-
CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI
NỮ HOÀNG VÕ TẮC THIÊN
Triều đại nhà Đường dưới thời Hoàng đế Võ Tắc Thiên ở vào thời kỳ cực thịnh, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa. Võ Hoàng đế yêu thích và quan tâm tới thi, ca, nhạc, họa... nên văn học, sử học đạt nhiều thành tựu to lớn.
Đích thân bà triệu tập các nhà Nho có tên tuổi soạn thảo nên bộ “Đại Bách khoa toàn thư” đầu tiên trên thế giới, và rất nhiều bộ sách đồ sộ, có giá trị về văn học, sử học, luật pháp...
Bà còn là tác giả của nhiều bộ sách quý, như “Thủy cung tập” 100 quyển và “Kim luân tập” 10 quyển, “Thần quỹ – Phép tắc của bề tôi”, tổng cộng 10 chương, trong đó 2 chương “Liêm khiết” và “Lợi nhân” nhấn mạnh “Cái gốc của việc dựng nước tất ở nông dân”. Bà cũng tự chế Đại nhạc, đã từng dùng 900 vũ công biểu diễn.
Chế độ thi cử dưới thời Hoàng đế Võ Tắc Thiên cũng có nhiều cải cách. Khoa cử có thêm môn Võ và chế độ thi “Điện thí” do đích thân nhà vua chủ trì khoa thi trước điện rồng. Bốn triều sau đó là Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều kế tiếp duy trì chế độ khoa cử do bà khai sáng. Có thể thấy nhãn quan của Võ Tắc Thiên nhìn rất xa, khó có ông vua nào trước đó theo kịp.
Sử sách Trung Quốc đã ghi chép rất nhiều về Nữ hoàng Võ Tắc Thiên. Xung quanh vấn đề công, tội của bà cũng tồn tại nhiều ý kiến trái ngược. Ngay cả tấm bia mộ “không chữ” của bà trên núi Lương Sơn – ngọn núi lưu giữ 18 lăng mộ của các Hoàng đế Đại Đường, cũng gây nhiều tranh cãi cho người đời sau.
Chuyện kể rằng: Một trong những di huấn để lại trước khi qua đời là trên mộ bà chỉ dựng một tấm bia không chữ. Lý giải điều này, bà nói: Trẫm là minh quân hay hôn quân, công trẫm tội trẫm thế nào ? Hãy để người đời và hậu thế phán xét. Để cho mấy bề tôi của trẫm khen chê thì chỉ là làm nhục trẫm mà thôi !
Tấm bia mộ có một không hai trong lịch sử này cao 7,53m, rộng 2,1 m, dày 1,49 m, nặng 98,84 tấn, nhưng không có một dòng chữ nào khắc trên đó, chỉ khắc 8 đầu rồng quấn vào nhau biểu hiện quyền uy tối thượng của Nữ hoàng đế. Hai bên thân bia khắc hai con đường dài 4,12m, rộng 0,66m.
Trên con đường đó chạm một con tuấn mã và một con sư tử đực thần thái uy nghiêm...
-
BÀN THÊM VỀ VÕ HẬU
BÀN THÊM VỀ VÕ HẬU
1- Công cụ là công cụ
Dưới thời cai trị, Võ Hậu lập ra Cảnh sát mật để đối phó với mọi âm mưu chống đối có thể nổi lên. Lai Tuấn Thừa được chỉ định đứng đầu cỗ máy đó với chức danh ngự sử trung thừa. Tuấn Thừa được thể, coi trời bằng vung, làm nhiều điều bạo ngược. Năm 692, Lai Tuấn Thần câu kết cùng Võ Thừa Tự ngụy tạo chứng cứ để vu cáo Địch Nhân Kiệt cùng các quan viên khác như Nhâm Trí Cổ, Bùi Hành Bản, Thôi Tuyên Lễ, Lư Hiến, Ngụy Nguyên Trung, Lý Tự Chân.. có âm mưu làm phản. Nhưng trời xanh có mắt, Tuấn Thần và đồng bọn không thể một tay che trời. Hơn thế nữa, một khi các thế lực chống đối đã được dẹp yên, Võ Hậu đã cho xử tội tên đồ tể tàn bạo ấy. để lấy lòng bá tánh.
2- Đồ chơi là đồ chơi
Tăng Hoài Nghĩa được Võ Hậu đưa vào cung làm trò tiêu khiển, sau những giờ căng thẳng bởi chính sự. Công bằng mà nói, Hoài Nghĩa cũng có công trong việc giải khuây cho bà. Bà yêu nó lắm. Nhưng Hoài Nghĩa không biết thân phận mình chỉ là đồ chơi cho người, y còn lên mặt. Gặp quan tể tướng Tô Lương Tự, y không thèm chào. Tô Lương Tự nổi giận, sai người vả mặt Hoài Nghĩa. Nó bèn vào mách với Võ hậu, đòi xử tội Lương Tự. Nhưng đã bị Võ Hậu mắng cho một trận: “Nhà ngươi chỉ giúp ta thư giãn phút chốc, còn quan Tể tướng lo việc cho ta cả ngày, sao ngươi không biết kính trọng hiền thần của ta ?” .
Lẽ ra, sau lần đó Hoài Nghĩa phải biết nhìn lại mình, nhưng xuất thân vào hàng ít chữ, y không hiểu được điều ấy. Cuối cùng thấp cơ thua trí đàn bà. Được Võ Hậu bật đèn xanh, Thái bình công chúa đã đưa y vào bẫy, và sai thị nữ đập chết.
Theo vết xe của Tăng Hoài Nghĩa, hai anh em Trương Xương Tôn và Trương Dịch Chi, cậy thế được Võ Hậu cưng chiều, chúng vênh váo, không coi ai ra gì. Cuối cùng đã bị tể tướng Trương Giản Chi lập mưu tiêu diệt,
-
CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI
CHUYỆN DỨT DẢI MŨ
Một hôm, Sở Trang Vương thết tiệc các quan, cung phi cũng tới dự, mọi người uống rượu, múa hát sôi nổi. Khi đến chập tối, các quan thần vẫn không muốn ra về, Sở Trang Vương liền ra lệnh đốt nến, tiếp tục vui chơi. Sở Trang Vương mời hai người phi được chiều chuộng của mình là Hứa Cơ và Mạch Cơ đi chúc rượu các quan. Bỗng dưng một cơn gió lốc làm tắt nến, mọi người ở trong cảnh đêm tối. Lúc này, cung phi Hứa Cơ cảm thấy có người kéo tay mình liền nổi khùng giật đứt chiếc dải trên mũ của người ấy, rồi trở về bên cạnh nhà vua và nói: " Lúc nãy có người trêu ghẹo thiếp, thiếp giứt được chiếc dải mũ, lát nữa thắp nến đại vương xem mũ ai không có dải thì luận tội y". Nào ngờ, Sở Trang Vương nghe xong liên nói to rằng: "Tất cả các khanh hãy giứt bỏ dải mũ để làm vui". Mọi người nghe vậy không hiểu sao nhưng đều hạ mũ và giứt bỏ dải đi. Lúc này Sở Trang Vương gọi đốt nến. Mọi người trông thấy mũ của mình chẳng còn ra gì nữa, và đều bật cười. Mãi tới sáng các quan lại mới ra về.
Khi về tới cung, Hứa Cơ rất bực tức, nói có người trêu ghẹo mà vua không xử phạt. Sở Trang Vương cười và nói: "Ta mời các đại thần uống rượu mục đích là để mọi người vui. Sau khi uống rượu có những cử chỉ khác lạ là điều bình thường. Nếu ta luận tội thì chẳng những sẽ làm cho bữa tiệc mất vui, mà còn làm nhục đại thần".
Sau này, Sở Trang Vương tiến đánh nước Trịnh, trong một lần bị vây hãm có một tướng tên là Đường Giao rất dũng cảm, đã xông vào vòng vây cứu giá. Khi bình công Đường Giao được xét công đầu bởi nhiều chiến công lớn. Lúc bấy giờ Đường Giao mới thú nhận đã bị Hứa Cơ giứt mất dải trong bữa tiệc hôm ấy. Ông dũng cảm giết địch là để báo đáp sự độ lượng và khoan dung của Sở Trang Vương.
-
CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI
VUA SỞ MẤT CUNG
Vua Sở đi săn, giữa đường đánh mất cung. Tuỳ tùng xanh mắt, quát lính tìm không thấy, định sức cho hào mục huy động dân phu đi tìm. Vua Sở ngăn lại mà rằng: "Thôi, không cần t́ìm nữa, rồi sẽ có người nhặt được. Vua Sở mất cung. dân Sở được cung, lọt sàng xuống lia, đi đâu mà thiệt".
Khổng tử biết chuyện than rằng: "Bậc quân vương phải có chí bao trùm thiên hạ. Lẽ ra vua Sở phải nghĩ được rằng: Ta mất cung, một đồng loại của ta được cung. Tiếc rằng vua Sở không có cái chí ấy nên không thể bá chủ thiên hạ được".
Người đời sau bàn rằng: Vua Sở không huy động dân phu tìm cung cho mình là biết thương dân. Người giữ cương vị nào hăy chỉ cần biết làm tròn bổn phận ấy, không thể nói như Khổng tử được.
Ví như đi ra chợ mua gạo cho con, lỡ đánh mất tiền, không thể tặc lưỡi mà rằng: "Ta mất tiền, một đồng loại ta được tiền, lọt sàng xuống lia đi đâu mà thiệt."
Hoặc về nhà thấy thằng khác nó cuỗm mất vợ mình, không thể tặc lưỡi: "Ta mất vợ, một đồng loại ta được vợ, không đi đâu mà thiệt"
Cũng như lănh đạo một quốc gia, mất vài ḥòn đảo, không thể nói: "Ta mất đảo, bạn ta được đảo, không đi đâu mà thiệt".
-
CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI
KHỔNG TỬ ĂN ĐÀO
Khổng tử đi sứ nước Vệ. Vua Vệ mời sứ thần các nước ăn đào. Mỗi sứ thần được ban một mâm nhỏ, trên đó là một đĩa đào và một đĩa xôi. Ngay sau khi vua Vệ có lời, Khổng tử liền bốc xôi nắm chặt lại và ăn luôn. Xứ thần nước Hàn ngồi bên cạnh trông thấy liền bảo:
- Không phải vậy. Xôi là dùng để lăn lông đào.
Khổng tử đáp:
- Xôi được nấu từ gạo nếp, là thứ đứng đầu ngũ cốc, thường dùng để cúng thần linh tiên tổ. Đó là thứ cao quý. Đào là thứ đứng dưới ngũ quả. Nó là thứ ăn chơi của con trẻ. Đó là thứ thấp hèn. Lấy xôi lăn đào là lấy cái cao quý phục vụ cho cái thấp hèn. Ở đời nhiều người thường làm vậy, nhưng người quân tử không làm vậy được.
-
CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI
CHUYỆN PHẠM LÃI
1- Mưu thần phục quốc
Khi Câu Tiễn muốn đem quân sang đánh nước Ngô, Phạm Lãi can nhưng Câu Tiễn không nghe. Kết quả là bị vua Ngô Phù Sai đánh cho đại bại ở Cối Kê, bị bắt làm tù binh. Sau đó Việt vương được tha cho về nước.
Về tới nước, Câu Tiễn bên trong nuôi chí phục thù, nhưng ngoài mặt giả vờ tuân phục, hằng năm đều đặn triều cống. Việt vương giao Phạm Lãi bí mật luyện tập quân đội, tích trữ quân lương. Cùng lúc, Phạm Lãi và bạn thân là đại thần Văn Chủng dùng mỹ nhân kế tuyển lựa người đẹp trong nước là Thi Di Quang (tức Tây Thi - một trong Tứ đại Mỹ nhân Trung Hoa) và Trịnh Đán (sau được gọi là Đông Thi) dâng cho vua nước Ngô là Ngô Phù Sai làm cho Ngô vương hoang dâm, xa xỉ, bỏ bê chính sự, giết hại trung thần Ngũ Tử Tư (một trong những trụ cột chính của đất nước).
Cuối cùng Câu Tiễn đánh úp nước Ngô, tiêu diệt được Ngô Phù Sai rửa được cái nhục ở Cối Kê (năm 473 TCN).
Sau khi diệt được Ngô, Câu Tiễn định mang Tây Thi về Việt nhưng vợ Câu Tiễn ghen nên bí mật sai người bắt nàng, buộc đá vào cổ và đẩy xuống sông cho chết.
2- Rút lui đúng lúc
Khi đại sự thành công, Phạm Lãi cho rằng vua Việt có tướng cổ cao, môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không được, nên không ở lại làm quan mà bí mật trốn đi ở ẩn. Phạm Lãi gửi cho Văn Chủng có đoạn viết: Chim bay mất hết, cung tốt được cất đi. Thỏ khôn chết, chó săn bị nấu. Việt vương là người cao cổ, miệng chim, chỉ có chung hoạn nạn mà không thể chung vui. Thầy sao còn chưa lui về ?
Văn Chủng nhận được thư, cáo bệnh không vào triều. Có người sàm tấu Văn Chủng muốn phản loạn. Câu Tiễn ép Văn Chủng tự sát bằng cách ban cho ông thanh kiếm và viết "Tử giáo quả nhân phạt Ngô thất thuật, quả nhân dụng kì tam nhi bại Ngô, kì tứ tại tử, tử vi ngã tòng tiên vương thí chi." (Dịch nghĩa: Thầy dạy quả nhân 7 thuật phạt Ngô, quả nhân dùng 3 đánh bại Ngô, còn 4 ở lại với thầy, thầy vì ta theo tiên vương mà thử.). Văn Chủng bèn tự sát.
Theo Sử ký: Phạm Lãi mang theo toàn bộ gia quyến đến nước Tề. Cha con cùng tự cày cấy làm ăn. Nước Tề sai sứ mang ấn tướng quốc đến mời ông vào triều, nhưng ông từ chối, không màng công danh, rồi cùng gia quyến đến đất Đào, đổi tên thành Đào Chu Công . Ông sinh thêm một con trai út ở đất Đào.
Phạm Lãi có khi nhớ nước Việt đã trở về thăm, có người từng thấy ông lai vãng ở Dương Thành nên sau này đổi tên Dương thành thành Lãi thành để tưởng nhớ ông. Khi về tới Việt ông thấy rất vui khi dân được ấm no và hạnh phúc.
(còn tiếp)
-
CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI
3- Không cứu nổi con
Theo Sử ký, con thứ Phạm Lãi phạm tội giết người, bị giam ở nước Sở. Phạm Lãi quen tướng quốc Sở là Trang Sinh, sai con mang 1.000 dật (24.000 lượng) vàng đi "đút lót" cho Trang Sinh xin tha con mình. Ông muốn sai đứa con út đi, nhưng người con cả nhất định đòi đi, nếu không sẽ tự sát; vợ ông cũng muốn để người con cả đã chín chắn vì sợ cậu con út còn ít tuổi. Cuối cùng ông đành nghe theo.
Người con cả đến nước Sở gặp Trang Sinh, đưa vàng và ngỏ lời nhờ tha cho em mình. Trang Sinh nhận lời, bảo con Phạm Lãi cứ về, rồi em sẽ được thả mà không được hỏi lý do tại sao. Trang Sinh vốn là người ngay thẳng, định bụng sau khi xong việc sẽ hoàn lại vàng cho Đào Chu công.
Sau đó Trang Sinh vào tâu vua Sở Huệ Vương, mượn điềm thiên văn tai ương để xui vua Sở phóng thích tù nhân, làm điều phúc đức tránh tai hoạ. Vua Sở nghe theo, bèn ra lệnh sẽ thả hết phạm nhân.
Con cả Phạm Lãi chưa về ngay, lại lấy tiền riêng của mình mang theo là 100 dật, nhờ cậy một vị quan khác nước Sở nghe ngóng tình hình. Nghe tin vị đó báo lại là vua Sở sẽ đại xá, anh ta nghĩ rằng đáng lý mình không phải phí vàng đem đút lót mà em mình vẫn được thả, nên quay lại nhà Trang Sinh. Trang Sinh biết ý anh ta muốn đòi vàng, bèn trả lại; nhưng trong bụng thấy xấu hổ vì bị trẻ con nghĩ rằng mình là kẻ tham lam, bèn vào tâu vua Sở rằng:
- Tôi nghe thiên hạ dị nghị rằng đại vương nhận tiền đút lót của Phạm Lãi nên mới đại xá thiên hạ, làm giảm ân đức của người. Vậy xin chém riêng con Phạm Lãi để thiên hạ thấy sự nghiêm minh, nhân đức của đại vương !
Vua Sở nghe theo, bèn sai mang con thứ Phạm Lãi trong ngục ra chém, còn những phạm nhân khác đều tha. Người con cả mang xác em về. Bà vợ khóc than, Phạm Lãi nói:
Sở dĩ tôi muốn sai thằng út đi, vì khi nó sinh ra, nhà ta đã khá giả; vì thế nó sẽ không tiếc của mang hối lộ người ta. Còn thằng cả sinh ra khi nhà ta còn nghèo khó, nó sẽ tiếc của. Bởi thế lúc nó đi, tôi biết là nó sẽ phải mang xác em nó về.
Phạm Lãi hiểu nhân tình thế thái, không những hiểu từng đứa con, còn hiểu cả Trang Sinh nữa; tuy ông có thể cứu nước Việt nhưng lại không cứu nổi con mình.
-
CHUYỆN CŨ CHÉP LẠI
ĐỀN THỜ NỮ THẦN ARTEMIS (Thổ Nhĩ Kỳ)
Ngôi đền Artemis được xây dựng vào thế kỷ V tr.CN, tại thành phố cổ Ephesus, gần thị trấn đương đại Selcuk và cách thành phố Izmir (Thổ Nhĩ Kỳ) khoảng 50km về phía Nam.
Đền Artemis là đền thờ nữ thần săn bắn Artemis, còn được gọi là đền thờ Diana được xây dựng bởi kiến trúc sư Chersiphron và con là Metagenes, Theo đánh giá của các triết gia cổ đại, đền Artemis là công trình kiến trúc đẹp nhất thế giới.
Ngôi đền có sàn rộng 80 x 130 m, với những tảng đá hoa cương phẳng lỳ, những bậc thềm láng bóng, những chiếc cột vạm vỡ được chạm khắc tỉ mỉ và tinh xảo. Công trình lao động kiên trì và bền bỉ này được thực hiện và hoàn thành sau 120 năm. Vào thời gian đó, ngôi đền Artemis tráng lệ cũng như những huyền thoại về nữ thần săn bắn này được toàn dân Địa Trung Hải và Tiểu Á biết đến và ngưỡng mộ.
Đêm 21/7/356 tr.CN, một người đàn ông tên là Erostratus đã đốt ngôi đền với mục đích bất tử hoá tên mình. Hắn tin rằng với hành động này, hắn sẽ được nổi tiếng muôn thuở. Có một sự trung hợp kỳ lạ, cũng vào đêm đó, Alexander đại đế ra đời. Về sau sử gia Plutarch đã viết rằng: "Do quá bận chăm sóc sự ra đời của Alexander, nên nữ thần Artemus không rảnh tay bảo vệ ngôi đền thờ của mình".
Hai thập niên sau đó, trong cuộc Đông chinh tới Ấn Độ, lúc dừng chân tại thành phố Ephesus, để tỏ lòng tôn kính của mình đối với nữ thần, Alexander Đại đế đã cùng dân thành Ephesus xây dựng lại ngôi đền; tuy nhiên, kích thước của ngôi đền cũng có sự thay đổi đôi chút.