-
uế tích kim cương kinh
ô Xu Sa Ma Minh Vương ( Uế Tích Kim Cang
Đức Đặc Biệt Uế Tích Kim Cang có Bổn Thệ là ăn hết các thứ Bất Tịnh hay thiêu đốt Tâm phân biệt dơ sạch, sinh diệt, chuyển Bất Tịnh thành Thanh Tịnh, có Thần Biến Diên Mạng Pháp, có thể khử bệnh tránh tai ương, hộ mạng sống lâu Ô Xu Sa Ma Minh Vương (Tên Phạn là: Ucchsma, tên Tây Tạng là: Hchol-ba) lại tên là: Ô Mục Sa Ma Minh Vương, Ô Xu Sáp Ma Minh Vương, Ô Tố Sa Ma Minh Vương; cũng gọi là Uế Tích Kim Cang, Hỏa Đầu Kim Cang, Bất Tịnh Kim Cang, Thụ Xúc Kim Cang, Bất Hoại Kim Cang, Trừ Uế Phẫn Nộ Tôn…. Là 1 trong các Tôn Phẫn Nộ được thờ cúng nơi Thiền Tông và Mật Giáo, là Giáo Lệnh Luân Thân của Yết Ma Bộ ở phương bắc.
http://langadida.vn/resource/images/...iaovnn_com.jpg
Căn cứ trong quyển 36 “ Tuệ Lâm Âm Nghĩa “ ghi chép rằng: Bổn nguyện của Minh Vương này là ăn hết tất cả vật Bất Tịnh, có đủ Đại Bi Thâm Tịnh (trong sạch thâm sâu), không tránh tiếp xúc với vật ô uế, vì cứu hộ chúng sinh nên dùng ánh sáng Đại Uy dạng như lửa mạnh, thiêu trừ phiền não vọng kiến, phân biệt Tâm sinh diệt dơ sạch. Do có đầy đủ Đức chuyển Bất Tịnh thành Thanh Tịnh, cho nên thường đặt ở nơi Bất Tịnh để cung phụng. Trong 2 Tông, Thiền Tông và Mật Tông của Trung Quốc, Tôn này nhận được sự tôn sùng rất lớn.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2550785.nv.jpg
Trong “ Để Lí Tam Muội Gia Kinh “ có 1 tên là Thụ Xúc Kim Cang, tức là Bất Tịnh Kim Cang. Trong quyển 9 “ Đà La Ni Tập Kinh “ thì gọi là Bất Tịnh Khiết Kim Cang Trong “ Nhiếp Vô Ngại Kinh “ gọi là Uế Tích Kim Cang.trong “ Cù Hê Kinh “, “ Tô Bà Hô Kinh “…. có tên gọi là Uế Tích Kim Cang, Bất Hoại Kim Cang, Hỏa Đầu Kim Cang…. Tôn này cũng có tên Phạn là: Ma Hạ Ma La (Mahàbala) dịch là Đại Lực. Đại Lực là chỉ Tôn này có đủ sức Đại Từ, giống như dùng lửa rực thiêu trừ nghiệp sinh tử uế ác của chúng sinh, cho nên tên là Đại Lực. Có thể biết Uế Tích Kim Cang có đủ Đức màu nhiệm chuyển Bất Tịnh Uế Ác thành Thanh Tịnh, dùng Thể Tính Pháp Giới của Thanh Tịnh rất sâu có đầy đủ Uy Quang của Đại Bi, dùng Đại Từ Đại Lực, sinh khởi Tịnh Hỏa rực cháy trong Pháp Giới thiêu trừ nhóm nghiệp sinh tử của chúng sinh, khiến Pháp Giới thường hiện Thanh Tịnh, chúng sinh xa lìa phân biệt Tịnh Nhiễm, tiến thẳng đến viên mãn thành Phật. Là Đại Thủ Hộ sự nghiệp Tâm Bồ Đề của tất cả chúng sinh.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2550920.nv.jpg
Dùng Pháp tu của Minh Vương này làm Bổn Tôn gọi là Ô Mục Sa Ma Pháp, thường dùng để khẩn cầu sinh sản được bình an hoặc khử trừ Bất Tịnh lúc sinh sản, hoặc là khử trừ bệnh tật, xua đuổi rắn độc, Quỷ Ác…. cũng có thể tu Pháp này. Phàm trì tụng Thần Chú Minh Vương này, có thể được đại công đức, không chỉ có thể nhận được đại lợi ích khử bệnh, kính yêu, tránh nạn, thêm phước, giáng phục oán địch…. Lại có thể phòng ngự các chướng ngại của Khô Mộc Tinh, Quỷ Ác, rắn độc…. Uế Tích Kim Cang thị hiện thân hình rất là uy mãnh phẫn nộ, trong Mật Giáo là Giáo Lệnh Luân Thân được hóa hiện bởi Yết Ma Bộ ở phương bắc, thân phẫn nộ, viên mãn sự nghiệp rộng lớn của Chư Phật. Trong Nhân Duyên của Bổn Địa, trong các Kinh Luận thì Tôn này được coi là thị hiện của Thích Ca Mâu Ni Phật, Bất Không Thành Tựu Phật, Bất Động Minh Vương, Phổ Hiền Bồ Tát cho đến Kim Cang Thủ Bồ Tát, có các loại thuyết pháp truyền thừa khác nhau. Nhân đây có người cho rằng Tôn này là đồng thể với Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương ( Tức là Giáo Lệnh Luân Thân của Bất Không Thành Tựu Phật) trong 5 Đại Minh Vương. Trong “ Để Lí Tam Muội Gia Kinh “ với trong quyển 9 “ Đại Nhật Kinh Sớ “ lại nói là Uế Tích Kim Cang là nơi hóa hiện của Bất Động Minh Vương. Trong “ Để Lí Tam Muội Gia Bất Động Tôn Thánh GiảNiệm Tụng Bí Mật Pháp “nói rằng: “ Lại tác niệm này, người Trì Minh ấy sợ tất cả uế ác, nay ta hóa ra tất cả vật ô uế, quấn quanh 4 mặt mà trụ ở trong đó, nơi ấy đang thi hành Minh Thuật làm sao mà vào được? !.. Lúc Vô Động Minh Vương vâng theo giáo mạng của Đức Phật triệu vời vị Trời ấy, thấy làm sự việc như vậy, tức hóa ra Thụ Xúc Kim Cang (Tức là Bất Tịnh Kim Cang), khiến vị đó bị bắt. Bấy giờ, Bất Tịnh Kim Cang trong chốc lát đều ăn hết các uế vật không còn dư xót, liền nắm tay vị Trời kia đi đến chỗ của Đức Phật “.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551069.nv.jpg
Y theo “ Bí Tạng Ký “ ghi chép rằng: Kim Cang Dạ Xoa là thân phẫn nộ của Bất Không Thành Tựu Phật, Tự Tính Luân Thân tức là Kim Cang Nha Bồ Tát, là thân tịch tĩnh. Nhưng Uế Tích Kim Cang là thân phẫn nộ của Bất Không Thành Tựu Phật, Tự Tính Luân Thân là Kim Cang Nghiệp Bồ Tát. Trong 5 tượng Đại Tôn do Trí Chứng thỉnh về,không có Kim Cang Dạ Xoa, mà dùng Ô Sô Sáp ma thay thế. Do có thể biết điều này nên Kim Cang Dạ Xoa và Uế Tích Kim Cang có thể coi là đồng thể.
Nhưng tên gọi của Hỏa Đầu Kim Cang trong Tôn này có nguồn gốc trong quyển 5 “ Lăng Nghiêm Kinh “ ghi chép rằng: Ô Sô Sáp Ma đến trước Đức Như Lai, chấp tay lại đỉnh lễ hai chân Phật, mà bạch rằng: “ Con thường nhớ kiếp lâu xa về trước, tính nhiều ham muốn, có Đức Phật ra đời, tên là Không Vương, nói người nào đa dâm tụ thành lửa mạnh, dạy con Quán khắp trăm xương trong người, tứ chi, các khí lạnh ấm. Do Thần Quang lắng đọng bên trong, hóa Tâm Đa Dâm thành Lửa Trí Tuệ, từ đó Chư Phật đều hô triệu tên con là Hỏa Đầu. Con dùng sức Hỏa Quang Tam Muội, cho nên thành A la Hán, Tâm phát đại nguyện. Chư Phật Thành Đạo, con là Lực Sĩ thân cận, giáng phục ma oán. Đức Phật hỏi Pháp Viên Thông, con dùng Pháp Quán các hơi ấm nơi thân Tâm đều lưu thông không trở ngại, các Lậu đã trừ bỏ, sinh Đại Bảo Diệm (Ngọn lửa báu to lớn), lên bậc Vô Thượng Giác, đây là đệ nhất”. Nghĩa là dùng Lửa Trí thiêu trừ sự Bất Tịnh, thành tựu Bồ Đề, cho nên tên là Hỏa Đầu Kim Cang.Trong “ Đại Uy Nộ Ô Sô Sáp Ma Nghi Quỹ Kinh “ lại nói rằng: “ Phổ Hiền tức là Trì Kim Cang được thọ chức từ Chư Phật, dùng điều phục việc khó điều phục nên hiện ra thể Minh Vương này “. Cho nên từ Kinh này có thể biết, Uế Tích Kim Cang lại là nơi hóa hiện của Phổ Hiền Bồ Tát. Căn cứ trong “ Nhiếp Vô Ngại Kinh “ ghi chép, Uế Tích Kim Cang cũng là nơi hóa hiện của Bất Không Thành Tựu Phật; ngoài ra cũng có nói là đồng thể với Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương.
CHUYỆN KỂ VỀ UẾ TÍCH KIM CANG HÓA Ô UẾ THÀNH THANH TỊNH
Trong “ Uế Tích Kim Cang Thuyết Thần Thông Đại Mãn Đà La Ni Pháp Thuật Linh Yếu Môn “ có ghi chép nhân duyên hóa hiện của Uế Tích Kim Cang. Bấy giờ, Đức Thích Ca Như Lai sắp Nhập Diệt. Khi đó có vô lượng trăm ngàn vạn chúng, 8 Bộ Trời rồng, người, Phi Nhân, Đại Chúng của Chư Thiên, Thích Đề Hoàn Nhân…. đều đến cúng dường, chỉ có Mâu Kế Phạm Vương chẳng những chẳng đến yết kiến thăm hỏi, mà còn ở trong cung Trời vui đùa cùng với các Thể Nữ. Sau khi Đại Chúng hiểu biết sự việc, đối với vị Phạm Vương ngạo mạn như thế đều cảm thấy bất bình giận dữ, thế là mỗi người cử trăm ngàn Chúng Chú Tiên , đi đến chỗ vị Phạm Vương, muốn khiến cho vị đó đi đến. Nhưng vị Phạm Vương sớm đã có sự chuẩn bị, đem 4 vòng Thành Hào củaThiên Cung, dùng mọi thứ vật ô uế Bất Tịnh để kết Giới, những Tiên Nhânnày trông thấy mọi thứ vật Bất Tịnh, liền bị phạm Chú mà chết. Lúc ấy, các Thiên Chúng lại ra lệnh cho Vô Lượng Kim Cang đi, nhưng tình hình cũng giống như trước, như thế 7 lần, vẫn không có người nào bắt vị Phạm Vương về được. Đại Chúng thấy tình hình như vậy lại càng thêm buồn thương, ở trước di thể của Đức Như Lai nghẹn ngào, nức nở, kêu than, gào khóc. Lúc đó, Đức Như Lai vì thương xót các Đại Chúng liền dùng Đại Biến Tri Thần Lực, từ trái Tim bên trái hóa hiện ra vị Bất Hoại Kim Cang, liền ở trong Chúng từ chỗ ngồi đứng dậy nói với Đại Chúng rằng: “ Tôi có Đại Thần Chú, có thể bắt vị Phạm Vương kia”. Sau khi nói xong, liền ở trong Đại Chúng hiện Đại Thần Thông, biến hóa khiến 3.000 Đại Thiên Thế Giới chấn động theo 6 cách; Cung Trời, cung Rồng, cung Quỷ Thần thảy đều hủy nát. Liền tự thân bay đến chỗ vị Phạm Vương dùng ngón tay chỉ Thành Hào, thì mọi thứ uế vật ấy lập tức biến thành đại địa. Bấy giờ, vị Kim Cang đến Thành Hào bảo với vị Phạm Vương rằng: “ Ngươi thật là đại ngu si, Đức Như Lai muốn vào Niết Bàn, vì sao ngươi không chịu đến? Liền dùng sức của Kim Cang Bất Hoại, hơi dùng ngón tay chỉ thì vị Phạm Vương phát Tâm đi đến chỗ Đức Như Lai. Khi ấy, Đại Chúng khen rằng: “ Đại Lực Sĩ! Ông hay có Thần Lực này mới bắt vị Phạm Vương kia đi đến nơi đây “. Thời vị Kim Cang liền bảo rằng: “ Nếu có chúng sinh ở thế gian bị các Trời, Ma ác, tất cả Ngoại Đạo gây não loạn, chỉ cần tụng Chú của tôi 10 vạn biến thì tôi tự nhiên hiện thân, khiến cho tất cả hữu tình tùy ý mãn túc, vĩnh viễn xa lìa sự nghèo túng, thường khiến cho an vui. Chú ấy như vầy, trước tiên nên phát Đại Nguyện này: Quy mạng Đức Bổn SưThích Ca Mâu Ni Phật của tôi. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, thọ trì Chú này, thề độ quần sinh, khiến cho Phật Pháp chẳng diệt, trụ lâu ở đời “. Sau khi phát nguyện này xong, liền nói Đại Viên Mãn Đà La Ni Thần Chú Uế Tích Chân Ngôn là:
úm bút quát hốt lốt, ma ha bát la ngân na, ngái vẫn trấp vẫn, hê ma ni, vĩ hiệt vĩ ma na thê
úm chước cấp na , ô thâm mộ hốt lốt , hùm hùm hùm, phát phát phát phát phát, sô ha
Thời vị Kim Cang nói chú này xong, lại nói rằng: “ Sau khi Đức Như Lai diệt độ, tôi thường tụng Chú này. Nếu có chúng sinh tình nguyện thọ trì Chú này, tôi thường làm sứ giả cung cấp cho sự mong cầu được như nguyện. Nay con ở trước Đức Như Lai nói Thần Chú này. Nguyện xin Đức Như Lai ở trong Chân Tế chiếu biết cho con.Thế Tôn! Nếu có chúng sinh bị các Quỷ Thần ác gây não loạn, mà hay trì Chú này, đều chẳng thể bị hại, vĩnh viễn xa lìa khổ nạn. Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện muốn cầu trị bệnh. Tụng Thần Chú trên 40 vạn biến, nhìn thấy kẻ có bệnh thì trị liệu nhất định sẽ có linh nghiệm, không kể Thanh Tịnh và Bất Tịnh, tùy ý sai khiến, con thường tùy theo cho mãn tất cả nguyện “. Trong Kinh Điển cũng có nói mọi loại Pháp trị liệu bệnh tật, Tà bệnh. Nếu muốn trị bệnh cho người. Tác Ấn Đốn Bệnh. Trước tiên tay trái đem ngón trỏ, ngón giữa co đè quấn nhau, liền Chú 100 biến. Dùng Ấn Đốn Bệnh quơ dưới người bệnh 7 lần liền khỏi. Nếu người bệnh sắp chết, trước tiên kết Ấn Cấm Ngũ Lộ, sau đó hãy trị thì người bệnh chẳng chết, ấn vào con mắt. Ấn này dựa theo Ấn lúc trước, chỉ co ngón vô danh hướng vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng ngón út, chú 100 biến thì bệnh ấy mau khỏi. Nếu trị bệnh tà, chỉ ở bên đầu của người bệnh, đốt An Tất Hương tụng Chú thì trừ được bệnh.
Nếu trị bệnh Trùng Độc. Viết tên gọi của người bệnh trên giấy rồi chú vào , liền khỏi, trị bệnh Tinh Mỵ cũng như pháp trước. Nếu trị người bệnh nằm lâu ngày, viết tên họ người bệnh rồi viết tên họ của Quỷ, vùi lấp dưới giường người bệnh. Tụng Chú thì Quỷ ấy mau xưng họ tên, tự hiện thân ra. Sai khiến Quỷ ấy xem việc 3 đời thì mỗi mỗi nói đủ. Hướng về người nói thì bệnh ấy mau khỏi. Nếu có bệnh thời khí, Chú Sư nhìn vào liền khỏi. Nếu muốn Hành Bệnh Quỷ Vương chẳng vào trong địa giới của mình. Vào 10 ngày trai, tụng chú này của ta 1008 biến thì hay trừ bệnh trong vạn dặm. Trong “ Uế Tích Kim Cang Cấm Bách Biến Pháp Kinh “, cũng đề cập đến “Thần Biến Diên Mạng Pháp “
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551340.nv.jpg
_ Người bệnh nằm lâu, vẽ trên trái tim liền khỏi. Đại Cát, Cấp Cấp Như Luật Lệnh.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551476.nv.jpg
_ Người bị đau Tim. Vẽ vào lập tức trừ khỏi bệnh. Đại Cát Lợi, Cấp Cấp Như
Luật Lệnh. Trước tiên nên chú 7 biến.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551531.nv.jpg
_ Người bị bệnh Quỷ, dùng màu đỏ vẽ rồi cho nuốt vào.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551567.nv.jpg
_ Người bị bệnh Tinh Mỵ Quỷ. Dùng màu đỏ vẽ 7 lá lớn rồi cho nuốt vào liền khỏi, rất thần nghiệm.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551604.nv.jpg
_ Nếu người nào y theo pháp lấy Bạch Đàn Lăng ( Lụa Mỏng màu trắng) dài 2 trượng 1 thước 7 tấc, nấu trong nước tro để thật trắng ( Bạch Luyện Lý) rồi đặt vào Địa Luân Thế Giới ( Quả địa cầu) sẽ khiến cho người đó sống lâu 70 tuổi. Nếu không có người đưa tặng liền đặt ở cái Viện ( Đình ) trong nhà mình hoặc đào đất sâu 7 thước rồi chôn vào cũng được, sẽ được thông minh, nhiều Trí, biện tài vô ngại.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551645.nv.jpg
_ 7 đạo này hay trị vạn bệnh, nuốt vào cũng khiến cho sống lâu, tăng thêm Trí rất thần nghiệm.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551684.nv.jpg
_ 7 đạo bên trên này. Dùng màu đỏ (Chu) vẽ trên giấy, nuốt 1000 lá sẽ khiến cho người sống lâu liền được thọ ngang bằng Trời đất. Đừng để cho người khác nhìn thấy.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551868.nv.jpg
_ 7 đạo bên trên này. Nếu có người bị tất cả bệnh. Dùng phù này đều trừ được bệnh. Nếu có người vẽ phù, nuốt vào sẽ sống lâu, tăng thêm Trí, rất hiệu nghiệm.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551923.nv.jpg
_ 7 đạo bên trên này. Nếu có người cầu mọi loại trân bảo, dùng màu đỏ vẽ phù này rồi nuốt vào. Mãn 7 ngày liền có mọi loại Diệu Bảo tự nhiên đến. Nếu cầu tài vật của người khác. Nên viết tên họ của người ấy ở dưới phù này, lập tức người ấy đem vật đến cho.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2551964.nv.jpg
_ 3 phù trên này. Dùng màu đỏ vẽ trên 4 chân giường ắt thường có 8 vị Đại Kim Cang hộ vệ chẳng tạm buông bỏ. Tuy nhiên phải nghiêm tịnh, đừng để cho vật ô nhiễm vào phòng. Điều này cần phải dè dặt cẩn thận.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2552005.nv.jpg
_ Khi có hỏa tai nổi lên. Vẽ phù ném 1 lần thì chí 1 lần, cho đến 108 lần hướng vào trong lửa, chỉ phút chốc thì tai họa tự diệt.
http://phatgiaovnn.com/upload1/uploa...2552056.nv.jpg
_ Khi có Đại Ác Phong nổi lên. Vẽ phù này chú 108 biến rồi ném vào trong gió thì gió liền ngưng.
HÌNH TƯỢNG CỦA UẾ TÍCH KIM CANG
Do nhân duyên hóa hiện với truyền thừa khác nhau, hình tượng của Uế Tích Kim Cang cũng có nhiều loại tạo tượng khác nhau. Về hình tượng có các loại: Hình phẫn nộ có 2 cánh tay, hình phẫn nộ có 4 cánh tay, hình đoan chính có 4 tay, hình có 6 cánh tay 3 con mắt, hình phẫn nộ có 8 cánh tay 3 con mắt…. Nhưng nói chung phần nhiều chọn dùng theo quyển thượng “ Đại Uy Lực Vi Xu Sắt Ma Minh Vương Kinh “ để nói: Hình phẫn nộ có 4 cánh tay, tròng mắt màu hồng, toàn thân màu xanh đen, quanh thân rực lửa. Bên phải: Tay trên cầm cây Kiếm, tay dưới cầm sợi dây. Bên trái: Tay trên cầm Đả Sa Bổng, tay dưới cầm Tam Cổ Xoa, trên mỗi Khí Trượng đều rực lửa. Trong “ Đại Uy Lực Ô Xu Sắt Ma Minh Vương Kinh “ ghi chép các loại hình tượng khác nhau của Tôn này:
1. Tượng 2 cánh tay của Uế Tích Kim Cang, toàn thân màu đỏ, hình phẫn nộ, răng chó lộ ra ngoài, mật mục (như mắt chồn), tóc màu vàng dựng đứng, tay trái cầm cái
Chày, tay phải cầm Na Nõa.
2. Tượng 2 cánh tay, tay phải lòng bàn tay mở ra duỗi thẳng 5 ngón, tay trái cầm cái Chày, chân trái đạp lên Tì Na Dạ Ca, chân phải đạp lên Na Nõa khiến 1 đầu của
Na Nõa đè lên Tì Na Dạ Ca.
3. Tượng 4 cánh tay, hình phẫn nộ, tròng mắt màu đỏ, toàn thân màu xanh đen, quanh thân rực lửa, tay phải ở trên cầm cây Kiếm, tay phải ở dưới cầm sợi dây, tay trái ở trên cầm Đả Sa Bổng, tay trái ở dưới cầm Tam Cổ Xoa.
4. Tượng 4 cánh tay, trên lòng bàn tay trái cầm cái đầu lâu, tay trái ở dưới dựng ngón trỏ làm thế suy nghĩ, tay phải ở trên cầm Na Nõa, ở dưới cầm Hành
5. Tượng 4 cánh tay, dùng máu của mình vẽ, tóc ở trên đầu dựng đứng, lòng bàn tay thứ 1 cầm đầu lâu, tay thứ 2 cầm Na Nõa, ( Thiếu tay thứ 3?) tay thứ 4 cầm cái Chày, mặc quần da cọp.
6. Tượng 4 cánh tay, tay phải nâng tượng Phật, tay ở dưới cầm Na Nõa, tay trái ở trên duỗi 5 ngón, nghiêng bàn tay gần đầu trán, hơi cuối thấp đầu làm tư thế lễ Phật,tay ở dưới cầm sợi dây đỏ, tròng mắt màu hồng.
7. Tượng 4 cánh tay, toàn thân màu đen rực lửa, hình phẫn nộ, mắt trái màu xanh biếc, tóc màu vàng dựng đứng, cắn môi dưới ló răng nanh chó lên, mặc quần da cọp,dùng rắn làm chuỗi anh lạc. Bên Trái: Tay ở trên cầm cái Chày, tay ở dưới cầm sợi dây.
Bên Phải: Tay ở trên đều co các ngón dựng ngón trỏ làm thế suy nghĩ, tay ở dưới tác Thí Dữ Nguyện Ấn luôn cau chân mày, mắt nhìn thật đáng sợ.
Ngoài ra, trong “ Đà La Ni Kinh “ ghi chép rằng: Hình tượng của Tôn này là thân màu xanh. Bên Phải: Tay ở trên cầm cái Chày Kim Cang, tay ở dưới duỗi xuống, ngửa ngón tay cái, ngón tay trỏ duỗi thẳng xuống, 3 ngón còn lại hơi hướng lên trên co gập. Bên trái:Tay ở trên cầm sợi dây đỏ quấn như con rắn, tay ở dưới cầm Tràng Hạt, diện mạo đoan chính thù diệu, 2 con rồng màu đỏ quấn ở bắp tay bên trái hướng cái đầu ở trước ngực, cùng quấn nhau nhìn lên, lại có rồng xanh quấn ở cánh tay cổ chân, trên đầu có 1 con rồng trắng, dùng da cọp che háng, tóc trên đầu như lửa rực, lại có lửa mạnh phía sau cổ; bên trên hào quang của cái đầu , hai bên trái phải đều có 1 tòa sen, trên sen bên trái là Đức Phật A Súc, trên sen bên phải là Đức Phật A Di Đà ngồi kiết già.
Trong quyển 9 “ Đà La Ni Tập Kinh “ đã ghi chép như vậy. Trong “ Nhiếp Vô Ngại Kinh “ ghi chép hình tượng Tôn này là thân màu, tay trái cầm xâu chuỗi báu, tay phải cầm cái Chày Tam Cổ, tay phải ở dưới tác Mãn Nguyện Ấn, tức ngón cái và ngón trỏ vịn nhau, 3 ngón còn lại co, mặc áo da thú, vai phải có 2 con rắn đỏ ở ngực thòng cái đầu hướng về phía Bổn Tôn, lại trong 4 cánh tay, 2 bắp tay có con rắn xanh quấn xung quanh. Như Tôn Tượng do Viên Chân thỉnh về lại thấy Tượng có 6 cánh tay, 3 con mắt. Bên phải: Tay thứ 1 cầm Bảo Bổng ( Gậy báu), tay thứ 2 cầm cái Chày Tam Cổ, tay thứ 3 cầm sợi dây. Bên trái: Tay thứ 1 tác Thí Nguyện Ấn, Tay thứ 2 cầm bánh xe, tay thứ 3 cầm Tràng Hạt, rắn quấn quanh ở tay chân, đầu lâu làm anh lạc, ngồi trên hoa sen đỏ, chân phải thòng xuống. Ngoài ra có thân màu đỏ 3 con mắt, tay thứ 1 bên phải bên trái nắm quyền, duỗi ngón trỏ ra dựng thẳng ở trước ngực giao chéo với nách, Bên trái: Tay thứ 2 cầm cái Móc Câu, tay ở dưới duỗi 5 ngón úp lòng bàn tay, Bên Phải: Tay thứ 2 cầm cây Gậy, tay ở dưới cầm cây Kiếm, chân phải nâng lên, chân trái đứng trên mỏm núi, lửarực khắp toàn thân, ở trên trong hư không có tạo hình vị Hóa Phật. Trong Đường Bổn Dạng Tượng, Uế Tích Kim Cang hình có 8 cánh tay, hình phẫn nộ, đứng trên bàn đá.
Tay thứ 1 bên phải bên trái Kết Ấn, đem ngón cái đè ngón giữa và ngón vô danh, duỗi thẳng ngón út và ngón trỏ, tay phải đặt bên hông , tay trái để bên cạnh bụng đều hướng lòng bàn tay ra ngoài. Bên Phải: Tay thứ 2 cầm cây Kiếm ngắn, tay thứ 3 cầm cái Chuông, tay thứ 4 cầm sợi dây. Bên Trái: Tay thứ 2 cầm Bánh Xe có 6 căm, tay thứ 3 cầm cây Kiếm dài, tay thứ 4 cầm cái Chày Cổ, chân phải dơ cao như thế nhảy, chân trái đạp thẳng trên đá tỏa lửa rực bên cạnh chân, cổ đeo chuỗi anh lạc, khoác Thiên Y, tóc trên đầu dựng đứng.
Lại theo Đường Bổn thì Tượng Uế Tích Kim Cang có thân màu thịt đỏ, mặt có 3 con mắt, tóc trên đầu dựng đứng, trên đỉnh đội mão Trời (Thiên Quan), mặt hướng về bên trái đứng trên Bàn Đá, 2 tay thứ 1 kết Ấn như tay Ấn của Tượng thứ 1, Bên trái: Tay thứ 2 cầm cây Kiếm, tay thứ 3 cầm cái Chuông Tam Cổ, tay thứ 4 cầm sợi dây, Bên phải: Tay thứ 2 cầm vật khí giống như cái Bao (Có thể là bao Kiếm), tay thứ 3 cầm cái Chày Độc Cổ, chày có buộc lụa màu đỏ, tay thứ 4 cầm Cung Tên, mặc áo cà sa màu đỏ khoác Thiên Y màu xanh, đứng trên tảng đá với bốn bên của tảng đá tỏa lửa mạnh, trên không trung có 1 vị Hóa Phật.
CHÂN NGÔN, CHỮ CHỦNG TỬ CỦA Ô XU SA MA MINH VƯƠNG
Chữ chủng Tử ( Hùm)
-
-
Ủa, sao bạn Khoantin tự nhiên niệm Phật vậy? Cám ơn bạn đã post bài của Ngài Uế Tích Kim Cang lên để các huynh, tỉ cùng học hỏi. Rất hay. NN rất thích cái câu “signature” của bạn ở dưới đó. Cái này cũng rất là hay. Đây là lời cảnh báo cho ai tu mật. Nhất là tu theo Ngài Uế Tích Kim Cang.
NN thấy tu theo Ngài rất là “nóng”, vì Ngài thuộc về dòng “Phẩn Nộ” Kim Cang. Người sơ cơ không có thầy, không có một cái mà NN thường hay nói chơi là “đở” cho thì một khi tu tập mà có duyên, Ngài cho “thấy” một chút hơi “hết hồn”. Chẳng hạn như đang tu theo pháp của Ngài, tự nhiên nghe một “rầm” muốn rung rinh cả căn nhà, có thể hành giả muốn “đứng tim” luôn, nhưng rồi khi “dạo quanh” nhà để xem nhà có bị sập không, nhưng, tiếc rằng, không tìm được một vật gì, một lý do gì để có thể tạo ra tiếng động vang dội như vậy.
Và còn một chuyện nửa để cho thấy có sự “linh cãm” của Ngài là hành giả sẽ thấy “nhà cháy” có thể cách mình chừng vài căn, hoặc xa hơn nửa, nhưng sẽ biết và thấy đến vụ nhà cháy vì Ngài Uế Tích Kim Cang có lửa xung quanh mình bao bọc, cũng vì thế mà người Hoa hồi xưa họ thờ Ngài ở dưới bếp nhà họ giống như là Đông Trù Tư Mệnh Định Phước Thần Quân, hay là Táo Vương trong nhà.
Thật ra thì Táo Vương làm sao mà có thể so sánh bằng Ngài Uế Tích Kim Cang vì Táo Vương thì không có “pháp”, và thờ cúng trong nhà để mong được “phước” hữu lậu mà thôi. Còn tu theo Ngài thì dần dần sẽ giúp cho ta đi đến con đường giãi thoát của Đức Thế Tôn. Cũng vì thế mà hành giả Mật Tông khi tu tập theo pháp của Ngài để đi đến con đường giãi thoát thì NN thấy những cái pháp như Tức Tai, Hàng Phục, v.v… không còn là “vấn đề” nửa vì xung quanh hành giả giống như đã được bao bọc bằng tình thương của Ngài, và hành giả sẽ không còn cần những gì xung quanh mình chẳng hạn như sự bảo vệ một khi đi vào hiễm địa, v.v….
Những hình ảnh như những con “lăn quăng” ở trên thật ra đều là những chữ bùa của người Hoa thời xưa. Trước khi có những loại bùa dừng bằng chữ viết như người Hoa thời nay thì chữ bùa trước đó là như vậy. Đây thật ra không phải là chữ bùa, chữ chú của Ngài Uế Tích Kim Cang đâu. Tuy nhiên, một khi tu tập mà đắc pháp thì cho dù vẽ bằng tiếng Việt hiện đại của mình bây giờ thì cũng sẽ linh ứng, chứ không cần phải vẽ theo chữ bùa ở trên đâu.
Như hồi xưa NN cũng có nói, da của Ngài là toàn màu xanh, và giống như da rắn vậy. Mắt rất là tinh anh, và màu sắc trong con mắt phân biệt rất là rõ ràng. Không phải lúc nào xung quanh mình cũng đều là lửa. Tuy theo ý của Ngài khi xuất hiện.
Nhân tiện NN cũng xin nói rõ thêm ở đây một chút là nếu trong quá trình tu tập theo pháp của Ngài, hay bất cứ pháp nào trong Mật Tông mà khi ngủ nằm mơ gặp toàn ma quỉ đến phá phách, đuổi chạy, v.v…. thì NN thấy là chuyện này nên mừng, chứ không nên sợ đâu. Có người nói là bị “khỏa”, nhưng thực ra các huynh, tỉ có biết đây là gì không? Đây thật sự là giãi tỏa những nghiệp chướng của mình đó. Nếu gặp những hiện tượng như vầy thì càng nên tu tập them, chứ không nên bỏ. Vì nếu không có sự linh ứng của Ngài thì sẽ không có những “hiện tượng” lạ xãy ra.
Và NN thấy hồi xưa có huynh Colony có trích dẫn bài của bạn SJC9999 của Ngài Uế Tinh Kim Cang như sau:
Nguyên văn bởi SJC9999
Uế tích kim cang ---> hộ chú này là loại quỷ thú. Đây là chú của quỷ.
Thì NN thấy rằng Ngài Uế Tích Kim Cang thật ra là một vị Bồ Tát, chứ không phải là “quỷ” như bạn SJC9999 nói đâu. Thật ra là bạn không biết là khi Đức Thế Tôn còn tại thế, một khi ngài giãng thì có tất cả hàng chúng sanh trong lục đạo đến để nghe giáo pháp của Ngài, vậy Đức Thế Tôn có phải là “quỷ vương” hay không? NN chỉ nói vậy thôi.
Vài hàng góp vui.
Thân
NN
-
*Tâm Chú Uế Tích Kim Cang:
OM KRODHA HUM JAH.
A Xà Lê Như-Đởm thuộc Dòng Pháp Kim Cang - Thủ Đức, thường hay sử dụng Câu Chú này để Tẩy Ngoại Uế trong Đàn Pháp ( Còn: OM RAM, dùng để Tẩy Nội Uế ). Ngoài ra, công dụng còn rất nhiều, tùy vào việc mà mình dùng.....ít ai truyền chỉ lắm! Ngoại trừ Thầy Tuấn ( Huyền Chân Tử ) tác giả của quyển Kinh Ông Táo và tôi biết sử dụng mà thôi. Ngoài ra, còn các Bậc Long Tượng trong Mật Giáo,hoặc ẩn mật tại nơi chốn đô thị phồn hoa, hoặc nơi thâm sơn cùng cốc, khó mà biết được hết....Cao nhân bất lộ chân tướng ???
Vài điều chia sẻ cùng quý vị
Kính chúc quý vị vạn sự cát tường
NA MÔ ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT
Phổ Quảng
thân
-
P/S: Bạn Nhật Nguyệt hoàn toàn chân xác! Có nhiều Bài Chú Chữ Việt hoàn toàn ứng nghiệm, không bắt buộc phải đọc Phạn âm. Như: Chú Chuẩn Đề, Chú Uế Tích, Chú Đại Bi....Đương cử, như:
-Cố HT.Kiến Châu - Ngài từng nói chuyện riêng với tôi mà tôi nhớ mãi....., Ngài trì Bản Việt Chú Uế Tích, chứ có phải Phạn âm đâu, khi Ngài trì đủ túc số 40 Vạn biến ( 40 x 10.000=400.000 Lần ) thì Ngài liền bay lên không trung; Ngài phải nắm lấy cây Táo mà kéo lại mới không bị bay lên đó....Còn Sư Cô - Con gái của Cố HT.Kiến Châu mặc dù không biết Chữ Hoa, đã Phát Tâm đọc Bản Việt Chú Uế Tích, để dịch được Bộ Kinh tiếng Hoa; khi đủ túc số, liền dịch liền một mạch không gián đoạn ( mặc dù không biết tiếng Hoa ). Từ đó về sau, Sư Cô không thể dịch được Bộ Kinh tiếng Hoa nào thêm nữa....( Theo lời Thầy Văn từ Canada về, Thầy dạy tôi qua xin Cố HT.Kiến Châu: Bản Cổ Chữ Chú Uế Tích; để giải Nghiệp. Tôi có qua xin Thầy tôi, Thầy tôi nói Ngài không có. Buộc lòng Thầy Văn phải truyền cho tôi Bản Cổ Chữ Chú Uế Tích, mà cố HT.Thích Thiền Tâm đã truyền cho Thầy Văn, là 2 Bản Chú Uế Tích Chữ Cổ Phạn đóng bằng Triện Mực đỏ trên giấy quyến màu Trắng; Thầy Văn nói dùng đốt vào nước uống để giải nghiệp,......Tôi sợ Thất Truyền không dám đốt uống, nên đã post lưu trữ trên vanhoaphuongdong.com )
-Như: Chú Đại Bi âm Hán Việt mà ta thường trì tụng, các Chùa thường tụng ( trong Nghi thức Nhật Tụng ); được Ni Sư Thích Nữ Lệ Phát, trụ trì Chùa Châu An, Q.Gò Vấp khi giọng trì tụng cất lên thật hào hùng và mầu nhiệm xiết bao....Không kể là Ni Sư, mà bất cứ ai trong chúng ta, cũng đã và đang ít nhất 1 lần cảm niệm về oai lực của sự linh ứng và mầu nhiệm của Chú Đại Bi âm Hán Việt!
-Cụ thể Thầy tôi HT.Thiện Từ, và Thầy Tuấn ( Huyền Chân Tử ) tác giả của quyển Kinh Ông Táo, vẫn thành tựu Chú Chuẩn Đề âm Hán Việt đó đấy thôi!
-Hoặc đương cử, như Câu Chú Phổ Cúng Dường Chơn Ngôn:: " ÁN NGA NGA NẴNG TAM BÀ PHẠ PHIỆT NHỰT RA HỒNG " có âm Hán Việt là đúng thế, là mầu nhiệm thế.....Nhưng Khi phục hồi sang Phạn Ngữ, thì tất cả mọi người điều thiếu 1 Chữ ( Kể cả Dòng Pháp của Thầy tôi luôn! ), thế là nghĩa sinh ra khác, lại sinh ra tác dụng khác....Chỉ có các Vị tu học Mật Tông Tây Tạng, thì mới biết Câu Chú này thiếu Chữ gì mà thôi ???.Nhưng không phải dễ, không phải ai cũng biết, không phải ai cũng truyền chỉ.....Chi bằng không biết thì đọc âm Hán Việt phổ thông là hay hơn; còn hơn tự hay tài lai gây sự chú ý cho mọi người , mà gây điều không tốt cho bản thân mình...
Vài điều chia sẻ thân tình cùng quý vị
Kính chúc quý vị vạn sự cát tường
NA MÔ NAM HẢI BẠCH Y QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Phổ Quảng
thân
-
Một điều đặc biệt; Xin được chia sẻ với quý vị: tôi thấy Bất cứ Bản Chú âm Hán Việt nào, khi tụng nhanh thật nhanh như cờ bay gió chạy nhưng rõ chữ rõ âm và các chữ nối liền nhau, đều láy chạy sang Phạn âm cả. Điều này được minh chứng qua: Thầy tôi là Có HT.Thích Thông Bửu trụ trì Chùa Quán Âm, Q.Phú Nhuận khi truyền cách trì tụng Chú Vãng Sanh cho chúng tôi đều trì niệm như cách như vậy; Ni Sư Thích Nữ Lệ Phát, trụ trì Chùa Châu An, Q.Gò Vấp trì Chú Đại Bi âm Hán Việt, khi Ngài trì theo cách này thì đều láy chạy sang Phạn âm cả.Hoặc tại Chùa Linh Quang Tịnh Xá, Q.4; sau thời Kinh Ngọ, nhất là sau khi mấy Thầy dùng Trai Phạn xong đều đọc Chú Lăng Nghiêm theo âm Hán Việt cả, nhưng đọc với tốc độ nhanh và với cách trì tụng như vậy đều láy sang Phạn âm cả.....Có ai có cùng cách cảm nhận như tôi không ???Mới đầu tôi không biết và không hiểu, tại sao lại như trì tụng như vậy; nhưng giờ thì đã biết đã hiểu nhưng, cái hiểu biết của tôi thật nhỏ nhoi. Mong được sự chia sẻ của mọi người.....!!!
-
Nam Mô Phật
Huynh Khoa đã quy y pháp môn tịnh độ rồi ạ , vết thương của huynh đã lành hoàn toàn chưa , lâu lắm rồi đệ mới thấy huynh online . Xin gửi lời chúc an lạc tới huynh và gia đình ạ .
-
THIỀN-TỊNH-MẬT VỐN VẠC 3 CHÂN!!!
NA MÔ 36 NGÀN TỶ, 119 NGÀN, 500 ĐỨC, ĐỒNG DANH ĐỒNG HIỆU A MI THO PHO.
-
Nam Mô A Di Đà Phật
Lời khuyên của huynh rất đúng ạ , Phật tử phải quán xét nhân duyên thực hành pháp để chóng thành tựu đạo giải thoát .
-
cám ơn đệ kim liên cư sĩ nhiều hi hi, vết thương huynh đã lành , chúc đệ và gia đình thân tâm thường lạc
-
TRONG ĐOẠN MẤY CHỮ PHÙ ( BÙA ) CỦA UẾ TÍCH KIM CANG CÓ ĐOẠN BỊ XÁO TRỘN! XIN HÃY KIỂM TRA LẠI KỸ CÀNG! ( KHÔNG PHẢI LÀ BẠN SAI, MÀ LÀ THẦY HUYỀN THANH TRONG KHI PHIÊN DỊCH CÁC BẢN KHÁC NHAU, HOẶC LÀ NGƯỜI IN ẤN SAO CHÉP SCAN HÌNH SAI THÙ LỘN XỘN; NẾU ĐỂ Ý KỸ SẼ THẤY THÔI! )
VÀI LỜI GÓP Ý CHÂN THÀNH
KÍNH CHÚC MỌI NGƯỜI LUÔN AN LẠC
NA MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAMO GURU SAKYA MUNI BUDDHAYA
PHỔ QUẢNG
THÂN
P/S: PHÁP UẾ TÍCH TRÊN KHÔNG PHẢI CHÁNH TRUYỀN CỦA MẬT TÔNG PHẬT GIÁO CHÍNH THỐNG!
-
@ huynh phoquang : đệ mất pass của nick khoatin rùi nên ko sửa được huynh ơi, có thiếu sót chỗ nào mong huynh hoan hỷ chỉ cho , chân thành cảm ơn huynh
thân
-
MẶC DÙ, THẦY ĐÃ ĐI XA; LỜI THẦY VẪN VANG VỌNG BÊN TAI....VẪN LÀ NỖI NIỀM TRĂN TRỞ MỖI KHI NHỚ NGHĨ ĐẾN NGÀI - CỐ HT.THÍCH THÔNG BỬU TRỤ TRÌ CHÙA QUÁN ÂM Q.PHÚ NHUẬN; NGÀI THƯỜNG DẠY ĐI DẠY LẠI CHÚNG ĐỆ TỬ TRONG ĐÓ CÓ TÔI RẰNG; MỖI KHI BỨNG ĐỒ ĂN THỨC UỐNG ĐỀU PHẢI ĐỌC CÂU CHÚ GIẢI ĐỘC: " ÁN TAM-BẠT-RA DÀ-DA " ( CẤU CHÚ NÀY CHƯ TĂNG NI THƯỜNG HAY ĐỌC TỤNG TRƯỚC KHI DÙNG TRAI PHẠN TRONG NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG -TRAI NGỌ ). TÔI ĐÃ CỐ PHỤC HỒI PHẠN ÂM CÂU CHÚ NÀY, NHƯNG SỢ LÀ MÌNH PHỤC HỒI SAI TRẠI SO VỚI PHẠN ÂM GỐC NÊN KHÔNG HAY CHO LẮM, NÊN TÔI TRĂN TRỞ BẤY LÂU NAY KHÔNG NGUÔI; NẾU XIN NHỜ THẦY HUYỀN THANH, THÌ MỚI HAY: THẦY LẠI DỜI VỀ NHÀ MỚI, NÊN CHƯA CÓ ĐIỀU KIỆN GẶP LẠI, NÊN NỖI LÒNG TRĂN TRỞ BẤY LÂU KHÔNG NGUÔI; VÌ CHƯA GIẢI TỎA NỖI NIỀM VƯỚNG MẮC NÀY!
NGÀY HÔM NAY, DUYÊN LÀNH ĐÃ ĐẾN; NHỮNG VƯỚNG MẮC BẤY LÂU NAY ĐƯỢC THÁO MỞ. NAY TÔI CŨNG XIN GIẢI MỞ VƯỚNG MẮC NÀY CHO QUÝ VỊ LUÔN: DO XEM LẠI NGHI THỨC CÚNG NGỌ CỦA THẦY THÍCH HẠNH TẤN TU THEO MẬT TÔNG TÂY TẠNG ( BÚT DANH: VÔ THỨC; LÀ DỊCH GIẢ CỦA QUYỂN " UỐNG LỬA THỞ ĐẤT " ) THUỘC TU VIỆN VÔ LƯỢNG THỌ Ở ĐỨC-QUỐC. CÓ PHẦN PHẠN ÂM. NÊN TÔI CHÉP LẠI CHO QUÝ VỊ ĐƯỢC RÕ:
NGUỒN: http://www.mediafire.com/download/1q...ungNgoTrai.pdf
*CHÚ GIẢI ĐỘC:
HÁN VIỆT: ÁN TAM-BẠT-RA DÀ-DA.
PHẠN NGỮ: OM SAMBHARA GATA.
VÀI ĐIỀU CHIA SẺ CHÂN TÌNH CÙNG QUÝ VỊ
KÍNH CHÚC QUÝ VỊ VẠN SỰ CÁT TƯỜNG
NA MÔ DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG PHẬT
PHỔ QUẢNG
THÂN
P/S: TÔI CỦNG THƯỜNG HAY NGHE NGƯỜI CHỊ BÊN DÒNG PHÁP CỦA TÔI THƯỜNG HAY NHẮC ĐI NHẮC LẠI, LÀ CHỊ ẤY ĐƯỢC THẦY TRUYỀN CÂU CHÚ DƯỢC SƯ GIẢI ĐỘC ??? ĐIỀU NÀY THỰC HƯ NHƯ THẾ NÀO ??? TÔI CŨNG CHẲNG BIẾT, CHẮC PHẢI CHỜ CƠ DUYÊN THÔI!
-
-
*************************************
-
-
NAMO RINPOCHE!
MẶC DÙ, THẦY ĐÃ ĐI XA; LỜI THẦY VẪN VANG VỌNG BÊN TAI....VẪN LÀ NỖI NIỀM TRĂN TRỞ MỖI KHI NHỚ NGHĨ ĐẾN NGÀI - CỐ HT.THÍCH THÔNG BỬU TRỤ TRÌ CHÙA QUÁN ÂM Q.PHÚ NHUẬN; NGÀI THƯỜNG DẠY ĐI DẠY LẠI CHÚNG ĐỆ TỬ TRONG ĐÓ CÓ TÔI RẰNG; MỖI KHI BỨNG ĐỒ ĂN THỨC UỐNG ĐỀU PHẢI ĐỌC CÂU CHÚ GIẢI ĐỘC: " ÁN TAM-BẠT-RA DÀ-DA " ( CẤU CHÚ NÀY CHƯ TĂNG NI THƯỜNG HAY ĐỌC TỤNG TRƯỚC KHI DÙNG TRAI PHẠN TRONG NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG -TRAI NGỌ ). TÔI ĐÃ CỐ PHỤC HỒI PHẠN ÂM CÂU CHÚ NÀY, NHƯNG SỢ LÀ MÌNH PHỤC HỒI SAI TRẠI SO VỚI PHẠN ÂM GỐC NÊN KHÔNG HAY CHO LẮM, NÊN TÔI TRĂN TRỞ BẤY LÂU NAY KHÔNG NGUÔI; NẾU XIN NHỜ THẦY HUYỀN THANH, THÌ MỚI HAY: THẦY LẠI DỜI VỀ NHÀ MỚI, NÊN CHƯA CÓ ĐIỀU KIỆN GẶP LẠI, NÊN NỖI LÒNG TRĂN TRỞ BẤY LÂU KHÔNG NGUÔI; VÌ CHƯA GIẢI TỎA NỖI NIỀM VƯỚNG MẮC NÀY!
NGÀY HÔM NAY, DUYÊN LÀNH ĐÃ ĐẾN; NHỮNG VƯỚNG MẮC BẤY LÂU NAY ĐƯỢC THÁO MỞ. NAY TÔI CŨNG XIN GIẢI MỞ VƯỚNG MẮC NÀY CHO QUÝ VỊ LUÔN: DO XEM LẠI NGHI THỨC CÚNG NGỌ CỦA THẦY THÍCH HẠNH TẤN TU THEO MẬT TÔNG TÂY TẠNG ( BÚT DANH: VÔ THỨC; LÀ DỊCH GIẢ CỦA QUYỂN " UỐNG LỬA THỞ ĐẤT " ) THUỘC TU VIỆN VÔ LƯỢNG THỌ Ở ĐỨC-QUỐC. CÓ PHẦN PHẠN ÂM. NÊN TÔI CHÉP LẠI CHO QUÝ VỊ ĐƯỢC RÕ.
*CHÚ GIẢI ĐỘC:
+HÁN VIỆT:
ÁN TAM-BẠT-RA DÀ-DA.
+PHẠN CHÚ:
1.Link:
https://seabluedreaming.wordpress.com/
http://www.mediafire.com/view/1qkquu...ungNgoTrai.pdf
OM SAMBHARA GATA.
2.Phổ Quảng phục hồi Phạn Chú:
OM SAMBHARA GAYA.
VÀI ĐIỀU CHIA SẺ CHÂN TÌNH CÙNG QUÝ VỊ
KÍNH CHÚC QUÝ VỊ VẠN SỰ CÁT TƯỜNG
NA MÔ DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG PHẬT
PHỔ QUẢNG
THÂN
P/S: TÔI CỦNG THƯỜNG HAY NGHE NGƯỜI CHỊ BÊN DÒNG PHÁP CỦA TÔI THƯỜNG HAY NHẮC ĐI NHẮC LẠI, LÀ CHỊ ẤY ĐƯỢC THẦY TRUYỀN CÂU CHÚ DƯỢC SƯ GIẢI ĐỘC ??? ĐIỀU NÀY THỰC HƯ NHƯ THẾ NÀO ??? TÔI CŨNG CHẲNG BIẾT, CHẮC PHẢI CHỜ CƠ DUYÊN THÔI!
-
*Tâm Chú Uế Tích Kim Cang:
OM KRODHANA HUM JAH.
A Xà Lê Như-Đởm thuộc Dòng Pháp Kim Cang - Thủ Đức, thường hay sử dụng Câu Chú này để Tẩy Ngoại Uế trong Đàn Pháp ( Còn: OM RAM, dùng để Tẩy Nội Uế ). Ngoài ra, công dụng còn rất nhiều, tùy vào việc mà mình dùng.....ít ai truyền chỉ lắm! Ngoại trừ Thầy Tuấn ( Huyền Chân Tử ) tác giả của quyển Kinh Ông Táo và tôi biết sử dụng mà thôi. Ngoài ra, còn các Bậc Long Tượng trong Mật Giáo, hoặc ẩn mật tại nơi chốn đô thị phồn hoa, hoặc nơi thâm sơn cùng cốc, khó mà biết được hết....Cao nhân bất lộ chân tướng ???
Vài điều chia sẻ cùng quý vị
Kính chúc quý vị vạn sự cát tường
NA MÔ ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT
Phổ Quảng
thân
-
.三钵罗 佉多
.三缽羅 佉多
.san be la qie duo
.TAM BẠT RA DÀ ĐA
.TAM BẠT LA GIÀ ĐA
.SAMBHARA-GATA
#Chú Thích:
*Trích từ Sách " TỲ NI NHẬT DỤNG " của Thầy HUYỀN THANH:
-Trong Luật Đức Phật dạy chúng Tăng lúc thọ thực thì xướng Tăng Bạt. Nhân vì Ngoại Đạo thỉnh Đức Phật với Tăng, đã ngầm bỏ thuốc độc ở trong thức ăn, Đức Phật khiến chư Tăng cùng một lúc xướng rằng Tam Bạt La Già Đa (Sambhāra-gata: Tư Lương giúp cho vượt qua) thì hết thảy thuốc độc đều biến thành vị thức ăn ngon ngọt thượng diệu nên Chúng ăn vào sẽ được an vui, miễn trừ chất độc gây hại.
-Nói Tăng Bạt thì Tăng (Saṃgha) tức là chúng Tăng thọ thực, Bạt tức là Chú bí mật đã được xướng lên. Tiếng Phạn Tam Bạt La Già Đa (Sambhāra-gata: Tư Lương giúp cho vượt qua), đây nói là Đẳng Cúng, tức nói chúng Tăng ăn đều bình đẳng. Lại nói là Thiện Chí (Khéo đến) tức nói vật cúng khéo thành, khi ăn thì lại đến.
-Nay phương này (Trung Hoa) xướng năm Quán khiến cho Chúng một lòng thọ thực mà làm Tăng Bạt. Một là không bị chất độc của Ngoại Đạo gây hại, hai là khiến cho người biết hỗ trẽn (tàm quý ) khi thọ nhận thức ăn. Điều đấy tuy chẳng phải là Pháp Chế chính, nhưng được lưu hành phổ thông trong nước Đông Hạ.
-