Giáo dục thế hệ trẻ sống theo lời Phật dạy
Toàn thế giới đang nảy sinh càng lúc càng nhiều vấn đề phức tạp, nhưng không bao nhiêu người – theo tôi – hầu như rất nhiều người, chưa hiểu gì về căn nguyên của các vấn đề phức tạp ấy. Đạo Phật đã dạy cho chúng ta hiểu được đâu là bản chất như thật của cuộc đời.
Trong hội thảo chuyên đề hôm nay, tất cả các trường đại học Phật giáo chúng ta cần tập trung làm thế nào để đảm bảo đạt được mục tiêu giới thiệu Giáo dục Phật giáo cho thế hệ tương lai của chúng ta như đã được đề cập đến ngay từ ý tưởng và định hướng ban đầu! Mục đích của cuộc hội thảo này, chúng ta cần chú ý đến chất lượng và tầm quan trọng của chủ đề và cần được đông đảo tham dự viên tập trung đóng góp ý kiến thật rộng rãi. Đây không chỉ là mục tiêu của cuộc Hội thảo mà còn là mục tiêu của việc thành lập tổ chức Hiệp hội Quốc tế các Trường đại học Phật giáo của chúng ta, do đó, tôi xin được trao đổi với hội nghị về vấn đề này trước khi bàn đến công việc khác như: phương thức tổ chức, công việc của tổ chức, dự thảo điều lệ, nội qui v.v
Ngày nay, như ai cũng rõ, thế giới của chúng ta đang rơi vào tình trạng “thiếu thốn”. Đức Phật cũng đã từng nói: "Thế giới này đang “thiếu thốn." Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải khỏa lấp chỗ thiếu thốn ấy – đó cũng chính là nhu cầu khẩn thiết của chúng ta hiện nay! Một học giả Phật giáo nào đó đã từng lên tiếng: “chúng ta cần nỗ lực lấp đầy cái hố sâu thiếu thốn của thế giới hiện nay bằng con đường giáo dục”. Chẳng hạn, chúng ta cần phải giáo dục cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ, hãy sống theo lời Phật dạy. Ở đây, chúng ta cần hiểu rằng chúng ta không cần cải đạo bất cứ ai có tín ngưỡng tôn giáo khác trở về với Phật giáo, chúng ta cũng không cần làm việc ấy. Trái lại, chúng ta chỉ cần cố gắng chuyên tâm đến việc tu tập chuyển hóa thân tâm của chúng ta từ si mê thành giác ngộ, từ xấu trở nên tốt, từ tật đố trở thành hoan hỉ, từ hơn thua trở thành hòa hợp .v.v..và đấy mới chính là cách cải đạo thực sự theo Phật giáo. Chúng ta cần phải giáo dục cho mọi người hiểu và thực hành tinh thần cải đạo ấy. Toàn thế giới đang nảy sinh càng lúc càng nhiều vấn đề phức tạp, nhưng không bao nhiêu người – theo tôi – hầu như rất nhiều người, chưa hiểu gì về căn nguyên của các vấn đề phức tạp ấy. Đạo Phật đã dạy cho chúng ta hiểu được đâu là bản chất như thật của cuộc đời. Nếu không hiểu được chân lý ấy, thì chúng ta chẳng giải quyết được vấn đề cốt lõi của thế giới hiện nay. Cũng vậy, nếu chúng ta không hiểu được chân lý ấy thì chúng ta không bao giờ trở thành một con người đúng nghĩa của nó, cho dù chúng ta là Phật tử đi chăng nữa. Như chúng ta đều biết, trong Bát chánh đạo của Phật giáo, yếu tố đầu tiên là chánh tri kiến: (sammaditthi) nghĩa là sự thấy biết chân chính, sự thấy biết như thật...Vì vậy, khi đương đầu những vấn đề thách thức của thế giới hôm nay, chúng ta cần phải hiểu rõ chúng là gì, đâu nguyên nhân của chúng, đâu là giải pháp và đâu là mục tiêu cuối cùng của giải pháp ấy.v.v…Trong bài diễn văn khai mạc của Hòa thượng viện trưởng trường đại học Mahachulalongkorn Phra Dharmakosajarn, ngài đã phát biểu:“ Tất cả mọi vấn đề đều bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa của nó – do đó, y cứ vào nguyên nhân ấy chúng ta sẽ tìm ra được nguồn ánh sáng; và đây cũng chính là lý do ra đời của tổ chức Hiệp hội các trường Đại học Phật giáo Quốc tế của chúng ta”.
Trong các trường đại học có chung mục đích là giáo dục con người. Sinh viên đến trường đại học, sau khi được trúng tuyển qua các kỳ thi tuyển sinh - không phải người trí thức nào cũng xuất thân từ các trường đại học – và phần đông không phải ai cũng có thể được vào trường đại học. Do đó, tôi muốn chia sẻ với quí vị một điều quan trọng qua câu chuyện rất ngắn sau đây:
Năm 1982, khi tôi đang ở Anh quốc - đây là chuyến thăm đầu tiên của tôi đến vương quốc Anh để thăm Hòa thượng bổn sư của tôi là ngài Thiền sư U Thittila, lúc ấy ngài đã sang Anh được 16 năm - ở vào Thế chiến thứ II...Hòa thượng bổn sư và tôi, hai thầy trò trú ngụ tại làng St Lawrence Alton, gần Oxford. Đây là một ngôi làng rất đẹp. Trong làng này, có một số thiện nam tín nữ rất thuần thành và họ là thành viên nhiệt tâm của Hội Pali Text Society - họ thành lập thư viện ngay tại nhà của họ. Thầy tôi ở đó gần một năm để dịch bộ Vibhanga, bộ thứ II của Vi Diệu Pháp, dịch từ Pali ra tiếng Anh. Sau này, tại thư viện này, tôi cũng đã dành nhiều thời gian phụ giúp công việc của bổn sư. Có một buổi sáng nọ, sau khi lễ bái Tam Bảo vắn tắt, tôi đã cùng thầy đi bách bộ thể dục dọc theo đường làng. Lúc ấy thầy tôi đã bước vào tuổi tám mươi ! Trở về phòng nghĩ để lấy lại sức sau đó ngài tiếp tục đi vòng qua các ngôi làng lân cận.
Tôi để ý, nằm giữa những ngôi làng, là một ngôi thánh đường khá lớn, rất cổ kính, thuộc Giáo hội La Mã – có thể đã xây dựng khoảng gần một nghìn năm. Vào một buổi sáng thứ Bảy nọ, khi trời còn tờ mờ tối, tiếng chuông nhà thờ đổ, vang lên inh ỏi, gần cả một giờ đồng hồ. Đến khoảng 10giờ00 chỉ có một ít cụ bà và cụ ông lớn tuổi từ từ đến nhà thờ. Tất cả khoảng chưa tới hai mươi người! Trong lúc tại ngôi làng này có đến khoảng 100 ngôi nhà. Tôi lần bước theo họ đi vào nhà thờ và ngồi sau lưng họ - lắng nghe vị linh mục giảng đạo. Tôi chăm chú theo dõi từng lời giảng. Khi xong thời giảng vị linh mục đến gặp tôi và hỏi:
Xin chào, cụ từ đâu đến?"
" Thưa, tôi từ Miến Điện đến."
"Thì ra, cụ là người Miến Điện!"
"Vâng ạ !"
"Sao người Miến lại vào đây và ăn mặc bằng váy thế này?"
Biết vị linh mục này chưa bao giờ gặp nhà sư Phật giáo nên tôi giải thích cho ông biết tôi là một tu sĩ Phật giáo.v.v. Và sau đó hai người cùng nhau trò chuyện, trao đổi với nhau nhiều vấn đề khác, duy tôi chỉ nhớ một câu hỏi do tôi đặt ra:"Thưa linh mục, tôi nghe nhà thờ kéo chuông hầu như cả giờ đồng hồ, từ9g00 đến 10g00 - nhưng tại sao lại có quá ít con chiên đi lễ như vầy?, chỉ có ít quí cụ cao niên đi nhà thờ, trong số họ cũng chẳng thấy lớp trẻ; với gần 100 ngôi nhà trong làng – thế thì ở đây không có các thanh thiếu niên nam nữ hay sao, thưa linh mục? "
Vị linh mục này nói: "Thưa Hòa thượng, hiện nay trong thế giới hiện đại, ở phương Tây, thế hệ trẻ đang có khuynh hướng từ bỏ tôn giáo của họ."
Thì ra là vậy! thế thì về phía Phật giáo, chúng ta cần phải làm gì để giáo dục cho thế hệ trẻ, con em của chúng ta, biết cách sống đạo sao cho phù hợp với thực trạng tình hình phát triển của xã hội chúng ta hiện nay để khỏi bế tắc đầy ảm đạm như tôn giáo bạn như vừa nêu trên. Chân thành cám ơn.
phatgiaohoc
Tại sao vấn đề này lại được nêu ra với các bạn đạo của chúng ta?
Tại sao vấn đề này lại được nêu ra với các bạn đạo của chúng ta?
Số là trong chỗ tai nghe mắt thấy mà thường ngày chúng tôi ghi nhận được từ các bạn hữu thân thiết và gia đình của họ, thì có không ít những người tu Phật tại gia, do chưa thấu suốt cái lẽ tất nhiên "đời đạo tương ưng, đạo đời bất khả chia lìa", cũng là chân lý bất biến"không thể lìa đời mà có thể đạt đạo", cũng là "không thể lìa bỏ, trốn chạy, hay quay lưng lại với các pháp tướng sanh diệt (diệu dụng của tánh) mà mong có thể ngộ tánh (chơn thể vô sanh) được", nên không ít người đã bị lầm lạc, tự dẫn mình đi vào ngõ cụt không lối thoát ngay trong cuộc sống này.
Có những bạn đạo quen biết, đang theo đuổi tông Thiền, thường bộc bạch một cách chân thành rằng, nay tuổi đời đã lớn (thường từ trên bốn mươi trở lên) chán ngán hồng trần, muốn gát bỏ mọi việc để dành hết thời gian tu học một cách khẩn trương và triệt để, hầu sớm được giải thoát.
Lòng nhiệt tình, hăm hở đến với đạo pháp trong buổi đầu sơ phát tâm đã khiến cho họ quên mất thực tại, quên mất chân lý giải thoát của Thế tôn là "Phật pháp bất ly thế gian", quên mất cái đạo lý hiển nhiên trước mắt là chưa làm tròn một con người đúng nghĩa thì làm sao có thể làmThánh, làm Phật được, cũng như quên mất đằng sau lưng mình còn có cả một gia đình mà mình phải có bổn phận chung cùng gánh vác để đem lại hạnh phúc cho mọi người, cũng là nghĩa vụ và đạo lý làm người muôn thuở.
Vì không sáng tỏ lý giải thoát vi diệu của Phật đạo, là không lìa thế gian mà vẫn hiện tiền giải thoát, cho nên, dù chung sống với những người thân yêu, ruột thịt dưới cùng một mái nhà, nhưng họ đã không ngần ngại cắt đứt tất cả những mối tương quan, tương tác với gia đình, tự coi như người độc lập, để mặc vợ con làm gì thì làm miễn là không ai đụng chạm tới mình, miễn là mình được tự do làm theo sở ý để lo cho cái phần hồn của mình trước đã.
Phần đông những người như thế, thường trao gánh nặng gia đình lại cho vợ, hay những đứa con lớn, còn mình thì tự đi tìm sự an ổn cho riêng bản thân mình.
Họ thờ ơ với tất cả mọi người, bình thản với bất cứ chuyện gì xảy ra trong gia đình, dù là tốt hay xấu. Họ chẳng quan tâm tới việc dạy dỗ con cái, để mặc chúng muốn làm gì thì làm, xem như cây mọc ngoài thiên nhiên, ngay cũng tốt mà cong cũng chẳng sao, nên cũng phải mà hư hỏng cũng xong. Nói chung, họ tự coi mình như người ngoài cuộc, không chỗ dính dấp với gia đình. Trăm công ngàn việc trong ngoài, phó thác hết cho vợ con, tự coi mình như cái bóng, thẫn thờ đi tìm lý thiền, lý đạo bên ngoài cuộc sống hiện tại.
Ngoài việc ngày đêm chúi đầu vào sách vở, kinh điển để tầm chương trích cú như con mọt sách, học thuộc lòng một số thiền ngữ như vẹt học nói tiếng người, khiến bộ dạng bơ phờ, đờ đẫng như người không còn hồn vía, thì họ chẳng còn biết làm một việc gì khác để có thể gánh vác, giúp đỡ người thân, hay dạy dỗ con cái, làm chút lợi ích cho đời, trừ mỗi ngày ba bữa cơm cháo không thiếu không thừa.
Có ai động tới thì liền moi kinh này điển nọ ra đối đáp với một giọng điệu y hệt các thiền ngữ của những bậc đắc pháp của tông Thiền, như là "cần phải biết sống với cái tâm bình thường, nghĩa là đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì đi nằm, đó là sống đạo vậy". Hoặc "phải biết nhàn cư, vô sự, vô tâm, bằng cách không làm thiện cũng chẳng làm ác, là vượt trên đối đãi nhơn quả nhị nguyên để giải thoát khỏi sự trói buộc của nhị nguyên nhơn quả".
Đây là một sự hiểu lầm nghiêm trọng đối với Giáo-lý giải thoát của đức Phật, một sự xuyên tạc (mặc dù vô tình vì thiếu hiểu biết) đối với tông Thiền, một sự bắt chước sáo rỗng, ngô nghê, ngớ ngẩn như vẹt học nói, nói mà không biết ai nói, khiến chúng ta phải cười ra nước mắt !
Đứng về cả hai mặt Đạo và Đời mà xét, thì, do chưa phải là người đã thực sự ly gia cát ái trọn vẹn trăm phần, nên trong chỗ thật tế trước mắt, người cư-sĩ (tu Phật tại gia) đương nhiên vẫn còn là một thành viên gắn bó và chịu ảnh hưởng trực tiếp đối với gia đình mà mình đang sinh sống. Dù tâm đã xuất gia theo Phật, nhưng bản thân người ấy mặc nhiên vẫn còn là người chủ, người thầy, người ông, người cha, người huynh trưởng, là người trực tiếp quyết định sự thành bại, an nguy, vui sướng hay khổ đau cho cả gia đình mình ở tương lai, phía trước. Đặc biệt là đối với sự giáo dục, uốn nắn con cái để chúng thành người hữu ích cho gia đình và xã hội mai sau, thì đó là bổn phận và trách nhiệm to lớn mà người Phật-tử tại gia phải làm tròn.
Đề cập tới vai trò của một người tu Phật tại gia đối với chính gia-đình mà mình đang sinh hoạt và chịu ảnh hưởng, thì đó là một vấn đề hết sức rộng lớn và khó lòng có thể bộc bạch hết trong vài ba quyển sách, huống là trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài viết ngắn. Cho nên, ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập tới một phần nhỏ của một chủ đề lớn, ấy là bàn về trách nhiệm của người cư sĩ đôùi với việc dạy dỗ con cái trong gia đình. Hơn thế nữa, nếu vấn đề nhỏ này được khai thông sáng tỏ, thì những mắc mứu còn lại trong cuộc sống trước mắt, một bên là gia đình và một bên là đạo pháp, tức mối tương quan giữa đạo và đời, ắc cũng sẽ được người cư sĩ "ngộ ra" mà giải quyết một cách minh bạch, hầu tự mở cho mình một hướng đi đúng pháp, vừa tốt đời vừa đẹp đạo, trọn vẹn cả đôi đường.
III. Chân lý giải thoát của Phật đạo, thể hiện rõ nét và cũng rất dễ nhận ra, đặc biệt là ở tông Thiền, cũng là Chánh-pháp Nhãn-tạng của Như-lai, là không phải giải thoát ở đâu xa, không phải đợi đến sau khi chết rồi mới giải thoát, mà giải thoát ngay trong cuộc sống này, giữa cuộc đời này, tự thân chứng nghiệm hiện tiền giải thoát, cũng là thực tế giải thoát khỏi sự trói buộc của cái tâm chấp ngã, chấp pháp vậy.
Nghĩa là sao? Nghĩa là tự vượt thoát khỏi bản ngã, vượt thoát khỏi các khái niệm sanh diệt xung đối ràng buộc, trói cột trong tâm như giàu nghèo, phải trái, hơn thua, lành dữ, thánh phàm, được mất, có không, cao thấp, sang hèn, sướng khổ... do phân biệt vì chấp ngã. "Chấp" cũng có nghĩa là tự trói buộc vào các pháp tướng hư vọng, huyễn hóa, sanh diệt kia để cùng chúng đi vào nhơn quả sanh diệt. Bằng vô chấp thì cũng có nghĩa là tự tâm rổng rang không trói buộc với bất cứ một pháp tướng nào, kể cả cái pháp tướng vi tế mà mình "vô chấp" kia, thì ngay đó ắc hốt nhiên nhận ra thể tánh chơn thật của bổn tâm, cũng là tánh biết sáng suốt tuyệt đối hiển lộ, không lầm nhơn quả, cũng là biết như thật vạn pháp tự "như" trước mắt, không chi dính dấp, là vô ngã tự tại, là hiện tiền giải thoát vậy.
Đạo Phật là đạo của sự thật, là chân lý hiển hiện tự nhiên như nhiên rõ ràng trước mắt, nghĩa là vạn sự vạn vật xảy sanh trong từng mỗi sát-na, trong từng mỗi hoạt dụng, từ thô đến tế không chi không phải từ đạo mầu diệu xuất. Người tu Phật chân chính có thể tự chứng ngộ Phật tâm không sanh không diệt trước mắt, không lầm nhơn quả trước mắt, vô ngã tự tại trước mắt. Đặc biệt đối với những người phước đức cao dày, căn trí linh lợi, tu học theo tông Thiền, có bậc thầy đắc pháp trực tiếp dẫn dắt thì hoàn toàn có thể thật chứng Phật tâm ngay trong đời này.
Trở lại với người cư sĩ trên kia. Chỉ vì sự thiếu hiểu biết ban đầu đối với chân-lý giải thoát của đức Phật, đã kéo theo hàng loạt những sai lầm khác trong ý tưởng và hình thức tu tập, khiến người cư sĩ trên kia tự dẫn mình đi vào ngõ hẹp không lối thoát, lại phải mang tiếng là yếm thế, tiêu cực, tư kỷ, trốn đời. Bỡi vì suy nghĩ và hình thức tu tập như vừa nêu, chẳng phải là hành động của một Phật tử tại gia sáng suốt mà là sự ngớ ngẩn, thiểu trí, nông nổi nhứt thời, do chấp ngã, chấp pháp vì thiếu hiểu biết, không được dẫn dắt trực tiếp bỡi các bậc thiện tri thức.
Có một số không ít các bạn đạo ham thích và theo đuổi Tông Thiền, nhưng do căn trí kém linh lợi, cũng như không có được các bậc thiện tri-thức tức những vị thầy đắc pháp của tông môn này trực tiếp hướng dẫn, nên thay vì biết trên lời, vựơt ý mà hiểu để tự thể nhập Trung-đạo, thì họ lại dùng tri thức sanh diệt để biện biệt, lý giải ngôn ngữ và hành động siêu vượt phàm tình của các Thiền-sư trong sách vở, khiến họ càng xa lìa tánh thấy biết, cũng là tự trói buộc chặt hơn vào mớ tri thức của vọng nghiệp sanh tử.
Do vậy mà không ít người đã không ngần ngại mượn lời người khác để lý luận hoặc chống chế khi bạn bè hoặc những người thân phàn nàn họ về việc không chịu giúp đỡ gia đình hay dạy dỗ con cái. Họ nói:
- "Chư Tổ dạy không làm thiện cũng không làm ác, vì thiện ác đều là lẽ tương đối, là hai đầu trói buộc của nhơn quả sanh diệt. Tôi là người tu Thiền, nên trước mắt mọi việc cứ như như, không chỗ nào dính dấp tới".
- Có thiệt là thân tâm bạn đã thật sự tự "như như" đối với các pháp xảy sanh trước mắt chưa ?
Tuy hỏi như thế nhưng cũng vẫn trả lời giùm bạn:
-"Ngàn lần chưa "như" được ! Chẳng "như" được một chút nào cả".
Bỡi cớ sao? - Chỉ bỡi một sự thật mà thôi. Nghĩa là ngôn ngữ mà bạn vừa dùng ở trên, chẳng phải như là thứ ngôn ngữ vượt cách, được áp dụng cho từng mỗi tình huống mà các bậc không tâm, đắc pháp của tông Thiền đã dùng để khai thị cho người, mà là thứ ngôn ngữ của khái niệm được vay mượn để giải thích sự việc nhơn quả, nghĩa là cũng chẳng qua lấy tướng trói buộc này để giải thích tứơng trói buộc kia mà thôi. Lời đáp ấy chẳng dính dấp, họ hàng gì với ngôn ngữ của những bậc đã thành tựu cái tâm "như" không dính dấp trói buộc với vạn pháp, nghĩa là đã sáng tỏ tánh "biết" tuyệt đối, không lầm nhơn quả.
Cho nên, bạn nói trước mắt vạn pháp cứ như như không chỗ dính dấp tới bạn, ấy là bạn chỉ tưởng tượng ra như thế mà thôi. Bỡi cớ sao? Bỡi vì một khi đã tự "như" đối với tất thảy pháp, thì dẫu nói sao cũng đều là ngôn ngữ trung đạo, từ cảnh giới chơn như thật chứng tuông chảy, siêu vượt phàm tình, không chỗ can hệ vướng mắc, chứ chẳng phải như bạn đã dùng khái niệm nhơn quả để cột buộc với khái niệm nhơn quả đó.
Vì thế có thể khẳng định, chỗ mà bạn cho là mọi việc trước mắt cứ "như như" không dính dấp tới thân tâm bạn, thật ra đó chỉ là việc mượn vải thưa để che mắt thánh, chẳng khác tự bưng mắt mình để không nhìn thấy người, rồi cứ tưởng người cũng không nhìn thấy mình. Điều ấy có nghĩa là bạn đã cố tình che dấu cái tâm sống động có ý thức của mình để nó trở thành như vô thức, như ngủ quên, như vô ký, tức cố tình giả bộ như không thấy, không nghe, không hay, không biết bất cứ một việc gì xảy ra chung quanh mình, cũng là cách tự dối mình, đánh lừa người, mang ý nghĩa trốn đời, tư kỷ, lười nhác, giũ bỏ trách nhiệm. Nói chính xác hơn, bạn đã cố tình muốn quên đi tất cả mọi việc xảy sanh trong tâm cũng như trước mắt mình, hầu có thể lẫn tránh những gì có liên quan, mắc mứu tới mình mà thôi.
Thế nhưng sự cố tình vận dụng cái tâm ý thức để quên, để như là không thấy, nghe, hay, biết thì sự cố tình ấy lại là sợi giây trói buộc chính mình, vì càng dụng tâm để quên đi thì cũng có nghĩa là cái tâm ý thức vẫn luôn luôn nhớ, tức nhớ những gì đã bắt cái tâm phải quên, và cũng chính mình chứ không ai khác vào đây, tự trói buộc tâm ý của mình vào chỗ "cố mong quên ấy", chỉ vì một lẽ chấp ngã mà thôi. Chỗ mà bạn cố tình đè nén, bắt cái tâm có ý thức để thành như vô thức, để như không thấy, nghe, hay, biết kia hoàn toàn chẳng giống cái tâm "như" thường nghe, vô phân biệt mà tự nó vẫn biệt biệt rõ ràng, chơn thường, sáng suốt, vô ngã, vô biên, vô hạn lượng, không lầm nhơn quả, nhơn quả chẳng thể trói buộc, là tâm "như" của những bậc đã sáng tỏ tánh Phật chúng sanh.
Tóm lại, hoặc là vì chính bạn "không tự biết như thật" thế nào là một tâm "như" do chưa thật chứng bổn tâm, nên mới ngộ nhận tâm "như"; hoặc là cố tình bắt cái tâm có ý thức phải quên để trở thành như vô ký, hoặc chính bạn phải miễn cưỡng lẩn tránh tất thảy những gì mà bạn không muốn bắt gặp trong tâm ý thức đó, để phủ nhận trách nhiệm ngoài thân; hoặc là cố tình tự lừa mình và dối người khi cho rằng tâm mình đã tự như như, cũng tức là đã sáng tánh "biết" tuyệt đối, đã không lầm nhơn quả, đã tự tại đến đi; thế nhưng qua việc làm không khế hợp với lý giải thoát "Phật pháp bất ly thế gian" cũng như ngôn ngữ trói buộc trong khái niệm nhơn quả mà bạn đã thể hiện, thì có thể nói, sự tu hành của tự thân bạn cũng chưa là gì cả, tâm bạn cũng chưa "như" được một chút nào cả.
Tâm bạn có tự "như như", tức không vướng mắc trói buộc với các pháp xảy sanh trước mắt hay không, tự nó thể hiện lên thân, khẩu, ý một cách rõ nét, dù mình có muốn dấu che cũng chẳng thể được nào. Nghĩa là, chỉ cần một câu nói, một hành động bất chợt, thì mọi việc phô bày cách rõ ràng: hoặc là nó thể hiện sự trói buộc với các khái niệm nhị nguyên nhơn quả do vọng tâm phân biệt vì chấp ngã như câu nói của bạn ở trên; hoặc là đã tự vượt thoát bản ngã, là "đang-là" trong nhứt niệm, đương niệm, cũng là nói, là làm trong tánh "biết" sáng suốt tuyệt đối, thông lưu vô ngại, siêu vượt khái niệm nhơn quả phàm tình.
Sẽ chỉ tự "như" một cách chân thật đối với vạn pháp trước mắt, khi nào tự tâm bạn bùng vỡ, cũng là chợt bừng sáng tánh thấy biết bổn lai, cũng là bổn thể chơn thường, cũng là Phật tánh hiển lộ. Cũng tức ngay đó, tự thấy biết chơn thật, không lầm nhơn quả, nghĩa là vạn pháp biến hiện, mất còn trước mắt mà không chổ dính dấp tới tánh thấy biết tuyệt đối, sáng suốt, chơn thường, không một vật mà tạm gọi ngay ấy, trong ấy, hiện ấy, tại ấy bạn tự "đang-là", là một, tuyệt đối, bất khả thuyết, bất khả tư nghì.
Chợt sáng tánh biết thì liền đó "biết" như thật, bản thể sáng trong, thường hằng, linh diệu, tuyệt vô đối đãi, là bổn lai diện mục cùng cái tướng động tay, múa chân, nghiêng đầu, hả miệng, trợn mắt, chau mày của bạn, luôn tự viên dung, thông lưu, xuyên suốt, chẳng phải hai cũng không phải khác, như lửa đã sẵn có tự trong củi, như sóng đã tự sẵn trong nước vậy; lửa trong củi, sóng trong nước thiệt chẳng phải một, chẳng phải hai cũng không phải khác, nếu không tự vọng niệm phân biệt. Có nghĩa là tánh biết "biết" như thật, cũng là thật chứng bổn tâm, thể tánh chơn thường và tướng này dung thông, chẳng ngại nhau, chẳng phải hai cũng không phải khác, cũng tức là bổn thể chơn như phi sanh diệt và diệu dụng của chính nó tự một, thông lưu, xuyên suốt, bao trùm, vô ngại, nhờ "tánh" linh diệu của bổn thể mà được như thế. Khi ấy không có gì là có "hai bên, hai phía" tức lưỡng nguyên đối đãi có thể hiện hữu trong bạn nữa, bỡi ngay đó bạn tự một, đồng một, cũng chính là một pháp duy nhất, độc diệu, sáng suốt, vô hạn lượng, bất khả thuyết, bất khả tư nghì.
Một khi sáng tỏ tánh thấy biết, thì (tánh thấy biết, cũng là chơn tâm, chơn ngã) liền tự "như" đối với tất thảy pháp, không gì dính dấp tới dẫu trời có sập trên mình bạn, vì ngay đó tánh biết "biết" như thật thảy thảy vạn pháp đều là hoa đóm trong không. Ngay đó, bạn (cùng tánh biết dung thông, là một, tuyệt đối) tự rõ như thật, không còn cần phải bỏ thân, trốn đời, hay cố tình cắt đứt cuộc đời cũng là tự cắt đứt chính bạn ra làm trăm, ngàn mảnh như bây giờ, cũng tức là bạn không cần phải tự làm ma thuật để dối lừa chính bạn nữa. Bỡi vì mọi hoạt dụng xảy sanh trước mắt bạn, đều là đạo, từ đạo xuất sanh chứ không là gì khác, kể cả cái thân tướng sanh diệt, huyễn vọng mà một sát na trước tự chấp là "ta", cũng chỉ là dụng của tánh biết tuyệt đối, như trăng trong nước, như cái bóng trong gương mà thôi.
Đến khi đó bạn tự biết như thật, chỉ có từ thế gian, trong thế gian, từ nhơn quả sanh diệt, trong nhơn quả sanh diệt, từ các pháp huyễn vọng, trong các pháp huyễn vọng, từ trong vọng thức vô minh, nhờ vọng thức vô minh….từ chính các hoạt dụng xảy sanh trước mắt mà chúng sanh mới có thể tự ngộ tánh thấy biết sáng suốt tuyệt đối, cũng là mặt mũi chơn thật vốn tự sẵn có, thường hằng, phi sanh diệt, cũng là tánh Phật chúng sanh mà thôi.
Đến khi đó thì bạn tự ồ lên kinh ngạc vì vỡ lẽ: thì ra tánh thật vô minh là Phật tánh, thật tánh sanh tử chẳng ngoài Niết-bàn tịch tịnh vô sanh.
Bằng ngược lại, nếu không từ trong nhơn quả vô minh, không từ chính trong cuộc đời này, không từ chính trong thân tâm hư vọng này, không từ chính trong mọi hoạt dụng hằng ngày, không từ chính trong từng cá thể sanh diệt và các pháp tướng sanh diệt tương quan tương tác ngay giữa thế gian này mà có thể khám phá và ngộ nhập lý mầu của Phật đạo để giải thoát vô minh sanh tử là điều chưa từng có, chưa từng xảy ra vậy. Muốn tìm đạo, muốn thể nhập đạo, muốn "một" với đạo mà tự quay lưng, trốn tránh, rời lìa các hoạt dụng nhiệm mầu trước mắt mà lúc nào đạo cũng tự sẵn dung chứa, thông lưu, thì biết chừng nào mới thành tựu được sở nguyện. Thí như muốn có lửa để sưởi ấm mà không dùng củi để tự nhen nhúm, thì làm sao ấm được?.
Bỡi muôn pháp hư vọng trước mắt, mà trong đó có chính cái thân tâm này, được tạm gọi là "Ta", tức cũng là một pháp hư vọng, đều từ một pháp chơn thường duy nhất mà ra, tức bổn thể chơn như, thường hằng, tự tại, bất biến, mà thường tuỳ duyên khéo sanh các pháp. Nếu lìa cái dụng "rất diệu" của thể tánh chơn thường mà có thể khám phá bổn thể linh diệu chơn thường, thì chỉ đợi khi nào thỏ có sừng, rùa mọc lông thì họa chăng mới thành sự thật.
Không thể lìa thế gian mà có thể chứng ngộ Phật đạo, không thể lìa cảnh giới sanh tử mà có thể sáng lẽ Bồ-đề giải thoát, chứng nhập cảnh giới Niết-bàn, tịch tĩnh, vô sanh. Đó là lẽ thật trăm phần, là chân lý bất biến. Thí như muốn thấy biết cái mặt thật của mình tròn méo ra sao mà không cần nhờ tới cái ảnh ảo của mình trong gương thì khó mà biết được. Cũng có nghĩa là không biết nương cái ảnh ảo trong gương thì khó bề nhận ra cái mặt thật của mình.
"Phật pháp bất ly thế gian", đó là chân lý bất biến, một sự thật hiển nhiên, tất yếu, là lẽ tự nhiên như nhiên, như một cộng với một là hai vậy.
Nghĩa là sao ? Nghĩa là từng mỗi chúng sanh biết tuỳ duyên nhờ vào một trong hằng vạn pháp phương tiện thiện xảo mà đức Phật đã chỉ bày để đem áp dụng trực tiếp vào chính cái thân này, cái tâm này, cái cảnh này, cái tri thức huyễn vọng này, cái cuộc sống hiện tại trước mắt này, để có thể ngộ ra mặt mũi chơn thật vốn tự sẵn có xưa nay chưa từng hư mất của mình. Bổn thể uyên nguyên, tạm mượn từ ngữ gọi là một pháp duy nhất, tự tại, chơn thường, bất biến mà vẫn thường tuỳ duyên khéo sanh muôn pháp, mà thân tâm này cũng là một pháp trong muôn vạn pháp xuất sanh từ một pháp duy nhất đó, hễ chợt ngộ ra thì cũng liền tự biết như thật, mình cũng là một pháp duy nhất bất biến, chơn thường, mà nói không thể tới.
Vẫn biết rằng cái con người đi đứng, nằm, ngồi cùng vật, cảnh lay động trong gương là ảo ảnh. Thế nhưng, muốn tìm ra cái con người thật trong gương, thì chỉ một phép là phải biết nhìn dội ngược, chiếu theo bóng hình, ảo ảnh kia mà tìm thì mới mong khám phá ra người thật được.
Tạm lấy một thí dụ. Như từng mỗi bóng trăng trên sóng nước, một khi ngộ ra lẽ thật, liền biết như thật chính nó là một huyễn pháp sanh diệt, tự nó không có thật thể. Nó biết như thật, sở dĩ có muôn vàn bóng trăng như nó và cùng nó tương quan, tương tác, biến hiện, mất còn trên sóng nước, chỉ là do ánh sáng của mặt trăng thật chiếu soi trên nước mà thành, tức biết như thật cái tướng trăng huyễn giả của nó trên nước là do thể sáng của mặt trăng tuỳ duyên chiếu soi mà hiện ảnh; tánh sáng của ảnh hiện đồng một cùng tánh sáng của ánh trăng luôn bất động, tự tại, như như, bình đẳng, thường hằng. Ngay đó tự khám phá, chính nó (ảnh hiện) là một huyễn tướng, huyễn sanh huyễn diệt, một pháp tướng hữu hạn sanh diệt trên sóng nước, mà cũng là một vô hạn lượng, thường hằng, sáng trong, phi sanh diệt, đồng một, là một, và cũng chính là tánh sáng của mặt trăng thật vậy.
Nghĩa là, nếu không trăng thật tuỳ duyên chiếu soi trên sóng nước, thì cũng sẽ không có những bóng trăng huyễn và các tương tác sanh diệt như nó được. Ngược lại, từng mỗi mỗi bóng trăng đang thoắt ẩn, thoắt hiện trên sóng nước cùng thâu nhiếp vào một mặt trăng thật, tự chúng đồng một, là một với mặt trăng thật.
Đang trói buộc trong cảnh giới nhơn quả sanh diệt vì lầm biết do chấp có thật ngã thật pháp, hốt nhiên bừng sáng tánh biết bổn lai, tánh biết tuyệt đối, thì liền vượt qua bờ kia, không lầm nhơn quả, nhơn quả chẳng thể trói buộc, là tự tại giải thoát.
Chúng sanh trong cảnh giới nhơn quả cũng như thế, chỉ có thể ngộ ra thật tánh, thật tướng của mình bỡi chính từ cái thân tâm huyễn vọng, nay còn mai mất mà mình đang đeo mang, trong cảnh giới nhơn quả này mà thôi.
Bằng lìa cái thân tâm này, quay lưng nhắm mắt lại với cái cảnh giới hư huyễn này, trốn chạy các pháp tương quan, tương tác ngay trong cuộc sống này mà có thể giác ngộ tánh biết chơn thật, tánh biết không lầm nhơn quả hầu vượt thoát nhơn quả, có khác nào cái bóng trăng trên nước tự rời lìa chính cái bóng sáng hình trăng của nó trên nước thì lấy cái gì để mà nó có thể ngộ ra thể tánh chơn thật của chính nó, cũng là mặt trăng đang tỏa sáng và lặng lẽ chiếu soi kia?
Với bạn cũng vậy, một khi tánh thấy biết chơn thật hiển lộ, thì liền biết như thật, mọi hoạt dụng xảy sanh trước mắt, tất thảy đều tương ưng, tương hợp với đạo pháp, trong tình thương bao la, bình đẳng của tánh Phật. Nghĩa là bạn làm tất thảy việc để giúp đỡ mọi người sao cho đều được trở nên toàn hảo, mà trong đó có những thành viên của gia đình bạn, bằng với một tâm như, nghĩa là tự nhiên như nhiên, làm mà không thấy làm, vì biết như thật, đó chỉ là cái tướng huyễn từ diệu tánh đang trổ thần thông để tuỳ duyên hành Bồ-tát đạo, làm tất thảy việc với cái tâm "vô" bình đẳng, vô phân biệt.
Đến lúc đó bạn mới biết một cách như thật, thế nào là ý nghĩa câu nói của chư Tổ, "đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ", hay "không làm thiện không làm ác", tức là làm bằng cái tâm "không, vô tướng, vô tác" tự nhiên như nhiên, bình đẳng của đạo mầu, chứ chẳng phải bằng sự hiểu biết ngô nghê, ngớ ngẩn vì vô minh trói buộc.
IV. Còn bây giờ, đối với biển pháp mênh mông không ngằn mé ở phía trước, bạn chỉ là người sơ cơ cầu Phật. Cũng có nghĩa, trong khi chờ đợi một cơ duyên hy hữu xảy đến với bạn ở tương lai, cũng là thành tựu đại công đức "khám phá tánh thấy biết chơn thật để không lầm nhơn quả", vượt thoát nhơn quả, tự do tự tại, thì song song với việc tham thiền tu học, bạn hãy nên biết áp dụng một cách thực tiễn giáo lý giải thoát của đức Phật vào ngay trong cuộc sống này để tự làm một phật tử tại gia đúng nghĩa trước đã.
Nghĩa là trước hết bạn phải biết y theo những lời dạy của đức Phật mà tu hành một cách chân chính: không một việc thiện nào mà không làm, cũng như không một việc bất thiện nào mà làm, mà nghĩ tới. Có làm được như thế, cũng tức là để trước hết vun trồng căn lành, phước nghiệp cho mình, đến lúc đầy đủ công đức, tròn duyên tròn phước, thời cơ chín mùi, thì tự khắc có chỗ khai mở, tự khắc thật chứng bổn thể vô sanh.
Vả lại bạn là người đang theo đuổi tông Thiền. Mà với tông Thiền cũng là chánh pháp Nhãn-tạng của Như-lai, thì, đạo mầu phô bày trong từng mỗi hoạt dụng hằng ngày, dù nhỏ nhặt nhất, không lìa thế gian, chưa từng che dấu và bí quyết của sự chứng ngộ là ở ngay trước mắt. Đối với tông môn này, đạo chưa từng lìa mình một giây một khắc nào, nó thực tế đến nỗi đi đứng nằm ngồi uống ăn ngủ nghỉ đều là đạo, từ đạo, trong đạo, cho đến việc một ngày không làm là một ngày không ăn, cũng là đạo lý đó bạn ạ. Nếu không phải thế thì Thiền Tổ Bá-Trượng đã không buộc phải chép cái điều lệ bất hủ "nhứt nhựt bất tác, nhứt nhựt bất trác" này vào Thanh-qui của mình đâu !
Một Phật tử tại gia đúng nghĩa, thông sáng lý đạo, thì hiểu rằng không thể lìa thế gian mà có thể chứng ngộ tâm giải thoát. Lại nữa, do chưa phải là người thực sự ly gia, cát ái trăm phần, nên người cư sĩ ắc phải biết y theo những lời dạy của đức Phật mà hành trì, nghĩa là tu và hành không ra ngoài tam-qui, ngũ giới, cũng như không quên ba đức lớn Bi-Trí-Dũng mà người Phật tử phải biết luôn luôn phát huy, củng cố và giữ gìn, mà trong đó cái tâm từ bi khiến mình không quên nghĩa vụ chăm lo giúp đỡ gia đình, mà trách nhiệm giáo dục con cái nên người là việc quan trọng hàng đầu.
Một Phật tử tại gia đúng nghĩa, song song với việc như pháp hành trì, phải biết vun đắp cái vốn đạo đức căn bản làm người trước đã, sau đó biết đem cái vốn tu học sở đắc của mình ra để trực tiếp giúp đỡ những người gần gũi thân cận, hầu xây dựng cho gia đình mình, tức cái nôi, cái tổ mà trong đó mình cũng là một thành viên, có được một cuộc sống bình ổn, an lạc, chan hòa, hạnh phúc, cũng có nghĩa là tu và hành như thế nào để vừa tốt đời, vừa đẹp đạo vậy.
Làm tròn được nghĩa vụ này là người cư sĩ đã góp phần không nhỏ vào việc đem lại hạnh phúc cho những người thân yêu, nhờ đó có thể cảm hóa được mọi người trong gia đình cùng hoan hỉ đến với đạo pháp bằng tất cả con tim và tấm lòng của họ, nhất là tự tạo dựng cho chính mình có được một môi trường lý tưởng để tu hành và giáo hoá, cũng là tuỳ thuận nhơn duyên hành Bồ-tát đạo ngay trong đời này. Đến chừng đó, chỉ cần bước một bước là vào ngay cảnh giới "Trung" của các bậc thánh, tánh biết hốt nhiên bừng sáng, biết như thật vạn pháp trước mắt "tự như", nói nín tuỳ duyên làm lợi ích cho người mà không chi dính dấp, tự tại an nhiên, đến đi vô ngại, chứ chẳng cần phải mượn lời người khác nói ngớ ngẩn như con vẹt, nói mà không biết ai đang nói, hay thẫn thờ, đờ đẫng, tỉnh tỉnh, mê mê như con mọt sách trong hiện tại.