượng trưng cho trí tuệ. Ngay khi ngọn đèn xua tan bóng tối, ánh sáng của ngọn đèn biểu hiện sự tan biến của bóng tối vô minh và chứng đắc trí tuệ sáng suốt của Phật. Dâng cúng đèn là cúng dường tánh thấy lên mắt Phật.
Chúng ta cúng dường để tích lũy công đức và trí tuệ cho chính mình. Nhờ năng lực của tích lũy này, chúng ta có thể loại trừ mọi bất toàn của đôi mắt vô minh của mình và đạt đến tuệ nhãn toàn giác của Phật. Khi chúng ta cúng dường ánh sáng, kết quả của nó là sự chứng ngộ trí tuệ Tịnh quang trong đời này; xóa sạch tâm phân biệt, dẹp tan sự rối loạn và nhận ra Tịnh quang trong cõi bardo; và tăng trưởng trí tuệ trong mỗi đời sống cho đến khi đạt được giác ngộ. Đèn bơ cũng được cúng dường và hồi hướng cho người chết để dẫn họ đi trong bardo bởi ánh sáng trí tuệ. Chúng ta cũng cầu nguyện rằng ánh sáng này sẽ soi đường cho toàn thể chúng sanh trong sáu cõi, tịnh hóa mọi che chướng của họ để họ có thể đánh thức tuệ giác chân thật của chính mình. Với niềm tin và lòng sùng kính chân thành, hãy quán tưởng rằng vô số thiên nữ cúng dường sẽ dâng cúng vô lượng ánh sáng đến toàn thể chư Phật, Bồ tát và Thánh chúng. Chúng ta có thể đọc tụng bài cúng đèn trong tuyển tập các bài Cầu nguyện cúng dường.
Theo truyền thống Phật giáo Kim cang thừa, chúng ta tích lũy công đức để tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi trước mắt như sức khỏe, giàu sang và trường thọ và sâu xa hơn là hiển lộ bản tánh trí tuệ của chính chúng ta.
[trích: http://nyingmapavietnam.com]
NGHI THỨC
(Bản ngắn)
Ngay sau khi bạn thắp nến hay châm đèn, hãy ban phước cho chúng bằng cách tụng OM AH HUNG 3 lần. Nếu bạn không ban phước ngay thì các tinh linh có thể xâm nhập vào đồ cúng và sau đó, việc cúng ánh sáng đã bị ô nhiễm này sẽ không mang lại lợi ích.
Tụng: Từ nay cho đến khi đạt thành chánh giác
Con xin quy y Phật, Pháp, Hiền Thánh Tăng
Nhờ công đức Bố thí và các thiện hạnh
Nguyện thành phật quả để cứu độ chúng sinh
Sau đó đọc Bài nguyện cúng dường đèn (của Lama Atisha)
[Đọc 1,3,.. hay nhiều lần, vừa đọc vừa chú tâm quán tưởng theo ý nghĩa của bài nguyện]
Nguyện bình chứa đèn này trở nên rộng lớn như hàng tỷ vũ trụ,
Nguyện bấc của của ngọn đèn này lớn như núi Tudi, vua của các ngọn núi!
Nguyện dầu bên trong bình chứa này trở nên to lớn như đại dương
Và nguyện một tỷ ngọn đèn như thế xuất hiện trước mặt từng vị Phật
Làm xua tan bóng tối của vô minh
Từ đỉnh cao của cõi Luân hồi xuống tới tầng Địa ngục thấp nhất,
Nguyện ánh sáng này làm hiển lộ các cõi Phật và Bồ Tát khắp mười phương
OM BENZA ALOKE AH HUM
E MA HO!
Ánh sáng này, phi thường và kỳ diệu, đang bùng cháy rực rỡ
Con xin dâng cúng cho hàng ngàn chư Phật trong hiền kiếp này
Cho các Guru, Yidam, Bổn Tôn, Daka, Dakini và Hộ Pháp
Và tập hội Bổn Tôn của tất cả các mandala
Trong vô tận các cõi khắp mười phương.
Nhờ công đức này,
Nguyện cha mẹ con cùng tất cả chúng sinh,
Dù ở đời này hay trong các đời sau, dù sinh ra ở bất cứ đâu,
Đều luôn gặp được các vị Phật và các cõi Phật toàn hảo.
Nguyện họ và đức Phật Amitaba, ‘Vô Lượng Quang Như Lai’ là một, bất khả phân,
Nhờ sức mạnh chân lý của Tam Bảo và Chư Tam căn Thiện thệ,
Xin ban phước cho con và nguyện các lời nguyện của con nhanh chóng được thành hiện thực!
TADYATHA OM PANCHA GRIYA AVA BODHANI SVAHA (3-7 lần)
Cuối cùng đọc Bài nguyện hồi hướng:
Nhờ công đức cúng dường đèn này
Nguyện con và các chúng sinh trong sáu cõi đều được lợi lạc;
Nguyện các giới, thệ nguyện bị phá vỡ được phục hồi;
Nguyện các mê lầm tà kiến được tịnh hóa;
Nguyện mọi nghiệp xấu ác và chướng ngại của con và chúng sinh được tẩy sạch;
Nguyện ba cõi thấp trở nên trống rỗng ngay lập tức,
Nguyện con và chúng sinh nhanh chóng đạt được chánh niệm, năng lực và thực chứng!
---***---
-
Cây Đèn Kỳ Lạ
Huỳnh Trung Chánh
Nguồn: http://www.tangthuphathoc.net/truyenpg/caydenkyla.htm
Sau khi treo cây đèn trên một cành cây, bà lão hành khất đi thẳng vào Tịnh xá, chí thành lễ Phật rồi ra về...
Số đèn của nhà vua, tuy được những đội lính thay nhau lo việc châm dầu, thay tim, nhưng ít cây được sáng suốt đêm, cây thì bị gió thổi tắt, cây thì bị phật cháy...
Duy cây đèn của bà lão hành khất thì ánh sáng nổi bật hơn muôn vạn cây đèn khác và cháy mãi đến sáng mà dầu vẫn khôn hao.
" Này đệ tử ! Trời đã sáng, hãy ra tắt hết những cây đèn còn đỏ", đức Phật dạy với ngài Mục Kiền Liên như thế.
Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Phật. Nhưng đến cây đèn của bà lão hành khất, thì ba lần tôn giả quạt mạnh, nhưng ánh sáng cũng không mất. Lần thứ tư, tôn giả cầm ngay vạt áo cà sa và vận hết thần công diệu lực của mình quạt hắt vào đèn nhưng đèn lại rực sáng hơn trước. Tôn giả Mục Kiền Liên và những người chung quanh đều ngạc nhiên cho đó là một cây đèn kỳ lạ chưa từng thấy.
Ngay lúc ấy, đức Phật vừa đến, Ngài điềm đạm bảo:
" Thôi ! Đệ tử hảy thôi. Dù cho đệ tử có tận dụng cả thần lực của đệ tử cũng không thể nào làm tắt được cây đèn nầy, vì đó là ánh sáng công đức của vị Phật trong tương lai".
Lời dạy ấy của đức Phật đã làm cho nhiều đệ tử của Ngài muốn tìm hiểu ai là người đã cúng dường đèn ấy. Sau một cuộc điều tra kỹ càng, họ biết rõ người cúng dường cây đèn kỳ lạ ấy chính là một bà lão hành khất !
Câu chuyện nầy đến tai vua A Xà Thế. Nhà vua cho vời đại thần Kỳ Bà đến để thuật lại câu chuyện và hỏi:
- Kỳ Bà ! Như khanh đã biết được quả nhân làm rất nhiều công đức và cúng dường rất nhiều đèn nhưng không thấy đức Thế Tôn dạy gì về quả báo của quả nhân. Trái lại, bà lão hành khất chỉ cúng dường có một cây đèn lại được Ngài thọ ký là nghĩa làm sao ?
Đạ i thần Kỳ Bà đứng lên ngần ngại mãi không dám trả lời.
- Kỳ Bà ! Ngươi đừng ngại gì cả, quả nhân muốn tìm hiểu những khuyết điểm chứ không bao giờ dám nghĩ khác về đức Thế Tôn.
Đ ôi mắt của đại thần Kỳ Bà bỗng sáng lên và khiêm tốn trả lời câu hỏi của nhà vua:
- Tâu đại vương ! Theo những điều mà hạ thần được phỏng văn từ miệng của những người thân cận các thầy Tỳ kheo và cộng thêm sự suy luận của hạ thần thì tuy đại vương cúng dường rất nhiều phẩm vật, song tâm ý không được chí thành cho lắm và có lẽ đại vương không phát đại nguyện; cho nên tuy có công đức mà không làm sao bằng công đức của bà lão hành khất chỉ cúng dường một cây đèn nhưng đó là cả một tấm lòng chí thiết, một dạ chí thành đối với những đấng Giác ngộ và nhất là lời thệ nguyện cao rộng của bà ấy.
Nghe đại thần Kỳ Bà phân tích tỷ mỉ về động cơ của sự cúng dường của mình và của bà lão hành khất, sau một hồi suy nghĩ và xét lại bản tâm, vua A Xà Thế liền cởi mở được tất cả những điều thắc mắc.
"Công đức cúng dường không đánh giá nơi phẩm vật nhiều ít, mà căn cứ nơi sự thành tâm".
-
Chuyện Ðạo
Nguồn: http://www.gdpt.net/tailieu/nganhthi.../chuyendao.htm
I. Bà Lão Cúng Ðèn
Một thời đức Phật ở nước La-duyệt-Kỳ tại núi Kỳ-xà-Quật, lúc bấy giờ vua A-Xà-Thế thỉnh đức Phật dự lễ trai tăng trong hoàng cung. Sau khi thọ trai, đức Phật trở về Tinh-Xá Kỳ-hoàn. Vua bèn hỏi Kỳ-Bà rằng: "Ta thỉnh Phật thọ trai xong, nay không biết nên làm gì?" Kỳ-Bà nói: "Ngài nên đem rất nhiều đèn để cúng dường Phật." Vua liền sai chở một trăm thùng dầu về Tinh-Xá Kỳ-Hoàn.
Có một bà lão nhà rất nghèo, có tâm chí thành muốn cúng dường đức Phật mà không có tiền. Bà thấy vua A-Xà-Thế làm công đức như vậy, rất lấy làm cảm kích. Bà đi xin được hai tiền, liền đến nhà hàng mua dầu. Chủ hàng hỏi: "Bà rất nghèo túng, xin được hai tiền, sao không mua đồ ăn mà lại mua dầu?" Bà già đáp rằng: "Tôi nghe ở đời gặp đức Phật rất khó, vạn kiếp mới được một lần. Tôi nay may mắn được sanh đời Phật, mà chưa có dịp cúng dường. Ngày nay tôi thấy Vua làm việc đại công đức, tôi tuy cùng khổ, cũng muốn cúng dường ngọn đèn để làm căn bổn cho đời sau." Lúc bấy giờ người chủ quán cảm phục chí nguyện của bà lão, liền đong cho thêm 3 tiền thành được năm tiền dầu. Bà đến trước đức Phật thắp đèn lên, tự nghĩ dầu thắp không quá nửa đêm, bà phát nguyện rằng: "Nếu sau này tôi được chứng đạo Vô thượng như đức Phật thời ngọn đèn này sẽ đỏ suốt đêm và sáng tỏ khác thường." Phát nguyện xong bà lễ Phật rồi về.
Các ngọn đèn của Vua cúng dường, có ngọn tắt, có ngọn đỏ, tuy có người săn sóc nhưng không được châu toàn. Riêng ngọn đèn của bà lão, suốt đêm không tắt, dầu lại không hao.
Trời sáng, đức Phật bảo Ngài Mục-Kiền-Liên rằng: "Trời đã sáng, hãy vào tắt các ngọn đèn." Ngài Mục-Kiền-Liên vâng lời thứ lớp tắt các ngọn đèn, nhưng riêng ngọn đèn của bà lão thổi tắt ba lần cũng không được; sau lấy áo cà sa mà quạt ngọn đèn lại đỏ rực rỡ hơn. Ðức Phật bèn bảo rằng: "Hãy dừng lại, ngọn đèn ấy là hào quang công đức của một vị Phật tương lai, không thể lấy thần thông của người mà trừ diệt được."
Vua A-Xà-Thế nghe nói, liền hỏi Kỳ-Bà rằng: "Ta làm công đức rộng lớn như vậy mà đức Phật không thọ ký cho ta thành Phật, còn bà già kia chỉ thắp một ngọn đèn mà được thọ ký là cớ làm sao?"
Kỳ-Bà đáp rằng: "Ngài cúng đèn tuy nhiều mà tâm không chuyên nhất, không bằng được tâm thuần thành của bà kia đối với đức Phật."
(A-Xà-Thế vương thọ quyết kinh)
-
Nguồn gốc đốt đèn cúng Phật
Nguồn: http://thanhphatsc.com.vn/index.aspx...cid=961&p=2744
Truyền thống đốt đèn cúng Phật có trong Phật Giáo được bắt nguồn từ câu chuyện “Bần nữ cúng đèn”, chuyện kể rằng: “Một thời Đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ tại núi Kỳ Xà Quật, lúc bấy giờ vua A Xà Thế thỉnh Đức Phật dự lễ trai Tăng trong hoàng cung. Sau khi thọ trai, Đức Phật trở về Tinh Xá Kỳ Hoàn, Vua bèn hỏi Kỳ Bà rằng: “Ta thỉnh Phật thọ trai xong, nay không biết nên làm gì?”. Kỳ Bà nói: “Ngài nên đem rất nhiều đèn để cúng dường Phật”. Vua liền sai chở mọt trăm thùng dầu về Tinh xá Kỳ Hoàn.
Có một bà già nhà rất nghèo, có tâm chí thành muốn cúng dường Đức Phật mà không có tiền. Bà thấy vua A Xà Thế làm công đức như vậy, rất lấy làm cảm kích. Bà đi xin được hai tiền, liền đến nhà hàng mua dầu. Chủ hàng hỏi: “Bà rất nghèo túng, xin được hai tiền, sao không mua đồ ăn mà lại mua dầu?”. Bà già đáp rằng: “Tôi nghe ra đời gặp Đức Phật rất khó, vạn kiếp mới được một lần. Tôi nay may mắn được sinh đời Phật, mà chưa có dịp cúng dường. Ngày nay tôi thấy vua làm việc đại công đức, tôi tuy cùng khổ, cũng muốn cúng dường ngọn đèn để làm căn bản cho đời sau”.
Lúc bấy giờ người chủ quán cảm phục chí nguyện của bà già, liền đong cho thêm ba tiền thành được năm tiền dầu. Bà đến trước Đức Phật thắp đèn lên, tự nghĩ dầu thắp không quá nửa đêm, bà phát nguyện rằng: Con không có gì cúng dâng Phật, ngoại trừ cây đèn nhỏ này. Nhưng do sự cúng dường này, mong cho con đời sau có trí tuệ. Mong cho con giải thoát tất cả hữu tình ra khỏi bóng tối ngu si. Mong cho con tịnh hóa tất cả những cấu uế chướng ngại của họ, và đưa họ đến giải thoát.
Đêm ấy tất cả các ngọn đèn của vua cúng dường, có ngọn tắt, có ngọn đỏ, tuy có người săn sóc nhưng không được chu toàn. Riêng ngọn đèn của bà lão thì chiếu sáng hơn các ngọn đèn khác, suốt đêm không tắt, dầu lại không hao.
Đến lúc bình minh, ngọn đèn của bà lão vẫn tiếp tục cháy, khi tôn giả Mục Kiền Liên đi thâu lại những cây đèn. Khi trông thấy ngọn đèn còn cháy sáng, đầy dầu và bấc mới, Ngài nghĩ: “Không lý gì để cho cây đèn này vẫn cháy vào ban ngày,” và Ngài cố thổi tắt, nhưng cây đèn vẫn cháy. Ngài lấy tay bóp, lấy y chụp lên cho nó tắt, mà nó vẫn tiếp tục cháy sáng.
Đức Phật vẫn nhìn ngài từ lúc đầu, và bảo: Mục Kiền Liên, có phải ông muốn dập tắt ngọn đèn ấy không? Ông không làm được đâu. Ông không di chuyển được nó, chứ đừng nói là dập cho nó tắt. Nếu ông đem được bốn biển mà tưới lên cây đèn này, nó vẫn không tắt được, tại sao? Vì cây đèn này đã được đốt lên để dâng cúng với tất cả niềm sùng kính, và với tâm trí thanh tịnh. Chính động cơ ấy đã làm cho nó có công đức vô cùng.
Khi Đức Phật nói lời này, thì bà lão ăn xin đi đến Ngài, và Ngài nói lời thọ ký cho bà trong tương lai sẽ thành Phật. Vua A Xà Thế nghe nói, liền hỏi Kỳ Bà rằng: “Ta làm công đức rộng lớn như vậy mà Đức Phật không thọ ký cho ta thành Phật, còn bà già kia chỉ thắp một ngọn đèn mà được thọ ký là cớ làm sao?”. Kỳ Bà đáp rằng: “Ngài cúng đèn tuy nhiều mà tâm không chuyên nhất, không bằng được tâm thuận thành, tôn kính tuyệt đối của bà lão kia đối với Đức Phật”.
Đèn dầu đã từng được sử dụng rộng rãi trên thế giới trước khi các thiết bị chiếu sáng bằng điện được phổ biến. Ngày nay, ngoài các mục đích trang trí, chiếu sáng trong trường hợp khẩn cấp, hoặc tại các vùng xa xôi không có điện, đèn dầu còn là vật thờ cúng không thể thiếu của mỗi gia đình Việt Nam.
Đèn dầu bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Thời đó, người dân Việt Nam quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng dầu đèn. Xuất hiện cái tên đèn Hoa Kỳ (đèn Huê Kỳ). Dần dần, đèn Hoa Kỳ thay thế những đĩa đèn dầu lạc và những ngọn bạch lạp.
Theo thông tục của người Châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng, đèn dầu là vật thờ cúng không thể thiếu, tượng trưng cho chữ "hỏa" (lửa), tạo không khí ấm áp và tôn vinh sức mạnh. Đèn dầu là nét đẹp tín ngưỡng và mang ý nghĩa phong thủy. Do đó đèn dầu luôn được đặt ở vị trí ưu tiên trên bàn thờ ở các gia đình hoặc đình chùa để "giữ lửa" và để lấy lửa thắp hương trong các kì cúng lễ hay giỗ chạp. Đèn dầu cổ đã trở thành một thú chơi cho những người.
-
Đốt đèn cúng dường Phật có thể diệt được bóng tối nghìn năm, tích tụ phước đức vô lượng vô biên
Nguồn: http://phatgiaovietnam.vn/thi-truong...g-vo-bien.html
(PGVN) - Khi đức Phật chưa nhập Niết bàn, Ngài có rất nhiều đệ tử kiệt xuất, nhưng sở trường của mỗi người không giống nhau. Thí dụ: Tôn giả Xá Lợi Phất là người có trí tuệ đệ nhất, Tôn giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất.............
Đốt đèn cúng dường Phật có thể diệt được bóng tối nghìn năm, tích tụ phước đức vô lượng vô biên
Khi đức Phật chưa nhập Niết bàn, Ngài có rất nhiều đệ tử kiệt xuất, nhưng sở trường của mỗi người không giống nhau. Thí dụ: Tôn giả Xá Lợi Phất là người có trí tuệ đệ nhất, Tôn giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, còn Tôn giả A Na Luật thì thiên nhãn đệ nhất, Tôn giả có thể nhìn thấy cõi tam thiên đại thiên thế giới rất rõ ràng, ngay cả những nơi vi tế cũng thấy được.
Đốt đèn là phương pháp cầu nguyện cho các phiền não nghiệp chướng đều được tiêu trừ, nguyện cho trí huệ tăng trưởng, đầy đủ phước báo, đời đời thường hành Bồ tát đạo.
Một hôm, Tôn giả A Nan hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn, cho con xin hỏi A Na Luật kiếp trước có nhân duyên gì, mà đời nay được thiên nhãn như thế?"
Đức Phật trả lời: Trong 91 kiếp xa xưa, sau khi đức Phật Tỳ Bà Thi nhập Niết bàn, lúc đó A Na Luật là một kẻ đạo tặc, anh ta muốn trộm lấy một ít tài vật ở trong tháp Phật. Nhưng khi đến nơi nhìn thấy ngọn đèn trước bàn Phật sắp tắt, anh ta liền lấy mũi kiếm gạt ngang tim đèn, khiến cho ngọn đèn khôi phục lại ánh sáng như cũ.
Tên đạo tặc này khi nhìn thấy ngọn đèn, bỗng nhiên cảm nhận được uy lực của ánh sáng trước ngọn đèn Phật, trong lòng bất giác kính nể. Anh ta suy nghĩ, mọi người đều đem vật phẩm đến cúng dường Phật, tại sao mình lại trộm lấy, đây là đạo lý gì? Nhân đây, bao nhiêu ý niệm trộm cắp trong đầu, anh đều buông bỏ hết.
Chính vì anh ta nhờ nhân duyên khơi tim đèn trước Phật, khiến cho ngọn đèn có thể tiếp tục phát sáng, cho nên trong 91 kiếp về trước anh đều được thác sinh vào những gia đình tốt, và cũng nhân công đức đó khiến cho anh dần dần loại trừ được tập khí xưa kia, phước báu cũng không ngừng tăng trưởng.
Đến đời này, anh còn có thể gặp được Phật, được xuất gia tu hành, được chứng quả A La Hán và cũng được thiên nhãn đệ nhất trong chúng.
"Đèn" là tiêu biểu cho quang minh và trí tuệ, cũng là một trong mười loại cúng dường, hy vọng xuyên qua ý nghĩa đốt đèn có thể đốt lên "ngọn đèn tự tánh" từ trong tâm chúng ta; đốt đèn cúng Phật là một cách cúng dường quan trọng trong nhà Phật, đốt đèn trước Phật là để tiêu biểu cho trí tuệ ba la mật của Phật. Thiệu Duyên sưu tầm
-
Ý Nghĩa Cúng Hoa, Đèn, Hương Và Ý Nghĩa Lễ Cầu Nguyện!
Nguồn: https://fdxnguyen.wordpress.com/2014...le-cau-nguyen/
Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
Ý Nghĩa Dâng Hoa Cúng Phật
Dâng hoa cúng Phật mang ý nghĩa dâng cúng những điều thiện lành, tốt đẹp, thơm tho,chúng ta làm được trong cuộc sống hằng ngày, theo lời chư Phật dạy. Chẳng hạn như chúng ta làm được việc thiện nào trong ngày, chúng ta dừng được việc ác nào trong ngày, đó là những bó hoa tươi thắm đem dâng cúng chư Phật.
Việc dâng hoa cúng Phật là một hành động thành kính ngưỡng mộ, bày tỏ tâm biết ơn sự chuyển hóa vô thượng của giáo pháp, mặc dù giá trị vật chất không đáng quan tâm. Tiếp theo việc dâng hoa cúng Phật là lời tán tụng và tâm người Phật tử hồi tưởng lại đời sống cao thượng, phẩm hạnh vi diệu của đức Phật, quyết cố gắngnoi theo, không cầu khẩn van xin gì cả.
Đức Phậtlà một bậc sáng suốt, đã chấm dứt sự phiền não và khổ đau, một đấng hoàn hảo,chứng được trí tuệ bát nhã và giác ngộ chân lý vô thượng, đáng được tônkính và đảnh lễ. Người Phật tử quyết tâm noi theo chánh đạo, đưa đến chánh kiến và chánh tín, để hiện tại đạt an lạc hạnh phúc, mai sau được giác ngộ giải thoát.
Ý Nghĩa Lễ Cúng Đèn
Trong hình thức nghi lễ, khi cúng dường một ngọn đèn lên đức Phật, không nên nghĩ hay cho rằng mình đang làm mộtân huệ và cầu khẩn van xin phước báo. Trái lại, nên ý thức một cách trọn vẹnrằng: chúng ta đang nâng cao nguồn sáng trí tuệ, mà chúng ta tiếp nhận từ đứcPhật. Nguồn ánh sáng này xua đuổi bóng đêm trong tâm thức chúng ta, hướng dẫn chúng ta và tất cả chúng sinh tìm thấy con đường đi đến giác ngộ.
Theo cách này, đối với người thực hiện nghi lễ, ngọn đèn cúng dường lên đức Phật là phương tiện để quán niệm vềcái ánh sáng giác ngộ đã và đang chiếu sáng trong mỗi người chúng ta từ thời vô thủy, và ánh sáng đó thường bị những bức tường do tự ngã che khuất trong bóng tối. Mục đích của sự tu tập chính là để dẹp trừ cái bản ngã đó.
Ý Nghĩa Dâng Hương Cúng Phật
Theo kinh sách, khi làm lễ dâng hương cúng Phật có 5 ý nghĩa, gọi là Ngũ Phần Hương, gồm có:
1. Giới hương,
2. Định hương,
3. Tuệ hương,
4. Giải thoát hương, và
5. Giải thoát tri kiến hương.
Đức Lục Tổ Huệ Năng giải thích trong Kinh Pháp Bảo Đàn như sau:
1. GIỚI HƯƠNG: Tức trong tự tâm chẳng quấy, chẳng ác, chẳng ganh tỵ, chẳng tham sân, chẳng cướp hại, gọi là GIỚI HƯƠNG.
2. ÐỊNH HƯƠNG: Thấy những cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng loạn, gọi làÐỊNH HƯƠNG.
3. TUỆ HƯƠNG: Tự tâm vô ngại, thường dùng trí tuệ chiếu soi tự tánh,chẳng tạo điều ác, dù tu nhiều thiện mà tâm chẳng chấp trước, kính trên mếndưới, thương xót kẻ cô đơn nghèo nàn, gọi là TUỆ HƯƠNG.
4. GIẢI THOÁT HƯƠNG: Tự tâm chẳng phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tựtại vô ngại, gọi là GIẢI THOÁT HƯƠNG.
5. GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG: Tự tâm đã chẳng phan duyên thiện ác, chớ nên trầm không trệtịch, phải tu học pháp tối thượng thừa, nhận tự bản tâm, thông đạt lý Phật, hạ mình để tiếp người, vô nhơn vô ngã, thẳng đến Bồ đề, chơn tánh chẳng đổi, gọilà GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG.
Thiện tri thức ! Năm thứ hương này mỗi người tự huân tập trong tâm, chớ tìm bên ngoài.
Dâng cúng Phật
hương,đăng, hoa, quả, thủy.
Trong các thứ trên,
cúng dường pháp là hơn hết.
Ý Nghĩa: Đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát khởi tín tâm, tin tưởng sâu sắc, hiểu biết rõ ràng, thành tâm dângcúng: những điều tốt đẹp, những thành tựu cao quí nhứt, trên bước đường tu học (học hỏi chánh pháp và tu sửa thân tâm).
Không tu tập và không làm như thế,dù thành tâm đến đâu, dâng hương cầu nguyện nào có được gì? Tại sao vậy? – Bởi cầu khẩn van xin mà được như ý, người ta đền ơn đáp lễ, đốt hương cả bó, cháyluôn ngôi chùa!
Dâng cúng hương mang ý nghĩa dâng cúng những hương thơm kết tụ do việc giữ gìn giới luật, những hương thơm kết tụ do việc luôn giữ tâm thiền định, những hương thơm kết tụ do việc phát triển trí tuệ, nhữnghương thơm kết tụ do việc tu hạnh giải thoát và những hương thơm kết tụ do việc giải thoát sự hiểu biết phiền lụy của thế gian.
Tóm lại dâng hương cúng Phật gồm có:1. Giới hương 2. Định hương 3. Tuệ hương 4. Giải thoáthương và 5. Giải thoát tri kiến hương
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
Nghi lễ có tác dụng rất lớn đối với các tôn giáo. Phật giáo dù không coi trọng,nhưng nghi lễ vẫn chi phối phần lớn các sinh hoạt Phật sự, đôi khi còn là hoạtđộng chính của một ngôi chùa, để đáp ứng nhu cầu của quần chúng và nhu cầuhoằng pháp. Đối với cá nhân, khi lâm vào hoàn cảnh bức bách, khổ đau, bất trắc,bất như ý, con người thường cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, tìm sự bình yêntrong tâm hồn qua cầu nguyện.
Lời cầu nguyện này chỉ giúp tâm tríđược bình yên tạm thời. Nếu con người có học hiểu giáo lý của đạo Phật, thâm hiểuluật nhân quả, biết rằng: mọi chuyện gì xảy đến cho mình, đều do chính mình đãtạo nghiệp nhân trước đây, giờ phải nhận nghiệp quả, nghiệp báo (gọi chung là quả báo). Việc may mắn đến, mình biết ngay rằng: đó là phước báo, doviệc thiện lành chính mình đã làm. Việc không may xảy đến, mình biết ngay rằng:đó là quả báo, do việc bất thiện chính mình đã làm. Theo chánh pháp, nênbiết rằng: chỉ có phước báo mới làm giảm bớt hay tiêu trừ quả báo mà thôi!
Cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, màkhông tu nhân tích phước, không tu tâm dưỡng tánh, không dừng các nghiệp bấtthiện, phỏng có được gì? Thí dụ chúng ta lỡ mượn nợ tiêu xài rồi (tạo nghiệp), bây giờ phải đền trả (gặp xui xẻo), chỉ có cách lấy tiềntiết kiệm (phước báo). Không có tiền tiết kiệm thì phải cầu nguyện trúngsố để trả nợ chăng?! Người có phước báo nhiều, dù gặp tai nạn lớn lao như rớtmáy bay, động đất, vẫn sống sót, gọi là số may mắn quá. Người có phước báo íthơn, phải chịu thương tích hay xây xát chút đỉnh, gọi là còn hên quá. Ngườikhông có phước báo thì lãnh đủ quả báo. Thời đức Phật còn tại thế, khi chư vịthánh tăng phải đền trả các nghiệp báo cuối cùng,Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú, như sau:
Dù lánh lên non núi,xuống biển hay vào hangkhi nghiệp báo đã mangkhông ai tránh thoát khỏi.
Theo quan niệm Phật giáo, cầu nguyện không phải là van xin đức Phật, Bồ tát, thần thánh hay năng lựclinh thiêng huyền bí nào cả. Cầunguyện là tập trung tâm trí, nhất tâm chuyển đổi vọng niệm mê lầm, xấu ác trởnên thanh tịnh. Cầu nguyện vì thế chính là phương pháp quán chiếu, nhìn lại conngười thật của mình, quan sát tâm tình, trừ khử tà kiến mê tín, khát vọngphàm tình, ích kỷ nhỏ nhen, ỷ lại yếu đuối. Cầu nguyện là một cách định tâm,định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người. Nếu hiểu chính xác ý nghĩa cầunguyện thì cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương vớiphương pháp thiền định, quán chiếu tự tâm.
- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình,chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, đúng chánh pháp, trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ.
- Cầu nguyện cho mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình là lời cầu nguyện vị kỷ, phi chánh pháp,không từ bi & trí tuệ.
- Nếu ai cầu cũng được như ý, thếgiới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên. Không làm việc cầu giàu có. Không tu hành cầuvãng sanh. Không học hành cầu đỗ đạt. Các bên thù nghịch cầu nguyện đối phươngbiến mất. Trái đất chỉ còn thú vật, đất đá, cây cỏ! Thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp là như vậy đó!
- Trong chiến tranh thế giới 1 và 2,hai phe lâm chiến đều làm lễ cầu nguyện long trọng, xin Thượng đế giúp phe mìnhchiến thắng đối phương. Thượng đế bèn nghe theo lời cầu nguyện này, nên hai pheđều tả tơi thê thảm. Đó là thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp!- Đạo Phật trải qua nhiều năm tháng truyền bá xuyên qua nhiều quốc độ, nên mangcái vỏ mê tín của tôn giáo, và lập ra nhiều nghi thức, lễ hội, để tiếp cận vớiquảng đại quần chúng đang sống trong vô minh. Giáo lý đạo Phật rất siêuviệt, nhiệm mầu khi áp dụng trong đời sống, không buộc ai phải thờ lạy, cúngkiến đức Phật với tâm cầu khẩn van xin, vòi vĩnh như đứa bé thơ. Trái lại, Đức Phật dạy: Tôn thờ Như Lai mà không hiểu Như Lai, chính là phỉ báng Như Lai vậy.
- Ngày nay, người theo đạo Phật, tusĩ cũng như cư sĩ, nhân danh phát huy tín tâm của Phật tử, bày ra đủ thứ nghilễ rườm rà, phức tạp, tạo vẻ linh thiêng huyền bí, giải thích hiện tượng thiênnhiên phi chánh pháp, đem kinh sách chữ nghĩa hù dọa những người ít hiểu biết,không thuyết giảng chánh pháp, lại tuyên truyền tà pháp. Chẳng hạn như: ngườingồi xe lăn, chỉ nhờ tín tâm với tượng Phật ngọc mà phục hồi, đi đứng bìnhthường!
Tóm lại, người Phật tử dù tại gia hay xuất gia, có chút phước báu,có chút trí tuệ, ngoài tín tâm ban đầu qua các hình thức lễ hội, sinh hoạt Phậtgiáo, nên phát tâm tìm hiểu cốt tủy của lời Phật dạy, hướng tín tâm đến chỗ chánhtín. Không nên tiếp tục để các tà sư – mang hình tướng xuất gia hay tại gia– hướng dẫn tín tâm ban đầu đến chỗ mê tín.
Từ mê tín đến cuồng tín, chỉ cách một sợi tơ !
TượngPhật Tượng Bồ Tát
Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát! Mặc cho sóng gió, động đất, lũ lụt, nhà tan, thuyền xe trôi vạt, pho tượng của ngài ÐịaTạng Vương vẫn sừng sững đứng vững không lay động ……
Chuyện lạ có thật Japan Tsunami:tượng Đức Địa Tạng Vương ở Nhật vẫn đứng yên không ngã trong vùng bị tàn phá.Chung quanh tan tác ngã nghiêng. Lạ lùng thay, tượng Đức Địa Tạng Vương vẫnđứng yên sừng sững! Amazing !!!
”Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Trên đây là nội dung các emails gửiđến hộp thư của PHTQ. Đa số Phật tử đều cho rằng hiện tượng này linh thiênghuyền bí, tượng BT Địa Tạng đủ sức chống chọi với sức mạnh khủng khiếp của cơnsóng thần quét sạch cả thành phố ven biển, tàu bè lớn nhỏ, xe cộ đủ loại đủ cỡ,kể cả ngôi chùa và các tôn tượng khác. Điều đáng tiếc là trong số các ngườichuyển đi email mê tín này, có vài vị tu sĩ.
Mê tín là bởi vì trong đạo Phậtkhông có hình tượng nào gọi là linh tượng, theo nghĩa linh thiêng huyền bí, cầugì được nấy, cũng không có hình tượng nào gọi là thánh tượng, theo nghĩa các vịthánh là bậc bề trên không ai đạt được, chuyên ban phước giáng họa.
Trong đạo Phật, chỉ có tôn tượng, theo nghĩa hình tượng để tôn thờ, lễ bái, noi theo gương tu hành và công hạnh cao quí, đáng tôn kính, để sống đời và tu tập đúng chánh pháp, hành đúngchánh đạo, cuối cùng là trọn thành Phật đạo. Cũng có những hình tượng gọi là bảo tượng, theo nghĩa hình tượng quí báu, vật chất và tinh thần, hoặc có giátrị theo chiều dài lịch sử. Chúng ta nên biết: hình tượng làm bằng gổ, bằngthạch cao không chịu được búa bổ; hình tượng làm bằng vàng, đồng, khôngchịu được lửa thiêu đốt. Các hình tượng dù bằng vật liệu nào cũng phải chịu quiluật vô thường: thành, trụ, hoại, diệt.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật códạy:
Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng.
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.
Qua hình tướng các tôn tượng chư Phật, nhưng không chấp tướng Phật Ngọc Phật vàng, Phật đồng, hay Phật gỗ,ta mới thấy được, ngộ được Phật Tâm, Phật tánh, Như Lai. Nếu như mê tín chấptướng, dù là tượng Phật Ngọc giá trị bạc triệu, tượng Phật vàng giá trị trămngàn, tượng Bồ Tát sau cơn bão, hậu quả là ngộ độc bởi hoa mạn đà la,hào quang 5, 7 màu, do các tà sư tuyên truyền bá láp, bán rao tà pháp, hưởngdanh thu lợi.
Nghĩa là: Trên đời này, vật gì có hìnhtướng đều là hư vọng, nay hiện hữu, mai mất đi, không tồn tại vĩnh viễn.
Các hình tượng được làm bằng bất cứvật liệu nào, đơn sơ như gổ, đá, xi măng, thạch cao, hay quí giá hơn như vàng,bạc, đồng, ngọc thạch, đá quí, kim cương, cũng chỉ có giá trị vật chất,giúp cho việc hành lễ được long trọng, trang nghiêm, giúp cho người tu theo Phật tăng trưởng sức tinh tấn tu tập theo chánh đạo, hướng tín tâm ban đầu theochánh tín và chánh kiến. Giá trị tinh thần đích thực chính là Giáo Pháp củađức Phật. Người tu theo Phật nương theo hình tượng chư Phật, để lễ bái, cầunguyện, cúng dường, phát tín tâm tìm hiểu những lời dạy của đức Phật để tu tậpvà áp dụng vào trong thực tế đời sống. Người tu theo Phật thấy và cảm nhận đượcpháp vị mầu nhiệm, thực tế của chánh pháp.Từ đó, người tu theo Phật ngộ đạo,thoát khỏi cảnh vô minh, tà kiến, mê tín, dị đoan; và không còn ngộ độc như bấy lâu nay.
Người tu theo Phật khi đã khai mởđược trí tuệ bát nhã, khác với trí thức thế gian, sẽ thấy giáo lý đạo Phật rất hữu ích cho đời sống thực tế của mọi người, giúp con người vượt qua đượcnhững phiền não và khổ đau, không phân biệt là Phật tử hay không là Phật tử.
NGUỒN : http://nguoiphattu.com/
-
Sống theo lời Phật
Tác giả: Thích Nhuận Thạnh
--------------------------------------------------------------------------------
Cô gái cúng dầu
Nguồn: http://phapan.vn/books.php?book_id=155&id=537
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
Một ngày nọ, đi xin chỉ được một đồng tiền, cô liền đến nhà bán dầu để mua dầu với tâm nguyện cúng dường Thế Tôn. Người bán dầu hỏi: “Mua một đồng, số dầu rất ít dùng sao được? Vì sao mua ít thế?”. Nàng liền tỏ bày nỗi niềm và tâm nguyện của mình. Sau khi nghe, người bán dầu thương tình bán cho cô số dầu gấp đôi so với số tiền của cô. Nan Đà xiết đỗi vui mừng, đem thẳng đến tịnh xá Kỳ Viên cúng dường Thế Tôn. Rồi nàng phát nguyện rằng: “Nay tôi xin đem một ngọn đèn mọn cúng dường đức Phật. Nguyện nhờ công đức này, đời sau tôi được trí tuệ sáng suốt và dứt trừ được tất cả ngu ám cho tất cả chúng sinh”. Phát nguyện xong cô lễ Phật và lui về.
Quá nửa đêm, các ngọn đèn kia tự tắt hết, chỉ còn một ngọn đèn của cô gái là không tắt. Ngài Mục Kiền Liên ba lần cố tắt nó nhưng không được. Đức Phật thấy, bảo: “Này Mục Kiền Liên, ngọn đèn đây do người tín nữ đem tâm Bồ đề mà cúng dường. Dầu cho lấy nước bốn biển đổ dồn lên nó cũng không thể tắt!” .
Lời bàn:
Qua câu chuyện “Cô Gái Cúng Dầu” trên, chúng ta thấy được rằng: “Trong đời sống, niềm tin rất quan trọng. Nhưng niềm tin đó phải là chánh tín. Niềm tin này phải dựa vào lòng chí thành của mình, vào sự chân thật, không bị dao động bởi những lời lẽ và sự bài xích của người khác.
Như chúng ta tin rằng: cúng dường thì sẽ được phước. Niềm tin này phải dựa trên cơ sở của trí tuệ chứ không phải là: ai sao tôi vậy. Trước khi tin, chúng ta phải hiểu rõ niềm tin dựa trên sự phân tích và những kinh nghiệm thực tiễn. Trong đạo Phật, niềm tin là do sự hiểu biết tuyệt đối chứ không tin mù quáng, không mê tín và không dựa vào tha lực tối thượng của một quyền năng nào cả. Rất nhiều người, trong đó có cả những Phật tử hiểu lầm rằng: đi chùa lễ Phật, dâng hoa cúng quả dưới chân đức Từ phụ, thắp vài nén nhang là có thể yên chí rằng đức Phật đã chứng giám cho mình. Chúng ta hãy đến với đức Phật bằng cả tâm Phật và bằng cả một niềm tôn kính dành cho một bậc đạo sư đã vạch ra và soi sáng con đường dẫn chúng ta đến bờ giải thoát, hoặc ít nhất là Ngài dẫn chúng ta đến một cuộc sống toàn thiện và gương mẫu.
Nếu chúng ta đến cúng Phật bằng niềm tin chánh tín như vậy thì nguồn năng lượng tha lực của chư Phật và năng lượng tâm linh chúng ta mới giao thoa với nhau. Lúc ấy, chúng ta sẽ đạt được như sở nguyện, giống như cô gái cúng dầu trong đoạn kinh trên.
CÁC SÁCH KHÁC :
--------------------------------------------------------------------------------
-
Bà cụ cúng đèn hoa đăng
Nguồn: http://www.thientam.vn/index.php?nv=...ticle&sid=1159
Trong kho tàng truyện cổ Phật giáo có câu chuyện liên quan đến hoa đăng như sau:
Một bà già nghèo khổ, ăn xin độ nhật, một hôm có lễ hội cúng duờng Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế cho đến những nguời có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Bà già ăn xin vì hòan cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quý kính Ngài.
Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tinh xá Kỳ Viên. Lúc nầy, bà già nghĩ rằng: Một đời ta đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không có bao giờ đuợc gặp Ngài.
Nghĩ như thế, bà ta vừa lần hồi xin ăn dọc đường vừa đến gần Kỳ Viên tinh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ lại
Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy. ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng nguời nêm cứng những con đuờng về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường Phật và chư Phật. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn, của hàng thứ dân dâng cúng. Bà tự nghĩ, ta phải cúng dường Phật và Tăng cho thỏa nguyện, Ngài là đấng thế tôn, là bậc từ bi, cao thượng.
Thế rồi bà dốc hết cả gia tài của mình có trong thắt lưng, than ôi, chỉ có 2 xu để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà huớng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về Phật để mong Phật chứng tri cho lòng thành của bà đã thắp….
Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lựơt vơi dầu rồi tắt ngấm. Tất cả, tất cả đều lịm tắt, riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin thì vẫn sáng, sáng mãi… Hiện tượng đó quá lạ lùng nên mọi nguời truyền nhau đi xem và ai cũng cho rằng điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Có một Phật tử quyền uy, giàu có đến thưa hỏi đức Thế tôn. Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn sáng, đức Thế tôn dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ nghèo khó mà tín tâm và nguyện lực lớn lao vượt bực. Vì tâm thành đó thanh lương và cao tột nên ngọn đèn của bà ta cúng Phật vẫn còn sáng khi tất cả đềm lịm tắt… Với thiện tâm nầy, sau khi bà ta chết sẽ được sanh thiên hưởng quả vui vi diệu…..Như thế, hoa đăng cúng dường đã có từ thời đức Phật tại thế, truyền mãi cho đến ngày hôm nay…
-
http://www.budsas.org/uni/u-ldv/ldv-00.htm
Phần hai - NHÂN QUẢ TƯƠNG QUAN, BỐ THÍ VÀ CÁC QUẢ LÀNH.
1. Quả lành của sự bố thí cơm
2. Quả lành của sự bố thí nước
3. Quả lành bố thí, cúng dường bông hoa và vật thơm.
4. Quả lành bố thí đèn sáng
5. Quả lành của việc bố thí thuốc có
6. Bố thí kim (may khâu).
7. Bố thí rựa chẻ củi (rìu bén)
8. Bố thí dao.
9. Bố thí dao cắt móng tay (bấm móng tay chân).
10. Bố thí chỉ may, khâu.
11. Bố thí tăm xỉa, răng.
12. Bố thí gậy.
13. Bố thí dép.
14. Bố thí giày.
15. Bố thí khăn lau.
16. Bố thí dù
17. Bố thí quạt (bằng lá thốt nốt, lá cọ ...).
18. Bố thí ly tách.
19. Bố thí thùng đựng nước, bình rót nước.
20. Bố thí bình lọc nước.
21. Bố thí vải vóc áo quần.
22. Bố thí dây nịt, dây thắt lưng.
23. Bố thí giường, ghế...
24. Bố thí giường (loại giường chân thấp xưa)
25. Bố thí gối.
26. Bố thí gối tựa.
27. Bố thí thảm, khăn chùi chân.
28. Bố thí bình, thùng đựng dầu phụng, dầu thắp,..
29. Bố thí đèn thắp.
30. Bố thí thuốc crửa mắt.
31. Bố thí vật để đưa thuốc vào mũi, (ống thuốc crửa thông mũi, những bệnh về mũi...)
32. Bố thí thau, chậu để rữa chân.
33. Bố thí dầu để xoa bóp chân.
34. Bố thí dầu bơ.
35. Bố thí sữa bò.
36. Bố thí mía khúc.
37. Bố thí ổ khoá, chốt gài cửa.
38. Bố thí đồ trang sức quý giá.
39. Bố thí voi.
40. Bố thí giấy viết.
41. Xây dựng nơi đi kinh hành (nơi đi tới, đi lui để tĩnh tâm thư giãn) bố thí .
42. Lập chòi, dựng trại che mưa nắng cho khách lỡ đường để bố thí .
43. Gieo trồng cây bồ đề để bố thí:
44. Tưới cây bồ đề:
45. Sửa tu bổ nơi thờ Phật, tháp cũ.
46. Sơn Tháp; nơi thờ Phật.
47. Tạo Tượng Phật để cúng dường.
48. Cúng dường đèn thắp sáng trước tượng Phật.
49. Cúng dường cơm trước tượng Phật.
50. Tạo đục bình cắm hoa, quả bồng (chưng hoa quả) cúng dường trước tượng Phật .
51. Bố thí bình bát.
52. Bố thí vải vóc, áo quần (không biết mặt).
53. Bố thí vải vóc, áo quần.
54. Bố thí vải vóc, y mặc đến chư Tăng (không biết mặt)
55. Lập chùa để cúng dường đến tứ phương Tăng.
56. Quả lành cúng dường Y đến chư Tăng vào mùa nhập hạ
57. Quả lành của sự cung kính đảnh lê "Y" của Chư Tăng:
58. Quả lành dâng Y lễ Kathina (từ tháng 9 - 10 âm lịch), Mùa ra Hạ.
59. Quả lành khác của việc dâng Y Kathina.
60. Quả lành cúng dường Y đến Tăng (ngoài các khoảng thời gian kể trên)
61. Quả lành của việc niệm Ân Đức Phật:
62. Quả lành chung của sự niệm tưởng Ân Đức Tam Bảo:
63. Quả lành của sự Quy y Ân Đức Tam Bảo
64. Những nhân lành cho tuổi thọ dài
65. Quả lành của việc biên soạn Tam Tạng Kinh Điển
[03] Phần ba - BỐ THÍ, PHÂN LOẠI BỐ THÍ, NHỮNG YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN BỐ THÍ
1. Sự cần thiết của bố thí
2. Ba giai đoạn tác ý thiện tâm ảnh hưởng đến quả lành trong suốt đến một quá trình bố thí
3. Phân loại bố thí
4. Những vấn đề ảnh hưởng sự bố thí liên quan đến tài vật và thái độ của người thí và những quả lành tương ứng.
5. Năm sự bố thí hợp thời đúng lúc và quả lành
6. Có năm loại bố thí không được quả lành:
7. Năm sự bố thí cho quả lành tuổi thọ dài:
8. Sự bố thí cho phước lành thù thắng:
9. Có 14 hạng nhận vật thí:
10.Phước lành trỗ sanh trong vòng bảy ngày (bố thí với đủ 4 chi)
11. Trường cửu thí (thường xuyên thí)
12. Bố thí, động viên bố thí và quả
13. Có năm phước lành trổ sanh ngay trong hiện tại
14. Bố thí trong thời kỳ có Phật giáo thịnh hành và thời kỳ không có Phật giáo thịnh hành
-ooOoo-
Nammo tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn.
Ngài là bậc A la hán, là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.
Do nhờ oai đức Tam Bảo và phước phát sanh do pháp thí này xin hộ trì đến chư thiện tín xa gần thành tựu năm điều hạnh phúc: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh, nhất là trí tuệ sẽ phát sanh đến người. Cầu mong cho tất cả hoan hỷ phần phước thiện này để được sự an lạc lâu dài.
Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saranam gacchāmi
Sanghaṃ saranaṃ gacchāmi
Ratanattaysaranaṃ gato
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.
Con đã quy y Tam Bảo với lòng thành kính.
-
Bà già và ngọn đèn dầu
Nguồn: http://khongdenkhongdi.blogspot.com/...on-en-dau.html
--------------------------
Một thời Đức Phật ở nước La-duyệt-kỳ tại núi Kì-xà-quật, lúc bấy giờ vua A-xà-thế thỉnh Đức Phật dự lễ trai tăng trong hoàng cung. Sau khi thọ trai, Đức Phật trở về tịnh xá Kỳ Hoàn. Vua bèn hỏi Kỳ-bà rằng: “Ta thỉnh Phật thọ trai xong, nay không biết nên làm gì?”. Kỳ-bà nói rằng: “Ngài nên đem rất nhiều đèn đến cúng dường Phật”. Vua liền sai chở một trăm thùng dầu về tịnh xá Kỳ Hoàn.Có một bà già nhà rất nghèo, có tâm chí thành muốn cúng dường Đức Phật mà không có tiền. Bà thấy vua A-xà-thế làm công đức như vậy rất lấy làm cảm kích. Bà đi xin được hai tiền liền đến nhà hàng mua dầu.
Chủ hàng hỏi:
- Bà rất nghèo túng, xin được hai tiền sao không mua đồ ăn mà lại mua dầu?.
Bà già đáp rằng:
- Tôi nghe ở đời gặp được Đức Phật rất khó, vạn kiếp mới được một lần. Tôi may mắn được sinh thời Đức Phật ra đời mà chưa có dịp cúng dường. Ngày nay tôi thấy vua làm việc đại công đức, tôi tuy cùng khổ nhưng cũng muốn cúng dường ngọn đèn để làm căn bản cho đời sau.
Lúc bấy giờ, người bán dầu cảm phục ý chí của bà liền đong cho thêm ba tiền thành năm tiền dầu. Bà đến trước Đức Phật thắp đèn lên, tự nghĩ dầu thắp không quá nửa đêm, bà nguyện rằng: “Nếu như sau này tôi được chứng đạo vô thượng như Đức Phật thời ngọn đèn này sẽ đỏ suốt đêm và sáng tỏ khác thường”. Phát nguyện xong bà lễ Phật rồi về.
Các ngọn đèn của vua cúng dường, có ngọn tắt, có ngọn đỏ, tuy có người săn sóc nhưng không được chu toàn. Riêng ngọn đèn của bà lão thì chiếu sáng hơn các ngọn đèn khác, suốt đêm không tắt, dầu lại không hao.
Trời sáng, Đức Phật bảo ngài Mục-kiền-liên:
- Trời đã sáng, hãy vào tắt các ngọn đèn.
Ngài Mục-kiền-liên vâng lời thứ lớp tắt các ngọn đèn, nhưng riêng ngọn đèn của bà già thổi ba lần cũng không tắt được. Sau lấy áo cà sa mà quạt, ngọn đèn lại đỏ rực hơn.
Đức Phật thấy vậy liền bảo:
- Hãy dừng lại, ngọn đèn ấy là hào quang công đức của một vị Phật tương lai, không thể lấy thần thông của người mà trừ diệt được.
Vua A-xà-thế nghe chuyện, liền hỏi Kỳ-bà:
- Ta làm công đức lớn như vậy mà Đức Phật không thọ ký cho ta thành Phật, còn bà già kia chỉ thắp một ngọn đèn mà được thọ ký là cớ làm sao?.
Kỳ-bà đáp:
- Ngài cúng đèn tuy nhiều mà tâm không chuyên nhất, không bằng được tâm thuần thành của bà già kia đối với Đức Phật.
Sưu tầm
-
CÚNG DƯỜNG LÀ PHỤNG SỰ
Nguồn: http://chonngoc.blogspot.com/2013/11...-phung-su.html
"Cúng dường chúng sanh tức cúng dường chư Phật."
Câu kinh này ngày nay được chuyển ngử là Phụng sự chúng sanh là phụng sự chư Phật. Vì từ cúng dường chính là phụng sự. Cúng là cung cấp, dường là nuôi dưỡng, cung cấp và nuôi dưỡng thì chính là phụng sự. Khi người ta dâng lễ vật tứ sự ( Ăn, Ở, Mặc và Bệnh là tứ sự, các lể vật đóng góp phuc vụ cho cái ăn, chổ ở. Y-phục và thuốc men chính là lể vật phụng sự cho 4 nhu cầu căn bản của con người ) đến với chư tăng thì gọi là cúng dàng (cúng dường) . Sự cúng dường này mang tính vật chất nuôi dưỡng thân mạng. Còn cúng dường cao hơn là cúng dường PHÁP. Dù là cúng dường cái gì thì cũng phải thanh tịnh thì mới đúng pháp. Có cúng thì phải dùng tịnh tài để cúng, tịnh tài là tiền bạc và vật phẩm phải trong sạch, do đó những đồng tiền và vật phẩm bất tịnh thì có hậu quả không tốt, ví như mình đem tài sản trộm cướp được mà cúng cho nhà chùa thì nhà chùa trở thành nơi chứa đồ gian ! Nếu nhà chùa chứa chấp kẻ bất lương thì rỏ ràng là tai họa khôn lường. Nếu vật phẩm không trong sạch thì chỉ giết mạng người hoặc làm cho đau bệnh thân xác. Nhưng cúng dường pháp bất tịnh không như chánh pháp của Phật dạy thì biến đạo Phật thành ngoại đạo tà giáo. Trong kinh Duy Ma Cật có câu chuyện ngài Trì Địa Bồ-tát ở trong rừng tu hạnh thanh tịnh, đột nhiên có Thiên ma vua cỏi trời của Ma vương ba tuần hiện đến giả dạng là Thiên vương Đế thích để ca ngợi Ngài Trì Địa, Ngài không biết là Ma vương nên cứ nghĩ là trời Đế Thích. Thiên Ma liền cúng dường cho Ngài Trì Địa 500 thiên nữ để hầu hạ cho Ngài. Trì Địa bồ-tát hết lời từ chối vì ngài tu hạnh Thanh tịnh đạo nên không nhận vật phi pháp, vì giữ đúng pháp nên không nhận vật phi pháp. Nhưng Thiên ma cứ nhất định nài ép Ngài phải nhận, hai bên còn đang dằn co qua lại không ai phân xử, thì Ngài Duy Ma Cật cư sỹ xuất hiện nói rằng : Đây là Thiên Ma chứ không phải Đế Thích, này Thiên Ma ông nên cúng 500 thiên nữ cõi ma này cho ta.!...Thiên ma sợ quá toan biến mất nhưng không đi được. Duy ma cư sỹ nói rằng : Nếu Thiên Ma muốn đi thì phải để lại 500 thiên nữ của Ma cho Duy Ma thì mới được đi, vì Thiên nữ này chỉ có Duy Ma mới có khả năng giáo hóa và nhận lảnh.Vậy là Ma vương đành bỏ lại 500 ma nữ để thoát chạy. Lúc đó Duy Ma liền nói Phật pháp cho 500 thiên ma nữ nghe và 500 vị này đắc ngộ pháp môn bất nhị của ngài giáo hóa. Lúc đó Duy Ma cư sỹ liền bảo các thiên nử đắc pháp trở về cung ma như cũ. Các thiên nữ thưa rằng chúng con đã tu theo Ngài nay làm sao có thể về với ma được nửa ? Duy Ma lại dạy rằng : Có một pháp gọi là Vô tận đăng, ví như ngọn đèn mồi lửa qua ngọn đèn khác làm thành một chuổi đèn vô tận, các cô về cung ma và truyền ánh sáng này cho Ma làm cho tất cả đều trở thành những ngọn đèn nhiều đến vô tận. Các thiên nữ liền tỏ ngộ và lui về cung ma để làm Phật sự. Qua câu chuyện này chúng ta thấy rằng nếu đã thật là ánh sáng, là ngọn đèn rỏ ràng như thật thì sẽ truyền được ánh sáng cho ngọn đèn khác. Nhưng nếu chưa có ánh sáng của ngọn đèn thì phải giử chắc giới pháp như Ngài Trì Địa chứ không thể bỏ pháp mà nghe theo người khác, dù người đó có hảo tướng và đẹp đẻ oai vệ như Đế thích.
Phụng sự chúng sanh thì phải thật sự giác ngộ và có khả năng truyền đăng như Ngài Duy Ma thì mới nên chơi với ma, còn như Ngài trì Địa chưa có khả năng đó thì Ngài cứ giữ chặc thanh tịnh đạo của ngài thì mới xứng đáng là người tu đạo Phật. Nếu không biết nhận của cúng dường đúng pháp phật dạy thì thế nào cũng rơi vào đường ma. Những người con Phật khi cung dưỡng chúng sanh và nhận sự cung dưỡng của ai thì phải xem xét xem có thanh tịnh hay không. Nếu bất tịnh thì có hậu quả bất tịnh. Cúng dường chúng sanh là phụng sự chư Phật, nhưng nếu không khéo léo thanh tịnh thì phụng sư cho ma hoăc nhận sự cung dưỡng không đúng pháp thì đem lại cái tai hại không lường hết được. Ngày nay chúng sanh không ở đâu xa, chính là những người có duyên với nhau, có thể là con cháu, có thể là bạn bè hay những người trên hoặc kẻ dưới của mình, đều do sự cung dưỡng của mình mà có thể thành ma hay Phật là do cái căn thân chủng tánh của họ phát triển lên , do sự tưới tẩm của thân bằng quyến thuộc mà nảy sanh. Nếu một người có ánh sáng của Phật, thì tất cả việc làm của họ đều là Phật sự, dù là việc quét dọn nhà cửa hay chà cầu tiêu đều là Phật sự. Bởi vì làm với tâm trong sáng thanh tịnh thì không có việc nào làm mà không vì nhiêu ích hửu tình chúng sanh. Đánh răng rửa mặt hay tắm rửa cho chính mình cũng là nhiêu ích hửu tình. Đại thừa thì lấy nhiêu ích hửu tình làm giới đức nên từ giới mà sanh định, do có định nên có tuệ làm ngọn đèn soi đường. Mình phải làm ngọn đèn soi đường cho mình đứng, mình đi chứ không thể có ai làm cho mình được, mình chính là chúng sanh, mình chưa soi sáng cho chúng sanh của mình được thì làm gì có ánh sáng để mồi sang ngọn đèn khác. Tinh tấn như Ngài trì địa còn không phân biệt được thiên Đế Thích và thiên ma, lấy đâu ra ánh sáng để mồi cho ngọn đèn khác. Duy Tuệ thị Nghiệp, nhưng chưa có tuệ thì không thể biết được thế nào là ma hay là Phật. Mình chỉ có thể biết mình trong một chừng mực nào đó, và từ chừng mực của mình mà chia sẻ với các chúng sanh đồng sự có duyên với nhau mà thôi. Phật cũng không thể độ người vô duyên, nếu mình vô duyên với thiện tri thức thì cũng do nghiệp của mình mà ra. Nếu có dip, sẽ chia sẻ thêm về Nghiệp theo từ ngử của Phật gia ngử và theo hiên thực của đời người. Ở chủ đề hôm nay chỉ muốn nói sơ lược cho có ý niệm về cúng dừơng và phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật. Nếu mình cúng dường, phung sự cho một đối tựơng tham ác, thì cái tham ác sẽ đươc tứoi tẳm và nảy sanh. Nếu phung sự cung dưỡng cho mầm sống thiện lành thì hạt giống lành được tứoi tẩm và nảy sanh nhiêu ích cho đời sống. Nếu không khéo phân biệt cho đúng hành động của mình và đối tượng mà mình cung cấp tài trợ, thì chính là phụng sự cho cái ác và hư hèn của chúng sanh phát triển, chúng sanh không nảy mầm giác ngộ để thành hạt giống của Phật thì mình đã làm sai rồi. Vì vậy có thể đang phụng sự và cúng dường cho ác ma mà lại lầm là phụng sự chúng sanh. Chúng sanh không hướng thiện thì làm sao có thể gọi là phụng sự cho sự nhiêu ích chúng sanh. Bởi vì có nhiêu ích chúng sanh thì Phật Pháp mới trường tồn. Lẽ thật này có thể kiểm chứng trong thưc tế xảy ra hàng ngày.
Thí dụ khi mình thấy có một gia đình nghèo quá, khả năng tài chánh của mình không nhiều nên mình khong thể giúp cho họ thoát nghèo, nhưng do lòng thương nên mình nhịn tiêu dung cho bản thân vá gia đình mình mà cho họ tiền gia đình nghèo này. Nhưng mình không biết trong nhà này có thằng con hư hỏng hoang đàng. Mình chỉ thấy bà mẹ hiền lành, nên cho bà mẹ nghèo một ít tiền để bà bớt khổ. Nhưng không ngờ rằng thằng con của bà mẹ này nó sẽ cứơp lấy tiền của mẹ nó, nó dùng đồng tiền này đi hút thuốc và uống rượu cho thỏa mãn cơn thèm khát của nó, sau cơn thõa mãn nó lại tiếp tục khảo tra mẹ nó để đòi hỏi thêm. Sau cơn say và trong cơn say nó làm những việc vô luân, có khi là giết ngừơi hay xâm phạm tổn tương người khác. Như vây đồng tiền của mình cung cấp trở thành na7ng lượng cho đứa ác hoành hành. Nếu nó đói rả ruột thì nó không còn sức để làm ác. Nhưng nhờ năng lựơng cung cấp của sự bố thí mù quáng mà nó có năng lượng để áp bức người thân của nó và nó được cơ hội để làm kẻ bất lương.
Như vậy cúng dường mà không có hiểu mình đang làm gì thì không phải là phung sự chúng sanh. Có thể mình đang phụng sự kẻ ác cho nó lộng hành.
Làm mà không hiểu thì có thể là tai họa. Bố thí phụng sự thì phải vì mục tiêu nhiêu ích hữu tình, vì có nhiêu ích chúng sanh thì mới phụng sự Phật pháp.
Minh-Đức.
-
HOA ĐĂNG CÚNG PHẬT
Quy kính Ngưỡng bái bạch Chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, Qúy Thượng tọa,Chư Đại đức Tăng Ni.
Kính thưa Quý Phật tử xa gần !
Truyền thống đốt đèn cúng Phật có trong Phật Giáo được bắt nguồn từ câu chuyện "BẦN NỮ CÚNG ĐÈN". Câu chuyện tóm lược kể về 1 bà già nghèo khổ ăn xin có tâm chí thành, muốn cúng dường Đức Phật mà không có tiền. Một hôm bà xin được 2 tiền liền dùng số tiền này mua được số dầu ít ỏi để cúng dường Phật.Đêm ấy trong tất cả các ngọn đèn được cúng dường, có ngọn tắt, có ngọn đỏ, tuy có người săn sóc nhưng không được chu toàn. Riêng ngọn đèn của bà lão thì chiếu sáng hơn các ngọn đèn khác, suốt đêm không tắt, dầu lại không hao. Bà lão đã được ĐỨC PHẬT thọ ký.
Nghi thức thắp đèn cúng Phật, trước là để tỏ lòng cúng kính đối với Phật và Thánh chúng, sau là cầu nguyện trí tuệ của mình ngày thêm sáng suốt.
Thắp đèn cúng Phật được công đức rất to lớn đã được nói ở trong Kinh. Ví dụ "Kinh Phật Vi Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt Công Đức" có thuyết về công đức của việc thắp đèn cúng Phật: Nếu có người phát tâm phụng hiến thắp đèn cúng dường Phật thì được 10 điều công đức:
1. Được công đức cả cuộc đời quang minh xán lạn như ánh đèn.
2. Được sanh về nơi chổ tuỳ theo ý muốn của mình, không bao giờ bị đau các chứng bịnh về mắt.
3. Nếu như phát tâm tu hành thì sẽ chứng được phép thiên nhãn thông.
4. Được trí tuệ có thể đối với các pháp thiện hay ác đều có thể phân biệt được.
5. Diệt trừ được hết thảy tối tăm mê muội.
6. Đắc chứng được pháp trí tuệ quang minh
7. Khi luân chuyển trên thế gian không ba giờ xa lìa vào ác đạo tối tăm.
8. Được đầy đủ phước báo to lớn.
9. Khi lâm chung được sanh lên cõi trời.
10. Nếu phát tâm tu hành thì sẽ sớm chứng được quả vị Niết bàn.”
Trong Kinh Hoa Nghiêm quyển 78 có đoạn chép: “Này người thiện nam! ví như dùng một ngọn đèn, soi vào ngôi nhà tối cả trăm ngàn năm, thì bóng tối ấy lập tức đều bị xua tan hết. Ngọn đèn tâm bồ đề của các bậc Đại Bồ Tát ma ha tát cũng như vậy; soi vào tâm u tối trãi qua bá thiên vạn ức kiếp không thể tính hết của chúng sanh, tạo các nghiệp phiền não, vô số ám chướng, đều có thể diệt trừ sạch hết…”.
Đạo Phật với tinh thần nhập thế và tuỳ duyên hoá độ, theo căn cơ cũng như nhu cầu của chúng sanh mà mở bày ra các phương tiện hoằng pháp độ sanh.
Chương trình "CÚNG DƯỜNG ĐÈN CẦY" trong dịp Lễ Vu Lan sẽ diễn ra từ ngày 1/07/2014 ( AL). Những cây đèn cầy được đâng lên cúng dường là những sản phẩm được làm thủ công với tất cả lòng thành kính của các thành viên trong nhóm. Nếu quý Phật tử xa gần muốn trợ duyên cùng hùn phước mua nguyên vật liệu tạo đèn cầy cùng nhóm xin liên hệ đại diện ban tổ chức : 0979970764 gặp Chúc Quốc.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Cúi mong chư Phật, chư Bồ Tát, lịch đại Tổ Sư, chư Tăng các bậc Thánh Hiền ở khắp mười phương, hồn thiêng sông núi anh linh chứng giám, phù hộ độ trì cho Qúy vị và gia đình sức khỏe, tươi đẹp, trí tuệ, hạnh phúc và thành đạt, vạn sự cát tường như ý!
Nguồn: http://now-events.net/vn/page/2718163
-
Ngày hôm qua, mình và Mẹ mình đã đến Chùa Phổ Quang - Quận Tân Bình, đốt Đèn dâng lên cúng dường trước Thánh Tượng Đức Thánh Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát, Ma Ha Tát ( Bổn Tôn gốc của mình ); Vì mình được nghe 1 Vị bằng hữu thân cận nói về Sự Linh Ứng và chỉ điểm rằng: " Vị ấy, đang khổ sở về mặt Tài Chính, sau khi đến Chùa lễ bái cúng dường trước Thánh Tượng, rồi về nhà liền nhận được tin báo và có được 200 đô; từ người bạn bấy lâu không liên lạc của vậy ấy! ". Và Mẹ mình khen rằng: " Nơi đây, quả thực thanh tịnh vô cùng ! ".
+Theo kinh nghiệm bản thân, khi Cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng chỉ cần cúng dường 2 món là đủ rồi: HOA - ĐĂNG
1) HOA: Là Hoa tươi ( Hoa Zơn vàng dùng để cầu Tài Lộc, hoặc SEN TRẮNG dùng để cầu PHƯỚC ĐỨC ).
2) ĐĂNG: Là Đèn cầy Ly loại lớn có màu Vàng ( Hoặc Đèn cầy Bơ vàng ).
+Theo kinh nghiệm bản thân, khi Cúng dường Chư Tiên Thiên ( Thần Tài, Thổ Địa, Táo Quân....) chỉ cần cúng dường 2 món là đủ rồi: HƯƠNG - HỎA hoặc HƯƠNG - ĐĂNG
1) HƯƠNG: là Nhang ( tốt nhất là Nhang thơm, Nhang trầm là tốt nhất ).
2) HỎA ( Hoặc Đăng ): là Đèn Sáng ( là Đèn cầy Ly có màu Đỏ )
+Sau đây là 1 Số Chú Ngữ dùng để Cúng dường Đèn ( Đăng ):
*Chú Đốt Đèn - Nhiên Đăng Cổ Phật Chơn Ngôn - Định Quang Phật Chơn Ngôn:
+Hán Việt: Án tam-muội quang-minh sa-hạ.
+Phục hồi Phạn Chú: OM SAMADHI JVALA SVAHA.
=> Câu Chú này dùng để đọc lên 7 lần, mỗi khi thắp Đèn ( Đăng ) trước Bàn thờ Phật, Đạo Tràng, Đàn Tràng - Đạo Trường; dùng để thắp Đèn ( Đăng ) cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tắng. Ngoài ra, còn dùng để Khai Đàn Dược Sư và dùng để thắp 49 Ngọn Đèn ( Đăng ) - DIÊN THỌ ĐĂNG trong Pháp ĐÀN DƯỢC SƯ; Hoặc dùng để trì tụng được gọi là Nhiên Đăng Cổ Phật Chơn Ngôn - Định Quang Phật Chơn Ngôn.
*Chơn Ngôn Cúng Dường Đèn:
1) Theo Mật Tông - Theo Phổ Thông:
+Hán Việt: Án phạ-nhật-ra a-lỗ-kế nễ-dục.
+Phục hồi Phạn Chú: OM VAJRA ALOKE DHIH.
=> Theo Thầy Tuấn ( Huyền Chân Tử ) tác giả của quyển Kinh Ông Táo, khi gia trì Chơn Ngôn này Đèn ( Đăng ) mà dâng cúng, thì Đèn sẽ cháy sáng hơn, và để ngoài trời Gió to cũng không sợ bị tắt ( Kỳ diệu lắm thay! ). Việc này, làm mình liên tưởng đến Vị Bàn Nữ Già đốt Đèn dâng cúng Phật trong chuyện cổ Phật giáo, được Phật thọ ký cho Kiếp Vị Lai sẽ thành Phật vậy.
2) Theo Phật giáo Tây Tạng:
+OM VAJRA ALOKE AH HUM, E MA HO.
+OM BENZA ALOKE AH HUNG, E MA HO.
===
-
Lược Ý Đốt Đèn Cúng Phật Trong Nghi Thức Nhiên Đăng Phật Giáo Bắc Truyền
Đăng bởi: Minh Hoàng
Đăng ngày: 20:52 Thứ ba 18/12/2012
Cập nhật ngày: 20:53 Thứ ba 18/12/2012
Nguồn: http://chuaminhthanh.com/web/plugins..._articleid=896
Lược Ý Đốt Đèn Cúng Phật Trong Nghi Thức Nhiên Đăng Phật Giáo Bắc Truyền
Thích Tâm Mãn - 釋 心 滿
(chuaminhthanh.com) Đạo Phật với tinh thần nhập thế và tuỳ duyên hoá độ, theo căn cơ cũng như nhu cầu của chúng sanh mà mở bày ra các phương tiện hoằng pháp độ sanh. Pháp hội nghi thức, cúng kiến đàn nghi trong Phật Giáo Bắc Truyền là một trong những hoạt động tín ngưỡng quan trọng không thể thiếu trong sự nghiệp hoằng hoá đạo mầu và sinh hoạt thiền lâm của Phật Giáo ở Đông Độ, trong không ít những nghi thức của pháp hội Phật Giáo Bắc Truyền có khởi nguồn từ những câu chuyện khi Phật còn tại thế. Nghi thức đốt đèn cúng Phật là một trong những nghi thức có nguồn gốc như vậy.
Truyền thống đốt đèn cúng Phật có trong Phật Giáo được bắt nguồn từ câu chuyện "Bần nữ cúng đèn", chuyện kể rằng: "Một thời Đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ tại núi Kỳ Xà Quật, lúc bấy giờ vua A Xà Thế thỉnh Đức Phật dự lễ trai Tăng trong hoàng cung. Sau khi thọ trai, Đức Phật trở về Tinh Xá Kỳ Hoàn, Vua bèn hỏi Kỳ Bà rằng: “Ta thỉnh Phật thọ trai xong, nay không biết nên làm gì?”. Kỳ Bà nói: “Ngài nên đem rất nhiều đèn để cúng dường Phật”. Vua liền sai chở mọt trăm thùng dầu về Tinh xá Kỳ Hoàn.
Có một bà già nhà rất nghèo, có tâm chí thành muốn cúng dường Đức Phật mà không có tiền. Bà thấy vua A Xà Thế làm công đức như vậy, rất lấy làm cảm kích. Bà đi xin được hai tiền, liền đến nhà hàng mua dầu. Chủ hàng hỏi: “Bà rất nghèo túng, xin được hai tiền, sao không mua đồ ăn mà lại mua dầu?”. Bà già đáp rằng: “Tôi nghe ra đời gặp Đức Phật rất khó, vạn kiếp mới được một lần. Tôi nay may mắn được sinh đời Phật, mà chưa có dịp cúng dường. Ngày nay tôi thấy vua làm việc đại công đức, tôi tuy cùng khổ, cũng muốn cúng dường ngọn đèn để làm căn bản cho đời sau”.
Lúc bấy giờ người chủ quán cảm phục chí nguyện của bà già, liền đong cho thêm ba tiền thành được năm tiền dầu. Bà đến trước Đức Phật thắp đèn lên, tự nghĩ dầu thắp không quá nửa đêm, bà phát nguyện rằng: Con không có gì cúng dâng Phật, ngoại trừ cây đèn nhỏ này. Nhưng do sự cúng dường này, mong cho con đời sau có trí tuệ. Mong cho con giải thoát tất cả hữu tình ra khỏi bóng tối ngu si. Mong cho con tịnh hóa tất cả những cấu uế chướng ngại của họ, và đưa họ đến giải thoát.
Đêm ấy tất cả các ngọn đèn của vua cúng dường, có ngọn tắt, có ngọn đỏ, tuy có người săn sóc nhưng không được chu toàn. Riêng ngọn đèn của bà lão thì chiếu sáng hơn các ngọn đèn khác, suốt đêm không tắt, dầu lại không hao.
Đến lúc bình minh, ngọn đèn của bà lão vẫn tiếp tục cháy, khi tôn giả Mục Kiền Liên đi thâu lại những cây đèn. Khi trông thấy ngọn đèn còn cháy sáng, đầy dầu và bấc mới, Ngài nghĩ: “Không lý gì để cho cây đèn này vẫn cháy vào ban ngày,” và Ngài cố thổi tắt, nhưng cây đèn vẫn cháy. Ngài lấy tay bóp, lấy y chụp lên cho nó tắt, mà nó vẫn tiếp tục cháy sáng.
Đức Phật vẫn nhìn ngài từ lúc đầu, và bảo: Mục Kiền Liên, có phải ông muốn dập tắt ngọn đèn ấy không? Ông không làm được đâu. Ông không di chuyển được nó, chứ đừng nói là dập cho nó tắt. Nếu ông đem được bốn biển mà tưới lên cây đèn này, nó vẫn không tắt được, tại sao? Vì cây đèn này đã được đốt lên để dâng cúng với tất cả niềm sùng kính, và với tâm trí thanh tịnh. Chính động cơ ấy đã làm cho nó có công đức vô cùng.
Khi Đức Phật nói lời này, thì bà lão ăn xin đi đến Ngài, và Ngài nói lời thọ ký cho bà trong tương lai sẽ thành Phật. Vua A Xà Thế nghe nói, liền hỏi Kỳ Bà rằng: “Ta làm công đức rộng lớn như vậy mà Đức Phật không thọ ký cho ta thành Phật, còn bà già kia chỉ thắp một ngọn đèn mà được thọ ký là cớ làm sao?”. Kỳ Bà đáp rằng: “Ngài cúng đèn tuy nhiều mà tâm không chuyên nhất, không bằng được tâm thuận thành, tôn kính tuyệt đối của bà lão kia đối với Đức Phật”.
Từ câu chuyện này trong nghi thức tín ngưỡng, tín chúng Phật Giáo bắt đầu có nghi thức thắp đèn cúng Phật, trước là để tỏ lòng cúng kính đối với Phật và Thánh chúng, sau là cầu nguyện trí tuệ của mình ngày thêm sáng suốt, thứ nữa là để cầu mong bao nhiêu công đức của việc dâng đèn cúng Phật này, hồi hướng đến cho bản thân và gia đình mình cũng như pháp giới chúng sinh đều được chư Phật Bồ Tát gia hộ vạn sự kiết tường như ý.
Đại Thừa Thánh Giáo hưng khởi, Phật Giáo Bắc Truyền đến Đông Độ thì nghi thức đốt đèn cúng Phật ngày một phát triển, từ thành thị cho đến thôn quê, từ hoàng cung cho đến lê thứ đâu đâu cũng tổ chức nghi thức đốt đèn cúng phật trong các Pháp hội Dược Sư cầu quốc thái dân an cho đến pháp hội Vu Lan cầu nguyện cho pháp giới tứ sanh vãng sanh Tịnh Độ.
Dâng đèn cúng Phật từ những ý nghĩa ban đầu đến khi Bắc truyền được Đại Thừa Kinh Giáo bắt đầu tuyên dương cũng như diễn giải thâm ý và tán thán công đức của nghi thức thắp đèn cúng Phật, làm cho nghi thức này trở thành một trong những nghi tiết quan trọng vào bậc nhất, không thể thiếu trong các pháp hội quan trọng của Phật Giáo Bắc Truyền.
Trong quan niệm truyền thống của Phật Giáo Bắc Truyền, Đăng là tượng trưng cho trí tuệ, với ý nghĩa là chân lý của Đức Phật như ngọn minh đăng chiếu sáng và dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi u minh phiền não đi đến an lạc Niết Bàn, giải thoát, vì vậy nên Đức Phật thường dạy: “này các con hãy tự mình thắp đuốt lên mà đi” cho nên nghi thức đốt đèn cúng Phật là hàm ý nương vào trí tuệ của Phật để rọi chiếu vô minh ám chướng của chính mình, diệt trừ phiền não chiếu phá ngã chấp giải thoát an lạc.
Theo tinh thần của Đại Thừa Phương Quảng cho rằng đốt đèn cúng Phật diệu ý cũng không khác gì như ánh sáng trí tuệ của chư vị Bồ Tát Ma Ha Ha Tát chiếu rọi phá vỡ vô minh tăm tối của chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm quyển 78 có đoạn chép: “này người thiện nam! ví như dùng một ngọn đèn, soi vào ngôi nhà tối cả trăm ngàn năm, thì bóng tối ấy lập tức đều bị xua tan hết. Ngọn đèn tâm bồ đề của các bậc Đại Bồ Tát ma ha tát cũng như vậy; soi vào tâm u tối trãi qua bá thiên vạn ức kiếp không thể tính hết của chúng sanh, tạo các nghiệp phiền não, vô số ám chướng, đều có thể diệt trừ sạch hết…”.
Thắp đèn cúng Phật được công đức rất to lớn. Trong rất nhiều kinh điển Đại Thừa đều dạy rằng việc thắp đèn cúng Phật, ở bảo tháp, trong chùa, trước tượng Phật hoặc thắp cúng dường trước các bộ kinh điển của Phật, tất cả đều được vô lượng công đức. Như trong Kinh Phật Vi Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt Công Đức có thuyết về công đức của việc thắp đèn cúng Phật: Nếu có người phát tâm phụng hiến thắp đèn cúng dường Phật thì được 10 điều công đức:
1. Được công đức cả cuộc đời quang minh xán lạn như ánh đèn.
2. Được sanh về nơi chổ tuỳ theo ý muốn của mình, không bao giờ bị đau các chứng bịnh về mắt.
3. Nếu như phát tâm tu hành thì sẽ chứng được phép thiên nhãn thông.
4. Được trí tuệ có thể đối với các pháp thiện hay ác đều có thể phân biệt được.
5. Diệt trừ được hết thảy tối tăm mê muội.
6. Đắc chứng được pháp trí tuệ quang minh
7. Khi luân chuyển trên thế gian không ba giờ xa lìa vào ác đạo tối tăm.
8. Được đầy đủ phước báo to lớn.
9. Khi lâm chung được sanh lên cõi trời.
10. Nếu phát tâm tu hành thì sẽ sớm chứng được quả vị Niết bàn.”
Trong Kinh Phật Thuyết Thí Đăng Công Đức có chép về những điều vui hỷ lạc trong đời hiện thế mà tất cả ai ai nếu như phát tâm đốt đèn cúng Phật thì đều được thọ hưỡng những niềm vui như vậy, trong Kinh có đoạn chép: “Nếu có chúng sanh nào, nơi chùa hay tháp của Phật đốt đèn cúng dường, thì đắc được bốn pháp hỷ lạc, gồm có những pháp lạc?
1. Đắc được hỷ lạc thân thể trang nghiêm đẹp đẽ.
2. Được hỷ lạc tiền tài của báu sung mãn.
3. Được hỷ lạc luôn luôn gặp được vận may.
4. Được hỷ lạc thông minh trí huệ…”.
Theo quan niệm của Phật Giáo Đại Thừa, nghi thức đốt đèn cúng Phật còn là một trong sáu thứ cúng dường trong nghi thức Lục Cúng Hoa Đăng của Phật Giáo Bắc Truyền, nghi thức này còn được Phật Giáo Việt Nam diễn tấu thành vũ khúc Lục cúng hoa đăng rất là nổi tiếng và trỡ thành một trong những vũ điệu quan trọng trong nghệ thuật ca múa truyền thống Phật Giáo và dân tộc Việt Nam.
Đốt đèn cúng Phật là một trong “Lục chủng cúng dường” sáu món cúng dường của Phật Giáo gồm có:
1. Hiến Hương là đốt nhang xông hương cúng dường Phật.
2. Hiến Hoa là dâng hoa cúng dường Phật.
3. Hiến Đăng là đốt đèn cúng dường Phật.
4. Hiến Đồ là dâng nước hoặc thức ăn cúng dường Phật.
5. Hiến Quả là dâng trái cây cúng dường Phật.
6. Hiến Nhạc là niệm tụng, tán bạch, tấu nhạc cúng dường Phật trong các nghi lễ Pháp hội đàn tràng.
Sáu món cúng dường này theo quan niệm của Phật Giáo Bắc Truyền là sáu món tượng trưng cho hạnh tu Lục Độ Ba La Mật của chư vị Bồ Tát gồm: 1. Bố Thí; 2.Trì Giới; 3. Tinh Tấn; 4. Nhẫn Nhục; 5. Thiền Định; 6. Trí Tuệ. "Đồ" tượng trưng cho Bố Thí, "Hương" tượng trưng cho Trì Giới, "Nhạc" tượng trưng cho Tinh Tấn, "Hoa" tượng trưng cho nhẫn nhục, "Đăng" tượng trưng cho Trí Tuệ, "Quả" tượng trung cho Thiền Định. Người Phật tử khi thực hành các sự cúng dường này thì cũng chẳng khác nào chư vị Bồ Tát đang tu hành pháp Lục Độ.
Công năng diệu dụng cũng như nghi thức phương pháp của việc đốt đèn cúng Phật được Đức Phật dạy rất rõ ràng Trong Kinh Dược Sư Bổn Nguyện Công Đức, trong Kinh có đoạn chép: "Bấy giờ, Ngài A Nan hỏi Ngài Cứu Thoát Bồ Tát rằng: Cung kính Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai như thế nào? và đèn phan tục mạng thế nào? Cứu Thoát Bồ Tát đáp rằng: Ðại Ðức, nếu người nào có bệnh, muốn cứu thoát khỏi bệnh khổ của họ, nên vì họ trong bảy ngày đêm, thọ trì Bát Quan Trai Giới, đồ ăn thức uống, các vật thường dùng, tuỳ sức lực mà làm, để cúng dường các vị Sư Tăng, ngày đêm sáu thời, hành đạo lễ bái cúng dường Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Đọc tụng Kinh nầy, bốn mươi chín lần, tạo bảy hình tượng Ðức Phật Dược Sư, bày thành bảy bàn, trước mỗi tượng, thắp bảy ngọn đèn, mỗi ngọn đèn lớn như vòng bánh xe, thắp sáng luôn bốn mươi chín ngày không tắt. Tạo tràng phan năm màu, dài bốn mươi chín gang tay, và phóng sinh các loài súc sinh trong bốn mươi chín ngày, thì sẽ qua khỏi các nạn nguy ách, không bị các hoạnh hoạ và ác quỷ bắt giữ...".
Cách mà người xưa ở Đông Độ đốt đèn thường là dùng một cái chén trãn nhỏ đựng dầu, sau đó để tim đèn vào đốt thành đèn, loại đèn này rất phổ biến, sau có các chất liệu như vàng, bạc, đồng đỏ, sứ, gốm đều được dùng để chế tác trãn đựng dầu đèn, càng về sau sự phát triển của hình dáng thể loại của đèn dầu rất là phong phú, như hình chén, hình dĩa, hình bình, chậu và có loại như hình cái muỗng, hình dĩa được đặt trên giá có hình trụ.v.v...
Dầu dùng để đốt đèn được chế tác từ mỡ của động vật hoặc là dầu được lấy từ trong các hạt cũng như trong các thân cây và trong các chất khoáng sản..v.v... sau đó ở Đông độ làm ra loại đèn cầy cây được chế từ sáp ong chủng loại ngày một phong phú, đáp ứng nhu cầu thắp đèn cúng Phật ngày càng phát trong các nghi thức Phật Giáo Bắc Truyền.
Theo quan niệm của Phật Giáo Bắc truyền, nghi thức thắp đèn cúng Phật trong tự viện có rất nhiều ý nghĩa, thắp đèn làm trang nghiêm cho đạo tràng, thắp đèn khiến cho tín chúng phát khởi tâm cung kính, thắp đèn tượng trưng cho ánh sáng trí tuệ của Phật chiếu diệu hết thảy chúng sanh, thắp đèn để diệt trừ hết thảy các ám chướng của phiền não, xua đi hết thảy các vận hạn không may, dẫn dắt những điều cát tường đến cho tín chủ, vì vậy trong truyền thống nghi thức của Phật Giáo Bắc Truyền, đến mùa xuân lại đốt đèn quang minh trong pháp hội Dược Sư cầu quốc thái dân an, đến tháng bảy Vu Lan thắng hội lại thả hoa đăng cầu nguyện âm linh siêu thoát.
Đốt đèn cúng Phật trong nghi thức Phật Giáo Bắc Truyền còn một ý nghĩa giáo dục rất là sâu xa, như câu chuyện Bần Nữ cúng đèn ở trên đã nói. Nếu như ta đốt đèn cúng Phật bằng tâm thế tục, phô trương sự giàu có, mặc dù phát tâm cúng rất nhiều dầu, dùng các vật dụng sang trọng, mắc tiền để làm đèn để dâng cúng, nhưng có tránh được đâu nhân quả dầu cạn lữa tắt.
Cũng ví như của cải sang giàu, phước báu, đều nằm trong sự chi phối của luật nhân quả vô thường có đó rồi mất đó, khi hưởng hết rồi thì chẳng còn chi, hoặc khi nhắm mắt xuôi tay có đem theo được thứ gì.
Người nào khi phát tâm dâng đèn cúng Phật thì đừng sanh tâm đòi hỏi và mong cầu những điều lợi ích đến với mình, mà chỉ nên nhất tâm dâng cúng chư Phật, vì tất cả các công đức trong đốt đèn cúng Phật mà Đức Phật dạy trong Kinh Phật Thuyết Thí Đăng Công Đức và kinh Phật Vi Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt Công Đức đã sẵn có, ta không mong cầu thì những công đức nêu trên cũng đã tròn đủ trong ta, chúng ta không cần phải khởi vọng niệm phiền não để kiếm tầm cúng dường với "Tâm không tức Phật" nếu phát tâm cúng dường như vậy, thì mới là chân cúng dường và như vậy thì ngọn đèn trí tuệ của chư Phật mới sáng mãi trong ta.
Đốt đèn cúng Phật trong nghi thức Nhiên Đăng cúng Phật có trong pháp hội Dược Sư hay trong nghi thức phóng liên đăng trong đại lễ Vu Lan Phật Giáo Bắc Truyền đều có chung một hàm ý là mong muốn trí tuệ của hết thảy chúng sanh nương treo ngọn đèn cúng Phật này để toả rạng, cầu nguyện Phật tâm và Phật tánh sáng suốt sẵn có trong mỗi con, thể hiện đức tánh từ bi bình đẳng không phân biệt. không bị các âm phiền não như phân biệt giai cấp, sang hèn, hơn thua, so đo của phàm phu làm lu mờ trí tuệ. Ý nghĩa cúng đèn với bản tâm thanh tịnh, tiếp nối ánh sáng trí tuệ của Phật Pháp để hiển bày được thể tánh chân như của Phật. Đốt đèn cúng Phật với phát tâm như vậy, đó được gọi là cúng dường ba la mật, cho nên tương ưng với Tâm và Pháp của Chư Phật và Chư Bồ tát.
-
ĐỐT ĐÈN
Phục hồi Phạn Chú: Phổ Quảng
*Bài 1:
+Dịch âm:
Nhược điểm đăng thời
Đương nguyện chúng sanh
Phổ chiếu Chư Thiên
Mãn đường quang lãng
NA MÔ NHIÊN ĐĂNG VƯƠNG BỒ TÁT ( 3 lần )
+Dịch nghĩa:
Nếu khi đốt đèn
Cầu cho chúng sanh
Khắp soi các Trời
Đầy nhà rực rỡ
NA MÔ NHIÊN ĐĂNG VƯƠNG BỒ TÁT ( 3 lần )
*Bài 2:
Bạch ngọc thanh quang khứ hữu lai
Vô hình vô tướng diệc vô đài
Mộc nhân thạch nữ đàm trung tiếu
Bích hỏa hoàng mai trú dạ khai
ÚM TAM-MUỘI QUANG-MINH SA-HẠ ( 3 lần )
OM SAMADHI JVALA SVAHA ( 3 lần )
*Bài 3:
Nhược điểm đăng thời
Đương nguyện chúng sanh
Phổ chiếu Chư Thiên
Mãn đường quang lãng
NA MÔ NHIÊN ĐĂNG VƯƠNG BỒ TÁT, MA HA TÁT ( 3 lần )
*Chú Đốt Đèn - Nhiên Đăng Cổ Phật Chơn Ngôn - Định Quang Phật Chơn Ngôn ( Chú Đốt ĐÈN DƯỢC SƯ ):
OM SAMADHI JVALA SVAHA ( 7 lần )
( Khi đốt Đèn - thắp Đèn - mồi Đèn, hoặc đốt bất kỳ các loại Đèn nào, mà có châm lửa - ngọn lửa sống để dâng cúng trên ĐẠO TRÀNG; hoặc Đốt ĐÈN DƯỢC SƯ trong ĐÀN THÀNH để Khai PHÁP ĐÀN DƯỢC SƯ, thì Tay viết chữ " ÁN LAM " trên ngọn đèn 3 lần; Miệng đọc bài PHÁP NGỮ trên )
-
TẮT ĐÈN
Phục hồi Phạn Chú: Phổ Quảng
*Bài 1:
Quang minh kiểu nhiễm
Trí Tuệ liệt nhiên
Bá pháp bối úc
Vi tứ tri túc
Án tịnh-hải-trí ta-ha ( 3 lần )
OM VIMALE - SAGARA - JNANA SVAHA ( 7 lần )
*Bài 2:
Ngã dĩ diệt đăng cửu gian tiên
Tri thiên thượng, thăng thiên giới nội
Tâm tâm đăng đăng biến sanh Thiên
Phổ chiếu quang minh triệt ngã nhơn
Án tịnh-nghiệp-tri tóa-ha ( 3 lần )
OM VIMALA - KARMA - JNATA SVAHA ( 7 lần )
-
-
CHƠN NGÔN CÚNG DƯỜNG ĐÈN
*Hán - Việt:
.唵。怕日囉。 阿路骑。底。諭
.Án Phạ-Nhật-Ra A-Lỗ-Kế Nễ-Dục
*Phạn Chú:
.OM VAJRA ALOKE DHI YUH
.OM VAJRA ALOKE DHIH YUH