-
Cánh Thiên Đường
Kính thưa các Huynh đệ tỷ muội!
ĐHC xin kể tiếp câu chuyện thứ 04 để tiếp tục góp vui, sau một ngày làm việc cực nhọc, hoặc tu tập miệt mài, các chư đạo hữu cùng đọc chơi giải trí.
Cánh Thiên Đường
“Ngày nào lòng tôi đã biết yêu em rồi, tôi biết tương tư….ngày nào cánh thiên đường đã mở hé…..”
Ai lại không mơ có ngày được lên Thiên đường…?!
Chết rồi, linh hồn được bay lên thiên đường….. được nhập cõi Niết Bàn, đó là niềm ước mơ của nhiều người, chỉ đáng tiếc là người chết thì không thể kể là mình có được lên Thiên đường hay không mà thôi.
Được lên Thiên đường ngay khi còn sống thì lại càng sung sướng bội phần. Ngày xưa có chuyện Từ Thức lên tiên, ở trên đó lấy vợ tiên muôn phần vui sướng, vậy mà lại nhớ nhà xin về, chỉ ở có một năm mà khi trở về đã là hơn hai trăm năm rồi, cảnh vật đổi thay, người xưa đã chết hết, đành vào núi tu hành để cầu khi chết lại được lên Thiên đường một lần nữa.
Ở bên Mỹ từng có một giáo phái tên “Cổng Thiên Đường” toàn là những người trí thức, khá giả, vậy mà lại rủ nhau tự tử đồng loạt với niềm tin sẽ được sao chổi đưa đến Thiên đường để hưởng hạnh phúc đời đời kiếp kiếp. Ở VN trước đây cũng từng có chuyện một người mù mà lại thuyết phục được cả trăm người tự tử theo ông ta bằng cách dùng dao đâm vào bụng và đâm lẫn nhau, không biết là có lên Thiên đường được hay không nhưng đã gây nên một cảnh tượng vô cùng ghê rợn.
Thiên đường không biết là có thật hay không nhưng chắc chắn là niềm mơ ước của biết bao người, biết bao thế hệ….
Hôm đó trời vừa rạng sáng, ĐHC thong thả đi ra ngoài đầu con hẻm nhỏ để uống ly “đen” như thường lệ thì từ bên ngoài có chiếc xe đạp chạy vào vù vù…..chiếc xe thắng ken két làm giật cả mình, nhìn lên thì thấy hai chú nhỏ chừng mười ba mười bốn tuổi. Hai chú bé la với với “ chú….chú ….tụi cháu tìm mãi mới ra nhà của chú….”, hai chú nhỏ này nhìn cũng có vẻ quen quen, không biết đã gặp lúc nào, tiện thể mời hai nhóc ra ngoài đầu hẻm uống cà-phê luôn.
Vừa nhâm nhi ly “đen”, mời hai chú bé uống hai ly “bạc sỉu”, vừa nghe nói liến thoắng “ tụi cháu kiếm chú suốt mấy ngày nay….chú thay đổi chỗ ở nhiều quá làm tụi cháu dò hỏi phê luôn, hồi xưa chú hay đến nhà cháu chơi với ba cháu đó, chú quên rồi sao” – “thế ba cháu tên gì” – “ba cháu là Hòa râu đó” – à….thì ra hai đứa nhỏ này là con của đại ca Hòa, cách đây sáu bảy năm ĐHC hay đến nhà ông ta chơi, lúc đó hai chú bé này mới tám chín tuổi, còn nhỏ téo, bây giờ trổ giò lớn phổng lên làm sao mà nhận ra nổi. Đại ca Hòa còn gọi là Hòa Râu hay Hòa Sư tử vì ông ta to cao, người giống như lai, để bộ râu quai nón nom rất oách. Hòa Râu là dân “Gia Định thành, Bà Chiểu chợ”, chạy chiếc BMW to xù, nhìn cứ như diễn viên điện ảnh nên ông ta có vô số vợ, bồ nhí, con cái lủ khủ, …Dịp tết đến nhà chơi, lúc đó không biết ông ta đang ở với bà thứ mấy, “con anh, con em, con của chúng ta” đến cả chục đứa lít nha lít nhít, móc tiền ra lì xì mệt xỉu – “thế làm sao mà nhớ chú được, có việc gì mà phải tìm đến ?” – Hai chú nhỏ, chú lớn tên Tấn, chú nhỏ tên Tài tranh nhau nói “ ba cháu vẫn nhắc chú luôn, hơn sáu tháng nay bỗng nhiên ổng không có tin tức gì cả nên mẹ kêu tụi cháu đi kiếm chú….nói chú đến nhà gặp mẹ có chút chuyện..”. Hòa Râu có lẽ nuôi nhiều bà quá nên luôn túng thiếu, làm đủ thứ nghề, nghe nói sau này ông ta cũng buôn bán đồ cổ, hàng điện tử…. từ Nam chí Bắc, qua tận bên Trung Quốc….chắc lại theo bà nhỏ nào sống đâu đó rồi….Vợ ông ta nhắn lên thì cũng không tiện từ chối, đành phải hẹn hai chú nhỏ tối hôm sau sẽ ghé qua.
-
Hôm sau, xuyên qua mấy khu chợ mới tới được nhà Hòa Râu , xem ra ông ta chẳng chịu đầu tư cho vợ con chút nào, vẫn cái nhà cũ kỹ như xưa, bà vợ bán tạp hóa ở trước cửa. Cách đây sáu bảy năm nom chị ta còn khá đẹp, bây giờ lớn tuổi, lại cực nhọc đâm ra xồ xề, ăn mặc thì lôi thôi, thần sắc thì phờ phạc. Chị nói “tưởng chú bây giờ phát tài rồi chê chị nghèo không đến chứ…” – “chị cứ nói thế, em với anh Hòa là chỗ tình nghĩa…” – “chị nói thật với chú, chị cũng chẳng cần, nhưng còn con cái, bảy tám đứa rồi chứ không ít. Biết chú với ổng thân thiết đã lâu, chị bây giờ cũng không biết nhờ cậy vào ai, báo CA thì cũng quê mặt, thôi thì có việc này nếu nhắm được thì chú giúp chị….”
Theo như lời bà chị thì Hòa Râu sau này đi buôn cũng có tiền lắm, nhưng cũng không mang về cho vợ con được bao nhiêu mà cho “chem chép” ăn hết cả….năm ngoái anh ta còn ghé về nhà được một hai lần, cho tiền mấy “sắp nhỏ” được chút đỉnh, còn hơn nửa năm nay thì bặt vô âm tín, mà chị cần anh ta về để bàn việc bán bớt miếng đất ở phía sau căn nhà để lấy tiền trả nợ - “sau này ổng cũng tập tành đi đào bới, mua bán đồ cổ, làm “giặc lái” gì đó, vay mượn tiền lung tung các nơi…..vừa rồi có mấy người nom rất dữ dằn như XHĐ đến tìm ổng đòi nợ, chị bảo là chuyện ổng làm vợ con không biết gì hết…” – “vậy hiện giờ chị có chút manh mối ảnh ở đâu không ?” – “khoảng nửa năm trước ổng có về nhà vài ngày, có vẻ như đang chờ ai, sốt ruột ghê lắm…..rồi một hôm nửa đêm có một người đến tìm, người này lạ lắm, chưa gặp bao giờ….họ thì thầm bàn bạc suốt đêm, sáng hôm sau thì ổng với người đó tất tả đi ngay.” – “thế chị biết họ bàn chuyện gì không ?” – chị ta hạ giọng thì thào nói “nghe nói họ đi tìm cái gì gì đó quý giá lắm” – “thế chị có nhớ người khách lạ đó hình dung ra sao không ?”, sở dĩ ĐHC hỏi như vậy vì đám buôn đồ cổ cộm cán như Tư Sơn, Trường xoắn, Ba Thời, Hải thọt…..thuộc dạng dễ nhớ, nếu là một trong những người đó thì cũng dễ lần ra tung tích. Bà chị lắc đầu quầy quậy “nhìn cái mặt gà mái của nó là chị đã thấy ghét rồi, nên không nhớ kỹ….chỉ thấy nó gầy gầy, cao cao…nói giọng miền tây thì phải.” – “thế ảnh cũng không nói với chị là đi đâu?” – “trước giờ ổng muốn đi là đi…có bao giờ nói đi đâu cho vợ con biết…?”
-
Trong đám buôn đồ cổ thì khó chịu nhất là Hải thọt, y người nhỏ thó, chân đi cà nhắc, mũi thẳng, môi trề, nhân trung dài thượt, cặp mắt ti hí…..đặc biệt y chỉ nhìn đời bằng một con mắt, mắt còn lại là con mắt giả nhưng người nào phải tinh lắm mới có thể nhận thấy. Bù lại y có cái trán cao đặc biệt, trán cao muốn sói cả đầu, đầu lại chỉ có vài sợi tóc lưa thưa nên nhìn giống hệt cái sọ dừa khô. Cái sọ dừa khô đó nghĩ ra biết bao mưu ma chước quỉ từng làm cả thiên hạ phải nhiều phen náo động. Tướng mạo kỳ quái như vậy nên y vô cùng khó chịu, chẳng mấy khi chịu gặp ai, nếu kẻ đó không lọt vào…độc nhãn của y thì có quỳ trước cửa 7 ngày y cũng không thèm tiếp, còn y mà đã cần đến thì có trốn ở dưới âm ty cũng móc lên cho bằng được. Tính cách quyết đoán, hành động táo bạo, dám chung dám chi nên Hải thọt dần dần có một vị trí rất vững chắc trong giới giang hồ lẫn giới kinh doanh.
Nhà của Hải thọt nằm sâu trong một con hẻm ngoằn ngoèo bên quận…, những con hẻm đan vào nhau như mê hồn trận, nếu không biết đường thì đi lạc là cái chắc. Nhìn bề ngoài căn nhà nom rất sập xệ….nhưng nếu được bước vào bên trong thì…. “choáng” không thể tả. Trong căn nhà nội thất đều làm bằng gỗ quý nên bốn mùa đều ấm áp, cầu thang bằng Cẩm lai, nền lót thảm Ba tư, ngay phòng khách là một bộ bình phong cổ cầu kỳ, tinh xảo chắc từ thời chúa Nguyễn, hình như được dát vàng thì phải… Trên mấy cái bệ để nguyên một bộ kiếm của Nhật, dài có, ngắn có, chuôi kiếm khảm ngọc cầu kỳ. Những thanh kiếm này đã từng được tắm máu người nên Hải thọt trưng để tạo sát khí thị uy với đàn em, có cả mấy cái đĩa cổ sắc xanh biêng biếc…, Đặc biệt giữa nhà là một cái kệ gỗ được chạm trổ công phu hình những con dơi, trên đó trang trọng đặt một cái kiềng ba chân, mỗi chân là hình đầu rồng cùng đỡ một quả cầu pha lê sáng ngời, lấp lánh. Hải thọt nói “bọn ĐL trấn hai cái cột đá đầu rồng ở ngoài trung tâm cao cả hai chục mét hòng đè bẹp linh khí của người dân chốn này, quả cầu linh thiêng này là để hóa giải hai cái cột đá đó, đây chỉ là một phần, phần còn lại anh đã sai mấy thằng đệ nửa đêm mang chôn sâu xuống dưới chân hai cái cột đá rồi”.
Nhà toàn đồ trân quý như vậy tất nhiên Hải thọt không thể ở một mình, cũng không thể ở chung với đàn bà…..y có hai đệ tử ruột lúc nào cũng bên cạnh như hình với bóng. Một người nhìn cũng dị dạng y như Hải thọt, lại có tật nói cà lăm, nhưng nổi tiếng có tài săn đồ giả cổ để bán cho khách nước ngoài nên có biệt danh là Nghĩa “cổ”. Còn người kia là dân anh chị chính hiệu, từng giết người, trước giải phóng bị kết án tù chung thân, đày ra Côn Đảo…đến sau năm 75 nghiễm nhiên trở về, chẳng biết tên gì, chỉ nghe gọi là “Ba Già”. Nói chung cả cái xóm nghèo này sống nhờ vào Hải thọt, y giống như vua một cõi, chính quyền muốn chạm đến y không phải chuyện dễ vì cả xóm đều chịu ơn của y cả. Ngoài việc buôn đồ cổ, đá quý….y còn làm cả những việc như bảo kê sòng bài, cho đệ tử ghi đề, cho vay trả góp, cầm đồ, đòi nợ mướn….. “cả xóm là gà nhà” như vậy nên có người lạ vừa đặt chân đến đầu hẻm là tin đến tai Hải thọt liền.
ĐHC chắc cũng may mắn lọt vào “độc nhãn” của y nên mới được ngồi trên cái sập thất bảo, bên cái bàn bằng gỗ đàn hương, trầm được đốt lên nghi ngút. Sau khi chủ khách ngồi yên vị, Hải thọt mới vào trong mang ra một cái cái giỏ mây nhìn rất lạ, y lấy trong giỏ ra một bình rượu đen sì rất cổ quái, có cái quai vừa là tay cầm vừa là cái miệng để rót rượu. Hải thọt nói “chú nhìn kỹ có thấy cái chữ ký này không ….?”, y đưa cái bình sát tới, ĐHC nhìn thấy trên thành bình quả là có một cái chữ ký lờ mờ….cái bình rượu này còn được đóng nguyên xi, buộc một sợi dây đỏ, có đóng mộc hẳn hòi, chắc là quà tặng gì đó của các cấp lãnh đạo…. không hiểu tại sao Hải thọt lại có được. Hải thọt mở nắp hũ rượu, hương thơm tỏa ra nồng nồng, y nói “đây là rượu của xứ Á Căn Đình….chú có còn nhớ anh Tư không ?” – ĐHC gật gù cái đầu, có biết bao nhiêu anh Tư trong cõi đời này, làm sao mà nhớ hết được? Hải thọt nói tiếp “anh Tư hồi đi công cán ở bển, được chính tay bộ trưởng ngoại giao tặng, nhưng ảnh không uống rượu…nên tặng lại cho anh đó…”. Thì ra Hải thọt bây giờ đã chán chuyện khoe của mà lại bắt đầu sính mùi khoe các mối quan hệ có tầm….“đại bác”. Rượu Á Căn Đình uống so ra không khác gì rượu Gò Đen là mấy, nhưng nhờ có thêm chữ ký của ngài bộ trưởng nên dường như ngon hơn hẳn. Bộ ly uống rượu cũng rất đặc biệt, đó là bộ ly của Nhật được mạ vàng thật, hoa văn tinh xảo, bình thường trong đáy ly trắng muốt, nhưng khi rót rượu vào một hồi sẽ hiện lên hình chân dung một kỹ nữ cực đẹp được vẽ theo phong cách cổ của Nhật, 6 cái ly là sáu hình khác nhau, mỗi cái một màu, vô cùng lộng lẫy. Uống được hơn nửa bình rượu thì cũng đã hơi say ngà ngà, Hải thọt lại lấy ra một bộ ly pha lê của Tiệp rất đẹp, y nói “ bây giờ uống đến loại rượu này đố chú biết là rượu gì”. Y lấy ra một chai rượu dẹp dẹp trong veo, chẳng có nhãn gì cả, rót vào ly, cho thêm đá rồi nói “rượu này phải uống lạnh mới thật là ngon.” Rượu này rất cay và nặng, mùi rất nồng đậm, đích thị là Votka của Nga chứ không sai, Hải thọt cười khà khà “chú uống loại rượu này nhiều rồi làm sao mà lại không biết, chai Votka này là của Nga chính hiệu đó”, y lại dọn ra một ít thịt mỡ muối, dưa chuột, pho-mát…nhâm nhi một hồi, Hải thọt mới khề khà “nghe nói chú có quen với băng Sông Đông thì phải….”, thì ra phải đợi uống say muốn mềm người rồi y mới bắt đầu nói vào việc chính…..
-
Khi Thành Cát Tư Hãn đánh xuống Châu Âu, chiếm được Moskva, đã thiêu hủy hoàn toàn thành phố và giết chóc hầu hết dân cư. Sau đó vượt sông Đông, đánh tan 80 vạn quân của vua Ki-ép, bắc ván lên đầu quốc vương và các vương hầu bại trận để ngồi uống rượu, vợ con của họ đều bị bắt làm nô lệ. Thế nhưng đội quân bạo tàn này tuy vượt được sông Đông, vẫn vấp phải sức kháng cự mãnh liệt và đã không thể chinh phục được vùng đất này. Trên thảo nguyên bao la có một sắc dân gọi là dân Cô-dắc, dân Cô-dắc cũng “ăn ngủ trên mình ngựa”, cũng thiện chiến không kém gì quân Mông Cổ còn gọi là quân Tarta. Khi chàng trai trẻ bất khuất Oxtap bị mang ra hành hình giữa quảng trường, bị bẻ gãy đến đốt xương cuối cùng đã la lớn “cha ơi, cha có biết hay không?” thì Tarax Bunba đã xuất hiện…..cuộc chiến giữa dân Cô-dắc và quân Tarta kéo dài hàng thế kỷ….Dân Cô-dắc trở nên nổi tiếng từ lúc đó, một sắc dân “chịu chơi”, sẵn sàng sống chết vì danh dự….Băng Cô-dắc ở SG tập hợp những người thời trước từng đi lao động ở vùng Sông Đông. Khác với các băng nhóm Hải Phòng, Nghệ An hay Quận tư, Quận bảy…. có những hoạt động bảo kê, cờ bạc, buôn ma-túy thậm chí cướp của giết người, nhóm này chỉ chuyên buôn hàng đường dài từ VN qua Nga và tất cả các nước thuộc khối Đông Âu cũ. Nhóm này có tầm quan hệ vô cùng rộng lớn trải dài từ VN qua tận Nga, Ukraina, CH Séc, Ba Lan….trong nhóm có những đại gia tiền nhiều hơn nước, có cả tàu viễn dương, sà lan, tàu kéo….Tiền nhiều, chịu chơi, băng Sông Đông ngày càng có tiếng, chắc Hải thọt đang muốn đánh hàng hay người qua Đông Âu nên mới tính tiếp cận với nhóm này.
Hải thọt gằn gằn “bọn Sông Đông ỷ có tàu lớn, thường tập kết hàng lậu ngoài khơi xa, thậm chí mua đứt cả một hòn đảo để chứa hàng….anh cần đến chú chính là muốn ra hòn đảo này, muốn chú đến đó cho anh một chuyến.” Nghe Hải thọt nói đến đây, ĐHC bất giác nhớ đến hôm còn ngồi ở nhà Hòa Râu, lúc đó vợ y cũng đề cập đến một hòn đảo “chị lén nghe hai người nói chuyện, họ bàn tính ra đảo gì đó… nguy hiểm lắm nên hình như còn tính rủ thêm một người nữa.” Nói chuyện đến đây thì cô con gái lớn của Hòa Râu đi làm đâu đó về tới, cô ta giống cha nên thật là đẹp, sống mũi thẳng băng, da trắng, môi đỏ, ước chừng mười tám mười chín tuổi. Cách đây mấy năm còn là một cô bé nhỏ xíu, bây giờ đã lớn, trở thành một thiếu nữ thật xinh xắn. Cô bé nhoẻn miệng cười, gật đầu chào, một lát sau ra thì thầm cái gì đó với mẹ, chị ta liền nói “con Bé hai nói nó có photo được một quyển tập ghi chép gì đó của ổng, không chừng chú xem có thể tìm ra được cái gì chăng.” Quyển tập của Hòa Râu ghi chép chi chít, vẽ hình lung tung mà cô ta không vứt vào sọt rác, mang đi foto rồi cẩn thận giữ lại thì cô bé này hay thật.… Hòa Râu bỏ mặc vợ con phải tự bươn chải để kiếm sống, trong thời buổi khó khăn ở khu xóm nghèo mà mấy cô con gái vẫn còn giữ mình được như vậy cũng là quá quý rồi. Cô ta tên Trường Nhật Loan, còn có thêm cô em nhỏ hơn một tuổi, hiện đang đi học,…..hai cô này là con riêng của Hòa Râu. Nhà có một cậu con trai nữa, con riêng của bà vợ, làm nghề sửa xe honda tuốt ngoài đầu hẻm. Còn Tấn, Tài và mấy đứa em nữa là con chung của hai người…..Bà chị này hẳn phải là người có khí lượng rất rộng mới quản nổi một bầy con nhiều dòng như vậy. Quyển tập của Hòa Râu viết vẽ lung tung, nghiên cứu cả đêm cũng không hiểu gì mấy. Hình như y diễn tả một vùng đất hoang sơ nào đó, có những ký hiệu, ám hiệu mà chắc phải đến tận nơi may ra mới rõ.
Hải thọt muốn ra tận ngoài đảo để điều nghiên thực lực của băng Sông Đông, sau đó mới tính chuyện lớn hơn nữa. Đó là cái y nói ra ngoài miệng, còn cái chuyện bên trong là gì thì chỉ có y mới biết rõ. Thay vì đường đường chính chính đàm phán với băng Sông Đông, Hải thọt lại muốn “điều nghiên” trước thì chứng tỏ mưu sự lần này chắc là phải lớn. Y nói “hòn đảo này còn gọi là “đảo Vương” có rất nhiều hang hốc, vực sâu….anh có cái bản đồ đây cho chú mang về xem trước”. Hải thọt lấy trong người ra một tờ giấy ố vàng, trải ra trên bàn – ĐHC nhìn vào bỗng giật mình vì trong quyển tập của Hòa Râu cũng có vẽ một cái hình giống y như vậy. Hôm sau ngồi xem kỹ và so sánh tấm bản đồ và quyển tập thì nhận ra Hòa Râu đã đến hòn đảo này nhiều lần rồi, nhiều chỗ y ghi chú thêm rất kỹ mà trong tấm của Hải thọt không có. Xem ra Hải thọt không hẳn là chỉ muốn “điều nghiên” địa điểm tập kết hàng lậu của băng Sông Đông, sâu xa bên trong chắc còn nhiều lý do khác nữa…..
-
Hôm đó ngồi trong một cái quán khá sang bên cạnh bờ sông trên đường N.A, Trịnh Cao Nhân vô cùng vui vẻ. Không vui sao được khi chuyến hàng vừa rồi y trúng quả đậm. Hai “kông” về đến cảng Hải Phòng thì chỉ có “kông” của y là còn nguyên vẹn, “kông” còn lại của đám SG chỉ còn là cái “kông” rỗng tuếch, hàng bên trong đã biến mất từ hồi nào, một đại gia ở SG ôm đầu máu, lỗ hàng mấy tỷ…. Chỉ có Trịnh Cao Nhân là biết “hàng đi đâu về đâu…”. Thần thông quảng đại như Tề Thiên Đại Thánh cũng chưa chắc đã làm được việc đó, nhưng Trịnh Cao Nhân thì lại làm được, làm dễ dàng, làm ngọt xớt,…..Có làm được thì bây giờ mới có thể ung dung ngồi đây uống cả chai Votka ngon tuyệt. Rượu ngon thì có đủ loại, thứ gì cũng có…Chivac, Na pồ, XO, Scot….có chai giá hàng chục triệu, nhưng y chỉ thích uống Votka Nga chính hiệu, uống để nhớ đến cái thời phải ăn đói, mặc rét lúc mới qua Nga, cái lúc phải giấu trong áo khoác cái chai nhỏ xíu để lúc quá lạnh lấy ra uống cho ấm bụng. Lò mò ra đến tận Rostov vùng Sông Đông, làm đủ thứ nghề, nhiều lúc tưởng sắp về chầu ông vải rồi thì bỗng nhiên gặp ân nhân cứu mạng….người đó cũng mang họ Trịnh.
Trịnh Cơ Đồ lúc đó chuyên đánh hàng quần jean, áo gió qua Nga, Đông Đức cũ…..với con mắt sành đời, y nhìn thấy ở Trịnh Cao Nhân tuy con khổ sở nhưng dám làm, dám chịu, dám liều…cái phẩm chất cần thiết cho những phi vụ làm ăn xuyên biên giới. Thời gian đã chứng tỏ Trịnh Cơ Đồ không lầm, Trịnh Cao Nhân ngày đêm tận tụy không mệt mỏi từ VN, qua Nga, Đức, Séc, Ba Lan…hết đánh hàng lại đưa người, dần dần được Bố già họ Trịnh đưa lên những vị trí có tầm quyết định, thâu tóm được bao mối lợi. Đến khi vào hồi các “đôm” đổ sụp, Trịnh Cơ Đồ bị chính phủ Nga truy nã phải trốn chui nhủi qua Mỹ thì Trịnh Cao Nhân tỏ ra hơn hẳn đàn anh một bực, chạy tuốt về VN, ôm theo mấy trăm ngàn đô đủ để tung hoành ngang dọc trong thời mở cửa. Sẵn các mối quan hệ, lại rành đường đi nước bước, Trịnh Cao Nhân chiêu mộ lại các đàn em sa cơ lỡ vận, nối lại các mối quen biết với các bậc “cha chú”, lại lấy được một cô vợ con ông thứ trưởng….tạo nên tiếng nói có tầm đủ mạnh để các đàn anh bên Nga tin tưởng giao cho nhiều tiền của để đầu tư đủ thứ…
-
Vì thế nên Trịnh Cao Nhân mới vỗ vai ĐHC mà lên mặt giảng giải “Tây tụi nó chê người Việt mình không biết ước mơ cũng phải….sống không thể cứ cam chịu mãi, phải biết mơ làm giàu chứ…phải biết “ở Vi-la, đi xe Von-ga, lấy vợ gái Nga” chứ lỵ…. Chú cứ chịu khó theo anh một thời gian, chú có sẵn nhiều mối quen biết, quen cả với con cái mấy vị lãnh đạo…cái này là quý lắm đó, ít bữa nữa anh sẽ hẹn với chú dẫn con ông …. đến, mình sẽ đãi nó ở nhà hàng sang trọng bậc nhất, không cần nhờ vả gì cả, chỉ cần cho thiên hạ thấy là được rồi.”
Trịnh Cao Nhân đúng là quen biết nhiều thật, ngồi uống với y mà cứ hết người này đến chào, người kia đến bắt tay nồng nhiệt. Con người gặp lúc được thời được vận thì “phú tại lâm sơn hữu viễn thân”, ai cũng muốn làm quen, ai cũng muốn tay bắt mặt mừng. Hôm ấy trời thật đẹp, làn gió thổi hiu hiu mát rượi, nhìn ra sông thấy sóng nước lăn tăn, ánh đèn sáng lung linh mờ ảo. Thỉnh thoảng có mấy chiếc du thuyền đèn rực rỡ chạy ngang qua tiếng nhạc thật ồn ào náo nhiệt. Sài Gòn về đêm dường như không ngủ, đường phố hầu như lúc nào cũng có xe chạy, người đi. Khoảng gần nửa đêm thì có tiếng xe ôtô đỗ xịch trước quán, người mới vào đi lên lầu, tiến thẳng đến bàn của Trịnh Cao Nhân, y đứng dậy kéo ghế đon đả mời ngồi, quay qua giới thiệu với ĐHC “ Đây là tân giám đốc cty cổ phần Thiên Đường….một người rất nổi tiếng, bảo đảm chú đã từng nghe nói đến !”
Người mới đến là một người đàn bà…..một người đàn bà thật là đẹp,…đẹp không thể tả…. Mắt to và sâu, mi dài đen mượt, da thật trắng, mũi thật cao, đôi môi mới thật là gợi cảm…..mái tóc mới thật là tha thướt….ĐHC cầm ly rượu trên tay mà ngơ ngẩn đến quên cả uống, khi Trịnh Cao Nhân cụng vào ly một cái cốp mới giật mình sực tỉnh, vội nói “xin chúc mừng, xin chúc mừng …. bà… à …cô tân giám đốc….”. Nghe ĐHC cà lăm như vậy cô ta bất giác bật cười - nụ cười mới dễ thương làm sao – cô ta nói giọng khàn khàn nghe rất lạ “em tên Âu Dương Hà Hồng Ngọc, tức “Ngọc Ruby”….
-
“Ngọc Ruby”…. “Ngọc Ruby”….cái tên này đã từng nghe nhắc đến, thậm chí được nhắc đến rất nhiều lần rồi. Hồi đó “Hoàng mọi”, một nhân vật cộm cán trong giới buôn hàng đen ở Nga trong chuyến về VN đã đến ĐHC để nhờ tìm mấy món đồ đặc biệt, trong lúc uống rượu có nhắc đến việc y có một người em gái tên “Ngọc Ruby”làm ăn rất giỏi, hiện đang ở bên Nga, quen biết rất nhiều. Y có vẻ rất khâm phục cô em này….ngồi nói chuyện mà cứ ca ngợi suốt, còn nói khi nào có dịp sẽ giới thiệu với ĐHC. Nhưng chuyện đó đã không bao giờ xảy ra… “Hoàng mọi” bị một nhóm nào đó thanh toán, lãnh một băng tiểu liên ngay trước cửa nhà chết không kịp kêu một tiếng. Nước Nga thời cải tổ các băng đảng bắn giết nhau như ngóe, “Hoàng mọi” chết cũng là việc thường tình, sự việc nhanh chóng rơi vào quên lãng…Vây mà hôm nay tình cờ lại gặp “Ngọc Ruby”, cô ta thật giống anh như đúc.
Lần gặp này không nói được gì nhiều vì “Ngọc Ruby” chỉ ghé qua giây lát để nhận chỉ thị gì đó của Trịnh Cao Nhân rồi ra sân bay ngay. Xem ra cái Cty cổ phần “Thiên đường” gì đó đã bị Trịnh Cao Nhân nuốt chửng từ lâu, “Ngọc Ruby” chỉ là bù nhìn mà thôi. Có Trịnh Cao Nhân ở đó, ĐHC cũng không dám nói với cô ta việc mình đã từng quen biết “Hoàng mọi” mà chỉ hẹn khi nào có dịp sẽ nói chuyện sau.
…………………………………………
Tiền bạc làm con người trở nên hùng mạnh, tiền bạc đầy túi làm người đàn ông trở nên vô cùng tự tin….anh ta cảm thấy dường như có thể chinh phục cả thế giới.
Không có tiền, không nhà không cửa mà vẫn tự tin được thì người đó phải vô cùng hiếm. Đó chỉ có thể là một thầy tu trên núi cao mà thôi… một con người không còn bất cứ ràng buộc nào với cõi đời nữa.
Tư Gồng cũng là một con người như vậy, nhưng y không phải là một thầy tu, y lại đang ở SG…. Y đã từng là một tỷ phú, bây giờ trở thành tay trắng. Y đã từng có một người vợ rất đẹp, rất sang, những đứa con thông minh, xinh xắn dễ thương, ….bây giờ trở thành cô độc. Đã từng có tất cả, và rồi mất tất cả, hơn mười năm bóc lịch, trải qua biết bao gian khổ, khi trở về còn được căn nhà hương hỏa của bố mẹ để lại…thế cũng là quá may mắn rồi. Căn nhà này chỉ được ở chứ không được bán, là căn nhà nhỏ để dòng họ thờ cúng, Tư Gồng nghiễm nhiên trở thành “con chó giữ nhà”. Hàng tháng y được hưởng chút đỉnh từ việc cho thuê mặt tiền phía trước bán hủ tiếu…cũng đủ để sống lay lắt qua ngày. ĐHC ngồi uống rượu với y trong một cái quán nhỏ, mồi chỉ là một dĩa gỏi vịt, một tô cháo loãng. Chủ quán là một đại tá quân đội đã về hưu, ông ta cũng thích sống đạm bạc, thích tự mình bán cháo vịt sống qua ngày. Tư Gồng chưa tới năm mươi mà nhìn y tưởng chừng đã sống ….vài ba thế kỷ. Y thật khắc khổ, thật cằn cỗi, thỉnh thoảng lại ho khan khan, nhưng y vẫn cố tỏ ra rất bình thản, nói chuyện rất rành mạch, thong thả. Y đang cố gắng lãng quên quá khứ….nhưng cũng chẳng tìm kiếm gì ở tương lai mà chỉ muốn “theo dòng nước chảy” trôi cho hết cuộc đời…y là em của Hải thọt.
Hải thọt muốn đánh ván bài “thí chốt bắt xe”, có lẽ y đang chọn “chốt”. Đàn em của y chốt rất nhiều, đó là những tên dám xăm lên ngực chữ chốt to tổ chảng….nhưng chốt mà đổi chốt thì cũng như không….? Chốt phải đổi xe, đổi pháo, con chốt đó phải là con chốt quý, phải đáng đồng tiền bát gạo. Bởi vậy khi cầm một xấp ra trao cho ĐHC và Tư Gồng, Hải thọt nói “sáng mai hai chú ra đảo cho anh, với kinh nghiệm của hai chú thì phải làm những gì anh không cần phải chỉ dẫn cặn kẽ…”
-
Tàu đi từ sáng sớm khi mặt trời còn chưa mọc, đi được một lúc thì nhìn xung quanh toàn là biển nước mênh mông chẳng còn thấy đâu là bờ bến nữa. Tàu nhỏ nên lắc rất dữ, chồm lên, chúi xuống dập dồn liên tục. Đã lâu không đi biển nên một lúc sau ĐHC cảm thấy người như ngất ngư, ngầy ngật. Có lúc tàu đi vào vùng đầy sương mù trắng xóa, không còn thấy gì nữa, cứ đi như vậy, ra đến đảo thì trời đã muốn hoàng hôn rồi. Nơi đây không phải là một hòn đảo riêng biệt mà là cả một quần đảo, rải rác cả chục hòn chứ không ít. Tuy nhiều đảo như vậy nhưng toàn là đảo trọc, đảo hoang cả, chỉ có một hòn đảo là có cây xanh nhiều, tạm có người ở. Thiên nhiên thật tuyệt vời, bầu trời bao la, biển xanh mênh mông, non cao hùng vĩ.
ĐHC và Tư Gồng trong vai dân đi thu mua vi cá mập, đỉa biển, ghé vào một cái quán nhỏ ngồi tạm….Mặt trời bắt đầu lặn xuống, to như cái lồng bàn, nắng chiếu vàng như nghệ, cả một không gian bao la nhuộm một màu vàng rực. Làng chài nhỏ này thật êm đềm, cuộc sống thật thanh bình. Thấy có khách lạ đến, bà chủ quán già lọm khọm nhưng cũng tỏ ra sởi lởi, lẩy bẩy mang ra một đĩa khô cá mối đặc sản, một tô cháo hào và một chai rượu….bào ngư thứ thiệt. Sau khi nói vài câu bâng quơ, bà nói nếu hai người có cần ở lại vài ba ngày thì có thể tạm ở nhà bà…. Bàn bên cạnh có mấy người dân chài đang ngồi, họ mới đi biển về, màu da còn đỏ rực. Mồi họ nhậu là vài con khô cá cá phèn, cá đổng, một người khá lớn tuổi, có bộ râu cá chốt quay qua hỏi “phải ông Hùng giới thiệu mấy chú tới đây không ?” – Mặc dù không biết “ông Hùng” là ai nhưng ĐHC cũng gật gù, thấy thế ông ta hồ hởi nói tiếp – “mấy chú muốn thu mua vi cá, đỉa biển, tôm hùm, cá mú,….có thể gặp Qua, trước đây ông Hùng cũng đã giới thiệu nhiều người xuống….”
Thu mua vi cá thì chưa vội nhưng ĐHC nhờ ông ta lấy một chiếc ghe nhỏ chở đi lòng vòng quanh hòn đảo. Ông già còn gọi là ông Hai Lẹ tỏ ra còn rất nhanh hẹn, mạnh khỏe, đúng típ dân miền biển. Ghe chạy một vòng xung quanh đảo chính. Hòn đảo này thật đẹp, gần bờ có rất nhiều cây dừa cao vút, bãi cát dài trắng mịn. Trên đồi còn có nhiều rừng cây rậm rạp, đá lởm chởm đổ từ trên đỉnh cao xuống tận bờ biển nom rất hoang sơ. Phía dưới là những ghềnh đá nhấp nhô, làn nước xanh trong đến mức trời đã về chiều mà vẫn nhìn thấy lờ mờ những đàn cá tung tăng bơi lượn trong những rặng san hô...quanh hòn đảo chim chóc rất nhiều, chủ yếu là mòng biển trắng, nhàn hồng, hải âu….tụ tập đông đảo, kêu chí chóe cả vùng. Tính ra chỉ có hơn trăm nóc nhà, tập trung làm hai khu, cũng có vài căn nhà ở rải rác….Hỏi thăm về “đảo Vương” thì ông già miền biển lắc đầu nói chưa từng nghe đến. Ông ta còn nói “có đi cả đời cũng không hết hang hốc trên cả chục hòn đảo này”.
Buổi tối đành ở tạm trên gác xép nhà của bà chủ quán, từ đây có thể nhìn ra khu bến cảng, có thể quan sát được thuyền bè ra vào. Nhà thật neo đơn, chỉ có bà chủ và một đứa bé khoảng bốn năm tuổi. Bà chủ nhà tuy già nhưng nom cũng còn rất khỏe, chắc là nhờ không khí miền biển. Đứa con trai bà đi biển bị bão đã chết, cô con dâu sau đó cũng bỏ về đất liền, bây giờ một mình bà phải buôn bán cắc củm để nuôi thằng cháu còn nhỏ dại. Bà ta từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ vào đất liền, không hình dung ra đất liền là như thế nào. Cả đời chưa nhìn thấy cái xe ôtô nó ra làm sao…?! Chỉ mơ một lần được về đất liền cho Chưa ở được bao nhiêu mà đã có thể cảm nhận được tâm hồn con người ở nơi này thật mộc mạc, thật hoang sơ. Tư Gồng tỏ ra rất khoan khoái, từ bao lâu nay chưa bao giờ thấy y vui như vậy, ngả người ra là y ngủ ngay lập tức. ĐHC trằn trọc hoài không ngủ được, gần nửa đêm thì nghe bà già đưa võng ru thằng cháu ngủ, tiếng ca thật là buồn bã, nghe lời ca một hồi, bất giác cảm thấy vô cùng kinh ngạc, lại càng trằn trọc mà ngồi dậy lắng nghe….nghe mãi…..
Bà già ca rằng :
“Mấy năm nay nợ trần đeo đuổi
nơi xứ người tạm gởi tấm thân,
về thăm tổ quán một lần,
có hay người cũ dấu chân nơi nào
Vọng xa xa thấy nhà tổ phụ
Dưới lùm cây bao phủ xung quanh
Cây ơi sao lại xụ nhành
Cành khô úa héo, vắng tanh bóng người
Đứng ngơ ngẩn bên đường cổ tán
Nẻo vô nhà đầy lá héo khô
Xưa kia xe ngựa ra vô
Dập dìu những khách rượu Tô thị Tần
Nay dấu ngựa về rong đã đóng
Khách thi Tần đâu vắng ai ôi
Trớ trêu chi lắm hở trời
Đổi xây, xây đổi khiến người châu sa
Kìa trước mặt vườn hoa chốn cũ
Mấy nhành hương lá rủ bông khô
Hường ơi, có biết có ngờ
Có hay tiểu chủ dật dờ về thăm
Nhớ những thuở vầng trăng tỏ rạng
Với một nàng cùng bạn thiên phương
Nhìn trăng rồi lại xem hường
Trăm năm thề quyết một lòng cùng nhau
Nay dấu ngựa về rong đã đóng
Biết người xưa trôi dạt nơi nao
Hay là cái sợi xích thằng
Đã xe sửa trấp nâng khăn nơi nào ?!
Bước vô nhà trước sau lạnh ngắt
Nhìn cảnh xưa như cắt tấm lòng
Tứ bề lưới nhện bủa văng
Lòng ta bi thảm vui chăng hởi trời
Lau giọt lụy vào nơi chốn khách
Thơ xưa đề trên vách nơi nao…
Bốn bề cô quạnh chiêm bao
Này nơi mẹ thác chỗ xưa em nằm
Chân rảo bước ra thăm phần mộ
Thấy xanh rờn ngọn cỏ phất phơ
Mẹ ơi ! chín suối có ngờ
Con nay khôn lớn dật dờ về thăm
Nghe tiếng dế đờn nam lảnh lót
Hay vì ta mà khóc dế ơi
Hay vì chích bạn lẻ đôi
Hay vì lạc ở chín nơi mộ phần.
Ngước lên nhìn thấy bóng trăng
Khăn lau nước mắt, chấm băng ra về…!”
-
Sáng hôm sau, lại tiếp tục thuê ghe của ông già Hai Lẹ đi quanh mấy hòn đảo hoang nữa. Hỏi thăm về Hòa Râu, ông ta nói là có gặp, nhưng họ không ở dưới làng chài mà lại lên tuốt trên núi, ở trong một ngôi chùa nhỏ “không lẽ ở đây cũng có chùa ?” – “có một ngôi chùa rất cổ xưa, chắc cũng cả trăm năm rồi, gọi là chùa La-hán vì hồi xưa chùa chỉ có duy nhất một bức tượng La-hán” – “thế họ có đi đâu không” – “họ cũng mướn qua chở vòng vòng mấy hòn đảo hoang như mấy chú vậy”. – “thế trên chùa có những ai” – nghe hỏi tới, ông già lắc đầu quầy quậy nói “Qua khuyên mấy chú đừng có lên đó….hồi xưa ở đó có một vị sư ông cũng đạo đức lắm, khi ông mất rồi thì ngôi chùa bỏ hoang….những người sau này đều không phải là sư, mà chỉ là dân tứ xứ về, họ tuy khoác áo thầy tu nhưng cũng không khác người thường là mấy”.
Thử ghé vào một đảo hoang, trên đảo đầy những vỏ sò, vỏ ốc, san hô, lau sậy mọc um tùm cao quá đầu người,….không gian thật là vắng lặng, hoang sơ. Lần theo các vách đá đi lên triền núi cao, vào trong một vài hang động cổ sơ chưa từng có người đặt chân đến. Những măng đá, nhũ đá, trụ đá tạo cho hang động những đường nét âm u, huyền bí lạ thường. Qua năm tháng nhiều nhũ đá kết lại với nhau thành những cột đá trông như những cây cổ thụ sừng sững. Những phiến đá mọc ra trông giống như các vỉa nấm dại. Trên vòm hang cao vút là các nhũ đá phản quang lấp lánh. Trong hang còn có cả các mạch nước ngầm, dòng nước trong mát uốn lượn quanh những tảng đá, những cột nhũ đá lô nhô, cảnh vật thật là tuyệt đẹp.
Trong mấy ngày liền đi khắp mấy hòn đảo hoang mà chẳng thấy hòn đảo nào giống với hòn đảo trong bản đồ của Hải thọt cả, không lẽ hòn đảo trong bản đồ đã bị chìm mất…..
Vòng trở lại đảo chính, qua một khúc quanh thấy một cái bời kè thẳng tắp chạy thẳng vào trong là trụ sở của Bộ đội biên phòng. Theo như lời ông già Hai Lẹ thì có khoảng vài chục người lính trẻ đóng quân trên đảo này, mỗi khi có việc gì họ đều giúp những người dân ở đây rất nhiệt tình. ĐHC và Tư Gồng nói ông Hai Lẹ cho dừng ghe rồi đi thẳng vào trụ sở. Trời đã gần tối nên bên trong khá vắng vẻ, chỉ có hai người đang ngồi đánh cờ. Một người còn rất trẻ, cởi trần trùng trục, vai rộng ngực nở nom rất lực lưỡng, tự giới thiệu là trưởng đồn biên phòng, tên là Tâm. Anh ta tỏ ra rất cởi mở, hào sảng, nói đã hết giờ làm việc nhưng nếu có việc gì cần kíp thì sẵn sàng giúp đỡ. ĐHC chỉ nói là đi tham quan đảo nên ghé vô thăm, gửi biếu mấy anh hai tút thuốc vinataba…..thử đưa tấm bản đồ cho Tâm xem, anh ta xem xét một hồi rồi nói quần đảo ở đây không hề có hòn đảo nào giống tấm bản đồ này, nhưng cách đây độ sáu mươi hải lý còn có khoảng vài ba hòn đảo nữa, có một hòn khá giống nhưng không phải tên là “đảo Vương” mà người dân gọi là đảo “Ma”, hòn đảo này trước đây vài chục năm nghe nói cũng có người ở, cây cối, thú rừng rất nhiều, sau một trận bão quét, hầu như tất cả đều chết hết….sau đó lại có dịch bệnh, người chết, gia súc chết, cây cỏ vàng úa….bây giờ đã trở thành một hoang đảo thực sự, lâu rồi không ai dám đến ở nữa. Dân chài đồn đại trên đảo những người chết oan ban đêm đi lang thang kêu khóc thuyền bè đi xa cả vài hải lý cũng còn nghe…lâu dần hòn đảo có tên là đảo “Ma”. Trung úy Tâm cũng chẳng buồn hỏi về nguồn gốc tấm bản đồ lẫn mục đích của ĐHC là làm gì….chắc anh ta nghĩ có hỏi cũng bằng thừa, không hỏi thì không phải nghe lời nói dối….
Buổi tối hôm đó, ngồi lai rai trong quán để nghe ngóng tình hình, ĐHC thử hỏi bà chủ về bài ca thì bà ta trả lời cũng không biết rành lắm, chỉ nghe hồi xưa mẹ hát ru rồi bây giờ hát lại chứ không rõ nó có nguồn gốc như thế nào. Người viết nên những ca từ này hẳn không phải là tầm thường, còn cái tên “đảo Vương” nữa, không biết nó còn có hàm ý gì trong đó…? Mới có mấy ngày mà Tư Gồng quen biết muốn hết cả xóm chài, y đi khắp nơi, buổi tối cũng không về lại quán mà ngủ lại trên một chiếc ghe chài nào đó….
-
Ngôi chùa trên đảo được làm bằng gỗ nom bé nhỏ, nó lớn hơn cái am nhưng chưa thể gọi là ngôi chùa được, Phía trước có treo bảng đề “Bửu Nguyên Tự”. Từ dưới làng chài đi lên con đường rất quanh co, khúc khuỷu. Lên tới nơi mới hiểu vì sao Hòa Râu lại chọn nơi này, từ đây nếu có ống nhòm, phóng tầm mắt quan sát hầu hết được cả đảo, hầu hết vùng bờ biển, nhìn cả được sang bên phía doanh trại của bộ đội biên phòng. Trên chùa có cả chục người, mấy người thanh niên, ba bốn chú tiểu…họ tỏ ra khá thân thiện. Có cả vài phụ nữ ở xa xa xung quanh. Sư trụ trì cao to như ông voi, lỗ mũi to như mũi kỳ lân, thảo nào mà ở dưới làng chài người ta gọi ông ta là….Thích Kỳ Lân, họ nói ông ta không phải là sư, mà khi lưu lạc đến đảo này, ông tá túc ở chùa, khi sư ông cũ mất đi, chùa lúc đó chỉ có mỗi mình ông ta nên nghiễm nhiên trở thành…trụ trì. Hòn đảo này lúc đó chỉ có mấy người ở nên cũng không ai tranh giành với ông ta làm gì. Họ còn gọi ông ta là “thích…chửi thề”, vì ông này hễ mở miệng là chửi thề, không câu nào không có. Ông ta nói “mấy người bạn của ông ở trên đây rất lâu, có đến cả tháng trời…đ.m…tôi cưu mang mấy ổng hết, ngày nào cũng nấu cơm cho ăn, cho uống”. ĐHC móc ra mấy “xị” cúng dường, ông ta càng trở nên vui vẻ “trưa nay ông ở đây ăn cơm với tôi, tôi tu theo lối Cổ Sơn Môn nên không ăn chay mà ăn mặn, uống rượu cũng được”. Theo như ở dưới làng chài đồn thì chẳng những ông ta ăn mặn, uống rượu mà mấy chú tiểu nhi nhô ở đây cũng đều là con của ông ta cả.
ĐHC đi lòng vòng xem xét ngôi chùa này, bên trong có tượng Phật Thích ca trên bệ điện, có treo hình Đạt ma tổ sư…cũng trưng bày chuông, mõ, kinh kệ đầy đủ, nhang khói nghi ngút. Bên ngoài cũng có tượng Quan âm cầm tịnh bình. Tất cả đều được sơn màu vàng, đỏ….mới chát - “người bạn của ông sơn giúp chùa đó” - ông sư nói. Theo như lời ông già Hai Lẹ thì ngôi chùa này gọi là “chùa La-hán”…nhưng trong chùa không hề thấy pho tượng La-hán nào, cái tên chùa cũng đã đổi thành “Bửu Nguyên Tự”, mới lên thăm nên cũng chưa tiện hỏi ông sư về chuyện này….
Buổi trưa ngồi ăn cơm với ông ta, có con cá Da bò chiên vàng làm mồi uống rượu. Thích Kỳ Lân đúng là có nhân tướng kỳ lạ hơn người, ngoài cái lỗ mũi to vĩ đại, lỗ tai ông ta cũng to không kém, nhìn cứ như cái quạt. Hai mắt thì hùm hụp, đôi môi dầy dục. Chắc trước khi được lộc thành “sư”, ông ta cũng làm việc cực khổ lắm nên bàn tay, bàn chân to bè, thô ráp - “Sư thầy đặt cho tôi pháp danh là Bửu Nguyên, mọi người đều gọi tôi là Thích Bửu Nguyên” – nghe ông ta nói, ĐHC bất giác cười thầm trong bụng, hình như ở dưới làng chài không ai gọi ông ta bằng cái tên này cả. Ông ta còn khoe biết cả bùa Lỗ ban, khoán chữa bệnh, trừ tà….cho cả xóm chài phía dưới…- “đ.m….vừa rồi có thằng nhỏ dưới xóm đi lạc đâu qua mấy cái đảo hoang bị ma nhập như ngây như dại, phải mang lên đây cho tôi cứu…tôi chỉ cần đọc thần chú, phun rượu vào mặt là nó tỉnh liền….đ.m….vậy mà đám đó toàn là đồ vô ơn, sau lưng toàn nói xấu tôi không” - Ông ta càng uống vào càng nói bốc trời, giọng rổn rảng như chuông đồng – “mấy người bạn của ông vừa mới đi được mấy hôm, họ còn thiếu nợ tôi chưa trả hết…” – Hòa Râu từ trên này dùng ống nhòm nhìn xuống chắc chắn là đã thấy ĐHC và Tư Gồng từ khi mới đến, vì thế khi rút đi y đã đi theo đường phía bên kia, qua làng chài nhỏ ở khu bên nên không thể gặp y được” – “thế họ có mấy người cả thảy” – “ban đầu có ba người, nhưng sau đó chỉ còn hai” - Đang uống nửa chừng thì trung úy Tâm ở đâu bỗng xuất hiện, anh ta rảo rảo vài vòng rồi ngồi xuống. Thích Kỳ Lân mời anh ta một ly rồi nói “dạo này rít trên núi xuống đây khá nhiều…tôi có bắt cả chục con ngâm rượu, bên bộ đội có cần xoa bóp thì tôi gửi biếu một hũ”. Ông ta sai một chú tiểu chạy vào lấy ra một hũ rượu bên trong có ngâm mấy con rít, rít ở đây to khủng khiếp, dài cả hàng mấy tấc, to hơn ngón chân cái. Ông ta nói mấy người đàn bà ở đây ngoài việc cơm nước, quét dọn, chăm sóc mấy chú tiểu họ còn trồng cả một vườn rau phía sau, ăn không hết còn dư mang xuống dưới làng chài bán hoặc đổi gạo. Mấy người thanh niên ban ngày nếu không đi biển thì buổi tối đi theo thuyền thúng câu mực….nên chùa tuy nghèo nhưng cũng dư ăn, dư để…”. ĐHC cảm thấy ngôi chùa này có vẻ giống một gia đình hơn là một nơi tu hành, ông ta chắc tự phong là sư chứ ông còn trần tục hơn cả những người trần tục. Trung úy Tâm cũng chẳng thèm nói gì, có lẽ đối với anh ta chuyện an ninh trên đảo mới là quan trọng …chứ sư nào trụ trì chùa thì cũng thế…
-
Chiều xuống ĐHC đi lang thang trên đảo….đây là nơi chưa hề bị xã hội văn minh làm vẩn đục, tất cả đều toát lên một vẻ đẹp sáng trong, thuần khiết. Làng chài thật đơn sơ giản dị, những căn nhà nho nhỏ thấp thoáng ánh đèn dầu, những hàng dừa xào xạc trong gió, những chiếc ghe chài với hai con mắt to tròn…với tiếng sóng vỗ ầm ào, rào rạt. Một chiếc ghe cũ kỹ bỏ nằm trơ vơ bên bãi biển, ánh nắng chiều hắt vào lung linh, ẩn hiện. Chiếc ghe đó đã là quá khứ, đã từng có một thời huy hoàng lênh đênh trên biển cả, vượt qua bao con sóng….bây giờ nằm đó, già nua và mục nát, như minh chứng cho quá khứ, hiện tại và tương lai của một đời người. Con người ở đây thật chân tình mộc mạc, không một chút giả dối, không một chút bon chen, phải chăng đây chính là một Thiên Đường có thực mà chúng ta đã đánh mất, đã lãng quên ?!
Ngồi trên một ghềnh đá phóng tầm mắt nhìn xa ra biển, cả một khoảng không gian mênh mông, tĩnh lặng mà vĩ đại. Bất giác chợt nhớ đến “Hoàng mọi”, y có cái tên thật dài – Âu Dương Hà Thiên Hoàng – Thời còn đi học, “Hoàng mọi” tỏ ra hơn hẳn bạn bè cùng trang lứa, thông minh, đẹp trai, lịch lãm. Là niềm mơ ước của các cô bé mới lớn, biết bao cô thầm thương trộm nhớ, bạn bè mới đặt cho y cái biệt hiệu “Hoàng sát thủ”, tiếng lóng để chỉ cái tài “sát gái”. Nhưng “Hoàng mọi” đặc biệt căm ghét cái tên này, thậm chí đã từng đánh lộn vì có kẻ đã vô tình gọi tên này trước mặt. Tự lập từ nhỏ lại can đảm “Hoàng mọi” luôn chứng tỏ cái bản năng đầu đàn mãnh liệt, cá tính lập dị, ngay cả đến khi đã thành đạt, y vẫn thích mặc cái quần bò rách đầu gối, cái áo thun lá, ngồi quán cóc, uống rượu quốc lủi…y say mê những bộ phim thời đó như “Theo vết chim ưng”, “Những đứa con của gấu mẹ vĩ đại”….lấy một cọng lông ngỗng cài trên đầu cho giống mọi da đỏ, được bạn bè gọi là “Hoàng mọi”, y có vẻ khoái cái tên đó hơn cả. Lớn lên, y xăm dòng chữ “ơn nghĩa chưa tròn sầu vạn kiếp, oán thù chưa trả hận nghìn thu” trên ngực. Trong một cơn say, “Hoàng mọi” nói đời y chịu ơn một người đàn bà, nhưng không bao giờ đáp đền được, có oán thù với một người đàn ông, nhưng cũng không đủ sức để trả thù được. Cái kiểu sống anh hùng, không biết đến ngày mai hiển nhiên đã làm phật lòng không ít đàn anh nên y đã phải sớm từ giã cuộc đời. Danh vọng, tiền tài có là cái gì nếu nó lại mang đến cho người ta một cái kết cục bi thảm..?!
………………………………………….
Tối hôm đó, Tư Gồng kể trên đảo có mấy tay giang hồ nhưng đã rửa tay gác kiếm, quyết tâm tu chí thành người lương thiện, ra sống ngoài này đã hơn chục năm, gặp được Tư Gồng thấy hợp nên kết làm anh em, họ kể cho y nghe tường tận cách mấy tàu lớn đánh hàng như thế nào vì trước đây họ cũng đã từng tham gia.…chuyện này rất đơn giản, khoảng ba bốn tháng một lần, khi tàu lớn về đến hải phận, theo như hẹn sẵn sẽ có từ hai đến ba ghe nhỏ giả làm ghe đánh cá ra cặp sát kết hàng, sau đó chở thẳng về đất liền. Chỉ hôm nào có động thì mới chở ra giấu ngoài đảo “Ma”, nhưng cũng chỉ để vài ngày là dọn đi ngay. Chính vì thế đám buôn lậu mới tung tin ma quỷ để làm dân đảo sợ, không dám ra đó. Hiện giờ cũng chưa biết là băng nhóm nào thường họat động ở nơi này.
-
Sáng hôm sau, lại mướn ghe của ông già Hai Lẹ đi ra đảo “Ma”, ban đầu ông ta từ chối, nói là ra đó nguy hiểm lắm, nhưng năn nỉ mãi cuối cùng ông ta cũng đồng ý với điều kiện là ông ta không lên đảo mà chỉ ở dưới ghe – “theo Qua được biết thì đã có khá nhiều người đã bỏ mạng trên đảo trong hơn mấy chục năm qua, oan hồn họ còn vất vưởng chưa siêu thoát….trên đảo còn có nhiều bí mật gì đó mà lâu lâu cũng có người trong đất liền ra tìm kiếm nhưng về được toàn mạng cũng đã là may rồi, còn dân chài trên đảo nghe nói đến là tránh xa” - Đi khoảng hai tiếng thì ra đến đảo, hòn đảo thật quạnh hiu, trống vắng, chiếc ghe của ông ta là ghe nhỏ nên có thể dễ dàng luồn lách trong các con lạch nhỏ giữa các tảng đá. Trên bờ đầy cát sỏi, các mảnh vụn vỏ sò, ốc rải đầy. Cũng có một vài bụi cây gai um tùm, một vài gốc cây to đã bị đốn ngang còn trơ vơ gốc, hiển nhiên nói hòn đảo này không có người là một sai lầm. Tư Gồng thản nhiên tiến vào đảo, y đã trải qua bao nguy hiểm chết người, hòn đảo này đâu có là gì….
Đảo này hang hốc nhiều thật, đúng là địa điểm lý tưởng để tập kết hàng lậu, ĐHC và Tư Gồng vào thử một vài cái hang ở lưng chừng vách núi, len lỏi qua những trụ đá, nhũ đá xù xì lởm chởm với nhiều hình dạng …. đường đi ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, vách hang thẳng đứng cao vun vút, vào sâu bên trong thấy những hang động này đều thông với nhau, chia đi rất nhiều ngả khi thì chúi xuống lòng đất , khi thì xuyên lên trên cao, đi sâu mãi có thể bị lạc trong mê hồn trận không có đường ra. Có nhiều nơi nhũ đá nhọn lểu như những mũi giáo, không cẩn thận có thể bị đâm trúng đầu hoặc vai, đá trong lòng hang thường rất trơn, không cẩn thận bị ngã là gãy chân tay bị thương như bỡn. Bên trong sâu thẳm tối mờ mờ, có lúc tối đen, sau đó lại bất ngờ chói sáng vì những lỗ đá ẩn hiện trên trần động. Những giọt nước từ những lỗ đá này nhỏ xuống thánh thót từng nhịp, từng nhịp tạo thành những vũng nước nhỏ trong veo như nước tinh khiết, nếu có khát cũng đừng uống vào vì nhiều khi chảy xuyên từ trên xuống nước đã bị nhiễm độc. Nhiều chỗ phát hiện thấy có xương động vật, xác tắc kè, chứng tỏ nơi này trước đây cũng có khá nhiều thú vật nhưng một lý do nào đó đã khiến chúng rời bỏ đảo. Ra bên ngoài, Tư Gồng cẩn thận lấy ống nhòm ra quan sát khắp nơi rất kỹ, sau đó trở ra sát bờ tìm hiểu những vách đá sát bên bờ biển. Các vách đá bị xói mòn theo rất nhiều, đều là những vách đá dựng đứng, xù xì, trơn trợt, một loại dây leo hay là rong gì đó bám dầy. Loại Long tu biển này dài cả hàng vài ba mét, bám vào vách đá chắc còn hơn dây chão, có thể bám vào leo lên cao được, tất nhiên là rất nguy hiểm. Tư Gồng bám vào mấy dây rong, leo lên thoăn thoắt, lên chừng bốn năm mét , y lấy đà, đạp chân vào vách, phóng từ trên đó xuống biển nghe bùm một cái….. ĐHC cũng bắt chước y, leo lên rồi phóng xuống biển nước bao la, mát lạnh, dưới này có khá nhiều đá ngầm, không cẩn thận để đầu đập vào là về chầu ông bà sớm. Lặn chìm xuống thật lâu rồi mới trồi lên, có cái cảm giác như quên hết sự đời. Dưới mặt nước có khá nhiều hang hốc nhưng muốn xuống thì phải chuẩn bị khá nhiều đồ nghề, cũng không cần thiết để làm chuyện này. Gió biển thổi nhẹ làm mặt nước lăn tăn gợn sóng, thư giãn một hồi ĐHC và Tư Gồng lên trên bờ, lúc này chưa dám đi vòng quanh đảo vì nếu có người sống lẩn lút trên này, sẽ dễ dàng bị họ phát hiện. Đang chuẩn bị tiến lên cao hơn thì bỗng thấy Hòa Râu bò ra từ một hang đá, quần áo dính đầy máu, y vẫy tay kêu rối rít…..
-
Cả hai vội chạy lại, Hòa Râu hổn hển nói “có người bắn lén tôi trúng đùi, rút đi ngay, ở đây nguy hiểm lắm”, y đứng lên không nổi, ĐHC vội choàng tay đỡ, Tư Gồng ở phía bên kia cũng vội đỡ y cùng rút ra ngoài ghe. Ông già miền biển thấy vậy thì vội cho ghe luồn lách qua các khe đá chạy đi, Hòa Râu nằm vật ra sàn, hình như y bị thương khá nặng. Quả nhiên khi Tư Gồng giở chân y lên thì thấy một vết thương giống như bị trúng đạn, máu vẫn còn ra khá nhiều. Hòa Râu nói phều phào “tôi với người bạn đang leo lên vách một cái hang thì bỗng thấy người bạn rơi xuống, chưa kịp phản ứng thì đột nhiên thấy nhói ở đùi, biết là có kẻ dùng súng giảm thanh bắn lén, tôi vội buông người chịu đau vọt vào một hang đá, luồn theo lòng hang chạy trốn suốt đêm qua…không thấy người bạn đâu, may mà gặp hai ông ở đây” – ông già Hai Lẹ được dịp nói “Qua nói rồi, hòn đảo này nguy hiểm lắm, ma quỷ, oan hồn lúc nào cũng đầy dẫy…” – Vết thương Hòa Râu tuy không nặng nhưng để lâu nên người bị mất máu, chắc phải chở y về đất liền ngay mới kịp, nếu không nó bị nhiễm trùng thì sẽ nguy đến tính mạng. Tư Gồng không chịu về nữa, y cảm thấy yêu mến nơi này nên muốn ở lại sống ở đây. ĐHC cũng không ngăn cản y làm gì….
……………………………………….
Khi ghé trở lại đảo để cho Tư Gồng lên, phải nhờ y ra chỗ bộ đội biên phòng báo vụ Hòa Râu bị bắn và vẫn chưa tìm thấy người bạn để họ cho lực lượng truy tìm giúp, phen này chắc trung úy Tâm sẽ hết bình tĩnh mà tha hồ chửi um sùm….vì thế sau khi Tư Gồng lên bờ là ĐHC cho ghe chạy tuốt về đất liền.
Mấy hôm sau, ghé vào bệnh viện thăm Hòa Râu thì y đã khỏe lại nhưng vẫn còn phải nằm vì vết thương đã bị nhiễm trùng, phải chích kháng sinh và truyền nước biển một thời gian. Bộ râu quai nón đã được cạo sạch nên nom y trẻ ra cả chục tuổi. Bình thường y bỏ đi biền biệt, nên lúc hoạn nạn thì chỉ có mấy đứa con lo. Do mẹ bận buôn bán nên cô bé Nhật Loan hầu như phải túc trực trong bệnh viện để chăm sóc cha. Tuy mới lớn nhưng đã có một cái rờ-mọoc theo sau, cậu ta tên Văn Thanh Nhã, có vẻ si cô ta quá rồi nên lúc nào cũng có mặt, sai gì làm nấy. Chờ cho hai đứa nhỏ rủ nhau xuống căng-tin uống nước, Hòa Râu mới than thở “ông theo nghề đã lâu nên cũng biết, cái quan trọng đâu phải là kho báu….mà đầu tiên là phải tìm được cái gì cũ kỹ như miếng da, văn thư cổ, bản khắc đồng….có vẽ ngoằn ngoèo như đường dẫn đến kho báu, bản vẽ càng mờ mịt càng tốt, để thuyết phục được một đại gia nào đó, bỏ tiền ra cho mình đi tìm. Ba cái việc đi tìm này thì ngàn vụ cũng chưa được một, may mà đào được mấy cái chum đựng tiền xưa thì còn có lãi, còn kẹt quá thì ra chợ cũ hay chợ lạc-xoong mua đại mấy món đồ giả cổ nào đó mang về chôn xuống, ít tháng sau lại đào lên, biến hóa thành đồ cổ ngàn năm mấy hồi, nếu thua thì cùng lắm là huề cả làng. Không dè lần này xui xẻo, nhằm lúc trên đảo đám buôn lậu đang kết hàng nên bị đụng”. – “thế ông có tìm thấy gì chưa ?” – “có thấy cái con khỉ gì đâu, hơn nửa năm nay tôi quanh quẩn hầu hết mấy cái đảo hoang này, thuộc từng bụi lau, ngọn cỏ, cục đá mà chẳng tìm được cái gì ráo trọi…chỉ bắt được mấy con trăn rừng mang về nấu lẩu…” – Thấy Hòa Râu sợ bị lộ chuyện nên có vẻ không muốn nhắc đến người bạn đi cùng với y và tấm bản đồ đảo “Vương” nên ĐHC cũng không tiện hỏi, ngồi với y thêm một lúc nữa rồi ra về. Khi đi ngang căng-tin thì thấy Nhật Loan đang ngồi một mình, cô ta đang lo nghĩ đăm chiêu cái gì đó, bèn thong thả bước vào, hỏi “chú nhóc đi cùng với cháu biến đâu rồi ?” – “cháu nhờ nó chạy về nhà lấy thêm mấy món đồ rồi” – Nhìn cô ta có vẻ lo lắng, hiển nhiên là mối lo muôn thuở của những gia đình đông con nhưng ít của. Sẵn tiền của Hải thọt đưa hãy còn nhiều, ĐHC liền lấy ra đưa cho cô một ít, cô ta cám ơn, rồi nói “nhà đương lúc khó khăn quá, mấy bữa rày thằng bé Tư lại bỏ nhà đi bụi đâu mất, nếu ba về bán kịp miếng đất để có tiền trả bớt nợ thì cũng đỡ được chút đỉnh, nhỏ em không phải bỏ học giống như cháu…” – Cô ta có vẻ già hơn so với tuổi, hai mắt thâm quầng do bị mất ngủ, thần sắc nhợt nhạt nhưng vẫn toát lên một vẻ đẹp thánh thiện hiếm có. Cô ta nói tiếp “từ lúc ba đi buôn gì đó, lại mượn thêm một số nợ của XHĐ, vừa rồi họ tới nhà làm dữ lắm, lần này vết thương khỏi rồi nếu chưa có tiền trả thì ba cũng không nên về nhà…”. Cô ta nói đến đó thì mắt long lanh ngấn lệ…..xem ra Hòa Râu cũng không đến nỗi vô phước, những đứa con cũng còn biết thương cha lắm. Khác với “Ngọc Ruby” có vẻ đẹp của một người đàn bà trưởng thành, kiêu sa, đài các, có sức quyến rũ mãnh liệt làm người đàn ông trở nên mê muội. Nhật Loan có vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của một thiếu nữ mới lớn, một vẻ đẹp tỏa sáng rực rỡ nhất trong đời của một con người, cái vẻ đẹp của tuổi thanh xuân ấy có thể cảm nhận được trong từng hơi thở, giọng nói, ánh mắt, trong từng cử chỉ đơn sơ nhất….
Ngồi được một lúc thì chú nhóc trở về, chú ta xem cũng khá bảnh, mặt mũi sáng sủa, đẹp trai, đang tập tành yêu nên tỏ ra rất ga-lăng, không nề hà làm bất cứ việc gì mà bạn gái nhờ vả. Ái tình làm người già trẻ lại, còn người trẻ thì lại….già đi, có vẻ chững chạc lên so với tuổi, có thể làm những việc mà bình thường không thể làm được….
-
Hải thọt vẫn ngồi trên cái sập thất bảo như thường lệ, hầu như y đã tiên liệu trước được mọi sự việc, có lẽ Hòa Râu cũng là do y đưa ra không chừng nên y mới biết mọi việc tường tận như thế. Chỉ có chuyện Tư Gồng không chịu trở về đất liền là làm y có phần hơi xao động. Lấy ra cái tẩu thuốc đen nhánh chạm hình cái sọ người thật tinh xảo, nhồi thuốc vào một cách từ tốn, bàn tay cầm tẩu nom thật điệu nghệ. Hải thọt hút loại thuốc “haft and haft” có mùi thơm nhè nhẹ, y bập bập môi và thong thả hút, nhả ra từng làn khói trằng mờ ảo…. ngồi hút như thế một lúc, khi bắt đầu có vẻ say khói thuốc, Hải thọt mới nói “chú cũng biết đấy, anh khuyên biết bao nhiêu mà nó đâu có nghe, đến khi bị người ta hại tiêu tan cả sự nghiệp, phải lãnh cái án mười mấy năm, nếu không có anh lo thì giờ này nó vẫn còn ngồi mà ăn cơm nhà nước, ngủ có lính gác. Vậy mà….nó vẫn không hề nói một lời cảm ơn cho đến bây giờ….anh cũng không cần điều đó, chỉ cần nó sống như thế nào để ông bà dưới suối vàng đừng có buồn…” – Ông bà dưới suối vàng thì chắc không còn buồn được nữa rồi, nhưng Hải thọt mất quân một cách lãng xẹt thì y cũng tức. Ngồi thêm một lúc, hít thêm vài khói thuốc cho hả bớt hỏa đang rực trong lòng, Hải thọt đi vào trong lấy ra một cái hộp, y nói “anh cho chú xem cái này…. bảo đảm chú chưa từng thấy…”
Cái hộp của Hải thọt làm bằng Mã não, bản thân nó cũng đã là một bảo vật. Y từ từ mở cái hộp ra, bên trong tấm nhung đỏ là ba viên trân châu như những quả trứng cút. Y nói “ngày xưa có gì quý báu là người dân phải tiến vua, loại ngọc này có tên Kim long châu hay Ngân long châu, có sách còn viết là Hoàng trân châu, viên nào tròn quay mà nổi vân đỏ thì còn gọi là Ngọc mắt rồng, chỉ các bậc vua chúa ngày xưa mới có”, nói đến đó y cười khì, lấy một viên ngọc lên đưa cho ĐHC, viên ngọc nặng trĩu màu vàng óng, lạnh ngắt thật đẹp lạ lùng, đúng là kỳ trân dị bảo, chưa từng được thấy bao giờ. Hải thọt lại nói tiếp “ những viên ngọc này đều là ngọc giả, Nghĩa Cổ làm ra để bán cho khách nước ngoài, đã bán được cả chục viên rồi đó…”. Nghe y nói thế, ĐHC giật mình kinh ngạc, không thể ngờ những viên ngọc đặc biệt này lại có thể là giả. Mà có được thấy viên ngọc thật bao giờ đâu mà so sánh….?
Hải thọt lại lấy ra trong người một cái bọc nhỏ, mở ra bên trong có một viên ngọc giống y như vậy “đây mới chính là viên ngọc thật” – y nói. ĐHC chăm chú nhìn viên ngọc, nó hơi hơi bầu dục chứ không thật tròn, màu vàng đục, nhìn cũng chẳng biết là giả hay thật – “hiện giờ chỉ có một viên duy nhất, theo như truy tìm thì nguồn gốc của viên ngọc này là từ đảo “Vương”. –
Thì ra là vậy, thảo nào mà Hải thọt không tiếc công sức để tìm kiếm dấu vết của hòn đảo này, có điều y chắc cũng không dại gì mà bỏ tiền ra khơi khơi…..y đâu phải là nhà sưu tầm đồ cổ có cái máu mê sẵn sàng đánh đổi tất cả chỉ để được ngắm nhìn một báu vật, y chỉ chuyên buôn bán và làm đồ giả cổ. Chắc đang có một đại gia nào đấy đứng sau chi tiền cho vụ này. Ván cờ này chưa đánh mà đã chắc phần thắng rồi. Các đại gia cũng đâu có ngu, nếu ngu thì làm sao mà giàu có được, họ thậm chí lại tài giỏi phi thường, chẳng qua là khi thành đạt quá thì người ta trở nên kiêu ngạo, chủ quan, sập phải những cái bẫy tinh vi đến mức không thể tưởng được.
Hải thọt lại dẫn ĐHC xuống tầng hầm, nơi đây cất giấu vô số các cổ vật, cái nào thật, cái nào giả chắc chỉ có y mới biết. Trên một cái bệ, thấy có một pho tượng La-hán bằng sa thạch đen sì ửng lên ánh tím lấp lánh, pho tượng này thật sắc sảo, thể hiện một trình độ điêu khắc tuyệt kỹ, diễn tả một vị La-hán có râu, hai tay phạch áo, trên ngực lại nổi lên hình một vị Phật. Nhớ đến ngôi chùa ở trên đảo ngày xưa còn gọi là chùa La-hán, không lẽ pho tượng này chính là ở ngôi chùa đó ? Thấy ĐHC cứ trầm ngâm suy nghĩ, Hải thọt nói “nếu anh không mua pho tượng thì nó cũng rơi vào tay kẻ khác, thậm chí bây giờ đã bị mang ra nước ngoài rồi…đến một lúc nào đó anh sẽ đưa pho tượng về lại đúng vị trí của nó”. Không phải ngẫu nhiên mà Thích Kỳ Lân lại có thể sống ung dung ở một nơi hoang sơ như vậy, nơi đây có mấy phật tử cúng dường? mà ông ta có thể nuôi mấy người đàn bà, ba bốn đệ tử, cả chục chú tiểu, ngày ngày phủ phê nhậu nhẹt….Người đã mang pho tượng này ra đảo có thể chính là nhà sư đã mất, ông ta là ai vậy….là thầy tu từ trước hay đến lúc ra đảo mới xuống tóc quy y, xa lánh bụi trần?
ĐHC lấy mảnh giấy ghi lại lời ru của bà già đưa cho Hải thọt, y chăm chú xem rất kỹ. Sau đó cứ đọc đi đọc lại mãi, bỗng y vụt nói “Hòa Râu thật là sai lầm, đã bỏ sót điều quan trọng này…”, y săm soi một lúc, sau đó lại quay ra nhìn bức tượng La-hán, bỗng nhiên y nhìn ĐHC chằm chằm, trong khoảnh khắc, bất giác cả hai như cùng lóe lên một suy nghĩ và không dám nói ra điều đó….
-
Cuối cùng thì “Ngọc Ruby” cũng cho một cái hẹn, có điều không phải ở nhà hàng hay quán bar mà lại là ở ….một ngôi chùa….
6 giờ sáng đến nơi mới hiểu tại sao,….tưởng là đến sớm ai dè giờ này sân chùa đã đông người rồi, những người ở đây đều là những người chơi chim kiểng. Ngôi chùa này có một cái sân thật rộng, thật mát, hàng trăm cái lồng chim được treo khắp nơi, tiếng chim hót vang lừng rộn rã. ĐHC chọn một cái bàn gần ao sen để ngồi, sáng sớm mà được ngắm sen, nghe chim hót thì đúng là Thiên đường. Những cánh lá sen còn đọng nhiều hạt sương sớm lung linh như những hạt ngọc, một vài bông sen còn e ấp, một vài bông đã nở rộ khoe những cánh hồng phơn phớt với nhụy hoa màu vàng rực. Cả một hồ sen mênh mông thơm ngát…..
Những con chim được nuôi ở đây chủ yếu là họa mi, chích chòe, sơn ca, yến phụng…. những người chơi chim cặp mắt người nào cũng sáng rực, say đắm nhìn những com chim đang líu lo hót. Hàng trăm giọng chim trầm, bổng, véo von hòa vào nhau như một bản nhạc. Những con chim vẫy đuôi, xòe cánh, giọng hót thanh tao, lảnh lót là được ngưỡng mộ hơn cả. Chủ quán cũng là một người chơi chim, anh ta đang chăm sóc một con chim rất đặc biệt là con chim hút mật. Con chim này màu nâu nhạt, chỉ nhỏ bằng ngón tay út, nhảy tanh tách trong chuồng không lúc nào ngưng nghỉ. Nhìn cái cách anh ta săn sóc con chim mới thấy nó công phu, tỉ mỉ như thế nào, không có niềm đam mê thì không bao giờ có đủ kiên nhẫn để làm được…Chính vì thế những người chơi chim còn trẻ phần lớn đều độc thân hoặc là dân đồng tính có cùng niềm đam mê săn sóc chim quý.
Không lẽ “Ngọc Ruby” cũng có cái thú chơi tao nhã này ? Quả nhiên khi cô ta đến trên tay cũng có một cái lồng chim thật, có vẻ cô ta cũng hay đến nơi đây nên khá nhiều người gật đầu chào hỏi. Cô ta chủ động mời ĐHC uống nước, ăn sáng….. được một người đàn bà đẹp mời ăn, mời uống thì xem ra…tai họa sắp đến nơi rồi. Hôm nay cô ta trông thật giản dị, không phấn son trang điểm….nom cô lại càng đẹp gấp bội phần. Cô ta nói “Tinh thần em luôn bất an nên em tìm đến thú chơi này để thư giãn những khi rảnh rỗi”. Cô ta là mẫu người tiêu biểu của một nữ doanh nhân thành đạt, nhưng cô ta không lên mặt đàn chị, cũng không ngạo nghễ coi thường đàn ông….hay căm thù họ, mà lại cố che dấu cái dáng vẻ buồn buồn….cái vẻ của những người đàn bà thành đạt về sự nghiệp nhưng lại thất bại về tình cảm. Nhưng “Ngọc Ruby” thì không phải mẫu người có thể thất bại trong tình yêu, cô ta quá đẹp, quá hiểu biết….lại có cái giọng khàn khàn….cái giọng nói có thể làm người đàn ông….buông súng đầu hàng. Cô ta nói “ khi em còn nhỏ bố mẹ em đã ly dị, mỗi người mỗi ngả, em về sống với bà ngoại. Khi bà mất thì em qua bên Nga với anh Hoàng, anh ấy lo cho em tất cả….Sau vụ đó em chỉ kịp mang tro của anh về nước, bỏ lại tất cả, sau hơn mười năm ra đi, khi trở về tay trắng vẫn hoàn tay trắng, lại mất thêm người mà mình yêu quí nhất…”. Không lẽ lại nói với cô ta rằng ít nhất cũng còn một hũ tro để mang về đã là may mắn hơn nhiều người khác rồi. Trong cái buổi sáng vui tươi này mà lại nói về những chuyện buồn thì có vẻ không phù hợp mấy. Có điều trong khi không biết về cô ta bao nhiêu thì cô ta lại có vẻ hiểu rõ về ĐHC. Cô ta lại cố tạo ra cái vẻ quyến rũ, tạo ra sự thân tình, cô ta thăm dò như vậy, tìm hiểu như vậy để làm gì? Chắc không phải là do ý của Trịnh Cao Nhân rồi, họ Trịnh đâu cần phải làm thế….Nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, hết chuyện hoa lan đến chuyện chim cảnh, cuối cùng cô ta bỗng nói nho nhỏ “em chỉ muốn biết trong hai người bọn họ, Trịnh Cao Nhân và Trịnh Cơ Đồ ai là người đã ra lệnh giết anh Hoàng”.
-
“Oán thù nên cởi không nên buộc” – điều này rất dễ nói ra đối với những ai chẳng có oán thù gì cả. Còn với kẻ chất chứa trong lòng bao oán hận thì thật là vô cùng khó – “Ngọc Ruby” phải chăng là đang muốn trả thù, điều này có lẽ cũng không đúng lắm, cô ta chắc là đang yêu Trịnh Cao Nhân thì đúng hơn….họ Trịnh đã có vợ rồi, nhưng với típ người như “Ngọc Ruby” thì điều đó đâu có gì là quan trọng ? Cô ta bất chấp tất cả để làm việc, để thành đạt thì cũng bất chấp tất cả trong tình yêu, đó là kiểu người được xem là hiện đại, mạnh mẽ, thông minh và dũng cảm. Hơn nữa Trịnh Cao Nhân không phải là đang si mê cô ta hay sao ? Y đã hùng mạnh lắm rồi, đã có trong tay hàng ngàn mẫu đất, cả chục cái biệt thự trên khắp mọi miền đất nước, có tài khoản ở nước ngoài, năm bảy công ty, hàng trăm nhân viên, đệ tử….Chưa kể các mối quan hệ tầm cỡ, vì thế nếu muốn y có thể bỏ cô vợ già mấy hồi, hơn nữa anh hùng thành đạt như họ Trịnh thì việc có vài ba vợ, năm bảy cô bồ nhí là chuyện quá thường tình, thậm chí cần phải có để thể hiện đẳng cấp đại gia của mình ấy chứ. Nếu Trịnh Cao Nhân mà là kẻ đã ra lệnh giết “Hoàng mọi” thì……đó là điều mà cô ta lo sợ nhất. Trái tim bao giờ cũng có lý lẽ của nó, nhiều khi nó chẳng tuân theo một qui tắc nào cả, thậm chí nó còn đi ngược lại với lý trí, là cái vòng khổ ải trầm luân của con người…
Nhưng các bố già khi muốn “xả thịt” một ai thì họ đâu có điên mà lại nói rõ ra cho thiên hạ biết, họ chỉ nói nhẹ nhàng “cái thằng A đó anh không muốn nhìn thấy nó nữa” hoặc “ thằng B nó chẳng còn coi ai ra gì, các chú có cách gì giúp anh với” thì các đệ tử thân tín tất nhiên là quá hiểu. Một lời nói vu vơ đâu có là cái gì…? Gió thổi còn bay cả tòa nhà huống hồ một lời nói….vì thế câu hỏi của “Ngọc Ruby” thật là khó trả lời, hơn nữa Trịnh Cơ Đồ bây giờ đã biến đâu mất đến cảnh sát quốc tế còn tìm không ra, thì cứ tin y là kẻ chủ mưu thật sự đi….bao nhiêu tội lỗi dồn hết cho một người, cho họ xuống đến tầng địa ngục thứ chín là hết rồi, muốn xuống đến tầng thứ mười thì cũng không có….vì thế kẻ có tội thì lại càng thêm tội, còn kẻ “sạch sẽ” thì lại càng thêm sạch, lại càng nhập vai “đạo cao đức trọng – nhân tài thế kỷ”, lại càng có dịp để thể hiện khiến các em cứ mở to đôi mắt mà nhìn ngây ngất….
“Ngọc Ruby” hình như cũng không chờ đợi câu trả lời…câu trả lời có lẽ đã có trong đầu cô ta rồi, cô ta chỉ muốn bộc bạch tâm tư của mình với một người nào đó…..một người đã từng quen biết, một người bạn của “Hoàng mọi” thì càng tốt, để sau này nếu có điều tiếng gì thì có thể nói “em đã hỏi ý kiến nhiều người rồi đó chứ…”. Có lẽ đó là một tình yêu thực sự không chừng, vì thế hôm đó “Ngọc Ruby” thật là vui vẻ, cô ta như cởi được tấm lòng, nhìn thấy mùa xuân sáng bừng lên nét mặt…. ĐHC đâm ra cũng vui lây, mà không vui sao được khi xung quanh ngập tràn tiếng chim hót líu lo, sen nở đầy hồ, làn gió thổi hây hây mang theo hương thơm ngào ngạt không biết là từ hoa sen hay là từ mái tóc của người đàn bà đang yêu với nụ cười rạng rỡ……
-
Lần thứ hai này ra đảo thì lại đi cùng với Ba Già, y là một con người thật lầm lỳ, ít nói…mà khi nói chuyện thì lại hết sức khiêm cung, lễ độ. Đó đúng là cung cách của một tay giang hồ thời kỳ trước, lúc nào cũng tỏ ra đàng hoàng, nhưng nếu đụng chuyện thì sẵn sàng chơi dữ, chơi đẹp hơn bất cứ một tay chơi thuộc hàng mới nổi nào. Đã từng sống qua mấy thời kỳ, mấy chế độ….quen biết với nhiều đại ca khét tiếng một thời….Y sống sót được đúng là nhờ thời thế, nhờ phần số còn sáng lắm, bây giờ về với Hải thọt như tay mặt tay trái, chuyện lần này có phần quan trọng lắm nên Hải thọt mới phải cho y đi. Cái dở của y chính là các hình xăm tùm lum trên người, rất dễ bị hình sự để ý, vì thế y phải mặc cái áo sơ mi cài kín cổ, tay áo cũng phải phủ xuống đến tận cổ tay để nhìn thật là lịch sự.
Lần này không đến nỗi say sóng như lần trước, ĐHC mơ màng nhìn ra biển rộng, từng đàn chim hải âu bay lượn trên những con sóng nhấp nhô….xa khơi sao đẹp quá, không hiểu lại phải bon chen để làm cái gì…âu cũng là số mệnh. Chợt nhớ đến Hải thọt, y thông minh thật, không phải ngẫu nhiên mà y trở nên giàu có hơn người….y chỉ ngồi nhà mà cũng có thể nhìn ra những sự việc mà kẻ đi đến tận nơi như Hòa Râu cũng không nhìn thấy. Hôm đó, lúc ở dưới tầng hầm, ĐHC đã phải cố giả vờ như không biết gì mà y thì cứ nhìn soi mói….đúng là đưa bài ca cho y là sai lầm, nhưng không đưa cũng không được vì y là chủ xị chuyện này, để y đánh giá sai dẫn đến chết chùm cả đám thì cũng không được. Giữa ĐHC và Ba Già không biết y tin tưởng ai hơn ? có lẽ là Ba Già rồi, vì nếu không y đã để ĐHC đi một mình, cần gì phải phái thêm Ba Già cho tốn thêm tiền của mà nhiều khi lại lộ chuyện ?
Ba Già có thời kỳ sống ở Côn Đảo nên chuyện đi biển, chuyện ra đảo đối với y không có gì xa lạ. Lên đến nơi, đặt chân lên đảo có cảm giác như Ba Già trở về chốn cũ, như hổ trở về rừng, y hòa nhập vào thiên nhiên, hòa nhập vào con người thật dễ dàng. Để y ở lại chuyện trò với mấy dân chài, ĐHC tranh thủ vọt lên trên chùa, đi lên đến nơi thì thấy Thích Kỳ Lân đang ngồi với một người, nhìn thấy người này bất giác ĐHC giật mình, không ngờ ông ta cũng đến tận nơi xa xôi này….? Ông ta mặc bộ đồ bà ba trắng, đầu búi tó củ hành, gương mặt dài, mũi cao, hai lỗ tai dài thượt, bộ râu bạc như cước. Cái khăn rằn và cái nón lá để trên bàn ngay cạnh. Ông đang thong thả vấn thuốc hút.
ĐHC thấy ông ta thì tính bước lui xuống nhưng không kịp nữa, ông đã kịp nhìn thấy, liền nói “thấy rồi sao lại còn tính rút đi, lại đây qua có việc muốn nói với chú”. Ông ta nói “lúc nãy qua có gặp Tư Gồng, nghe y nói chú bây giờ về làm với Hải thọt…?” vừa nói ông ta vừa vấn thuốc, loại thuốc rê ba số chín có mùi thơm nồng nhưng rất nặng, bập bập môi một lúc rồi sau đó mới châm quẹt đốt – “Lâu lắm mới gặp thầy, không dè thầy cũng xuống tận nơi heo hút này?” – “chú chắc đâu bao giờ nghĩ là qua có ngày lại phải lặn lội xuống tận nơi này….?” Ông ta xuống đây chắc chắn là vì cái người đi cùng với Hòa Râu, thảo nào mà y cứ dấu mãi không dám nói…Hòa Râu đúng là liều mạng bất chấp tất cả, việc gì y cũng dám làm, đến con của trưởng giáo một xứ y cũng dụ dỗ đi tuốt luốt. “Đương liều”, nội cái tên cũng đủ nói lên con người này, tại sao người cha đạo cao đức trọng như vậy lại sinh ra một người con “bán trời không văn tự” thì thật là không hiểu nổi. Thảo nào mà vợ Hòa Râu mới nhìn mà đã không có cảm tình với “Đương liều”, cảm giác của phụ nữ vẫn thường hay đúng. Cũng chưa gặp Tư Gồng nên không biết số phận “Đương liều” như thế nào, y chắc là kẻ đã bị rơi xuống theo như lời Hòa Râu kể. Nếu biết có ông già đang ngồi trên núi thì ĐHC đâu có dại gì mà lại vọt lên đây ngay, đúng là khởi đầu đã có vẻ bất lợi rồi.
-
Lại nói sơ về “Đương liều”, là con một người nổi tiếng, trưởng giáo một xứ…Nơi ở là một căn nhà ba gian to vĩ đại, nhà chính trang trọng để cái tủ thờ cẩn ốc xà cừ với bộ lư cổ bằng đồng vô giá, mấy bộ liễn với mấy cái cột nhà bằng gỗ quý to sụ, chạm trổ cầu kỳ….có bộ tràng kỷ quý giá và mấy bộ ván ngựa dầy cộp, buổi trưa nằm mát còn hơn nằm máy lạnh. Đằng trước là cái sân rộng mênh mông với đủ loại cây kiểng quý giá, một hàng mấy chục gốc mai cổ thụ khi tết đến nở một màu vàng rực, thêm hàng trăm mái vú đủ để hứng nước mưa dùng cho cả ngàn người, mỗi lần tiệc tùng đám giỗ là cả làng kéo đến, nhiều khi mần cả con bò, năm bảy con heo, gà vịt cả trăm con mới đủ. Phía sau là mấy cái ao nuôi cá, ruộng cũng nhiều khi đến mùa thuê cả trăm người mới đủ làm. Lại có cả mấy chiếc ghe chài loại lớn chuyên chở hàng mướn, có cả nhà máy xay xát gạo thời đó thì đúng là bậc nhất rồi, vì thế nên y ăn chơi nổi tiếng, đúng típ công tử Miền Tây, xài tiền ngắt khúc chứ không thèm đếm….y lại có cái máu liều, hết tiền thì lại chôm đồ nhà, có lần nguyên một ghe gạo của mối quen chở tới để xay xát y lấy mang bán tuốt làm lần đó ông già phải đứng ra xin lỗi và đền bù tất cả. Chôm đồ nhà không đủ, “Đương liều” còn mó máy các nơi nên bị “tó” phải vào bóc lịch khiến lần đó ông già cũng phải đứng ra lo liệu…tất cả cũng là vì bà già, nhà chỉ có một đứa con nên bà thương quá, cái gì cũng cưng, cái gì cũng chiều, mới mười bảy tuổi đã làm con gái người ta có bầu nên phải cưới….cưới được ít tháng lại bỏ, lại bắt bà già đi hỏi đám khác…thế mà bà già cũng chiều được mới kỳ chớ. “Đương liều” xài tiền như rác để cua mấy em như thế chưa oách, y còn muốn làm anh hùng trước mắt mấy người đẹp miệt vườn nên cũng thích có võ công cái thế để khoe khoang với mọi người. Nếu học võ bình thường như Thiếu lâm, Thái cực đạo v.v….thì cũng phải mất cả chục năm khổ luyện may ra mới thành cao thủ, y đâu đủ kiên nhẫn để làm chuyện đó…..y mò tuốt ra vùng Bảy núi tìm thầy học “Thất Sơn Động Thần Quyền”, học bùa ngải trong vài năm rồi trở về biểu diễn….ba cái vụ chặt gạch, nhai miểng chai, bóng đèn, dùng nhang khoán trị sưng trật, giời leo…..làm cho bà con lác mắt, các em tha hồ thán phục. Người tuy gày gò nhưng khi niệm chú, lên gồng “Đương liều” đánh cũng tưng bừng, có lần trong cuộc hỗn chiến với đám thanh niên xóm khác, y đấm trúng phải cây dừa làm cái cây nghiêng hẳn một bên…vụ đó đâm ra làm y trở nên nổi tiếng, được các chiến hữu ca tụng ngất trời bên bàn nhậu.
Ở miền Tây khi nhậu họ lấy một cái chậu to tổ chảng, chặt chừng năm trái dừa đổ vào, sau đó đổ thêm chừng năm bảy lít đế gọi là “nước mắt quê hương”. Uống thứ rượu pha nước dừa này say hết biết, có khi đi qua cầu tre không nổi té xuống sông bỏ mạng như chơi. “Đương liều” còn nghĩ ra chiêu độc hơn nữa, y chọn một cây dừa nào thật tươi xanh, trái nhiều, làm gốc thật sạch, sau đó dùng len đào sâu xuống xung quanh gốc. Chọn ngày thật nắng ráo, mua vài chục can rượu về để….tưới đẫm gốc dừa, sau vài ngày những trái dừa ở trên cây trở thành những trái “dừa rượu”, mang xuống uống vừa là nước dừa, vừa là rượu ngon vô cùng. Sau khi hái hết trái thì hạ luôn cây dừa để lấy “củ hủ” làm gỏi với khô cá sặc, tụ tập chiến hữu tha hồ “đánh chén”. Quanh năm suốt tháng y nhậu nhẹt, đá gà, đánh lộn, gái gú tiêu hết không biết bao nhiêu là tiền của ông già, vì thế y gặp Hòa Râu thì như cá gặp nước, như rồng gặp mây, cả hai bàn tính đủ thứ chuyện. Hòa Râu thì đang cần một công tử nhà giàu trẻ tuổi chơi ngông để “có đồng ra đồng vào”, còn “Đương liều” thì sau từng ấy năm tiêu tiền của cha mẹ thì cũng muốn “đánh quả” kiếm vài cục tiền bự để nở mày nở mặt, cho em út thấy đại ca ngoài cái tài ăn chơi thì cũng kiếm tiền được như thiên hạ chứ đâu có thua ai.
Vì thế mà hôm nay ông già phải lặn lội lên tận đây để tìm thằng con phá của. Chắc Tư Gồng cũng giấu biến chuyện nên ông ta cũng chưa biết gì, vẫn đang ở trên này để chờ. Có ông ta, Thích Kỳ Lân đâm ra rụt rè không dám ăn to nói lớn như trước, còn ĐHC thì ngồi một lát rồi cũng nhanh chân biến luôn xuống dưới, về đến làng chài thì gặp Tư Gồng, y ghé tai nói nhỏ “trung úy Tâm tử nạn rồi, bên biên phòng họ đang làm lễ truy điệu….mình qua bển viếng đi…”.
-
Trên đường đi mới hỏi về chuyện “Đương liều”, Tư Gồng lắc đầu nói “bên biên phòng họ có cho một đội mười mấy người qua bển tìm nhưng không có gì, vừa rồi họ lại qua một lần nữa thì có chuyện của Trung úy Tâm, phen này tình hình căng rồi…” – Tình hình quả nhiên không còn được như lúc trước, ông già Hai lẹ đi đầu, ĐHC, Tư Gồng, và mấy người dân chài nữa cùng vào làm lễ viếng….chiếc quan tài để ở giữa hội trường, bên trên trùm lá cờ tổ quốc…di ảnh chân dung trung úy Tâm còn rất trẻ…không ngờ mới gặp anh ta đây, còn rất khỏe mạnh, vui tươi là thế, bây giờ đã hóa thành người thiên cổ…. không khí trong hội trường thật trầm lắng, điệu nhạc “hồn tử sĩ” từ một cái cát xét nghe thật buồn bã….có khá nhiều sĩ quan ở đây, truy điệu xong họ sẽ đưa quan tài về đất liền.
Quay trở lại cái quán nhỏ của bà cụ già bên làng chài, cả bọn ngồi im lìm, lần này đúng là quá bất ngờ, không thể tính được gì, thượng sách là nên quay trở về, chờ tình hình lắng dịu rồi mới quay ra lại…để Tư Gồng thăm dò xem nguyên nhân cái chết của trung úy Tâm, dấu vết của “Đương liều” rồi mới tính tiếp….còn ông già trên chùa mới là khó, nói thật với ông thì cũng không được, mà không nói gì thì lại càng không đúng, có mấy người đệ tử đi cùng với ông ở làng chài bên cạnh, đành phải qua nói khéo với họ khuyên ông già nên trở về rồi thong thả hẵng tìm tông tích “Đương liều” sau, thật đúng là “họa vô đơn chí”.
Thực ra chuyến đi này, không cần phải thăm dò về băng Sông Đông nữa, đường đi nước bước của nhóm này Hải thọt đã rành sáu câu rồi…..chỉ có điều y điều nghiên như vậy thực chất là để làm gì thì chưa biết rõ, lơ mơ trở thành con chốt thí của y thì cũng oan mạng. Hải thọt cũng không phải típ coi mạng người như ngóe, y chỉ chuyên tâm chuyện làm ăn, hết cách rồi thì y mới tính đến những chuyện có phần bạo lực, nhưng cũng rất né tránh để không đụng chạm đến chính quyền. Báu vật khi chưa đưa vào bảo tàng, chưa nằm trong khu qui họach bảo tồn, còn nằm đâu đó dưới lòng đất, dưới biển khơi thì việc tìm thấy đâu phải là phạm pháp, thậm chí thế giới người ta còn khuyến khích nữa là…còn có cả những công ty tư nhân chuyên làm những chuyện như trục vớt, đào tìm đó chứ. Hôm ấy ĐHC và y cùng nảy ra một ý nghĩ, đó là vì cái bản đồ….thực ra có thể nó chẳng là gì cả, nó chỉ là sự đánh lạc hướng, sự ngụy tạo, “đảo Vương” có thể chính là cái hòn đảo trù phú này, cần gì phải đi đâu tìm cho xa xôi… Cái ngôi chùa đó, cái bài ca đó, pho tượng La-hán và cả ông sư đã mất không phải đã nói lên điều đó hay sao ? chỉ cần tìm ra được tông tích nhà sư đó là ai thì mọi việc có thể sẽ rõ…còn những hang động trên đảo cũng cần phải xem lại hết vì Hòa Râu đã bị tấm bản đồ đánh lạc hướng, có thể y chỉ xem xét đảo này một cách hời hợt, bỏ qua nhiều thứ.
-
Trên đường trở về, khi đến đất liền, ĐHC cùng với Ba Già vào một cái quán nhỏ, ngồi uống vài xị, ăn tô cháo cá để lấy lại tinh thần. Uống được vài ly bất giác Ba Già nói “Cần phải tránh xa những người đàn ông yếu đuối….” – “vì sao ?” – “Trong hoàn cảnh bình thường thì họ rất bình thường, thậm chí lại dễ thương nữa là khác…nhưng trong những lúc khó khăn, khốc liệt, theo bản năng sinh tồn họ sẽ trở thành những kẻ thâm hiểm….điều này rất nguy hiểm cho cộng sự của họ…” – ĐHC chăm chú nhìn Ba Già, gương mặt y lạnh lùng, trơ cứng như cục đá, nhưng đôi mắt thì lại rất linh động. Y đã sống qua mấy chế độ, mấy thời kỳ, đã từng bị bầm dập, kinh nghiệm chiến trường vô cùng dày dặn, tự nhiên y nói điều này không phải là không có lý do – “ý anh muốn nói là…..” – “cần phải cảnh giác với Hòa Râu….coi chừng y không nói thật…”
Hòa Râu hình dong to lớn, mặt vuông, râu rậm mà Ba Già lại cho y là yếu đuối ? Suy cho cùng thì y bỏ bê gia đình, hết theo người đàn bà này đến người đàn bà khác, nhiều khi sống dựa dẫm vào họ….một kẻ mạnh mẽ sẽ không làm thế - Ba Già lại nói tiếp “Đương liều đã phải trả giá….còn chú hãy coi chừng đó, anh thương chú nên mới nói…” – ĐHC uống hết ly rượu, cảm thấy có vị đắng đắng trong miệng, bất giác lại rót thêm một ly nữa – “ông già lặn lội ra tận nơi đây không lẽ chỉ vì thương thằng con ?” – “hình như ông ta đã từ con mấy lần…tất cả cũng vì bà già.” – “cần phải xét kỹ điều này, khả năng là “Đương liều” đã lấy đi cái gì đó nên ông ta mới phải cùng mấy đệ tử truy tầm theo như vậy…” – Ba Già không nói gì nữa, y móc ra một điếu xì-gà to tổ bố và thong thả hút, nhả ra từng vòng khói trắng cuồn cuộn. Cũng giống như Hải thọt, trong lúc hút y không bao giờ nói gì cả - Xem ra đã có hai người chết rồi, kẻ tiếp theo sẽ là ai nữa….?, ăn hết tô cháo, tính tiền xong chuẩn bị đi thì bất ngờ thấy từ một con hẻm bên cạnh có mấy người dìu ra một cô gái, cô ta đi lảo đảo, hai mắt trợn trắng, miệng nói lảm nha lảm nhảm, hình dong tiều tụy, nhìn giống y như là bị ma nhập….
Không ai bảo ai, ĐHC và Ba Già bất giác cùng tiến sát đến bên cô gái, lắng nghe cô ta nói lảm nhảm những gì. Cô gái hai con mắt như đờ dại, miệng nói nhảm “….cầu Bình Triệu……cầu Bình Triệu……”, con ma nhập này có vẻ hiền chứ nếu là con ma dữ thì đã hất văng mấy người nắm giữ từ lâu rồi. Cô ta có nước da tai tái, trán và cổ nổi gân xanh, mồ hôi tuôn đầm đìa, hai tay trầy xước hết cả, chắc là bị con ma nhập hành dữ lắm nên thân thể mới ra như vậy. ĐHC thử hỏi mấy người xung quanh “cô ta bị làm sao vậy…?” – một bà sồn sồn cũng đứng xem nãy giờ nói “con nhỏ này bị ma nhập hoài hà, nghe nói cách đây mấy năm nó có lên SG làm mướn ở cầu Bình Triệu với một đứa nữa, con nhỏ kia vì sao đó nhảy cầu tự tử….con này từ khi trở về lâu lâu lại lên cơn như vầy” – “thế họ đưa cô ta đi đâu…?” – “họ đưa nó đến nhà Cậu Tư để Cậu làm phép trục con ma”. Bà ta nói tiếp “Cậu Tư pháp thuật rất cao mà trục mấy lần con ma này vẫn chưa chịu đi hẳn, chắc là do nhà con nhỏ này nghèo nên cúng lễ không đủ…”