Các bạn ơi khi Đức Phật còn tại thế thì Đạo Phật chỉ có một còn sau khi Phật nhập niết bàn thì Đạo Phật lại chia ra nhiều trường phái khác nhau?
Printable View
Các bạn ơi khi Đức Phật còn tại thế thì Đạo Phật chỉ có một còn sau khi Phật nhập niết bàn thì Đạo Phật lại chia ra nhiều trường phái khác nhau?
hihi
Phật pháp làm gì có chia, chắc bạn nhìn nhầm rồi đó xem kỹ lại đi nào !
Thế tại sao lại có Đại Thừa và Tiểu Thừa?
Đại Thừa là do bọn Tàu nó chế ra, ko phải là đạo Phật. Đạo Phật chỉ có 1, ko có Đại Thừa hay tiểu thừa. Hãy tìm hiểu lại lịch sử phát triển đạo Phật đi, 1000 năm sau khi Đức Phật mất mới xuất hiện cái gọi là Đại Thừa do người Tàu tự phong, họ còn chê đạo Phật của Ấn Độ là tiểu thừa để tự phô trương thanh thế và lừa gạt các tín đồ bằng cách chế ra nhiều môn phái Thiền, Tịnh Mật..., bịa ra rất nhiều các vị Phật và Bồ Tát mang dáng dấp điển hình của người Trung Quốc. Thế mà chẳng lừa được bao thế hệ các nhà sư VN đấy thôi. Bái phục người Tàu, cái gì cũng có thể chế ra được, cái gì cũng có thể tưởng tượng ra được, kể cả biến nhựa thành gạo, tưởng tượng ra đường lưỡi bò 9 đoạn trên biển, thế mà cũng nhiều người tin ra phết.
Thế thì pháp môn Tịnh Độ cũng là do của tàu chế ra như vậy thì có nên tin theo pháp môn này hay không?
Đạo Phật, đạo Chúa hay đạo nào mà chia ra cũng là chiều theo "khẩu vị" của con người thôi ncsoft ơi.
Phân biệt chi món này Tây, món kia Tàu, cà ri Ấn độ, mắm Việt Nam...miễn sao bạn ăn no mạnh khỏe phát triển khôn lớn là được rồi.
Giả dụ bây giờ ông phật Thích Ca origin Ấn Độ hiện ra thuyết pháp cho bạn tiếng Pali chắc đúng ý bạn lăm nhỉ ...:day_dreaming::oh_go_on:
Bài viết sau đây được trích lại từ Wikipedia :
Vui lòng chịu khó đọc "kỷ" và tìm hiểu thêm nửa .
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB...%ADt_gi%C3%A1o
Lịch sử Phật giáo
!!!( CHÚ Ý )Bài viết này có một danh sách nguồn tham khảo nhưng thông tin trong bài vẫn chưa thể được xác thực vì thiếu chú thích trong hàng.
Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 49 năm khi Phật còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Bổn Sư Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
Bối cảnh lịch sử Ấn Độ trước Phật giáo
Về địa lý, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Nền văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ Đà (Veda). Các bộ lạc du mục người Aryan đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm trước Công Nguyên[1].
Văn hoá Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến Vệ Đà thành một tôn giáo (đạo Bà La Môn) và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bà La Môn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị[1].
Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà La Môn (hay sớm hơn từ tư tưởng Vệ Đà). Đạo Bà La Môn còn cho rằng tồn tại một bản chất của vạn vật, đó là Brahman (hay Phạm Thiên). Việc giai cấp tăng lữ được đề cao và được hưởng mọi ưu đãi bổng lộc trong xã hội đã tạo điều kiện cho việc phân hoá thành phần này ra rất nhiều hướng triết lý hay hành đạo khác nhau và đôi khi chống chọi phản bác nhau. Trong thời gian trước khi Thích Ca thành đạo, đã có rất nhiều trường phái tu luyện. Các xu hướng triết lý cũng phân hoá mạnh như là các xu hướng khoái lạc, ngẫu nhiên, duy vật, hoài nghi mọi thứ, huyền bí ma thuật, tu khổ hạnh, tu đức hạnh, tụng kinh...
Tất cả các tôn giáo thời kỳ đó đều không giải quyết được các vấn đề khổ đau và phiền não của con người. Thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm là vị bồ tát trong kiếp chót của vòng luân hồi đã tìm con đường để diệt trừ các khổ não như già, bệnh, chết... Thái tử xuất gia và học ở các vị thầy tài giỏi vẫn không tìm thấy con đường thoát khổ. Sau đó bồ tát đã tu tập khổ hạnh trong suốt 6 năm nhưng vẫn không thành tựu. Cuối cùng ngài từ bỏ con đường khổ hạnh, theo con đường trung đạo. Và với ba-la-mật chín muồi, bồ tát chứng đắc quả vị Phật sau 49 ngày ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề nay là Bồ-đề đạo tràng (BodhiGaya). ở Ấn Độ . Và sau khi Phạm Thiên Sahampati thỉnh cầu Đức Phật 3 lần, Đức Phật đồng ý và nhận làm đệ tử . Đức Phật đã thuyết giảng về Tứ Thánh Đế là Thánh đế về Khổ, Thánh đế về nguyên nhân của Khổ (Tập), Thánh đế về Diệt Khổ và Thánh đế về con đường Diệt khổ (chính là Bát chính đạo) trong suốt thời gian 45 năm chuyển pháp luân giảng đạo của mình.
Giai đoạn sơ khai và Giáo hội đầu tiên
Giai đoạn sơ khai
Ngay sau khi thành đạo (vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN - có tài liệu cho đó là vào năm 544 TCN) thì Thích Ca đã quyết định thuyết giảng lại hiểu biết của mình. 60 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Thích Ca đã hình thành tăng đoàn (hay giáo hội) đầu tiên. Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và mang về thêm ngày càng nhiều người muốn theo tu học. Để làm việc được với một lượng người theo tu học ngày càng đông, Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người. Các chuẩn mực này phần chính là việc quy y tam bảo - tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Phật, những lời chỉ dạy của Phật (Pháp), và cộng đồng tăng đoàn.
Tổ chức đầu tiên
Trong thời đức Phật Thích Ca còn tại thế thì các tu sĩ Phật giáo được tập hợp trong tổ chức được gọi là Tăng đoàn, trực tiếp chịu sự hướng dẫn của Thích Ca về giáo lý và phương cách tu tập. Tăng đoàn là tổ chức thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội và có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên. Nhờ vào tổ chức có tính bình đẳng và qui củ nên Tăng đoàn tránh được nhiều chia rẽ.
Kỷ luật của giáo hội dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong các kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn.
Ngoài những người xuất gia, Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia (hay cư sĩ). Giới cư sĩ cũng được Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ tăng đoàn về nhiều mặt.
Sau khi Phật nhập niết bàn thì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa) thay phần lãnh đạo giáo hội. Giáo hội giữ nguyên các hoạt động truyền thống của mình cho đến kì kết tập kinh điển lần thứ hai.
Các Hội nghị kết tập kinh điển chính
Kết tập lần thứ I
Bài chi tiết: Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất
Lí do :
1_ Khi Phật còn sinh tiền, các giảng thuyết đều chỉ truyền miệng. Phật lại tùy theo trình độ hiểu biết và khả năng hấp thụ để có lời giảng thích hợp. Các phương pháp dùng lại rất phong phú tùy theo hoàn cảnh và phương tiện. Do đó, sự dị biệt khó tránh khỏi trong các lời giảng.
2_ Ngay sau khi Phật nhập niết bàn, đã có các đệ tử cho rằng phải làm điều này, không làm điều nọ, không chịu ràng buộc tâm ý... Để tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ cho được toàn vẹn, Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa) đã đề nghị kết tập và phân loại toàn bộ lời dạy của Phật lại thành kinh điển để tránh chia rẽ, sai lầm về giáo pháp[2].
Diễn biến và kết quả
Cuộc kết tập lần I đã được tổ chức tại thành Vương Xá (Rājagaha), gồm 500 A-la-han Arhat. Được sự bảo trợ của vua A Xà Thế (Ajatasatru)là vua xứ Ma Kiệt Đà (Magadha. Thời gian: vào mùa Hạ năm Đức Phật Niết-bàn. Ngài Ưu Ba Ly (Upali) trùng tuyên Luật tạng trước, Ngài A Nan trùng tuyên Kinh tạng sau. Bộ luật được trùng tụng là: Bát thập tụng Luật. Lý do kiết tập: Tỳ kheo Bạt Nan Đà vui mừng khi nghe tin Đức Phật nhập niết bàn. Phương pháp kết tập được kể lại bằng trí nhớ và cũng không có ghi thành văn bản. Những điều ghi nhận này sau đó được viết lại thành 4 bộ kinh:
Kinh Trường A Hàm (Digha agama)
Kinh Trung A Hàm (Majjhima agama)
Kinh Tăng Nhất A Hàm (Anguttara agama)
Kinh Tạp A Hàm (Samyutta agama)
Đây là các tài liệu cổ nhất có ghi lại cuộc đời của Phật và hoạt động của Tăng đoàn, đánh dấu bước đầu hình thành Kinh tạng và Luật tạng. Các bộ kinh văn trên cũng là căn bản cho Phật giáo nguyên thủy.
Kết tập lần thứ II
Bài chi tiết: Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai
Lí do :
1_ Sau 100 năm (đầu thế kỉ thứ 5 TCN) thì có nhiều người muốn thay đổi một số điều chi tiết trong giới luật. Đại hội kết tập lần thứ II cốt để bàn thảo về những thay đổi này.
2_ Đại hội còn nhằm mục đích ngăn không để các tư tưởng của các đạo khác thâm nhập vào giáo lý Phật giáo.
Diễn biến và kết quả
Đại hội có 700 vị tỳ kheo, được tổ chức tại Vesali trong tám tháng dưới sự trợ giúp của vua Kalasoka. Trong đại hội những người không đồng ý với việc giữ nguyên giới luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị kết tập riêng và thành lập Đại chúng bộ (mahāsāṅghika). Số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập kinh điển, sau đó hình thành Thượng tọa bộ (Theravada)[3].
Các bộ phái chính hiện nay
Thượng tọa bộ (tiếng Pali: Theravada, tiếng Phạn: Sthaviravada), còn được gọi là Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo Nam truyền. Tông phái này hình thành ngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi Thích Ca viên tịch. Chữ Theravada có nghĩa là "lời dạy của bậc trưởng thượng". Do đó nhiều sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ. Chính xứ Sri Lanka là nơi bảo tồn được truyền thống của Thượng tọa bộ mặc dù đạo Phật tại đó là một kế thừa từ trung tâm Ấn Độ. Phật giáo ở Ấn Độ đã bị suy tàn và biến mất từ thế kỉ thứ 6 do sự lan rộng của Hồi giáo và Ấn Độ giáo.
Quan Thế Âm Bồ Tát
Một hình ảnh tiêu biểu của tư tưởng Đại thừa ở các nước Đông Nam Á
Đại thừa (Mahayana) hay Phật giáo Bắc truyền . Từ thế kỉ thứ 1 TCN các tư tưởng Đại thừa đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay Đại thừa, chỉ thực sự có khi nó được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nói chung, tư tưởng Đại thừa có xu hướng rộng rãi và tự do hơn các phép tắc ràng buộc của Thượng tọa bộ.
Đến thế kỉ thứ 3, khái niệm Đại thừa mới được xác định rõ ràng qua các trước tác của bồ tát Long Thọ trong Trung Luận (hay Trung Quán Luận), chứng minh tính không của vạn vật. Các ý này đã được Long Thọ khai triển. Bên trong Đại thừa, lại có các trường phái khác như là Trung quán tông, Duy thức tông.
Mật tông (Tantrayana), còn gọi là Kim cương thừa (Vajrayana). Mật tông thường có khuynh hướng giữ bí mật các thông tin nên khó xác định được chính xác thời điểm ra đời của tông phái này. Mật tông xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ 6, hay chắc chắn hơn là thế kỉ thứ 7. Mật tông có rất nhiều pháp môn thực hành được gọi là các phương tiện hay phương tiện thiện xảo, trong đó bao gồm Mạn đà la, Chân ngôn, Ấn, Thần thể, Ngũ trí như lai (Dhyani-Buddha), Chủng tử, Đại thủ ấn, Kim cương chử và Kiền trùy (Ghanta - chuông nhỏ).
Khối lượng kinh điển Mật tông rất khổng lồ và chưa được biết hết. Trong đó, cần kể đến Đại Nhật kinh, Kim Cương Đỉnh kinh, Tô Tất Địa kinh, Du kỳ kinh, Yếu lược niêm tụng.
Tịnh Độ tông hay Tịnh thổ tông (淨土宗), còn gọi là Liên tông xuất hiện vào giữa thế kỉ thứ 4 từ sự truyền bá của nhà sư Huệ Viễn. Tư tưởng về Tịnh Độ đã có sẵn trong Phật giáo Ấn Độ nhưng tới khi sang Trung Hoa, nó đã phát triển thành một tông phái.
Kinh điển phái này phần chính là các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, cộng với luận Vãng sinh Tịnh độ. Phương pháp tu học có 3 nguyên tắc: Tín, Nguyện và Hành. Đây là một trong các tông phái tương đối dễ tu học nên ở Đông và Nam Á có rất nhiều Phật tử trong vùng theo tông này, nhất là những người lớn tuổi.
Thiền tông (禪宗, Zen). Thiền là phương pháp tu tập có từ khi Thích Ca truyền giảng. Tông phái này được Bồ Đề Đạt Ma đem sang Trung Hoa vào đầu thế kỉ thứ 6. Đến đầu thế kỷ thứ 8 thì Thiền tông đã thực sự phát triển và lớn mạnh sâu rộng hơn các tông phái khác. Thiền tông cũng thường được xem là một nhánh của Đại thừa. Tuy nhiên, phương cách tu học được nhấn mạnh là việc tự nỗ lực để phá bỏ các định kiến chấp trước, các kinh nghiệm hay lề lối suy diễn cũ của bản thân để trực tiếp chứng nghiệm chân lý. Do sự lớn mạnh đặc biệt, Thiền tông còn được chia ra thành nhiều tông phái nhỏ, quan trọng nhất là Lâm Tế tông và Tào Động tông.
Ngoài ra các bộ phái khác tầm mức nhỏ hơn đáng kể là Luật tông (Vinaya), Duy Thức tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông hay Hiền Thủ tông, Thành Thật tông và Chân Ngôn tông.
Về khái niệm Tiểu thừa
Trước đây đã có một sự đánh giá không đầy đủ về các danh từ Tiểu thừa (Hinayana) và Đại thừa (Mahayana). Cả hai khái niệm trên xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ 1 trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Đã có một số nhầm lẫn khi nhập chung khái niệm Tiểu thừa với Thượng tọa bộ (Theravada - Phật giáo nguyên thủy hay Trưởng lão bộ) làm một. Sự thật là Thượng tọa bộ được truyền tới Tích Lan và phát triển ở đó vào thế kỉ thứ 3 TCN (thời vua Asoka). Trong thời gian này thì chưa hề có các khái niệm Tiểu thừa và Đại thừa. Đến khi bộ phái Tiểu thừa hình thành ở Ấn Độ thì Thượng tọa bộ đã phát triển hoàn toàn độc lập ở Tích Lan. Phái Tiểu thừa ngày nay đã hoàn toàn không còn tồn tại[cần dẫn nguồn]. Do đó, Hội Phật giáo Thế giới (World Fellowship of Buddhists, WFB) đã quyết định xoá bỏ danh từ này vào năm 1950 vì nó hoàn toàn không liên quan tới đạo Phật hiện diện ngày nay ở Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào ...
tất cả đều là 1....bạn cứ tin vào phật pháp..tiểu hay đại hay mật thì cứ tùy duyên bạn mà tu...tất cả đều hướng con người ta đến cái tốt bạn tu ma đạo nhưng tâm từ bi hỷ xả thì cũng là đạo phật luôn... ko phân biệt người tầu người tây ngừoi ta... trong các sắc dân và sắc tộc đều có kẻ xấu ngừoi ác...mình cứ tu theo duyên thuơng yêu mọi ngừoi là đc... thân!!!!
Bị chia nhiều tông phái vì không có tổ chức chặt chẽ. Cứ lấy ví dụ Tin Lành là tôn giáo cho phép người ta thoải mái suy luận nên tôn giáo này có đến hàng trăm giáo phái mà gọi chung là TIn Lành là vậy !
vì thế,PG vốn cũng là tôn giáo tự do suy luận . Không biết từ giáo hội Phật Giáo có từ lúc nào,e rằng cách đây không quá 100 năm.
hồi trước vào thấy các tông phái cãi nhau mà tôi buồn lắm,mọi người thoải mái suy luận rồi sân si với nhau...
sai gì thì ném ghạch nhẹ tay...
Seo nhà thương có nhiều khu , khu cho mắt , khu cho tim , khu cho thận , gan , phèo , phổi và nhi đồng ?
Bệnh gì trị nấy , có người hạp tụng Kinh , có người thích ngồi Thiền , có người thích tu nhưng không ăn chay được ...vv..v
Tùy duyên mà giáo hóa . :happy::happy::happy:
Pháp môn là phương tiện, tiểu thừa hay đại thừa cũng là phương tiện để người tu học Phật nương nhờ vào đó mà tu học.
đã bảo bạn bị nhậm mắt nên nhìn nhầm mà chứ khi bạn hết nhậm mắt làm sao mà thấy phật pháp có phân chia này nọ làm chi , nghĩ lai kỹ đi, nhìn nhầm rồi đó !
Những con ao sông nhỏ thành dòng rồi cũng đổ ra biển khơi .Nhưng coi chừng chúng nó ngăn đập thì đại họa rùi ...nhìn kỹ đi ...
Thanks các bạn đã chia sẻ ,vì mình chưa tìm hiểu kỹ lích sử PG nên hỏi hơi ngốc hihi mong mọi người thông cảm:).
Theo mình nghĩ thì, sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, còn lại các Thánh Tăng, và các Chúng Sanh, là những học trò, và những người tin theo giáo lý Đức Phật. Họ là những con người, đến từ nhiều vùng miền, nhiều địa phương, nhiều dân tộc khác nhau. Họ học cùng một giáo lý, cùng một Thầy, nhưng tất nhiên mỗi người khác nhau cả về cách hiểu và cách tu.
Ví dụ, cùng là câu niệm Phật, người thì niệm là A Mi Tou Fo, người thì niệm A Di Đà Phật, người thì niệm A Mi Là Phật v.v... Cái Khẩu khác nhau, thì Cái Ý cũng khác, và chắc chắn Cái Tâm cũng có khác. Và sự phân chia các tông phái trong Phật Giáo xuất phát từ đó.