Cơ thơ Hoàng Vũ (xuống năm 1995)
Vua xưa chỉ có một thời
Ngàn năm danh phật không sờn
Xuống trần mượn xác giải cơn nguy nàn
Kỳ ba đất nước cao sang
Xả thân cầu đạo dẫn đàng chúng sanh đi
Làm lành lánh giữ khắc ghi
Dạy truyền bá tánh vậy thì phải tu
Tu tâm,tu tánh, tu lòng
Vô chùa tu tướng chẳng hòng được chi
Đôi lời các cấp khắc ghi
Giúp ta ủng hộ diệt đi lòng tà
Ta thâu bùa ngải tà ma
Mà sao không giúp còn là cản ngăn
Bùa ma,ngải quỉ nó hung hăng
Ta mong các cấp cản ngăn diệt trừ
Làm tiền ,làm bạc cũng như
Tâm người gian ác diệt trừ lại ngay
Giả làm đạo sĩ bồ đề
Thật ra cướp bóc chớ hề thấy đâu
Thơ này ta nhắn đôi câu
Nước cam lồ thủy,giải sầu giải đau
Luật thiên gồm với luật trần
Ráng mà tu luyện lập thân cho đời
Việt nam,chớ có đổi dời
Dân giàu,nước mạnh lập đời thượng ngươn
Xuống trần ta thấy ta thương
Vợ kia con nọ đôi đường chia ly
Quan âm phật tổ diệu kỳ
Đốt nhang cầu nguyện vậy thì được ngay
Vô chùa niệm phật hằng ngày
Tâm tà độc ác chớ hề giúp ai
Hoàng Vũ này,mai một thẳng ngay
Cứu dân ,giúp nước ngày ngày xả thân
Lập công bồi đức xa gần
Trừ tà yêu quái,tiến thân không lùi
Ta mong các cấp giúp vui xác trần
Vì ta mà bà Hậu khổ thân
Ta mong các cấp giúp trần ta độ cho
Dân giàu nước mạnh chớ lo
Ai ai cũng được phật cho phúc đầy
Tương chao chay lạt qua ngày
Hôm nay phật tổ xuống đây độ đời
Độ cho đất nước sáng ngời
Hồ Chí Minh giáng thế,dân thời hết khổ đau
Quân dân cá nước cùng nhau
Giúp đời độ thế dân giàu nước mới an
Nhân ngày phật đản( sưu tầm giúp bạn)
THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
GIẢI VỀ TAM GIÁO QUI-NGUYÊN
Thi rằng:
BỔN tánh từ-bi mới trọn lành,
SƯ đệ phăng tầm rõ trược thanh,
THÍCH, Ðạo cũng là chung một gốc,
CA tụng đức dày đấng liệt oanh.
MÂU thuẫn cuộc đời toan cấu xé,
NI tăng ngộ giác khá học hành,
PHẬT pháp cổ truyền đường chánh-giác,
Giáng trần miêu tỏa phép luyện phanh.
Thi:
THÁI độ người lành gắng học lo,
TỬ phủ quê xưa cố lần dò,
SĨ hiền tạo lập nên danh tốt,
ÐẠT bảng tên đề mới phải cho.
TA nguyền độ thế thành Phật-đạo,
ÐỜI khổ tầm tu đáng mặt trò,
NHÀ rách chớ phiền trau luyện tánh,
CHÂU đáo Phật thành ngọc chẳng so.
Tản văn:
Nay Bần-Ðạo nhậm sắc Thiên-triều giáng Ðàn tả Kinh. Cũng vì nay đã cận kỳ mạt thế, nên sắc-chỉ Thiên-Ðình mới xuống lịnh ban truyền khai thông Ðại-Ðạo, Tam Giáo Qui-Nguyên, đại-đồng hiệp nhứt hầu độ tận nhân sinh qua kỳ thế diệt. Nay Tam-Giáo thượng tòa mới hợp đồng qui cơ mà khai thác quyển Thánh-Kinh. Các vị Giáo-Chủ Tam-Giáo đồng thọ lịnh giáng trần nơi Thiên-Lý Diệu-Ðàn mà để lập thành cơ qui-nguyên thống-nhứt, khai Ðạo truyền Kinh lưu hành toàn cõi đại-đồng thế-giới và lưu cổ truyền kim.
Ðạo có qui-nguyên, có tác-hiệp, có dung-hòa, thì mới có tầm đến mối chơn-truyền bí-pháp tối-thượng vô-vi, hầu mới dìu dẫn Linh-Căn phục hồi cựu vị. Nầy hỡi các chư môn-đồ hãy nghiêm tịnh lắng nghe, Ta sẽ giải rành về mục Tam-Giáo qui-nguyên.
Vì nay là buổi đời cùng tận, mạt hậu tam nguơn nên nhân sinh trên toàn cõi dinh-hoàn nầy đồng chung chịu qua những cơn xây chuyển lập đời. Khắp vũ-trụ-quan nầy cũng đều sắp chuyển mình mà đưa sang một kỳ tiêu diệt cuối cùng vì loài người đã lần lượt gây nhiều tội lỗi. Vì thế, mà cuộc đời phải đành cam chịu cảnh nguy vong thống khổ. Ðức Chí-Tôn có dạy rằng:
Ðời mạt hậu tầm đường giải-thoát,
Như kiến bò miệng bát vòng quanh.
Lời phán của Ðức Chí-Tôn nghĩa một ý hai. Ðọc Kinh phải cầu lý. Chớ như việc đọc Kinh mà cứ đọc suông qua, cốt để giải trí thì cũng đâu có thắm thía gì đến ý nghĩa cao siêu huyền huyền diệu diệu.
Ðạo Phật sơ khai vốn đời Thượng-Cổ. Thuở ấy, loài người còn bổn tánh thiện-lương, thiệt là đời Thánh-Ðức! Thế nên, những người chơn-tu thành Phật rất nhiều. Lần lượt sang qua thời Trung-Cổ, khi ấy bổn tánh đã lạc xa, ít người tu niệm. Ta ra đời nhằm thuở thái-bình. Phụ Vương ta vốn là một bực Chúa-Tể san hà vinh vang ngôi báu. Nhưng riêng Ta vì chán ngán kiếp làm người, thân thể nhục bào như phù du ngắn ngủi. Cõi trần giả tạm nay còn mai mất. Sanh, Lão, Bịnh, Tử khổ là vị chi tứ khổ của loài người. Thể xác nầy vốn là tạm giả, sự còn mất chẳng hẹn ngày giờ. Sống và thác vẫn coi như tên bay trước mặt, như cửa sổ ngựa qua. Dầu cho của cải trăm muôn, một phút vô-thường cũng không mua chuộc đặng. Dầu cho bực Thiên-Tử nắm quyền sanh sát, quản trị một tay, nhưng đến phút vô-thường cũng phải cam đành xuôi tay nhắm mắt. Lời Thánh cũng có câu:
Vô-thường chẳng sợ tay oanh-liệt,
Quỷ tốt nào kiêng bực phẩm hàm.
Thế cho nên, dầu bực Công, Hầu, Khanh, Tướng, phú quý vinh hoa đối với sự đời cũng đều xem như là bọt nước ven sông. Người sanh trong cõi đời tạm giả, vòng tứ khổ vây hãm nhục-thân khiến cho ta lúc nào cũng ngại lo lũ quỷ vô-thường đang chực chờ bên ta mà vẫn không hẹn ngày giờ cho ta biết trước. Chi cho bằng ta sớm xả thân tầm Ðạo, ấy là ta tầm đặng một con đường giải-thoát tối thượng tối cao vĩnh sanh bất diệt. Dùng gươm trí huệ mà cắt đứt dây oan, giải vòng tứ khổ, dứt đoạn sầu bi thì thân tâm ta mới đặng nhẹ nhàng, tinh thần phát huệ, lưu thông cửu khiếu thì ta mới vượt khỏi vòng đời trần lụy mà nhập cảnh Niết-Bàn thiên thu tự toại.
Ta xưa nương cội Bồ-Ðề sáu năm tu luyện, Phật-đạo đắc thành, Ta bèn đem chơn-lý mà phổ độ nhân sinh, dắt dìu bá tánh. Nhưng Ta cũng rất thương thay cho ngày nay người đời cũng có lắm kẻ quyết chí tu thân, cũng muốn học đòi gương xuất-gia giải-thoát, cũng quyết tâm cắt ái ly thân, nhưng rốt cuộc rồi đời tu khổ hạnh ấy vì không được mối chơn-truyền thì làm sao đắc thành chánh-quả? Bởi vì từ xưa, thời kỳ mạt pháp, cửa Ðạo đã bế môn, thất lạc mối chơn-truyền từ khi Thần-Tú ra đời. Vì thế mà những thế kỷ trôi qua thì Phật-Ðạo chỉ còn là các phần vi-hữu, sắc tướng thinh âm. Còn phần tâm-pháp bí-truyền ngồi tu luyện như xưa thì vẫn không còn nữa. Bởi thế, cho nên tu hành thì nhiều kẻ, mà thành công đắc quả thì lại rất hiếm hoi. Ðến nay là thời kỳ Long-Hoa Ðại-Hội, Huỳnh-Ðạo Thiên-Khai, Tam-Giáo Qui-Nguyên, đại-đồng tác hiệp, ban truyền tâm pháp độ rỗi Linh-Căn và dành riêng cho những bậc tầm tu giải thoát để đưa về nguyên-vị và độ tận nhân sinh, dìu dắt lẫn nhau hầu vượt qua cơn biến thiên đại-cuộc mới mong còn giữ lại được sự sống mà để bước sang qua đến một thời cuộc thái-bình Thượng-Nguơn Thánh-Ðức mà hưởng cuộc nhàn yên.
Nầy hỡi chúng-sanh, con đường tu luyện để cần giải thoát cho linh-hồn nghe qua rất là khó khăn, nhưng thật ra cũng chẳng có chi khó nhọc tột cùng, mà cũng vẫn không quá dễ dàng để cho mọi người đều được thấy. Các vị có hiểu chăng? Phép Ðạo luyện tu tâm-pháp bí-truyền từ xưa vốn đời Phật Ðạt-Ma Ngũ-Tổ tích cổ truyền lưu. Bí truyền cho Ðức Lục-Tổ là Huệ-Năng, Kinh sử vẫn lưu truyền cho đời hiểu biết. Xiển-Giáo vô-vi thậm-thâm vô-thượng, nhưng nếu người đời mà không gắng chí thì cũng đâu có dễ chi kiếm tầm đặng ra phép báu!
Châu ngọc ở thế-gian dầu là quý báu mà vẫn còn dùng giấy bạc mua đổi được thì thật là không quý. Vàng ngọc trong tay vẫn còn lo ngại nay còn mai mất. Còn như phép Ðạo luyện tu kết thành Kim-Ðơn Xá-Lợi để cho linh-hồn người đặng trường cửu, bất diệt, bất sanh, ấy mới thật là quý báu hơn trăm ngàn lần ngà ngọc. Sang giàu như bọt nước, công hầu phú quý cũng tan hợp tợ phù-vân. Cõi trần tạm giả. Xác thể nhục-bì cũng chỉ là tạm. Cõi đất bụi nầy mãn hạn đúng kỳ ta cũng phải trả về cho đất bụi. Linh-hồn phải vướng víu nghiệp trần mà chịu luân-hồi tứ khổ, vay trả, trả vay... đời đời chẳng dứt. Mãi cho đến lúc thối thân từ kiếp thú cầm sang qua thảo mộc; thối đến các loại kim khí, sắt thép, thau chì, ... thì biết đến mấy ngàn năm mới có đặng cơ hội tiến hóa từ kim khí chuyển sang đến cầm thú, và từ kiếp thú cầm mới bước sang đến nhân-loại. Sự phục hồi ấy sẽ khó nỗi mong ước. Gẫm đáng thương thay và đáng tiếc lắm thay!
Thi bài:
Khuyên bá tánh tịnh thần nghe dạy,
Lòng từ-bi hà hải độ đời,
Nhân sinh tai biến chiều mơi,
Cần lo tu niệm Phật Trời noi gương.
Nương bút Thánh tận tường phân giải,
Khuyên người đời đường phải bước mau,
Ðừng than phận khó nghèo giàu,
Ðạo, Ðời, chung bước cùng nhau lo tròn.
Tu tại gia phận tròn công đắc,
Tu chẳng cần bưng bát chùa am,
Màng chi mão áo, tước hàm,
Không phiền cạo tóc, tu tham một mình.
Tu lẫn lộn thế tình ai biết?
Tu trọn gìn chẳng thiết xuất gia,
Ðừng chi áo trắng nhuộm dà,
Tâm còn tráo chác mị tà ích chi!
Tu giữ kỷ điều qui tâm tánh,
Giữ mười điều xa lánh tu cao,
Tu sao vô phạm nhứt hào,
Tu cầu bá tánh khỏi vào sông mê.
Tu cứu khắp người quê kẻ chợ,
Tu rèn lòng như tợ nước trong,
Tu gìn giữ một chữ KHÔNG,
Ðừng cho lay động mới mong đắc thành.
Tu cho đặng Công-Bình cư xử,
Tu rèn lòng hai chữ Từ-Bi,
Tu gìn Bác-Ái gắng ghi,
Ðường tu mới hãn chứng vì Phật-gia.
Tu đắc Ðạo, ta-bà cứu thế,
Mới gọi tu thật thể Ðạo-mầu,
Tu phân thiện ác khác nhau,
Tu gìn tâm địa răn câu mị tà.
Lời châu ngọc Phật-gia nghiêm thuyết,
Xin người đời lý triết hiểu thông,
Bút cơ miêu tỏa mấy dòng,
Ban ơn Hiền-Nữ chơn-đồng lui chân.
Giả tín-nữ ban ơn mầu nhiệm,
Nương khiếu người diện kiến tác văn,
Diệu mầu đôi phút hãn tường,
Khuyên trong bá tánh mọi đường tầm tu!
Thăng.
Mùng 8 - 18 - 28 hằng tháng cúng Mẫu tại Tam Bảo của Thầy Năm Hậu
Mùng 8 - 18 - 28 hằng tháng cúng Mẫu tại Tam Bảo của Thầy Năm Hậu
Mời quý Huynh Tỷ cùng xem
Thành thật cáo lỗi vì chụp bằng điện thoại 2.0 nên ảnh quá mờ , xin quý Huynh Tỷ hoan hỷ thông cảm cho
THẦY 5 HẬU ngồi trước dưới TAM BẢO
chánh tín và mê tín(sưu tầm)
Thấy người tìm đạo vui sao
Sưu tầm đây đó góp vào thêm vui
Chánh mê ai đã nếm mùi
Nhìn xem tín ngưỡng buồn vui nhân tình:
"Sau thời gian tạo Thiên lập Địa, khởi thủy có con người sinh ra tại quả địa cầu này. Trong thời kỳ khởi nguyên của nhân loại, con người còn chất phác thuần lương, hồn hồn ngạc ngạc, tâm tính hòa đồng với thiên nhiên. Mọi biến chuyển, mọi hiện tượng của thiên nhiên trước con người chất phác không thể đoán biết vì ngoài sức tưởng tượng của họ. Bao nhiêu sự sợ sệt lo âu tự nhiên phát khởi trong lòng. Đó cũng là mầm tín ngưỡng đã phát sinh nơi nội tâm của con người. Từ đó và những thời gian kế tiếp, mỗi một trình độ, mỗi giống dân cũng như mỗi con người đều có mỗi tư tưởng và tín ngưỡng khác nhau tùy theo hoàn cảnh và ngộ nhận của họ. Do đó đã nảy sinh ra nhiều sắc thái sùng kính tôn trọng thờ phượng khác nhau. Song song với giai đoạn và kỷ nguyên đó, Thượng Đế đã cho các vị Giáo Chủ đến trần gian, chơn linh nhập vào thể xác của giống người thế gian, đem nguồn giáo lý chân chánh để hướng dẫn người đời biết cách đối xử và ăn ở với nhau cho thuận lẽ Đạo tức là hạp lòng Trời .
Từ đó, mỗi một giai đoạn đều có mỗi một tôn giáo phát sinh để hướng dẫn người đời tùy theo trình độ tiến hóa của họ mà dẫn dắt họ lần lần trên đường đạo lý. Tuy nhiên, ánh sáng thái dương tuy rọi khắp cùng nhưng không thể soi vào chậu úp .
Đạo giáo cũng trong định luật đó, vì vậy còn có những lớp nhân sanh không may mắn được thọ nhận chơn truyền, do đó nảy sanh tình trạng không đồng đều về sự tín ngưỡng.
Từ cổ chí kim, trong lãnh vực tín ngưỡng của con người, có thể chia ra làm hai lãnh vực:
1) Là tín ngưỡng trong phạm vi tôn giáo hay là đạo giáo.
2) Là tín ngưỡng theo quan niệm trong phạm vi ma quỉ.
Lãnh vực thứ nhứt, quan niệm về tôn giáo, người ta hiểu như vầy: trong thế giới thiêng liêng có ba giai tầng, đó là : Thượng giới: Tin; Trung giới: quỉ; Hạ giới: tà.
Người đã đặt mình vào một tôn giáo luôn luôn có quan niệm chọn lọc tin tưởng và hướng về thượng giới trong đó có chư Phật Tiên Thánh là những vì Thiêng Liêng thay mặt Thượng-Đế dìu dẫn giáo dục nhân loại trên các phương diện về nhân sinh, nhân trí và nhân đức.
Nhân sinh gồm có các ngành canh nông, ngư nghiệp, kinh tế, xã hội.
Nhân trí gồm có các ngành văn hóa, giáo dục, kỹ thuật, mỹ thuật, văn nghệ, khoa học, kỹ hà học…
Nhân đức gồm có công dân giáo dục, đạo lý, nói chung là tôn giáo hay là đạo đức.
Tóm lại, quan niệm về Thượng giới tin có toàn là các Đấng trọn lành giúp Thượng-Đế để bảo tồn nhân loại theo tiêu chuẩn thuần lương, nhân nghĩa, từ bi, bác ái, vị tha. Do đó người tín hữu của mỗi tôn giáo có quan niệm chân chính là luôn luôn phải hướng về Thượng-Đế theo luật bảo tồn, đem quan niệm ấy lồng vào mọi nếp sinh hoạt thường nhật của mình cho hạp với ý Trời ấy là thuận lẽ Đạo.
Nói rõ hơn, những người có quan niệm chân chính về đạo lý là hằng ngày luôn luôn khép mình trong nếp sống đạo lý, trong đó có đức hy sinh, khoan dung, bác ái, vị tha, từ bi, hỉ xả, thương người không được thì thôi chớ không được phép ghét người, giúp người không được thì thôi chớ không được phép hại người. Vì Tạo-Hóa là đức háo sanh, trái ngược với tiêu diệt. Ai muốn được Tạo-Hóa bảo tồn thương yêu phù trợ mình thì hãy cố gắng ăn ở xử thế và làm theo ý của Đấng Tạo Hóa. Mọi việc làm luôn luôn cân nhắc và xét nét xem coi việc ấy có tổn đức và trái đạo lý thì tránh, còn thuận đạo lý thì làm.
Lãnh vực thứ hai là tín ngưỡng theo quan niệm về ma quỉ. Đây là nhắm vào lớp người tuy tin tưởng vào thế giới thiêng liêng nhưng đã tin ở hạ đẳng cấp thiêng liêng. Đó là lớp người không vào một tôn giáo nào, hoặc một thiểu số ở một tôn giáo nào đó, nhưng đã tín ngưỡng lệch lạc với chơn truyền của tôn giáo mình. Lớp người này vẫn tin tưởng rằng ngoài thế giới hữu hình tại trần gian đây như những điều mắt thấy tai nghe và rờ mó được lại còn có thế giới vô hình, tai không nghe, mắt không thấy, rờ mó không đụng. Đó là phần thiêng liêng như linh hồn con người, hoặc ma quỉ
Thường thường mọi nếp sinh hoạt hằng ngày lớp người này hay tin tưởng trông cậy vào hạ đẳng cấp Thiêng Liêng như hồn người chết hoặc ma quỉ đến lớp Thần là cùng. Vì họ nghĩ rằng đẳng cấp thiêng liêng này dễ hòa đồng và gần gũi với người sống hơn, dễ mời thỉnh, dễ vái van, dễ cầu cứu hơn thượng đẳng cấp Thiêng Liêng. Do đó, mỗi khi có việc gì xảy đến cho mình mà trí phàm hoặc óc họ không thể xét đoán được, phải vái van cầu khẩn, triệu thỉnh đến sự hộ trì giúp đỡ ở phần thiêng liêng này, miễn là đáp ứng được nhu cầu ích kỷ cá nhân hoặc trong phạm vi gia đình của họ như mua bán, cầu quan, cầu tài, cầu lợi, thi cử hoặc bịnh hoạn … để đền đáp lại họ sắm lễ vật cúng tế.
Có nhiều trường hợp, vì quá kính trọng tin tưởng ở sự hộ trì phải lo đền ơn đáp nghĩa, gọi là trả lễ hay trả nợ, họ có thể làm việc phạm vào đạo lý cho ra tiền của để cúng tế, như cho vay cắt cổ đối với người nghèo túng hay bịnh nhân cần tiền thang thuốc, hoặc tham nhũng hối lộ rù rút của công, có thể lũng đoạn nền kinh tế quốc gia, hoặc sát sinh hại vật v.v... Bất cứ một hành động nào miễn là có lợi để làm phương tiện cúng tế trả lễ.
Thương ôi! lớp người này hoặc vì tự cao tự đại, cho rằng mình khôn ngoan khéo léo, chỉ một lời nói, một nháy mắt, một cuộc điện đàm là đã có tiền muôn bạc triệu hoặc biệt thự xe hơi, thì còn cần gì đến tôn giáo đạo đức mà phải trông cậy vào các đấng Phật Tiên Thánh dạy bảo mình. Tự ý nghĩ đó là những chướng ngại vật làm ngăn cách họ vào ngưỡng cửa tôn giáo. Hễ không vào cửa Đạo làm sao được tinh thần hướng thượng đẳng cấp thiêng liêng mà hiểu việc làm cho thuận lẽ đạo.
Để kết luận cho hai lãnh vực tín ngưỡng này, Bần Đạo nêu lên hai danh từ là: Chánh tín và mê tín .
Chánh tín là tin tưởng vào lãnh vực hướng thượng ở thượng đẳng cấp thiêng liêng. Còn mê tín là tin tưởng tín ngưỡng vào hạ đẳng cấp thiêng liêng .
Một khi người ta sùng kính thờ phượng một vị thiêng liêng nào, cần phải hiểu rằng: Tại sao mình thờ phượng sùng kính vị đó. Rồi tìm hiểu câu trả lời sẽ rõ lòng mình nghĩ và làm có hạp đạo lý cùng chăng?
Thí dụ: Thờ phụng sùng kính Đức Phật Thích Ca là đã hiểu hành động của Tất Đạt Đa khi còn là một thái tử đã phế ngai vàng điện ngọc ẩn thân nơi rừng già để tìm một phương pháp tự cứu mình và cứu nhân loại khỏi vòng tứ khổ. Vì cảm mến đức độ của một vị đạo đức chân tu mà thờ phượng sùng kính và dặn lòng hãy làm theo và đối xử với mọi người chung quanh mình như tánh tình đối xử của vị ấy khi còn tại thế.
Còn như thờ Đức Jésus Christ là noi theo đức hy sinh bác ái của người. Thờ Đức Khổng Phu Tử là thán phục và cố gắng làm theo đường lối của người là cách vật trí tri, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Chớ đừng nên có quan niệm hẹp hòi ích kỷ mà hiểu rằng hễ càng đem nhiều lễ vật cúng tế thì được nhiều phước đức và sự phù trợ của Đấng ấy. Nghĩ vậy là sai Đạo lý.
Thượng-Đế vì thương chúng sanh trong vòng tội lỗi u đồ nên mới khai Đạo là đem ánh sáng chân lý đến rọi đường dẫn lối cho họ ra chốn quang minh phúc đức. Vì trời đất không riêng với ai, mỗi một cử động, một tư tưởng đều có Thần minh soi xét tất cả, không phải vì đem cúng tế lễ vật mà ban phước, cũng không phải vì thất lễ mà gieo họa xuống cho người đời.
Rất đổi ở tại thế gian hữu thể này mỗi một thế giới sinh vật đều có mỗi thức ăn và phương tiện sống khác nhau, huống hồ chi giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình càng khác xa về phương diện dưỡng sinh.
Một khi trong gia đình nào có người qui liễu, thì lòng mến yêu kính nể có thể sắm lễ vật như hoa quả rượu trà tượng trưng cho tam bửu ngũ khí, chớ đừng sát sinh hại vật mà đem cúng người khuất mặt, ấy là việc làm sai đạo lý.
Còn việc họa phúc đến cho mình cũng không phải là Trời Phật Tiên Thánh vô cớ mà đem đến, chính là phải tự mình làm lấy để mà hưởng. Một thí dụ đơn giản: Trời Phật Tiên Thánh là đấng cầm cân công bằng, tỷ như một chủ nhà băng. Còn con người làm lành làm ác ví như khách hàng đối với nhà băng. Hễ gởi tiền vào nhiều được lãnh ra nhiều, gởi ít thì lãnh ra ít. Nhược bằng vay nợ nhà băng thì phải bị trừ lương hoặc là trát tòa tố tụng.
Việc hữu hình thế gian tuy không phải tuyệt đối như thế giới vô hình, nhưng cũng có nhiều điểm và nhiều trường hợp tương đồng. Bởi vậy nên câu chữ Nho có nói “dương gian âm phủ đồng nhứt lý”.
Ai cũng thương mình, thương gia đình và thân nhân quyến thuộc mình. Hãy tự tu tự tỉnh và phải chọn việc chánh tín mà làm. Có chánh tín mới mong gần được thế giới Trời Phật Tiên Thánh, bằng ngược lại mê tín thì gần với thế giới quỉ ma cùng súc sanh, sớm muộn gì cũng đi vào lục đạo luân hồi, khó mong siêu sanh thượng giới .
Ở đời cũng vậy: làm bạn với người đạo đức, trí thức văn học, sẽ giúp mình tiến triển về những mặt ấy; ngược lại, làm bạn với hạ đẳng chi nhơn như bạc bài hút xách du thủ du thực, điếm đàng trộm cắp thì sớm muộn gì đời mình cũng đi xuống hoặc mang họa không biết ngày nào."