Chiến tranh Biên giới 1979 - Bài học của niềm tin
Chiến tranh Biên giới 1979 - Bài học của niềm tin
XUÂN DƯƠNG
08:40 13/02/17 THẢO LUẬN (7)
(GDVN) -Chiến tranh xâm lược mà quân đội Trung Quốc tiến hành với chiêu bài “phản kích tự vệ” có thể đánh lừa người dân Trung Quốc nhưng không thể đánh lừa cả thế giới.
Xuân DươngHè năm 1966, khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, những sinh viên vừa nhập học khóa 11 Đại học Bách Khoa Hà Nội phải sơ tán lên Lạng Sơn.
Tàu chạy từ Hà Nội lúc tối, qua Kép một đoạn phải tăng bo vì cầu hỏng, tất cả vào rừng sơ tán đợi đến tối mới lại có tàu đi tiếp.
Đến Đồng Đăng lúc gần sáng, cả lớp lầm lũi đi, chẳng đứa nào buồn nói chuyện vì mệt và đói.
Chặng đường đi bộ khoảng 30 cây số từ ga Đồng Đăng đến Lũng Vài (xã Trùng Quán, huyện Văn Lãng) phải vượt qua một con dốc khá dài là dốc Bố Củng.
Thấy những xe quân sự Trung Quốc chạy, mấy đứa xui bọn con gái giơ tay vẫy, một xe dừng lại cho chúng tôi lên.
Việc đầu tiên là mấy người lính trẻ Trung Quốc phát cho chúng tôi mỗi người một quyển “Mao tuyển” bìa màu đỏ to hơn bàn tay, tiếp đó mỗi đứa nhận được một chiếc huy hiệu “lãnh tụ vĩ đại”.
Tưởng chừng những kỷ niệm tốt đẹp ấy sẽ còn được nhân lên vì câu hát “Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông,…”.Vận dụng vốn tiếng Trung ít ỏi học ở phổ thông, mấy đứa “xia xia thủng chư mân”, mấy người lính Trung Quốc cười vui vẻ móc túi cho thêm mỗi đứa một phong lương khô.
Không ngờ hơn chục năm sau, tháng 3 năm 1979, chúng tôi, những thày trò các trường Đại học trên địa bàn tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên, Bắc Kạn) lại phải lên Lạng Sơn, lần này là trên những chiếc Zil ba cầu của Liên Xô.
Một trung đoàn tự vệ chiến đấu gồm đa số là giảng viên và sinh viên đại học được lệnh hành quân gấp lên mặt trận Khánh Khê, vũ khí trang bị cho các chiến sĩ chỉ có một khẩu tiểu liên K63, 200 viên đạn và mấy quả lựu đạn chày.
Trên chốt tiền tiêu phía nam đầu cầu Khánh Khê các chiến sĩ phải ăn hạt bo bo luộc với cà pháo, tuy không có những trận đánh lớn nhưng tổn thất là không tránh khỏi.
Thấm thoắt chỉ hai năm nữa là tròn 40 năm ngày quân đội Trung Quốc vượt biên tấn công toàn tuyến biên giới phía bắc Tổ quốc ta.
Có nhìn tận mắt cảnh trâu chạy lạc vào bãi mìn quân Trung Quốc gài trên triền đồi đối diện bên kia sông bị nổ tung, có tận mắt chứng kiến nghĩa trang liệt sĩ xây vội bên đầu cầu Khánh Khê, mấy trăm ngôi mộ liệt sĩ, chỉ có mộ liệt sĩ Lê Đình Chinh là được xây vôi cát còn lại chỉ là những nấm đất mới hiểu thế nào là “hữu nghị”, thế nào là “hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam”.
Cuộc chiến tranh xâm lược mà quân đội Trung Quốc tiến hành với chiêu bài “phản kích tự vệ” có thể đánh lừa người dân Trung Quốc nhưng không thể đánh lừa cả thế giới.
Đó không chỉ là cuộc xâm lược quy mô lớn mà còn là cuộc chiến tranh phá hoại không khác gì chiến tranh hủy diệt bằng không quân mà Mỹ đã tiến hành trên miền Bắc Việt Nam từ tháng 8 năm 1964.
Khẩu hiệu mà Mỹ rêu rao là “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, còn giới cầm quyền Bắc Kinh khi đó thì cao giọng với thế giới, rằng để “dạy cho Việt Nam một bài học”, thực chất phía sau tuyên bố ngông cuồng ấy là gì?
Trong lời giới thiệu cuốn sách “China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (The New Cold War History)” của tác giả Qiang Zhai (Trại Cường), nhà sách Amazon.com viết: Trả lời câu hỏi này, nếu lấy quan điểm của người Việt e là sẽ có người bảo không khách quan, vậy hãy xem người không mang dòng máu Việt nghĩ gì.
“Khi xem xét cách hành xử của Trung Quốc với Việt Nam, Zhai cung cấp những hiểu biết quan trọng về chính sách đối ngoại của Mao Trạch Đông và những động cơ tư tưởng và địa chính trị đằng sau nó.
Trong suốt những năm 1950 và 1960, ông (Zhai) cho thấy, Mao coi Mỹ là mối đe dọa chính đối với an ninh của những người Cộng sản Trung Quốc và do đó (họ) thấy hỗ trợ cho Hồ Chí Minh như là một cách tốt để làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á từ cuối những năm 1960 và 1970.
Tuy nhiên, khi Mao coi là mối đe dọa lớn hơn từ Liên Xô, ông bắt đầu để điều chỉnh chính sách của mình và khuyến khích Bắc Việt chấp nhận một thỏa thuận hòa bình với Hoa Kỳ”. [1]
Trong sách tác giả Qiang Zhai viết: “Mặc dầu họ (Trung Quốc) tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa quốc tế Mác-Lênin song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung Hoa: quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới.
Các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc”. [4]
Chiến thắng của Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ thống nhất đất nước không phải là điều mà “người bạn lớn” mong đợi.
Điều mà họ muốn - như Trại Cường khẳng định - Việt Nam “phải là chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc” và đó mới chính là điều thôi thúc họ tiến hành cuộc chiến xâm lược đẫm máu nhất chống lại một quốc gia có chủ quyền kể từ sau chiến tranh Triều Tiên.
Thống kê chưa đầy đủ cho thấy: “quân Trung Quốc còn thực hiện chính sách cướp bóc và phá hoại triệt để ở các khu vực chiếm đóng được: ước tính 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ, 600.000 mét vuông nhà ở và 80.000 héc-ta hoa màu ở khu vực chiến sự bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp.
Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân ở biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Các thị xã lớn Lạng Sơn, Cao Bằng và Cam Đường gần như bị hủy diệt hoàn toàn, lính Trung Quốc dùng mìn đánh sập hầu hết các công trình, nhà ở, cầu, đường bộ và đường sắt...
ngay cả những di tích lịch sử hoàn toàn không có ý nghĩa gì về mặt quân sự như hang Pắc Bó (Cao Bằng) – từng là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn)… cũng bị phá hoại…”.[2]
Mấy đứa chúng tôi được anh Khuầy dẫn lên thăm hang, vòm hang lúc đó chỉ rộng hơn một mét vì đã bị lính Trung Quốc giật mìn đánh sập, dòng suối phía trước cửa hang có rất ít nước, trơ trọi những viên đá cuội, không còn “bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”, chỉ còn lại cây ổi khẳng khiu phía ngoài hang.Nhiều năm trước, có dịp lên thăm anh Dương Chí Khuầy, bạn học cùng lớp, cùng tổ hồi đại học, anh là con trai đại tá Dương Đại Lâm, cần vụ của Bác Hồ. Nhà ông Dương Đại Lâm cách hang Pắc Bó chưa đến “một quăng dao”.
Cố Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai từng nhận định về Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: “Công ơn của Người đối với Tổ quốc chúng tôi cũng to lớn và vô cùng hiển hách…”. [3]
Vậy mà một di tích lịch sử cách mạng vô cùng quý giá của nhân dân Việt Nam, gắn với quãng đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch từ năm 1941 vẫn bị quân Trung Quốc nổ mìn phá sập.
Đối chiếu với lời cố Thủ tướng Chu Ân Lai, ai là kẻ vô ơn, bạc nghĩa, ai là kẻ sẵn sàng chà đạp lên tinh thần quốc tế cao cả nhằm thỏa mãn tham vọng bắt các nước nhỏ làm chư hầu như nhận định của Qiang Zhai?
Năm 2005, một người gốc Hoa, Xiaoming Zhang, giảng viên trường Cao Đẳng Chiến tranh không quân (Air War College) thuộc Bộ Không Quân Mỹ đã xuất bản bài viết “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment” (Một cách đánh giá lại cuộc chiến 1979 của Trung Quốc với Việt Nam).
Bài này được đăng trên tờ China Quarterly (tạm dịch: Tài liệu quý về Trung Quốc), một tạp chí quốc tế có uy tín xuất bản tại Anh Quốc.
Tác giả viết: “Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc “chiến tranh tự vệ” chống lại quốc gia láng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa…
Bắc Kinh luôn nói rằng họ không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ cho Hà Nội, nhưng họ lại muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới” (bản dịch của Thời đại mới). [4]
Đó là sự kết thúc thời kỳ ngắn ngủi tồn tại hai hệ thống xã hội đối lập mà chúng ta quen gọi là “phe” - phe Xã hội chủ nghĩa và phe Tư bản chủ nghĩa. Cuộc chiến tranh xâm lược mà Trung Quốc phát động năm 1979 chống Việt Nam không đơn giản chỉ là cuộc chiến biên giới giữa hai quốc gia có chủ quyền, chung ý thức hệ mà còn cho thấy nó báo hiệu một thời kỳ mới của lịch sử nhân loại.
Tiếng súng mà Trung Quốc phát động trên tuyến biên giới dài 900 km giữa hai nước chính là đòn giáng mạnh vào niềm tin về một thế giới đại đồng.
Là sự khẳng định chân lý “không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc là vĩnh viễn”.
Hơn chục năm sau, khi Liên Xô tan rã cũng là lúc phe Xã hội chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng, thay vào đó hàng loạt nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trừ Nga, trở thành thành viên NATO hoặc Liên minh Châu Âu.
Ảo mộng đưa Trung Quốc thành lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới - như nhận định của Xiaoming Zhang - sụp đổ là hậu quả tất yếu khiến giới lãnh đạo Bắc Kinh quay lại với chính mình.
Đó là lý do vì sao chủ thuyết “phục hưng dân tộc Trung Hoa” ra đời.
Mộng ước ấy nằm trong ngay cái tên “Trung Quốc” - quốc gia là trung tâm của thiên hạ.Thực ra, tìm trăm phương nghìn kế để trở thành lãnh tụ phong trào giải phóng dân tộc thế giới chỉ là chiêu bài che dấu những gì mà giới thống trị Trung Quốc đã làm hàng nghìn năm qua và sẽ vẫn tiếp tục trong thời gian sắp tới.
Chiến lược “cây gậy và củ cà rốt” của Mỹ đã được Trung Quốc vận dụng sáng tạo và nâng thành nghệ thuật.
Chỉ cần một chút viện trợ kinh tế, chỉ cần lôi kéo một quốc gia, Bắc Kinh có thể biến ASEAN thành một tổ chức lỏng lẻo không thể đồng thuận những vấn đề quốc tế liên quan đến Trung Quốc.
Giới lãnh đạo Bắc Kinh say sưa với sự tăng trưởng ngoạn mục về kinh tế đang có ảo vọng sẽ thay thế Mỹ trở thành siêu cường thống trị thế giới cả về kinh tế, quân sự lẫn chính trị.
Và một lần nữa, những cái đầu dân tộc chủ nghĩa lại tìm cách thực hiện mộng ước “thế giới đại đồng” không phải theo một học thuyết xa vời nào đó mà là những vành đai, những con đường tơ lụa mới, bằng những đạo quân trá hình - công nhân, nông dân, ngư dân hiện diện bất kỳ nơi nào có thể.
Trong bối cảnh ấy, chịu ảnh hưởng nhiều nhất, rõ nhất không ai khác chính là nước Việt Nam chúng ta, bởi chúng ta có thể chọn bạn bè nhưng không thể chọn láng giềng.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://www.amazon.com/China-Vietnam.../dp/0807848425
[2] http://infonet.vn/chien-tranh-bien-g...ost158490.info
[3]http://ditichhochiminhphuchutich.gov....sQh4Vrmv.dpbs
[4]http://nghiencuuquocte.org/2015/11/0....THID9Do4.dpuf
Chiến tranh biên giới 1979: Quân Trung Quốc bị tiêu diệt vẫn ôm bao khoai lang
Chiến tranh biên giới 1979: Quân Trung Quốc bị tiêu diệt vẫn ôm bao khoai lang
http://sohanews.sohacdn.com/thumb_w/...7303168445.jpg
Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979. Ảnh tư liệu của báo Quân đội nhân dân.
"
Đội quân đó vào nhà dân vơ vét tất cả những gì có thể dùng được và trong lịch sử, tôi chưa thấy một quân đội của nước lớn nào phát động chiến tranh lại như thế", tướng Lương nói.
Đội quân ô hợp, hôi của
38 năm đã trôi qua nhưng trong câu chuyện với chúng tôi, Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Mã Lương, người từng lăn lộn, chiến đấu tại những nơi ác liệt nhất ở biên giới phía Bắc 8 năm (1979 - 1987) vẫn không giấu được cảm xúc.
Theo tướng Lương, đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ biên giới phía Bắc mà quân dân ta đã chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược.
"Chúng ta cần tự hào về điều này cũng như phải có hành động tương xứng với giá trị của những sự hy sinh đó", tướng Lương chia sẻ.
Kể lại diễn tiến của cuộc chiến, theo ông, từ mờ sáng 17/2 đến 5/3/1979, Trung Quốc huy động 600.000 quân, mở cuộc tấn công quy mô lớn gồm nhiều quân đoàn, tập đoàn quân trên dọc biên giới 6 tỉnh phía Bắc nước ta (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng đến Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu).
Quân Trung Quốc đã tàn phá nặng nề cơ sở hạ tầng của các tỉnh biên giới; giết hại nhiều dân thường vô tội như các vụ thảm sát kinh hoàng ở Kim Quang (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai) hay giết hại 43 người dân (phần lớn là phụ nữ, trẻ em) rồi vứt xác xuống giếng ở thôn Tổng Chúp (Cao Bằng).
Trên thực tế, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc kéo dài đến năm 1988. Như vậy, chúng ta mất 10 năm chống lại sự xâm lược của Trung Quốc.
Cũng theo ông, mặc dù, quân Trung Quốc đông đảo như vậy nhưng những từ "run sợ" hay "lo sợ" chưa bao giờ có trong tư duy quân sự cũng như trong suy nghĩ của người Việt Nam.
"Người Việt Nam luôn có một tấm lòng bao dung, tinh thần hòa hiếu, khát vọng hòa bình và không bao giờ run sợ. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc tháng 2/1979 là một minh chứng rõ ràng cho điều đó", ông chia sẻ.
Tướng Lương cũng nhắc lại một điều mà ông thấy lạ ở đội quân xâm lược Việt Nam tháng 2/1979 là quân giải phóng nhân dân Trung Quốc nhưng lại được trang bị rất kém, ô hợp và hôi của.
"Khi lực lượng chiến đấu của Trung Quốc đi trước hoặc chiếm được các vị trí, đường phố thì phía sau là đội quân binh rất đông nhưng lại là đội quân ô hợp chuyên hôi của.
Đội quân đó vào nhà dân vơ vét tất cả những gì có thể dùng được. Trong lịch sử, tôi chưa từng thấy một quân đội của một nước lớn nào phát động chiến tranh lại đưa dân binh đi để vơ vét của cải như thế.
Thậm chí họ còn bắt gà, bắt lợn và xuống ao để bắt cá, rồi có thể đặt mìn để phá tất cả, cầu, cống và cả những cây to ở ven đường.
Hành động của quân Trung Quốc khiến tôi liên tưởng đến năm 1945 khi quân Tàu – Tưởng sang Việt Nam đi giải giáp quân đội Nhật.
Không thể tưởng tượng được quân đội của một nước mạnh như Trung Quốc lại vô kỷ luật như vậy và hành động của họ không tương xứng với tên của
Thêm vào đó, việc huy động 60 vạn quân đánh vào 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta với một không gian chiến trường rộng và chiều dài biên giới nhiều km đã khiến họ tổn thất hết sức nặng nề.
"Chưa có trận đánh nào quân Trung Quốc làm tê liệt nổi một đại đội của Việt Nam. Trong khi đó bộ đội ta tổ chức những trận đánh tiêu diệt gọn một đại đội của quân Trung Quốc", ông kể thêm.
Tướng Lê Mã Lương cũng nêu rõ, trong kế hoạch của quân đội Trung Quốc, nếu như có thể tiến sâu về Hà Nội thì cố gắng tiến sâu nhưng đã không một đơn vị nào của Trung Quốc nào vượt qua được các tỉnh biên giới. khi không còn chịu nổi thì quân Trung Quốc đã buộc phải rút về nước.
Khi Trung Quốc rút, quân ta có lệnh không ngăn chặn việc Trung Quốc rút quân, không đánh úp. Việc làm này thể hiện tinh thần hòa hiếu của dân tộc ta.
Nếu không có lệnh đó thì nhiều đơn vị của ta sẽ chặn đường rút lui của quân Trung Quốc. Việc này sẽ làm cho quân Trung Quốc hoảng loạn và tình hình sau đó như thế nào sẽ rất khó đoán được.
Tướng Lương nhận xét: "Nếu bị chặn đánh, khả năng sẽ không những giống quân Thanh rút chạy khi bị quân của Quang Trung đánh mà còn có thể loạn hơn. Khi đó họ sẽ phải vứt xe, vứt pháo mà băng rừng lội suối rút về nước".
Bị tiêu diệt vẫn ôm bao khoai lang
Cũng trong câu chuyện với chúng tôi, khi nhận xét về lính Trung Quốc lúc đó, cựu binh Nguyễn Mạnh Hùng, tác giả của bài thơ "Bình độ 400" nổi tiếng đã nêu rõ, đó là đội quân ô hợp nhất mà ông từng thấy.
"Sau quá trình chiến đấu, chúng tôi phát hiện ra là lính Trung Quốc không phải tất cả được trang bị vũ khí, nhiều tên chỉ đi tay không. Mà những loại đấy chúng tôi cho chỉ là bọn đi đánh hôi. Có nhiều tên khi bị quân ta tiêu diệt tay vẫn còn ôm một bao khoai lang", ông kể lại.
Thiếu tá Phạm Văn Quế, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 2, Sư đoàn 3, hiện đang sinh sống tại xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội, được đồng đội gọi là "thần chiến tranh" trong giai cuộc chiến tranh biên giới cũng nhận xét, quân Trung Quốc lúc đó rất nhát.
"Cái nhát gan đó không chỉ nằm trong việc không có pháo là không tiến công mà còn thể hiện ở việc họ không dám đánh ban đêm. Cứ ban đêm là họ co cụm lại.
Những khẩu súng trường hay CKC, tiểu liên mà quân Trung Quốc được trang bị nếu nói ra thì chỉ dùng cho bộ đội địa phương, dân quân tự vệ.
Thậm chí, nhiều lính của chúng còn không có súng mà chỉ chạy theo để cướp hôi với sự chỉ điểm của lũ gián điệp người Trung Quốc.
Chúng cậy đông xông lên ào ào theo hiệu lệnh của kèn Tây nhưng gặp hỏa lực mạnh của ta thì lại chạy rất nhanh, co cụm lại và họ không dám tiến công trực diện, chủ yếu là đánh vòng", ông Quế chia sẻ thêm.
Trích dẫn:
Cũng trao đổi với chúng tôi, Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược (Bộ Công an) cũng khẳng định cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ biên giới. Chúng ta đã chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược. Đây cũng là điều mà chúng ta cần tự hào.