-
Mười Hai Công Hạnh Giác Ngộ Của Một Vị Phật | The Twelve Enlightening Deeds of a Buddha (english below)
Theo truyền thống Đại thừa, một ngàn vị Phật sẽ giáng thế trong thời kiếp may mắn này là điển hình của Hóa thân tối thượng (mchog-gi sprul-sku, thể dạng của các hóa thân tối thượng). Mỗi một vị Phật trong một ngàn vị Phật đã thành tựu giác ngộ từ lâu. Khi một vị Phật thị hiện trong thời kiếp này thì mỗi vị sẽ đồng thời hóa thân ở Nam Thiệm Bộ Châu (Southern Continent) trong mỗi một tỷ hệ thống thế giới trong vũ trụ của chúng ta, đồng thời thực hiện mười hai công hạnh giác ngộ (mdzad-pa bcu-gnyid) của một vị Phật ở nơi đó.
Chư Phật liên tục thị hiện Báo thân (Sambhogakaya, longs-sku, thể dạng của các thọ dụng thân) không ngừng nghỉ như thế nào thì việc thị hiện Hóa thân (Nirmanakaya) và thực hiện mười hai công hạnh giác ngộ cũng xảy ra như thế. Khi mười hai công hạnh này không xảy ra trong một vũ trụ nào thì một vị Phật đang thực hiện chúng ở các vũ trụ khác.
Mười Hai Công Hạnh Giác Ngộ:
(1) Đản sanh vào Nam Thiệm Bộ Châu từ cõi Trời Đâu Suất (dGa’- ldan, Phạn ngữ Tushita), sau khi đã nhường ngôi ở Đâu Suất cho vị Phật kế tiếp của thời kiếp này, tức Phật Di Lặc.
(2) Nhập thai trong tử cung của người mẹ
(3) Đản sanh
(4) Thiện xảo và thông thái các môn nghệ thuật
(5) Tận hưởng cuộc đời với hoàng hậu và đoàn tùy tùng của Bà
(6) Từ bỏ đời sống gia đình để trở thành người thoát tục (rab-tu byung-ba)
(7) Trải qua công phu khổ hạnh đầy khó khăn
(8) An tọa dưới cội bồ đề để đạt giác ngộ
(9) Điều phục ma vương (bdud, Phạn ngữ Mara)
(10) Hiển lộ thành tựu giác ngộ
(11) Chuyển Pháp luân
(12) Thị hiện sự giải thoát khỏi mọi nỗi khổ bằng cách nhập niết bàn (mya-ngan-las ‘ das-pa, Skt. nirvana)
Những Điều Dị Biệt
Trong tác phẩm Dòng Tâm Thức Miên Viễn Lâu Dài Nhất (The Furthest Everlasting Continuum,rGyud bla-ma, Phạn ngữ Uttaratantra), Đức Di Lặc đã liệt kê thêm một công hạnh giác ngộ: "Đản sanh ở Cõi Trời Đâu Suất trước khi đản sanh ở Nam Thiệm Bộ Châu."
Nếu như điều này được xem là công hạnh đầu tiên của mười hai công hạnh thì nhập thai trong tử cung của người mẹ và đản sanh sẽ được tính chung như một công hạnh. Một cách khác là mười ba công hạnh giác ngộ được xem như thuộc về dục giới, và mười hai công hạnh nêu ra ở trên thuộc về cõi người.
Trong các nguồn tài liệu khác, một công hạnh giác ngộ khác được nêu ra là:
Khiến cho mặt trời giáo pháp thiêng liêng của Ngài mọc trên thế gian sắp diệt tận.
Trích đoạn được duyệt lại từ tác phẩm của Dhargyey, Geshe Ngawang. (Berzin, Alexander, ed.). An Anthology of Well-Spoken Advice, vol. 1. Dharamsala: Library of Tibetan Works & Archives, 1982.
Lozang Ngodrub dịch; Võ Thư Ngân hiệu đính
-----
ENGLISH
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Đức Phật Dược Sư là Tôn chủ của thế giới Tịnh Độ Lưu Ly ở phương Đông, có danh xưng là Kim Cương Phật. Cúng dàng Đức Phật Dược Sư có thể tiêu trừ được hàng trăm bệnh, tiêu trừ nguyên nhân của căn bản phiền não.
Ngài có một mặt, hai tay, thân màu sắc xanh lưu ly. Đức Dược Sư Phật an toạ trong tư thế Kim Cương, trên bảo tòa nguyệt luân hoa sen, Ngài có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Ngài khoác trên mình ba tấm y giải thoát. Tay phải trong thế Thí nguyện ấn trì giữ thảo dược, tay trái để ngửa trì giữ bình bát chứa đựng thần dược đem diệu cam lồ diệt trừ vô lượng tật khổ, thành tựu viên mãn mọi tâm nguyện của chúng sinh. [...]
Màu xanh dương của Phật Dược Sư tượng trưng cho sức mạnh. Chúng ta cần có sức mạnh. Khi có sức mạnh, chúng ta sẽ có một hệ thống miễn dịch, một loại năng lượng miễn dịch. Loại năng lượng miễn dịch này có khả năng chống lại sự yếu đuối của tâm lý và thân vật lý. Nếu tâm không đủ mạnh, ta sẽ luôn cảm thấy sợ hãi sự mong manh của vô thường, sẽ rất dễ tức giận, buồn chán và tuyệt vọng. Còn nếu đủ sức mạnh, tâm chúng ta sẽ giảm bớt giận dữ, buồn rầu, tuyệt vọng và tất cả các loại hạnh phúc chân thật sẽ đến. Như vậy điều trọng yếu là chúng ta phải làm cho tâm mình mạnh mẽ. Vì lý do đó, Đức Phật Dược Sư có màu xanh dương, màu biểu trưng cho sức mạnh mà ít người trong số chúng ta biết đến. [...]
Tất cả mọi bệnh tật ốm đau hay khổ đau đều bắt nguồn từ vô minh. Khi vô minh không còn thì tất cả bệnh hoạn khổ đau cũng không còn và hạnh phúc chân thật sẽ đến.
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều bệnh tật thuộc thân thể vật lý khác nhau, có một số bệnh ngay cả khoa học không hề biết được nguyên nhân. Sự thực là tất cả chúng ta không ai muốn mình bị tật bệnh, nhưng theo quan điểm Phật giáo, chúng ta vẫn cứ ốm đau bởi vô minh và những bất thiện nghiệp tích lũy từ nhiều kiếp. Cho dù chúng ta không muốn tạo nên những nghiệp xấu đó, nhưng do năng lực của vô minh chúng ta không còn cách chọn lựa nào khác, nên chúng ta vẫn tiếp tục tích lũy bất thiện nghiệp. Tôi xin lấy ví dụ, những người làm nghề đồ tể, sát sinh chó, bò, gà, lợn… để kiếm tiền, mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình là những người như thế. Nếu chúng ta có thể hỏi những con vật tội nghiệp đó rằng "chúng muốn hạnh phúc hay muốn chết", chắc chắn chúng sẽ trả lời: “Không, chúng tôi không muốn chết, chúng tôi muốn sống, muốn có hạnh phúc”. Bởi vì không biết Phật Pháp, không biết đâu là nguyên nhân của khổ đau và hạnh phúc, cho nên họ cứ sát sinh để mưu cầu hạnh phúc cho bản thân, và đó chính là vô minh. Hay ví dụ của những người lấy việc ăn thịt là niềm hạnh phúc. Họ đơn giản đi tìm sự hạnh phúc sung sướng thông qua sự khoái khẩu, nhưng đó là một phương pháp sai lầm, vì chúng ta không thể dựa vào bất thiện nghiệp mà mong cầu hạnh phúc được. Phương pháp chân thật để đạt được hạnh phúc là sự ban tặng, như mang niềm vui hạnh phúc cho người khác, hoặc phóng sinh để cứu sống các loài. Theo cách này, chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc và trường thọ. Đấy là chân hạnh phúc, cho nên điều quan trọng nhất là chúng ta cần phải nhận ra và loại bỏ nguồn gốc đau khổ hay sự vô minh.
HH Gyalwang Drukpa
"Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành pháp tu trì Đức Phật Dược Sư, chùa Phổ Quang, Đà Nẵng ngày 19/04 "
Nguồn: http://www.drukpavietnam.org
Đọc bài đầy đủ tại: http://goo.gl/sgNMuL
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Kinh Kim Cương | Diamond Sutra
Chỉ đơn thuần nghe Kinh Kim Cương và có niềm tin ở quyển Kinh đó, khối lượng công đức bạn tạo ra thật không thể nghĩ bàn và không tưởng tượng nổi. Ví dụ như điều đó còn vĩ đại hơn việc bạn cúng dường thân bạn cho chúng sinh. Cúng dường bao nhiêu lần? Vào buổi sáng, cúng dường thân bạn với số lần tương đương số hạt cát trong đại dương. Những hạt cát này không phải là những gì chúng ta thường nghĩ tới, chúng là những nguyên tử (vi trần) hết sức nhỏ bé. Có bảy loại vi trần vi tế và đây là những loại vi trần đó. Vào buổi trưa bạn lại cúng dường thân bạn nhiều lần cho chúng sinh, và buổi chiều cũng thế. Bạn làm như thế mỗi ngày trong hàng nhiều kiếp. Tất cả những việc cúng dường đó thật phi thường, và cho dù chỉ thực hiện một lần thôi, bạn cũng đã hiến tặng rất nhiều nhân đức cho chúng sinh, nói gì tới việc bạn cúng dường ba lần một ngày trong rất nhiều năm và nhiều kiếp. Công đức đó thật đáng kinh ngạc. Việc bố thí thân thể cho chúng sinh thì không thể nghĩ bàn.
Cho dù bạn thực hiện nhiều cuộc cúng dường mỗi ngày trong nhiều kiếp, nó chỉ là một lượng công đức nhỏ bé nếu so sánh với việc lắng nghe Kinh Kim Cương và không mất niềm tin nơi giáo lý về tánh Không (bằng việc rơi vào quan điểm cực đoan của thuyết hư vô, cho rằng không có gì hiện hữu). Điều này có nghĩa là chỉ bằng việc nghe Kinh, nếu bạn đọc, học thuộc lòng, và nghiên cứu ý nghĩa của quyển Kinh, bạn tích tập công đức vĩ đại rất, rất nhiều nếu so với việc bạn tích tập với ví dụ cúng dường thân thể bạn. Hơn nữa, công đức phi thường mà bạn tích tập bằng việc có hay đọc Kinh Kim Cương là một suối nguồn không thể tin nổi của sự tịnh hóa mãnh liệt về mọi nghiệp tiêu cực nặng nề bạn từng tích tập trải qua những đời quá khứ tự vô thủy.
Quan trọng nhất là mỗi lần bạn đọc bản Kinh, bạn nhận một dấu ấn để chứng ngộ tánh Không. Bạn càng đọc Kinh thì những dấu ấn càng lưu lại trong tâm bạn, khiến bạn nhanh chóng và dễ dàng chứng ngộ tánh Không trong đời này, và nếu không trong đời này thì trong những đời sau. Nhờ trí tuệ này bạn thâu đạt được sự nội quán vĩ đại được hợp nhất với shamatha (thiền an định). Nếu bạn thiền định về tánh Không được hợp nhất với shamatha, bạn có thể kinh nghiệm trạng thái xuất thần vô cùng hỉ lạc của thân và tâm. Khi ấy bạn có thể thành tựu tri giác trực tiếp của tánh Không giải trừ các ô nhiễm – trước tiên là những sở tri chướng (những ô nhiễm do tri thức gây ra) và sau đó những ô nhiễm bẩm sinh. Bạn thành tựu sự giải thoát bằng cách hoàn toàn giải trừ ngay cả những dấu vết của phiền não chướng. Với chứng ngộ Bồ đề tâm, kinh nghiệm trực tiếp của tánh Không giải trừ ngay cả những ô nhiễm vi tế và khi đó bạn thành tựu tâm toàn trí và có thể làm việc một cách toàn hảo và mang lại giác ngộ cho tất cả chúng sinh. Khi điều đó xảy ra mục đích của đời bạn được thành tựu.
Trích NHỮNG THỰC HÀNH TRỌNG YẾU | Lạt ma Zopa Rinpoche
Một đệ tử đang ở trong tù viết thư cho Rinpoche khẩn cầu ngài ban những thực hành cho quãng đời còn lại của anh. Rinpoche đã trả lời (được trích) như trên. Bài do Michelle Bernard biên tập.
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
Không có văn bản thay thế tự động nào.
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...49029_o.md.jpg
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
[english n/a]
Hồng Danh của 35 vị Phật và Lời Nguyện Sám Hối
Hãy tụng những bản Kinh này vào buổi sáng. Tốt nhất là bạn có thể lễ lạy 35 vị Phật trong khi trì tụng danh hiệu và lời nguyện. Theo cách này, hai điều hết sức hữu hiệu được kết hợp (trì tụng và lễ lạy). Nếu bạn không thể lễ lạy thì ít nhất hãy chắp tay trong khi tụng các hồng danh và lời cầu nguyện. Tôi gởi cho bạn một bức hình 35 vị Phật. Hãy quán tưởng các Ngài trong không gian với ánh sáng và những tia cam lồ đi vào thân và tâm bạn và tịnh hóa mọi nghiệp tiêu cực được tích tập từ những đời quá khứ tự vô thủy – không chỉ những nghiệp được tạo ra trong đời này. Trong khi tụng các hồng danh bạn đang tịnh hóa bản thân cũng như tất cả chúng sinh.
Điều này cực kỳ tốt lành. Nó hữu hiệu thật không thể tin nổi. Bạn đang cứu giúp mọi chúng sinh không bị tái sinh trong những cõi thấp và nhanh chóng thoát khỏi những phiền não và nghiệp của họ. Bạn đang cứu giúp tất cả những con kiến, gián, chuột, cá, muỗi, vô lượng thú vật đủ mọi loài, mọi chúng sinh địa ngục, ngạ quỷ và con người, kể cả những thành viên thân yêu nhất trong gia đình của bạn, quan tòa thân yêu nhất của bạn, và những người cao quý nhất trong tổ chức chăm sóc trẻ em, là những người tốt lành nhất. Vì thế, điều này thật ngon lành. Ngon tuyệt. Thực hành này thực sự ngon tuyệt. Nếu bạn ăn quá nhiều kem bạn sẽ mắc bệnh, nhưng thực hành này chỉ khiến bạn tới gần sự giải thoát và giác ngộ hơn nữa.
[...]
Điều tối quan trọng là phải tịnh hóa với thần chú Vajrasattva và lễ lạy 35 vị Phật mỗi ngày. Việc tụng mỗi danh hiệu của 35 vị Phật có năng lực tịnh hóa nghiệp tiêu cực trong nhiều kiếp. Điều này lợi lạc khó thể tin nổi. Việc tụng danh hiệu 35 vị Phật giống như một trái bom làm tan tành nghiệp tiêu cực và những ô nhiễm của bạn. Tôi sẽ thật hạnh phúc nếu bạn có thể ghi nhớ thực hành này trong khi bạn ở trong tù khiến bạn có thể tụng các danh hiệu trong khi lễ lạy. Hãy quán tưởng những thân thể trong vô số đời quá khứ của bạn lớn như những trái núi quỳ xuống ở mọi nơi – đối trước chư Phật, trước bàn thờ của bạn – đứng lên và quỳ xuống. Nếu bạn có thể thực hành điều này với toàn thân bạn thì thật là tuyệt vời. Vị sư cô mà bạn biết có thể giảng cho bạn về những lợi ích của việc lễ lạy, về việc có biết bao vi trần mà thân thể bạn che phủ trong khi lễ lạy, từ đầu ngọn tóc trên đầu bạn xuống tới lòng bàn chân bạn, tạo ra nhiều nguyên nhân để sinh ra làm một Chuyển Luân Thánh Vương tương đương số vi trần hay bằng 1000 lần số vi trần._
Trích NHỮNG THỰC HÀNH TRỌNG YẾU | Lạt ma Zopa Rinpoche
Một đệ tử đang ở trong tù viết thư cho Rinpoche khẩn cầu ngài ban những thực hành cho quãng đời còn lại của anh. Rinpoche đã trả lời (được trích) như trên. Bài do Michelle Bernard biên tập.
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
CÁC LỢI ÍCH KHI TU TẬP PHÁP CỦA MA LỢI CHI THIÊN
Dùng vị Trời này làm Bản Tôn của Pháp tu thì xưng là Ma Lợi Chi Thiên Pháp ắt sẽ được các Công Đức về hộ thân, ẩn hình, tiền bạc, tranh luận thắng lợi.
Phật nói Kinh Ma Lợi Chi Bồ Tát Đà La Ni (ĐTK_No.1255) ghi chép là:
Lúc đó Đức Thế Tôn bảo: “Này các Tỳ Khưu (Bhikṣu)! Phía trước mặt trời có một vị Trời tên là Ma Lợi Chi (Marīci) có Pháp Đại Thần Thông Tự Tại, thường đi trước mặt trời mà mặt trời chẳng thấy vị ấy, còn vị ấy nhìn thấy mặt trời. Không người nào có thể nhìn thấy, không người nào có thể biết, không người nào có thể đuổi bắt được, không người nào có thể hại, không người nào có thể bịa chuyện dối trá, không người nào có thể trói buộc, không người nào có thể nợ nần tài vật của vị ấy, không người nào có thể phạt, chẳng sợ Oan Gia (Śatrū) được dịp thuận tiện hãm hại”.
Đức Phật bảo: “Này các Tỳ Khưu! Nếu có người biết tên của vị Trời Ma Lợi Chi kia thì người ấy cũng chẳng thể bị nhìn thấy, cũng chẳng thể biết, cũng chẳng thể đuổi bắt được, cũng chẳng thể hại, cũng chẳng bị người bịa chuyện dối trá, cũng chẳng bị
người trói buộc, cũng chẳng bị người nợ nần tài vật, cũng chẳng bị người trách phạt, cũng chẳng bị Oan Gia có dịp thuận tiện hãm hại”
_Đức Phật bảo các Tỳ Khưu: “Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện biết tên của Ma Lợi Chi Thiên ấy thì nên nói lời này: “Con, Đệ Tử (họ tên…) biết tên của Ma Lợi Chi Thiên cho nên không người nào có thể nhìn thấy con, không người nào có thể biết
con, không người nào có thể đuổi bắt được con, không người nào có thể hại con, không người nào có thể bịa chuyện dối trá con, không người nào có thể trói buộc con, không người nào có thể nợ nần tài vật của con, không người nào có thể trách phạt con, cũng chẳng bị Oan Gia có dịp hãm hại con”
_Chú này có Đại Thần Lực, thành tựu chỗ làm, phá tất cả ác. Nếu dùng Kết Giới (Sīma-bandha) thì trong vòng 100 Do Tuần, tất cả các ác không dám đi vào”
Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói Chú là:
Namo buddhāya
Namo dharmāya
Namo saṃghāya
Tadyathā: Arka maṣi, marka maṣi, sudhā maṣi , jvala maṣi, mahā-jvalamaṣi,
marīcīya maṣi, antardhānaya maṣi namo stute, svāhā
_Nếu người có thể tin tưởng Phật Pháp một cách chân chính, tu trì Pháp Môn của Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát thời Công Đức có được sẽ như sự ghi ghép trong Kinh Phật Thuyết Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát là: Hay được Đại Phước trong sạch, hay tăng trưởng Cát Tường rộng lớn, hay tiêu trừ tất cả tội nặng,hay thành tựu Bản Tôn Tam Muội, sẽ chứng Tỳ Lô Pháp Thân.
_Lại nếu dùng sự tin tưởng Phật Pháp một cách chân chính tu trì thì như Phật
Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh đã ghi chép là: “Hay làm tất cả việc, hay trừ nạn Oán Tặc. Nếu người y theo Pháp thọ trì thì ở trên đường đi, tất cả các ác chẳng được dịp thuận tiện gây hại”
Như Ấn Quang Đại Sư có nói: “Ma Lợi Chi Thiên tuy hiện thân Trời, nhưng thật ra là vị Bồ Tát, dùng Tâm tha thiết độ sinh, nhiệt tình cứu khổ cho nên nói Chú này làm gốc rễ của sự cứu độ. Nếu người mỗi ngày chân thành tụng Chú này càng nhiều càng tốt, giả sử gặp phải tai nạn bởi nước, lửa, đao binh… cũng hay được gặp xấu hóa
_ Tụng Căn Bản với Tâm Chân Ngôn của Ma Lợi Chi Bồ Tát, chẳng hạn định biến số, chỉ cần kiền thành chí tâm đều được
uy thần gia hộ của Bồ Tát; tất cả Oan Gia, người ác chẳng thể nhìn thấy, tất cả tai nạn đều được giải thoát.
OM MARICI SVAHA
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...58871331_n.jpg
===========
Con xin đảnh lễ dưới chân ngài Bồ Tát Ma Lợi Chi tôn quý !
Trong dãy Tuyết Sơn hùng vỹ ,cùng các nước tiếp giáp Ấn Độ Bồ Tát Ma Lợi Chi được biết đến theo truyền thuyết của từng dân tộc.Có nơi ngài là nữ thần của Bình Mình và ngài chủ quản nhị thập bát tú.Có nơi ngài là nữ thần của chiến tranh vì ngài ban cho chiến binh sức mạnh vô úy và là hộ thần bảo vệ đất nước.Ở Nhật Bản ngài là vị bổn tôn chính cho những hành giả Nhẫn Thuật (Ninja) và vị thần mang lại tài bảo cho thương nhân.
Vì trong hạnh nguyện đại bi của ngài ,ngài bảo hộ cho những kẻ yếu thế ,đang bị các nạn binh đao,trộm ,cướp và sợ hãi.
Hành giả thường trì tụng chân ngôn của ngài vào mỗi Bình Minh sẽ cảm nhận được năng lực gia trì từ ngài .Khi gặp nạn lớn với tâm chí thành cầu nguyện thánh hiệu của ngài sẽ được ngài bảo hộ che chở như người mẹ hiền che chở đứa con độc nhất
OM MARICI SVAHA (OM MA RI SI SÔ HA)
====
BỒ TÁT MA LỢI CHI THIÊN
Bồ Tát Ma Lợi Chi Thiên chính là hóa thân thù thắng của Tổ Mật Giáo Đại Nhật Như Lai.Nên ngài tuy chỉ là một chư Thiên nhưng có đại thần lực bất khả tư nghì ,Kinh mật giáo có nói đến ngài như sau:"Ma Lợi Chi Thiên (Marīci-devī), Mật Hiệu là Chiến Uy Kim Cương, là quyến thuộc của Thiên Đế Thích (Indra) thường tùy theo Nhật Thiên (Āditya) chạy mau chóng ở trước mặt, là Bồ Tát của ánh sáng Đại Uy, có sức Thần Thông tự dùng ẩn hình. Ngài được xưng là vị Thần chiến đấu hoặc vị Thần thủ hộ cho Nhẫn Thuật (Ninja)."
Chỉ cần nhớ đến hồng danh của ngài và cầu nguyện ngài liền đến che chở cho hành giả thoát khỏi các tai nạn,trộm cướp......Pháp tu của ngài thì vô cùng mầu nhiệm.
Tôi thường cầu nguyện mỗi sáng như sau
cho đến ngày giác ngộ con nguyện nương tựa nơi Phật Pháp Tăng
nhờ công đức con đã gieo trồng nơi sáu ba la mật
nguyện con thành quả vị Phật vì tất cả chúng sinh
nơi đại nguyện vĩ đại của ngài, đấng giải thoát chúng sinh khỏi sự đau khổ
ban cho chúng con an vui phúc lạc, con đảnh lễ ngài MA LỢI CHI THIÊN BỒ TÁT
OM MA RI SI SÔ HA 21 BIẾN
nương nơi những thiện công đức con đã làm
xin cho những nguyện vọng tốt lành của con không bị chướng ngại
và dễ dàng đạt được những mong cầu đó
xin ngài hãy cứu độ con ra khỏi những điều không may mắn
ma oán, trộm cắp, trù ủa, thù địch cùng các dã thú rắn mòng
độc dược, lũ lụt, hỏa hạn cùng gươm đao giáo mác
và tẩy trừ quả báo những quả báo và ác nghiệp của con
nương vào công đức này xin nguyện thành MA LỢI HI THIÊN
và dẫn dắt mọi loài đến chỗ giác ngộ
OM MA RI SI SÔ HA càng nhiều càng tốt ,sau đó quán hòa tan vào luân sa tim của ngài.
Xin chia sẽ hình ảnh bức tượng bồ tát Ma Lợi Chi Thiên đang trong giai đoạn hoàn thiện
OM MARICI SVAHA
============
Khi hành giả gặp các chướng nạn nước lửa ,binh đao,vua quan ,trộm cướp trù rủa ,bị người hoặc phi nhân hãm hại .Với tâm chí thành cầu nguyện bồ tát Đại Quang Uy ( Ma Lợi Chi Thiên bồ tát) .Ngài Thị hiện là một vị trời nhưng chính là hóa thân của Đức Đại Nhật Như Lai với hạnh nguyện bi mẫn mà thị hiện thành vị trời để ủng hộ người tu hành.
Cúi lạy Bồ Tát Đại Quang Uy
Con nguyện nương tựa Phật Pháp Thánh Tăng Bảo
Cho đến khi thành chánh đẳng giác
Nhất tâm xưng niệm danh hiệu ngài
Nguyện các chướng nạn đều tan biến
Tinh tú ,quỷ thần các ám ma
Không thể thấy con trong mãi mai
Vô lượng cát tường xin gia trì
Luân hồi niết bàn đều như nhất
OM MARICI SOHA ( ÔM MA RI SI SÔ HA )
https://uphinhnhanh.com/images/2017/11/23/R.jpg
https://www.facebook.com/permalink.p...86741424671074
-
Hôm nay mùng 8 tháng 6 Tạng lịch năng lực vĩ đại của Đức Phật Dược Sư sẽ tịnh hóa thân thể bạn và những người xung quanh bạn một cách mãnh liệt như gương kính hội tụ dưới ánh mặt trời.
Vì sao có sự hóa hiện cụ thể hình tướng của bảy Đức Phật Dược Sư? Tâm giác ngộ viên mãn có khả năng toàn giác, tức là thấy biết được tất cả các thời quá khứ, hiện tại và vị lai, có tâm đại bi vô lượng đối với tất cả chúng sinh, có năng lực hoàn hảo để dẫn dắt tất cả chúng sinh đến bờ giác ngộ. Vì trí tuệ thanh tịnh của tâm toàn giác gắn liền với lòng đại bi vô lượng đối với tất cả chúng sinh nên đã hóa hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau, trong đó có hình tướng bảy Đức Phật Dược Sư, để dẹp bỏ mọi chướng ngại mà chúng sinh phải gánh chịu và mang đến cho chúng sinh hạnh phúc tạm thời cũng như rốt ráo, đặc biệt là hạnh phúc vô song của giác ngộ viên mãn.
Sở dĩ pháp tu tập Đức Phật Dược Sư có năng lực mãnh liệt để đạt được sự thành công tạm thời cũng như rốt ráo là vì trong quá khứ khi các Đức Phật Dược Sư còn là các vị Bồ Tát, các Ngài đã thệ phát những đại nguyện rất lớn lao đối với chúng sinh, các Ngài đã hứa là trong thời mạt pháp khi các giáo huấn của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni suy tàn, các Ngài sẽ làm cho tất cả lời cầu nguyện của chúng sinh đều trở thành hiện thực. Các Ngài đã phát khởi một quyết tâm mãnh liệt đạt giác ngộ vì tâm nguyện này; đây là động cơ thiền định cũng như sự hiện thực hóa con đường tu giác ngộ của các Ngài.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà năm sự suy thoái (tâm thức suy thoái, tuổi thọ suy thoái, chúng sinh suy thoái, thời đại suy thoái và nhận thức suy thoái) đang phát triển mạnh. Về cơ bản thì do sự suy thoái của tâm thức mà dẫn đến tất cả các sự suy thoái khác. Tham lam, sân hận, si mê và các mê lầm khác đang gia tăng vì chúng sinh không tu tập phát triển tâm linh.
Điều này dẫn tới sự suy thoái tuổi thọ, khiến cho tuổi thọ trung bình ngày càng ngắn hơn. Vài ngàn năm trước, đa số con người đều sống được trăm tuổi, và trước đó nữa người ta sống lâu hơn nhiều. Những con người đầu tiên sống đến nhiều ngàn năm trong [môi trường] tương đối hòa bình và hạnh phúc. Ngày nay, hầu hết con người chỉ sống được sáu mươi hay bảy mươi tuổi. Sự suy thoái tuổi thọ này là do suy thoái tâm thức.
Sự suy thoái tâm thức cũng đã dẫn tới sự suy thoái của chúng sinh, tâm chúng sinh trở nên rất bướng bỉnh và khó điều phục; họ rất khó tu tập nhẫn nhục, nhân ái, từ bi, vân vân... Dù có nhận được sự giảng giải cần thiết, họ cũng không có khả năng thực hành Pháp, hay thấy là rất khó tu tập. Vì tâm họ bất an, không được điều phục, nên dù có được nghe giảng họ cũng không thể hiểu được Chánh pháp.
Sự suy thoái về thời đại được thấy rõ qua việc ngày càng có nhiều cuộc chiến tranh, tranh chấp giữa các quốc gia cùng với các thiên tai như động đất, hạn hán, nạn đói và dịch bệnh.
Sự suy thoái tâm thức cũng dẫn tới sự suy thoái về nhận thức, quan điểm. Ngày càng có ít người tin vào chân lý và càng có nhiều người tin vào những lời nói dối và giảng giải sai trái. Khi có ai đó nói ra chân lý một cách chân thành từ trái tim thì những người khác thấy là khó hiểu hay khó tin; nhưng khi người ta nói dối thì người khác lại thấy rất dễ tin. Ở đây chúng ta đang nói đến chân lý tương đối, không phải chân lý tuyệt đối. Con người cũng ôm giữ những quan điểm sai trái, chẳng hạn như cho rằng đạo đức không phải là nhân của hạnh phúc và phi đạo đức không phải là nhân của khổ đau. Họ sẵn sàng chấp nhận những giải thích sai lầm về nguyên nhân của hạnh phúc và khổ đau nhưng lại thấy khó hiểu hay không tin vào những sự giảng giải chân chánh. Con người cũng thấy khó hiểu được về chân lý tuyệt đối.
Vì năm sự suy thoái lan tràn khắp nơi nên nhiều loại bệnh mới xuất hiện và các triệu chứng bệnh cũng thay đổi. Các bác sĩ gặp khó khăn khi chẩn đoán các bệnh mới và không biết cách chữa trị. Những điều này hoàn toàn đúng như Đạo sư Liên Hoa Sinh (Guru Padmasambhava) dự báo cách đây hơn ngàn năm!(Trích huấn từ Lama Zopa)
Cầu nguyện cho những hành giả đầy tính tâm nhận được ân phúc gia trì để tịnh hóa mọi chướng ngại bên trong ,bên ngoài và bí mật
Con xin đảnh lễ dưới chân ngài !
Tadyatha Om bekanze bekanze maha bekanze radza samud rate So ha
Trong hình ảnh có thể có: thực vật, hoa và thiên nhiên
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...16386_n.md.jpg
https://www.facebook.com/drikung.kagyud.dharma.raja/
-
Hành Giả Kim Cương Thừa
3 Tháng 2 2015 ·
Oai lực của thần chú Chuẩn Đề là bất khả tư nghì, như đã nói, bảy trăm ức Đức Phật quá khứ nhờ trì niệm thần chú này mà thành tựu Phật đạo. Cũng theo kinh Chuẩn Đề: “Người trì tụng thần chú này đủ chín mươi muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, tứ trọng và ngũ nghịch. Nhẫn đến các nhà thế tục nào bất luận tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm trì tụng thần chú, liền được tiêu trừ tai nạn, bệnh hoạn và tăng nhiều phước thọ. Tụng đủ bốn mươi chín ngày, liền được Bồ tát sai hai vị Thánh giả để thường phò hộ người ấy trong những lúc đi đứng nằm ngồi”.
Con nay trì chú Chuẩn Đề
Lạy xin Phật Mẫu phù trì xót thương
Tiêu trừ bệnh tật tai ương,
Toàn gia, Toàn quốc ninh khang thịnh cường
Thiện tăng trí tuệ mở mang
Phúc sinh tội diệt, nghiệp oan đoạn trừ
Mai sau chứng quả bồ đề
Tràng phan nguyện Phật tiếp về Tây phương
Thân vàng ngọc tướng đoan nghiêm
Hào quang chiếu sáng hương thiên ngạt ngào
Nguyện xin độ khắp muôn loài
Đồng đăng giác ngạn đời đời tiêu dao.
Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề câu chi nẫm, đát đát điệt tha: Án – Chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha
Namo saptanam Samyaksam Buddha Kutinam .Tadyatha Om Sale Sule Sundde Svaha
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Câu chuyện vui buồn trong đạo Pháp !
Kính lễ chư Thương Sư !
Kính thưa chư hành giả ,thật ra câu chuyện nầy tôi không muốn kể cho ai nghe vì tôi biết câu chuyện nầy sẽ có người cho rằng tôi hư cấu ngụy tạo .Nhưng tôi nghĩ nếu câu chuyện nầy nếu giúp ít cho dù chỉ một người thì cũng còn hơn là sự im lặng.Câu chuyện về phạm Thái Tuế.Tôi có một người học trò rất tin vào Phật Pháp chỉ có một nghiệp rất nặng là uống rượu rất nhiều do tính chất công việc .Năm ấy cậu ta 25 tuổi nhưng danh tiếng và tiền bạc không thiếu một thứ gì.Đầu năm cậu ấy đến gặp tôi sau cốc trà ,tôi nói năm nay cậu sao và tuổi không được tốt .Cậu ta cười và nói " Thưa thầy họa hay phúc trong nhà Phật không phải đều do nhân quả sao ?".Tôi chỉ cười và nói "còn một yếu tố cậu quên rồi đó là duyên ".Thật ra chuyện năm tốt năm xấu trong đạo Phật không quan trọng nhưng chúng ta chưa hoàn toàn thoát khỏi lục đạo nên tin là có vẫn hơn.Cậu ấy hỏi tôi thế theo thầy con nên làm gì ? Tôi khuyên cậu thực hành thật nhiều thiện hạnh ,đeo bổn tinh phù,bố thí ,làm lễ hộ ma .Tuyệt đối không được uống rượu và không nên đi về hướng Tây (Năm đó Thái Tuế ở hướng Tây) và nhà cậu ấy mặt ở hướng Tây.Cậu ấy tròn mắt nhìn tôi và nói " không uống rượu khó quá thầy " Tôi nói vậy thì tháng 7 không uống được không ? Cậu ấy nói 1 tháng thì được .Câu chuyện kết thúc ở đó ,cho đến ngày mẹ cậu ấy gọi điện nhờ tôi cầu an cho cậu ấy ,vì cậu ấy đang cấp cứu ở bệnh viện và không biết sống chết thế nào.Hôm đó là 14 tháng 7 âm lịch,cậu ta đi ăn cổ ở Miền Tây .Một sự lạ lùng và bất ngờ trên xe cậu ấy có 4 người thì toàn là bạn học cùng tuổi .Đến 24h ngày hôm đó sau 7h vật lộn với tử thần cậu ấy đã tỉnh nhưng 3 người bạn của cậu ấy thì đã ra đi mãi mãi ở cái tuổi vô cùng đẹp.Om Mani Padme Hum.
Sau nầy cậu ấy nói với tôi cậu ấy sống được là nhờ tháng đó cậu ăn chay và phóng sanh rất nhiều cá ,khi xe lao xuống cầu tất cả những người bạn cậu đều la thất thanh , chỉ có cậu là tay cầm hộ mệnh phù và niệm Om Marici Soha.
Bồ tát cứu cậu ta hay chính cậu ta cứu cậu ta ? tùy quý vị hiểu .Om Mani Padme Hum
Cầu cho bánh xe pháp thường chuyển
Phật Pháp mãi trường tồn
Ta bà thế giới thành tịnh độ
Chấm dứt luân hồi hết khổ đau.
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
-
Trong quá khứ, khi đang còn tu học, Đức Kim Cương Tát Đỏa từng phát lời thệ nguyện như sau:
“Trong tương lai, khi ta chứng đắc Phật quả Toàn hảo, nguyện cho những ai phạm phải ngũ trọng tội với quả báo nhãn tiền, hoặc bất kỳ ai bị bể giới nguyện Tam muội da, đều được tịnh hóa hoàn toàn mọi hành động tổn hại và sự hủy phạm giới nguyện nếu nghe được tên ta, niệm tưởng đến ta hay nhất tâm trì tụng Chân ngôn Trăm âm, chân ngôn tối thắng uy lực trong hết thảy mật chú! Chừng nào chưa thành tựu như vậy, ta nguyện còn trong luân hồi sinh tử! Nguyện ta sẽ thị hiện trước tất cả những ai lỡ hủy phạm và bể giới để tịnh hóa cho họ mọi bệnh tật, phiền não, chướng ngại!”
Vì những sức mạnh và uy lực như vậy, lời thệ nguyện giác ngộ của Đức Kim Cương Tát Đỏa vô cùng độc đáo và khác biệt so với lời thệ nguyện của các vị Phật khác. Về bản chất sâu xa, Đức Kim Cương Tát Đỏa là hiện thân của một trăm bộ Phật, ngũ bộ Phật cùng hết thảy Như Lai không phân biệt. Bởi Ngài là bậc Tối thắng chủ của một trăm Phật bộ và độc Phật bộ Đại mật, ngài không giống với bất cứ bản tôn nào khác. Bất cứ ai đều có thể thành tâm sám hối bằng cách đối trước bất cứ Đức Phật nào trong mười phương chư Phật, quán tưởng chư Phật trong cõi Tịnh độ của các Ngài. Nhưng, cách quán tưởng thù thắng nhất được khuyên nên thực hành, đó là hành giả thực hành sám hối bằng cách quán tưởng bậc Thượng sư của mình bất khả phân với Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, từ Ngài hiện khởi hết thảy Mạn đà la giác ngộ và hết thảy Mạn đà la giác ngộ lại thể nhập nơi Ngài.
OM BENZA SATOA, SAMAYA MANU PALAYA, BENZA SATOA, TENO PATISTA, DRIDO ME PHAVA, SUTO KAYO ME PHAVA, SUPO KAYO ME PHAVA, ANU RAKTO ME PHAVA, SARVA SIDI ME PRA YACHA, SARVA KARMA SUCHA ME CHI TAN SRIYAN KU RU, HUNG HA HA HA HA HO, PHAGAVAN SARVA TATHAGATA, BENZA MA ME MUNCHA, BENZI PHAVA, MAHA SAMAYA SATOA A.
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
TỊNH HÓA KIM CANG TÁT ĐỎA (Cho người chưa thọ quán đảnh)
Phương pháp tịnh hóa Kim Cang Tát Đỏa là một pháp tu vô cùng độc đáo và vi diệu của kim cang thừa.Khi ba nghiệp thân khẩu ý của hành giả chạy theo lối sống của THƯỜNG NGHIỆP VÀ HUÂN TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI.Chúng ta sẽ trở nên thô nặng : lời nói thô nặng,thân thể bệnh tật ,ý nghĩ làm bề tôi cho những xúc tình tiêu cực.
Chúng ta nên trở về nương tựa hạnh nguyện của đức Thế Tôn Kim Cang Tát Đỏa để tịnh hóa những ô nhiễm làm cản trở trên bước đường tu tập .Giúp cho cuộc sống chúng ta gặp đầy những thiện duyên lành,các luân xa đang bị bế tắc được khai thông tâm của chúng ta ngập tràn những yêu thương và đầy vị tha.Phương pháp nầy được khuyến khích trì niệm 21 lần trong ngày để tịnh hóa những ác hạnh trong cuộc sống và thực hành 100 000 lần để tịnh hóa ác hạnh làm che mờ tuệ tâm.Từng bước thực hiện như sau :
Qua sự tập luyện chín hơi thở hay chín vòng để thanh lọc (nine-breath or nine-round purification practice), chúng ta nên cố tống xuất những luồng khí ô nhiễm của chúng ta. Những khí lực ô nhiễm trợ lực cho sự phát triển vọng tưởng thì thường chảy trong huyệt đạo bên phải. Bởi thế ta cần làm bế tắc huyện đạo bên phải. Trước hết, hãy đặt đầu ngón cái trái ở dưới gốc ngón tay đeo nhẫn bên trái, rồi làm thành một nắm tay bằng cách khép bốn ngón lại chồng lên ngón cái. Ta hãy dùng nắm tay trái này để đè lên bên cạnh sườn phải, làm cho nắm tay nằm ngang cùi chỏ phải, thẳng hàng với nách.
Kế tiếp, ta cũng nắm bàn tay phải lại như thế, nhưng chừa ngón trỏ duỗi ra. Với bàn tay này đưa qua lỗ mũi bên trái, ta dùng phía móng (bề lưng) của ngón trỏ phải để ép cho bít lỗ mũi trái. Rồi từ từ hít vào bằng lỗ mũi phải, quán tưởng năng lực gia trì của chư Phật và Bồ tát đang tuôn vào trong ta qua lỗ mũi phải dưới dạng ánh sáng trắng rực rỡ. Ta nên cảm giác như đấy là phúc lành của chư Phật, Bồ Tát rót vào tâm ta. Hơi thở vào của chúng ta phải thật sâu, trọn vẹn và ta nên giữ nó lại càng lâu càng tốt.
Khi thở ra, ta dời ngón tay trỏ phải qua lỗ mũi bên phải của ta, bít nó lại bằng bề mặt của ngón trỏ phải. Đoạn ta nên từ từ thở ra cho hết không khí qua lỗ mũi trái, làm ba hơi liên tiếp bằng nhau qua lỗ mũi trái. Khi thở ra, ta hãy quán tưởng tất cả khí bất tịnh, nhất là những luồng khí bên trái cơ thể ta, đang được tống ra dưới hình dạng một luồng khói đen.
Với ngón trỏ phải của chúng ta vẫn đang bít lỗ mũi phải, bây giờ ta nên hít vào bằng lỗ mũi trái, thực chậm và sâu, vừa quán tưởng tất cả năng lực gia trì của chư Phật, Bồ tát đang ùa vào trong ta dưới dạng ánh sáng trắng rực rỡ. Ta cũng nên tưởng như ân phước của chư Phật, Bồ tát đang gia trì cho tâm ta. Ta nên duy trì cảm giác ấy, giữ hơi thở vào của mình càng lâu càng tốt, cho tới khi nào ta cảm thấy khó chịu.
Muốn thở ra, ta hãy di chuyển ngón trỏ phải của ta qua lỗ mũi trái như trước. Từ lỗ mũi phải của chúng ta, ta thở ra ba hơi liên tiếp bằng nhau để tống xuất tất cả khí bất tịnh dưới dạng khói đen. Như vậy ta lọc được khí bất tịnh nhất là những khí từ phía phải của cơ thể.
Ba vòng thở cuối cùng được thở ra bằng cả hai lỗ mũi đồng thời. Bấy giờ hai bàn tay ta có thể đặt trong tư thế ngồi thiền - nghĩa là hai bàn tay ngửa ra, tay phải đặt trên tay trái, hai đầu ngón cái chạm nhau. Những bàn tay được đặt trong tư thế ấy sát vào thân mình, nằm ngay dưới rốn.
Ta hít vào từ từ bằng ca hai lỗ mũi, quán tưởng ánh sáng trắng như trên, rồi thở ra trong ba hơi liên tiếp bằng nhau, trong lúc thở ra ta quán tưởng ân phước của chư Phật, Bồ tát đang rót vào tâm ta, làm cho tâm ấy rất an tịnh. Khi thở ra, ta nên nghĩ rằng từ những huyệt đạo bên phải, bên trái và những huyệt đạo phụ thuộc, những khí bất tịnh đang đi ra. Khi hơi thở ra thứ chín cuối cùng đã hoàn tất, ta nên quán tưởng rằng tất cả những luồng khí trong thân thể ta bây giờ đã được thanh lọc. Thân thể ta có cảm giác rất dẽo dai và thoải mái.
Sau khi hoàn tất chín vòng thở thanh lọc khí ô nhiễm chúng ta quán tưởng hình ảnh đức Kim Cang Tát Đỏa trên đỉnh đầu đang nhìn vào hành giả ( chỉ cần khởi ý niệm không cần rõ lắm).Với tâm chí thành chúng ta khởi niệm.
Trên đỉnh đầu con Thượng Sư an tọa
Ngài bất khả phân với Vajrasattoava( Kim Cang Tát Đỏa)
Từ ngài dòng cam lộ tuôn chảy
Tịnh hóa tam độc ,chướng nạn và bệnh tật.
Sau đó trì chú
OM BENZA SATOA, SAMAYA MANU PALAYA, BENZA SATOA, TENO PATISTA, DRIDO ME PHAVA, SUTO KAYO ME PHAVA, SUPO KAYO ME PHAVA, ANU RAKTO ME PHAVA, SARVA SIDI ME PRA YACHA, SARVA KARMA SUCHA ME CHI TAN SRIYAN KU RU, HUNG HA HA HA HA HO, PHAGAVAN SARVA TATHAGATA, BENZA MA ME MUNCHA, BENZI PHAVA, MAHA SAMAYA SATOA A.( 1 lần 3 lần ....21 lần)
Cuối cùng chúng ta đọc
Đức Thượng Sư cùng Kim Cang Tát Đỏa tan vào ánh sáng tan và trong con.
Trì OM BENZA SATTOA HUM ( 108 LẦN)
Hành giả trụ trong trạng thái an lạc đó càng lâu càng tốt .
Cuối cùng đem công đức vừa thực hành được hồi hướng cho vô lượng chúng hữu tình.
Nguyện đem công đức nầy
Hồi hướng cho tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Đạo sư Padma nói: Tam Bảo không cần một chút gì trong chén nước hay sự tôn kính. Mục tiêu của việc cúng dường là để cho con nhận được những tia sáng quang minh của chư Phật.
Về việc cúng dường những thức ăn uống tốt nhất, hãy làm ba mâm và trì tụng OM AH HUM ba lần. Hãy tưởng tượng đồ cúng dường của con nhờ đó mà trở thành một đại dương cam lồ. Sau đó, quán tưởng Bổn Tôn của con được bao quanh bởi vô số chúng hội Tam Bảo và tưởng tượng con dâng cúng cam lồ này, khẩn cầu tất cả các Ngài thọ nhận. Nếu con không thể dâng cúng theo cách này, hãy chỉ làm một cúng dường vừa và nói: Xin Tam Bảo chấp nhận cho!
Nếu con không có gì để cúng dường, ít nhất con phải dâng những chén nước mỗi ngày. Nếu không làm thế, nguyện quy y của con sẽ hư hao.
Tam Bảo không cần những phẩm vật cúng dường như chúng sanh. Lễ cúng thực phẩm là để con tích tập công đức mà không trụ chấp.
2- Tu hành thứ hai là không bỏ Tam Bảo cao cả dù con có mất thân, mất mạng hay mất một vật gì quý báu.
Không từ bỏ quy y dù vì chính thân thể con: thậm chí có ai dọa móc mắt, chặt chân, cắt mũi, cắt tai hay cánh tay con, con cứ để họ làm còn hơn là phải từ bỏ Tam Bảo.
Không từ bỏ quy y dù với cái giá là đời sống của con: thậm chí có ai dọa giết con, con cứ để họ làm còn hơn là phải từ bỏ Tam Bảo.
Không từ bỏ quy y vì một món quà tặng quý giá : thậm chí nếu con được hứa cho toàn thể thế giới với châu báu để đổi lấy sự từ bỏ quy y. con cũng chớ chối bỏ quy y.
3- Tu hành thứ ba là bất kể cái gì xảy đến cho con, dù bệnh tật, nhọc nhằn, thoải mái, hạnh phúc hay đau buồn, con nên lập một mạn đà la với năm loại đồ cúng và dâng cúng Tam Bảo, rồi phát nguyện quy y và khẩn cầu như sau:
Đạo sư thiêng liêng, bậc trì giữ kim cương vĩ đại, tất cả chư Phật và chư Bồ Tát, xin lắng nghe con! Cầu mong bệnh tật của con và bất cứ cái gì gây ra bởi những hồn linh và những thế lực bất thiện đều không xảy đến. Xin ban an bình, thiện lành và tốt đẹp.
Ngoài những điều này cũng nên tích tập công đức bằng cách tụng tán kinh điển lớn tiếng và làm những lễ cúng dường, vì những thực hành như vậy là những cái căn bản để quy y. Nếu không được như ý thì chớ sanh những tà kiến, nghĩ rằng Tam Bảo không ban phước, Pháp không thật ! Trái lại hay nghĩ tôi sẽ cảm thấy tốt hơn khi nghiệp xấu của tôi đã cạn kiệt. Không nên theo đuổi những cách khác như bói toán, phù thủy, mà chỉ nên thực hành quy y.
4- Dù con đi về phương hướng nào, hãy nhớ chư Phật và chư Bồ Tát, hãy cúng dường và quy y. Chẳng hạn, nếu ngày mai con đi về hướng đông, thì hôm nay làm một mạn đà la và cúng dường, quy y chư Phật, chư Bồ Tát của phương đó.
Con nên khẩn cầu như sau trước khi đi:
Đạo sư bậc trì giữ kim cương, tất cả chư Phật và chư Bồ Tát, xin hãy nghe con ! Xin ngăn chặn những chướng ngại do người và loài chẳng phải người gây ra và làm cho mọi sự đều tốt lành từ lúc con rời khỏi nơi này cho đến nơi con đến.
Nếu không làm điều này vào ngày trước khi khởi hành thì con phải làm vào lúc khởi hành.
Vào lúc quy y, nếu con không nhớ thọ quy y trong mười hoặc bảy bước khi đi qua ngưỡng cửa thì sự quy y của con bị hao tổn.
Một khi tâm con đã giao phó cho sự quy y, con sẽ không thể bị lầm lạc.
5- Hãy nghĩ đến những phẩm tính tốt của quy y và thực hành nó thường xuyên. Đã quy y Tam Bảo hãy xem đó là nơi chốn của hy vọng và niềm tin. Hãy giữ gìn Tam Bảo như nguồn quy y duy nhất và hãy khẩn cầu các Ngài. Hãy cầu sự ban phước của Tam Bảo.
Hãy nghĩ rằng biểu trưng của Tam Bảo, hoặc một bức hình, một tượng tạc, một bức vẽ, một cái tháp, một cuốn kinh, chính là Pháp thân. Có thể khi lễ lạy, cúng dường, cầu nguyện thình lình con chứng ngộ bản tánh của Pháp thân. Dù điều đó không xảy ra, bằng cách đảnh lễ cúng dường Tam Bảo và tạo nên một mối nối kết nghiệp báo, người ta sẽ trở thành đệ tử của một vị Phật tương lai.
Trích Giáo Huấn Dakini
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...56098845_n.jpg
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
ĐỨC PHẬT THUYẾT KINH PHÁP DIỆT TẬN
Trích từ sao lục của SENG YU Bản dịch Hán văn: Vô danh
Đại Chánh Tạng Quyển 13 Hịệt 1118 Số 396 Niết Bàn Bộ
Bản dịch Anh ngữ: Tỷ-khưu THÍCH HẰNG THẬT Vạn Phật Thánh Thành - Hoa Kỳ
Bản dịch Việt ngữ: THÍCH NHUẬN CHÂU (Tịnh thất Từ Nghiêm, Đại Tòng Lâm)
Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành đối chiếu Hán văn và hiệu đính
Kệ khai kinh
Phật pháp cao siêu rất thẳm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tầm cầu.
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Như thật tôi nghe, một thời Đức Phật ở thành Câu-thi-na. Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ. Thế tôn tĩnh lặng , ngài không nói một lời và hào quang không xuất hiện. Ngài A-nan cung kính đảnh lễ và hỏi:
“Bạch Thế tôn, từ trước đến nay khi nào Thế tôn thuyết pháp, ánh sáng oai nghi của Thế tôn đều tự nhiên xuất hiện, nhưng hôm nay trong đại chúng, không thấy ánh hào quang ấy từ Thế tôn tỏa ra nữa, chắc hẳn có nhân duyên gì, chúng con mong muốn nghe Đức Thế tôn giảng giải.”
Đức Phật vẫn im lặng không trả lời, cho đến khi A-nan cầu thỉnh đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo A-nan:
“Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục , ưa thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau.
“Vào lúc ấy, sẽ có các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán hết sức tôn kính, siêng năng tu đức, được mọi người kính trọng tiếp đãi., họ đều giáo hóa bình đẳng. Những người tu đạo này thường cứu giúp kẻ nghèo, quan tâm người già, cứu giúp người gặp cảnh nghèo cùng khốn ách. khuyến khích mọi người thờ phượng, hộ trì kinh tượng. Họ thường làm công đức, hết lòng từ bi làm lành, không hại kẻ khác. hy sinh giúp đỡ không tự lợi mình , thường nhẫn nhục nhân hòa.
“Nếu có những người như vậy, thì các tỷ-khưu tà ma đều ganh ghét họ, ma quỷ sẽ nổi ác phỉ báng, xua đuổi trục xuất các vị tỷ-khưu chân chính ra khỏi tăng viện. Sau đó, các tỷ-khưu ác ma này không tu đạo đức, chùa chiền tu viện sẽ bị hoang vắng, cỏ dại mọc đầy. Do không chăm sóc bảo trì, chùa chiền trở thành hoang phế và bị lãng quên, các tỷ-khưu ác ma sẽ chỉ tham lam tài vật tích chứa vô số của cải không chịu buông bỏ, không tu tạo phước đức.
“Vào lúc đó các ác ma tỷ-khưu sẽ buôn bán nô tỳ để cày ruộng, chặt cây đốt phá núi rừng, sát hại chúng sanh không chút từ tâm. Những nam nô trở thành các tỷ-khưu và nữ tỳ thành tỷ-khưu ni không có đạo đức, dâm loạn dơ bẩn, không cách biệt nam nữ. Chính những người này làm đạo suy yếu phai dần. Những người chạy trốn luật pháp sẽ tìm đến quy y trong đạo của ta, xin làm sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng cuối tháng tuy có tụng giới, nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do lười biếng và phóng dật, không còn ai muốn nghe nữa. Những ác sa-môn này sẽ không muốn tụng toàn văn bản kinh, tóm tắt đoạn đầu và cuối bản kinh theo ý của họ . Chẳng bao lâu, việc tụng tập kinh điển cũng sẽ chấm dứt. Cho dù vẫn còn có người tụng kinh, nhưng họ lại không hiểu câu văn. vẫn khăng khăng cho họ là đúng, tự phụ, kiêu căng mong cầu danh tiế ng , ra vẻ tao nhã để mong cúng dường.
Khi mạng căn của các ma ác tỷ-khưu này chấm dứt, thần thức của họ liền đọa vào địa ngục A-tỳ. Đã phạm phải 5 tội trọng, nên họ phải tái sinh liên tục chịu khổ trong loài quỷ đói và súc sinh. Họ sẽ nếm những nỗi thống khổ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng. Khi tội hết, họ sẽ tái sinh ở những vùng biên địa, nơi không có Tam bảo lưu hành.
“Khi chánh pháp sắp biến mất, phụ nữ sẽ trở nên tinh tấn và thường làm việc công đức. Đàn ông sẽ trở nên lười biếng và sẽ không còn ai giảng pháp . Những vị sa-môn chân chính sẽ bị xem như đất phân và không ai tin ở các vị ấy nữa. Khi chánh pháp sắp suy tàn, chư Thiên sẽ bắt đầu khóc lóc, sông sẽ khô cạn và năm thứ cốc loại không chín (mất mùa, đói kém). Bệnh dịch thường xuyên xảy ra, cướp đi vô số mạng người. Dân chúng phải làm việc cực khổ, quan chức địa phương mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý, đều ưa thích rối loạn. Người ác gia tăng nhiều như cát dưới biển, người thiện rất ít, hầu như chỉ có được một hoặc hai người.
“Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc . Đàn ông dâm dục, cạn kiệt tinh dịch nên sẽ chết trẻ, thường là trước 60 tuổi. Khi mạng sống của nam giới giảm, thì mạng sống cuả nữ giới tăng đến 70, 80, 90 hoặc đến 100 tuổi.
«Những dòng sông lớn sẽ dâng cao bất thường không đúng với chu kỳ tự nhiên, nhưng con nguời không để ý hoặc không quan tâm. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều bình thường. Người các chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi nổi như cá rùa kiếm ăn .
«Lúc đó các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán bị chúng ma xua đuổi trục xuất không còn cùng dự trong chúng hội . Giáo lý Tam thừa vẫn được lưu hành ở vùng hẻo lánh, những người tu tập vẫn tìm thấy sự an lạc và thọ mạng kéo dài. Chư thiên sẽ bảo vệ và mặt trăng sẽ chiếu sáng họ, giáo pháp Tam thừa sẽ có dịp hòa nhập và chính đạo sẽ hưng thịnh. Tuy nhiên, trong năm mươi hai năm, kinh Thủ-lăng-nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi trước tiên rồi biến mất. Mười hai bộ kinh sau đó sẽ dần dần bị tiêu trầm cho đến khi hoại diệt hoàn toàn và không bao giờ xuất hiện lại nữa. Văn tự kinh điển sau đó hoàn toàn không được biết đến, giới y của sa-môn sẽ tự bị biến thành màu trắng.
«Khi giáo pháp của ta sắp biến mất, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi tàn lụi, chánh pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn. Từ đó về sau khó nói chắc được điều gì sẽ xảy ra.
«Thời kỳ này sẽ kéo dài suốt mười triệu năm. Khi Đức Di-lặc sắp thị hiện ở thế gian để thành vị Phật tiếp theo, các cõi nước đều được hoàn toàn an vui. Khí độc sẽ bị tiêu tán, mưa nhiều và đều đặn, n ăm thứ cốc loại tươi tốt , cây cối sum suê cao lớn, và loài người sẽ cao đến tám trượng (hơn 24 mét) tuổi thọ trung bình của con người sẽ đến 84.000 năm, chúng sanh được độ khó có thể tính đếm được.»
Ngài A-nan thưa thỉnh Đức Phật :
«Bạch Thế tôn, chúng con nên gọi Kinh này là gì, và làm thế nào để phụng trì kinh ấy?»
Đức Phật bảo :
«Này A-nan, kinh này gọi là Pháp Diệt Tận. Hãy dạy cho mọi người truyền bá rộng rãi kinh này. Những ai truyền bá kinh nầy, công đức của những người ấy không thể nghĩ bàn, không thể nào tính đếm được.»
Khi bốn chúng đệ tử nghe nói kinh này rồi, họ đều rất đau lòng và buồn tủi, mỗi người đều phát tâm tu đạo để đạt đến quả vị Thánh tối thượng, họ cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.
HẾT
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
OM MUNI MUNI MAHA MUNI YE SO HA
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Hung ! cỏi tịnh cực lạc chuyển pháp luân
Thường hằng từ bi độ hữu tình
Thệ nguyện cứu hộ chư chúng sanh
Đỉnh lễ đức Phật Vô Lượng Quang
OM AMI DEWA HRIH
Thần chú đức Phật A Di Đà chứa đựng tinh túy trí tuệ cỏi Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc .Khi chí thành trì tụng hàng ngày không những tạo nhân duyên sanh cực lạc mà quý vị còn tịnh hóa môi trường xung quanh chổ ở .Tất cả nghiệp chứng ,oan gia trái chủ ,những tinh linh xấu ác ,phong thủy bất tường sẽ được tịnh hóa.Chúc quý vị cùng gia quyến sống trong ánh sáng vô lượng của đức Phật A Di Đà
https://uphinhnhanh.com/images/2017/...69460570_n.jpg
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
THẬP TRỤ VỊ cũng gọi là Thập Địa Trụ hay Thập Pháp Trụ hoặc gọi là Thập Giải. Xuyên qua quá trình tu tập của Bồ Tát, Thập Trụ Vị đây là một trong 50 ngôi vị hành trì. Thập Trụ Vị là chỉ từ ngôi vị thứ 11 cho đến ngôi vị thứ 20. Sau khi trang bị xong chất liệu Thập Tín Vị để tu tập. Hành Giả bắt đầu khởi điểm Thập Trụ Vị để tiến hành. Thập Trụ Vị gồm có:
1.- SƠ PHÁT TÂM: cũng gọi là Phát Ý Trụ. Sơ Phát Tâm Trụ nghĩa là an trụ vào nơi Sơ Phát Tâm làm căn bản tu tập, tức là y cứ vào khởi điểm của sự Phát Tâm để tu tập. Phát Ý Trụ nghĩa là an trụ vào chỗ phát khởi Tâm Ý làm mục đích. Để an trụ căn bản vào nơi Sơ Phát Tâm, Bồ Tát trước hết phải tiến tu các phần Thiện căn và đồng thời sử dụng các phương tiện chân thật để phát khởi Tâm niệm của Thập Trụ. Kế đến, Bồ Tát đem Tín Tâm đó phụng sự Tam Bảo, thường căn cứ vào 84,000 Bát Nhã Ba La Mật Đa để tu tập tất cả hạnh lành của tất cả Pháp Môn. Ngoài ra, Bồ Tát còn phải thường xuyên phát khởi Tín Tâm để không tạo nên những Tà Kiến, không phạm bởi những Thập Ác (1), Ngũ Nghịch (2), Bát Đảo (3) và không cho sanh vào nơi tai nạn. Hơn nữa Bồ Tát thường nên nghiên cứu Phật Pháp để được học rộng biết nhiều và cũng thường nên cần cầu nhiều phương tiện hành trang để sớm được vào cõi Không, để được an trụ vào nơi tánh Không. Đồng thời Bồ Tát còn sử dụng Tâm Trí của lý Không đã đạt được đó ra công tu tập Pháp Môn của Cổ Phật và khiến cho tất cả công đức đều được phát sanh từ nơi Tâm Trí nói trên. Đây là công hạnh của Sơ Phát Tâm Trụ.
2.- TRÌ ĐỊA TRỤ: cũng gọi là Trị Địa Trụ. Trị Địa Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự sửa trị, còn Trì Địa Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự hành trì. Để an trụ vào nơi Trì Địa, Bồ Tát nương theo cái Tâm Không đã đạt được để thanh tịnh 84,000 Pháp Môn. Tâm Thanh Tịnh sáng suốt đó cũng giống như Ngọc lưu ly hiện ra vàng rồng. Do bởi Diệu Tâm phát khởi, Bồ Tát mới tiêu trừ được những tội lỗi nghiệp chướng nên gọi là Trì Địa Trụ.
3.- TU HÀNH TRỤ: cũng gọi là Ứng Hành Trụ. Tu Hành Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự hành trì tu tập. Ứng Hành Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự du hành để khất thực (Ứng cúng). Bồ Tát đã đầy đủ Trí Tuệ thông minh sáng suốt của Sơ Pháp Tâm Trụ và Trì Địa Trụ thì có thể du hành khắp mười phương không bị chướng ngại. Đây là chỉ cho sự thành quả tu tập của Tu Hành Trụ.
4.- SANH QUÍ TRỤ: Sanh Quí Trụ nghĩa là Bồ Tát nhờ Diệu hạnh của Tu Hành Trụ ở trước nên kết hợp được Diệu Lý nơi chốn U Minh (Thế Giới Nội Tâm), tức là Bồ Tát sẽ thực thụ sanh vào nơi Diệu Lý đó và sẽ được làm Pháp Vương Tử con của nhà Phật. Diệu Hạnh đối với tánh Phật thì không khác nhau và sẽ thọ nhận một phần khí chất của tánh Phật để làm trợ duyên cho sự sanh khởi. Trường hợp này cũng giống như Thân Trung Ấm của một chúng sanh tự cầu nơi cha mẹ và sẽ nhập vào hạt giống của đức Như Lai để làm nhân duyên cho sự chuyển sang kiếp sau được sanh trong nhà Như Lai. Nguyên do nơi cõi U Minh (Thế Giới Nội Tâm), Diệu hạnh của Bồ Tát đã có đức tin vững chắc thì nhất định sẽ được dung thông và cũng sẽ được hội nhập để kết thành nhân duyên cho kiếp sau. Đây là ý nghĩa của Sanh Quí Trụ.
5.- PHƯƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ: cũng gọi là Trụ Thành Trụ. Phương Tiện Cụ Túc Trụ nghĩa là an trụ vào các phương tiện đầy đủ, tức là Bồ Tát đã trang bị đầy đủ các phương tiện. Tu Thành Trụ nghĩa là an trụ vào sự kết quả của hạnh tu tập. Bồ Tát đã trang bị đầy đủ các phương tiện tu tập, nghĩa là Bồ Tát đã tu tập đầy đủ vô lượng thiện căn và sử dụng các Thiện Căn đó để làm lợi ích cho mình cũng như lợi ích cho mọi người. Nhờ tu tập vô lượng Thiện Căn, Bồ Tát đạt đến kết quả là thành tựu được Thân Tướng của mình trở nên tròn đầy tốt đẹp và dung mạo của mình lộ nét đoan trang thanh thoát. Đây là chỉ sự thành quả của Phương Tiện Cụ Túc Trụ.
6.- CHÁNH TÂM TRỤ: cũng gọi là Hành Đăng Trụ. Chánh Tâm Trụ nghĩa là an trụ vào Tâm Chân Chánh. Hằng Đăng Trụ nghĩa là an trụ vào sự đi lên. Bồ Tát an trụ vào Chánh Tâm tức là đã thành tựu được Bát Nhã thứ sáu. Bát Nhã thứ sáu là chỉ cho Trí Tuệ Diệu Quan Sát. Sau khi thành tựu được Bát Nhã thứ sáu, Bồ Tát không những chỉ được kết quả là tướng mạo của mình trở nên tốt đẹp tròn đầy trong sáng và còn kết quả hơn nữa là Bản Tâm của Bồ Tát cùng với Phật Tâm đều giống nhau như một. Đây là chỉ cho sự thành quả của Chánh Tâm Trụ.
7.- BẤT THỐI TRỤ: cũng gọi là Bất Thối Chuyển Trụ. Bất Thối Trụ hay Bất Thối Chuyển Trụ đều nghĩa là an trụ vào ngôi vị này thì tâm không còn bị thối chuyển nữa. Bồ Tát an trụ vào ngôi vị Bất Thối tức là đã thể nhập được nơi cứu cánh của Không Giới Vô Sanh. Cứu Cánh của Không Giới Vô Sanh nghĩa là thế giới Không Tướng của Chân Như và thế giới đó rốt ráo không còn dấu vết của sinh tử lưu chuyển nữa. Ở đây Tâm của Bồ Tát thì luôn luôn thực hiện Hạnh nguyện Vô Tướng của Tánh Không Chân Như. Lúc đó Thân và Tâm của Bồ Tát liền hòa hợp lại nhau làm thành một thể. Thân Tâm hòa hợp này mỗi ngày mỗi tăng trưởng thêm lớn. Đây là chỉ cho sự thành quả của Bất Thối Trụ.
8.- ĐỒNG CHƠN TRỤ: nghĩa là non trẻ và trong sạch. Đồng Chơn Trụ nghĩa là an trụ vào thời kỳ thanh tịnh trong trắng. Bồ Tát khi an trụ vào Đồng Chơn tức là lúc đó Thân Tâm hòa hợp của Bồ Tát tự nhiên phát khởi một cách tinh tiến và thuần chánh. Thân Tâm hòa hợp của Bồ Tát phát khởi trước sau đều chuyên nhất và phát khởi không có chút điên đảo mê tưởng. Cho đến Bồ Tát cũng không có dấy niệm tà ma ngoại đạo để phá hoại hạt giống Bồ Đề. Nhờ đấy, cùng một lúc, mười Thân Tướng linh ứng của Phật (5) liền hiện bày đầy đủ trọn vẹn. Đây là chỉ cho sự thành quả của Đồng Chơn Trụ.
9.- PHÁP VƯƠNG TỬ TRỤ: cũng gọi là Liễu Sanh Trụ. Pháp Vương Tử nghĩa là con của Phật. Liễu Sanh Trụ nghĩa là an trụ vào sự chấm dứt lẽ sống chết. Kể từ Sơ Phát Tâm Trụ cho đến Sanh Quí Trụ thứ tư, bốn Trụ nói trên đều được gọi là Bồ Tát mới vào Bào Thai của bậc Thánh, còn từ Phương Tiện Cụ Túc Trụ thứ năm cho đến Đồng Chơn Trụ thứ tám, bốn Trụ kế tiếp đều được gọi là giai đoạn nuôi dưỡng Thánh Thai để sớm được mau lớn. Riêng Pháp Vương Tử Trụ thứ chín là mới chỉ cho Thánh Thai đó đã đầy đủ hình tướng và có thể sanh ra để thành con của Phật, nên gọi là Pháp Vương Tử. Thí dụ này không ngoài mục đích là trình bày Trí Tuệ của Bồ Tát đã được phát sanh từ nơi giáo pháp cao quí của Phật. Nhờ Trí Tuệ đó, Bồ Tát mới đủ khả năng kế thừa Pháp Bảo và đồng thời phát huy ngôi vị của Phật càng thêm rộng lớn. Đây là ý nghĩa của Pháp Vương Tử Trụ.
10.- QUÁN ĐẢNH TRỤ: cũng gọi là Bổ Xứ Trụ. Quán Đảnh Trụ nghĩa là Bồ Tát đã là con của Phật thì nhất định phải có trách nhiệm thi hành các Phật sự. Do đó đức Phật mới dùng nước Trí Tuệ rưới lên đỉnh đầu của Bồ Tát để thọ ký, nên gọi là Quán Đảnh. Thí dụ như, con của vua Sát Đế Lợi thọ nhận quyền uy nơi vua cha bằng cách chịu sự rưới nước phép lên đỉnh đầu của vua cha ban cho. Một vị Bồ Tát khi đạt đến Quán Đảnh Trụ thì đầy đủ ba Biệt Tướng:
a/- ĐỘ CHÚNG SANH: nghĩa là Bồ Tát đó đã đủ khả năng thi hành và có thể thành tựu được mười Chủng Trí (4) để hóa độ chúng sanh.
b/- ĐẠT ĐƯỢC CẢNH GIỚI MẦU NHIỆM: nghĩa là Bồ Tát đó đối với tất cả chúng sanh cũng như đối với Pháp Vương Tử Trụ thứ chín đều có thể trắc nghiệm đo lường được những cảnh giới của họ.
c/- HỌC RỘNG MƯỜI CHỦNG TRÍ: nghĩa là Bồ Tát đó nhất định phải thấu hiểu tường tận và rành mạch tất cả pháp.
Một vị Bồ Tát hoàn thành được ba Biệt Tướng nói trên tức là đã an trụ vào Quán Đảnh của Thập Trụ Bồ Tát.
===========
QUÁ TRÌNH TU TẬP CỦA BỒ TÁT:
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát. Theo Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, 50 Ngôi vị tu tập của Bồ Tát gồm có: Thập Tín Vị, Thập Trụ Vị, Thập Hạnh Vị, Thập Hồi Hướng Vị và Thập Địa Vị.
I.- THẬP TÍN VỊ:
THẬP TÍN VỊ cũng gọi là Thập Tín Tâm, nghĩa là mười đức tin để tu tập của một vị Bồ Tát mà trong đó Tín Tâm đứng đầu. Đây là mười ngôi vị ban đầu vào cửa của bậc Tam Hiền. Theo Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp quyển thượng, Thập Tín Vị gồm có:
1.- TÍN TÂM: nghĩa là nhất tâm quyết định và an vui trong sự tu tập để mong đạt được thành công mà mình đã đặt hết niềm tin vào đó. Đây là đức tin vững chắc của người tu tập. Một vị Bồ Tát đối với Phật Pháp trước hết phải xây dựng đức tin vững chắc, không bao giớ thối tâm lùi bước trước bất cứ một trở lực khó khăn nào lay chuyển và vẫn an vui tự tại trong sự tu tập một khi gặp phải những trở ngại đưa đến. Muốn được thành công ở ngôi vị này. Bồ Tát trong khi tu tập phải diệt cho hết các vọng tưởng của thế gian.
2.- NIỆM TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải thường tu tập về sáu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Bố Thí và niệm các cõi Trời, tức là thường niệm Lục Độ Vạn Hạnh của chư Phật không cho xao lãng.
3.- TỊNH TẤN TÂM: nghĩa là Bồ Tát khi nghe Bồ Tát Tạng phải luôn luôn chuyên cần tinh tấn tu tập các Thiện nghiệp không cho gián đoạn. Bồ Tát Tạng (Bodistsattva-Pitaka) là chỉ cho những Kinh Điển Đại Thừa đề giải thích công hạnh tu nhân và chứng quả của các vị Bồ Tát. Bồ Tát Tạng gồm có các Kinh Điển như là: Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm v.v... đều là những pháp môn tu học của Bồ Tát Tạng.
4.- ĐỊNH TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải thường buộc Tâm của mình an trụ nơi sự tướng và nghĩa lý của Phật Pháp một cách tự tại. Trong lúc tu tập Định Tâm, Bồ Tát phải xa lìa hẳn ý tưởng phân biệt về tất cả pháp giả dối và thô tục của thế gian.
5.- HUỆ TÂM: nghĩa là Bồ Tát khi nghe Bồ Tát Tạng phải nên quán sát, xét đoán và cân nhắc một cách kỹ lưỡng về nghĩa lý của vạn pháp để nhận được tự tánh của muôn pháp đều là thật không và tĩnh lặng. Tự Tánh của vạn pháp thì không có vấn đề Ngã và Nhân, nên gọi là Vô Ngã và Vô Nhân.
6.- GIỚI TÂM: nghĩa là một vị Bồ Tát khi thọ giới luật thanh tịnh của Bồ Tát thì phải giữ gìn Thân Miệng, và Ý cho được thanh tịnh, giữ gìn không cho vi phạm bất cứ những lỗi lầm nào. Bồ Tát nếu như có phạm lỗi thì phải sám hối để cho tội lỗi sớm được tiêu trừ.
7.- HỒI HƯỚNG TÂM: là phương pháp tu tập các thiện căn. Hồi Hướng Tâm nghĩa là Bồ Tát chỉ đem tậm nguyện hướng về nơi quả Bồ Đề làm cứu cánh mà không nguyện hướng về nơi các cõi trong Tam Giới và chỉ đem tâm nguyện hướng về sự bố thí để cứu khổ cho tất cả chúng sanh làm hạnh vị tha mà không mong cầu lợi ích cho mình. Hơn nữa Bồ Tát còn quyết chí đem tâm nguyện hướng về nơi cõi chân thật làm mục đích mà không đắm trước nơi danh tướng giả tạo trong thế gian.
8.- HỘ PHÁP TÂM: nghĩa là đề phòng và bảo hộ bản tâm của mình mà không cho nó phát khởi phiền não. Bồ Tát muốn bảo hộ bản Tâm của mình thì phải tu tập Mặc Hộ (giữ gìn sự tĩnh lặng), phải tu tập Niệm Hộ (giữ gìn chánh niệm), phải tu tập Trí Hộ, (bảo hộ Trí Tuệ), phải tu tập Tức Tâm Hộ (giữ gìn tâm niệm đã dứt các phiền não) và cũng phải giữ gìn năm pháp Hộ Hành khác. Năm pháp Hộ Hành khác cũng gọi là năm Chủng Hạnh. Năm Chủng Hạnh là: Thọ Trì, Đọc, Tụng, Giải Thuyết (Giải thích và thuyết pháp Kinh Luận) và Thơ Tả (Viết sách). Năm thứ này cũng phải giữ gìn thường xuyên.
9.- XẢ TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải xả bỏ tâm niệm yêu tiếc sanh mạng và tài sản của mình. Bồ Tát nếu như đã được tài sản và thân mạng thì có thể xả bỏ một khi cần đến mà không có khởi tâm luyến tiếc hoặc hối tiếc.
10.- NGUYỆN TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải đem tâm phát nguyện luôn luôn tu tập các pháp môn thanh tịnh của chư Phật đã dạy sớm được chứng đắc. Đồng thời Bồ Tát phải có bổn phận khiến cho các pháp môn của chư Phật càng thêm được sáng tỏ và càng thêm được phổ biến khắp mọi từng lớp chúng sanh.
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
Nhân xuân Giáp ngọ kể chuyện Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện trong hình tướng Mã Đầu Minh Vương.Nguyện đem công đức nầy hồi hướng cho những ai có tâm chí thành thanh tịnh khi nghe đến danh hiệu đức ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
MÃ ĐẦU QUÁN ÂM
Một hôm, Bồ Tát Quán Âm đến chân núi Cửu Hoa Sơn. Cửu Hoa Sơn ở trong địa phận của tỉnh An Huy, sở dĩ mang tên Cửu Hoa Sơn là vì dãy núi này có tổng cộng 9 đỉnh núi, và đỉnh nào cũng giống y như một đóa hoa sen. Chín đỉnh núi đâm vào tận mây xanh, giống như chín đóa hoa sen xanh nở rộ trong không trung. Ngài Quán Âm ngước lên nhìn thắng cảnh núi Cửu Hoa, không khỏi lấy làm ưa thích.
Bồ Tát Quán Âm hóa thành một vị tăng hành cước, thong thả bước lên núi. Mới cất bước, Ngài chợt nghe tiếng tụng kinh. Ngài đưa mắt nhìn thì thấy trong một thung lũng có một vị tăng Tây Tạng đang ngồi kết già phu, đối mặt vào tường mà tụng Bát Nhã Tâm Kinh một cách thành kính.
Nhìn thấy vị tăng Tây Tạng đang tụng Bát Nhã Tâm Kinh, Bồ Tát Quán Âm cảm thấy tâm mình bị chấn động. Câu mở đầu của Bát Nhã Tâm Kinh là: "Lúc Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa một cách thâm sâu, quán chiếu thấy năm uẩn là Không, thoát khỏi tất cả mọi khổ ách."
Quán Âm, Quán Âm, đó có nghĩa là quán sát âm thanh của tiếng kêu cầu mà tìm đến cứu khổ. Vị tăng Tây Tạng này ngồi kiết già tụng Tâm Kinh trong thung lũng, chắc hẳn phải có nguyên do gì đây. Ông tụng Tâm Kinh, hiển nhiên là muốn cầu nguyện Bồ Tát Quán Âm độ cho thoát khỏi khổ ách. Ngài Quán Âm nghĩ, hôm nay đến Cửu Hoa Sơn có lẽ là có chút nhân duyên với vị tăng Tây Tạng này chăng, ta nên đến xem lai lịch của vị tăng Tây Tạng này như thế nào ?
Ngài Quán Âm bèn thi triển chút thần thông để nhìn vào quá khứ của vị tăng Tây Tạng.
Thì ra vị tăng này là hoàng tử của Tân Quốc ở Tây Tạng, tên là Cầu Na Bạt Đà. Sinh ra sẵn có túc căn, từ nhỏ đã chán ghét mọi điều thế tục vinh hoa, về sau còn dứt khoát lìa bỏ vương cung, trốn thành đi tu. Ngài rất thông minh, trí huệ sâu sắc, căn cơ giác ngộ rất cao, nghiên cứu đến chỗ thâm áo của kinh điển Phật giáo, công phu tu hành tinh chuyên, chẳng bao lâu làu thông Tam tạng, thâm nhập Đại thừa. Ngài phát đại nguyện hoằng dương Đại thừa Phật giáo ở Trung độ (Trung Hoa), nên vừa đi vừa khất thực hướng về phía đông, vào đến nội địa Trung Quốc, giảng kinh Hoa Nghiêm cho dân chúng ở Trung độ.
Nhưng vì ngài không biết nói tiếng Trung Hoa nên khi ngài tuyên giảng kinh Hoa Nghiêm chả ai nghe hiểu ngài muốn nói gì cả, khiến cho ngài đau lòng và xấu hổ, bèn trốn vào núi Cửu Hoa đối diện với vách tường tĩnh tọa, hy vọng được Ngài Quán Âm giúp đỡ bằng cách đến chỉ giáo cho mình. Vừa khéo đúng lúc ấy ngài Quán Âm đến Cửu Hoa Sơn và biết được chuyện của ngài. Thấy Cầu Na Bạt Đà thành tâm và cương quyết như thế, Bồ Tát Quán Âm càng thêm tán thán:
- Vị tăng Tây Tạng này thật có quyết tâm, nghị lực kiên cường, nếu ta không đến giúp đỡ ông thì ai giúp ông bây giờ!
Ngài Quán Âm bèn ẩn thân đi, quyết định đến chỉ dẫn cho vị tăng Tây Tạng.
Lúc trời vừa tối, Cầu Na Bạt Đà vẫn tiếp tục ngồi thiền nhập định như mọi ngày. Bỗng nhiên, ngài thấy trên tường đá trước mặt hiện ra một vùng ánh sáng, ánh sáng chói cả mắt. Một hồi lâu sau, trong vùng ánh sáng ấy hiện ra một đóa hoa sen, và trên hoa sen ấy hiện lên Pháp tướng của Bồ Tát Quán Âm, và ngay trên đầu Bồ Tát có một con ngựa báu xuất hiện.
Cầu Na Bạt Đà nhìn Pháp tướng của Bồ Tát Quán Âm, thấy Bồ Tát thật sự đến bên mình, trong lòng vừa mừng rỡ vừa kinh ngạc vạn phần, vội vàng chắp tay lễ bái, khấu đầu cảm tạ, đem tâm sự của mình ra bạch với Bồ Tát và cầu xin Bồ Tát từ bi khai thị, chỉ dẫn cho mình phải làm sao. Bồ Tát Quán Âm từ bi nhìn Cầu Na Bạt Đà nhưng không nói lời nào, khuôn mặt lộ vẻ tươi cười, sau Ngài nhè nhẹ ngước lên, thì thấy trên đầu Ngài con ngựa báu đang dậm bốn vó, rồi chạy trong không trung không ngừng. Pháp tướng của Bồ Tát Quán Âm lập tức biến mất.
Cầu Na Bạt Đà nhìn ngựa báu hốt nhiên đại ngộ, nghĩ rằng Bồ Tát để cho ngựa chạy không ngừng trong không trung phải chăng là để chỉ đạo cho ta một cách rõ ràng, rằng muốn thông thạo tiếng Trung hoa, phải làm như con ngựa báu tức là chạy không ngừng, chu du bốn phương và chuyên tâm học hành? Phải rồi, ta phải lập tức lìa bỏ chốn thâm sơn này, đến đại địa của Trung độ. Thế là, hôm sau Cầu Na Bạt Đà xuống núi.
Xuống núi rồi, ngài đi vân du ở khắp nơi, quan sát và học tập một cách nghiêm chỉnh. Sau 9 năm bôn ba gian khổ, ngài đã thông thạo tiếng Hán, nhờ thế ngài thực hiện được nguyện ước của mình nghĩa là tuyên giảng Đại thừa Phật Pháp ở Trung độ một cách sâu rộng, mọi người đã có thể hiểu lời của ngài để tin phục và lãnh hội, Phật Pháp đại thừa cuối cùng rồi cũng được lưu hành ở Trung độ.
Sau 9 năm, Cầu Na Bạt Đà lên núi Cửu Hoa trở lại, tới chỗ mà năm nào mình đã đối diện với vách đá tĩnh tọa và được Bồ Tát Quán Âm đến chỉ đạo, xây lên một cái miếu Quán Âm nhỏ, trong đó khắc một pháp tượng của Bồ Tát Quán Âm, pháp tượng này không khác gì những pháp tượng khác nhưng chỉ có điều là ở trên đầu Ngài có một con ngựa báu, vì thế người sau gọi hình tướng này là "Quán Âm nhiều đầu" hay là "Mã Đầu Minh Vương", cũng lại tôn xưng là giáo chủ của súc sinh.
Nhưng khi pháp tượng Ngài Quán Âm được khắc xong thì có một số tín đồ địa phương cảm thấy thắc mắc, bảo rằng:
- Một bức tượng Bồ Tát Quán Âm đẹp như thế mà trên đầu lại có thêm một con ngựa, đặt súc sinh lên trên đầu Bồ Tát có phải là tỏ ra bất kính với Ngài không?
Thế là mọi người nhao nhao đến chất vấn ngài Cầu Na Bạt Đà.
Cầu Na Bạt Đà kể lại cho đại chúng nghe chuyện chín năm về trước, Ngài Quán Âm đã hiển hóa lên con ngựa báu chạy trong không trung để chỉ đạo cho mình, rồi nói tiếp:
- Chúng sinh chia làm sáu nẻo, phân làm sáu loài, tức là những con đường thiên, nhân, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, và địa ngục. Bồ Tát Quán Thế Âm đại từ đại bi, muốn cứu độ tất cả chúng sinh trong sáu nẻo nên mới hiện ra sáu loại Pháp tướng:
- Đường địa ngục khổ nhất, nên Ngài hiện thân Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, tượng trưng cho Đại Bi tướng, truyền rằng đó là giáo chủ của địa ngục;
- Loài súc sinh hùng mạnh hiểm ác, nên Ngài hiện thân Quán Âm Mã Đầu, tượng trưng cho Sư Tử Vô Uý tướng, là giáo chủ của loài súc sinh;
- Đường A Tu La đa nghi và hiếu chiến, Ngài hiện thân Quán Âm thập nhất diện (Quán Âm 11 mặt) tượng trưng cho Đại Quang Phổ chiếu tướng, là giáo chủ loài A Tu La;
- Đường Nhân thì có thể nói theo sự hay lý, nhìn theo sự thì họ kiêu mạn nên được gọi là Thiên Nhân, nhìn theo lý thì họ có Phật tính nên được gọi là Trượng Phu, do đó Ngài hiện thân Chuẩn Đề Quán Âm, tượng trưng cho Thiên Nhân Trượng Phu tướng, là giáo chủ của loài người;
- Đường Thiên có Đại Phạm Vương, nên Ngài hiện thân Như Ý Luân Quán Âm, tượng trưng cho Đại Phạm Thâm Viễn tướng, giáo chủ các cõi trời.
Ngoài sáu tướng này, Bồ Tát Quán Âm còn có thể tùy cơ ứng hóa mà biến đủ các loại hình tướng khác nhau. Quán Âm thập nhất diện có mười một mặt, ba mặt ở giữa là mặt của Bồ Tát, ba mặt bên trái hung bạo giận dữ, ba mặt bên phải giống như mặt Bồ Tát tuy từ bi hoà ái giống ba mặt trước, nhưng có răng nanh trắng chĩa lên. Mặt sau là mặt "bạo nộ đại tiếu", và trên đỉnh là mặt Phật. Mỗi mặt có đội mũ báu, trên mũ báu có tượng A Di Đà Phật. Ngài Quán Âm Chuẩn Đề thì có ba mặt và mười tám cánh tay. Lại còn có Như Ý Đà Quán Âm, Lục Tý Kim Thân. Nói tới Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm lại càng khó có thể nghĩ bàn hơn nữa, vì không gì có thể sánh bằng.
Ngài giảng một cách sinh động cụ thể, nên người nghe ở dưới toà cứ thế mà nhao nhao gật đầu đồng ý. Cầu Na Bạt Đà nói tiếp:
- Bần tăng phát nguyện từ nay trở đi sẽ đi quyên hóa để khắc tôn tượng của sáu Pháp tướng Bồ Tát Quán Âm nói trên. Nếu quý vị phát tâm giúp đỡ thì thật là công đức vô lượng.
Mọi người vội móc hầu bao giúp đỡ, và cuối cùng sáu tôn tượng Bồ Tát Quán Âm được hoàn thành, người đời gọi là "Lục Quán Âm".
Mã Đầu Quán Thế Âm
Hay bẻ gãy Ma Chướng
Dùng phương tiện Từ Bi
Hiện hình đại phẫn nộ
Thành Đại Uy Nhật Luân
Chiếu sáng vô biên cõi
Người tu hành ám tối
Mau chứng được Tất Địa
Thấm nhuần nước Cam Lộ
Tẩy rửa trong tàng thức
Huân tập tạp chủng tử
Mau gom nhóm Phước Trí
Được Viên Tịnh Pháp Thân
Nên con cúi đầu lễ.
NAMAH SAMANTA-BUDDHÀNAM KHÀDÀYA BHAMJA SPHATYA SVÀHÀ ( Quí vị đọc 3 lần câu chú nầy để tịnh hóa nghiệp chướng đầu năm nhé)
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...1b&oe=5A921770
https://www.facebook.com/permalink.p...bstory_index=0
-
Kính mừng vía Đức Phật Di Đà 17 tháng 11 Giáo chủ cỏi Cực Lạc.Nguyện chư hành giả buông xả ba nghiệp thân khẩu ý.Bớt tham,bớt sân.bớt si mê thường an lạc trong hồng danh Phật hiệu Di Đà
Cỏi cực lạc phương tây
Tiếp dẫn Tam Thánh Tôn
Mỡ cửa mầu Tịnh Độ
Nay con quy mạn lễ
Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI
Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI Nam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRINam Mô A Di Đà Phật
OM AMI DEWA SHRI
https://scontent.fsgn3-1.fna.fbcdn.n...72&oe=5A8E8E25
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
ô Xu Sa Ma Minh Vương ( Uế Tích Kim Cang)
Đặc biệt Uế Tích Kim Cang có Bổn Thệ là ăn hết các thứ Bất Tịnh hay thiêu đốt Tâm phân biệt dơ sạch, sinh diệt, chuyển Bất Tịnh thành Thanh Tịnh, có Thần Biến Diên Mạng Pháp, có thể khử bệnh tránh tai ương, hộ mạng sống lâu Ô Xu Sa Ma Minh Vương (Tên Phạn là: Ucchsma, tên Tây Tạng là: Hchol-ba) lại tên là: Ô Mục Sa Ma Minh Vương, Ô Xu Sáp Ma Minh Vương, Ô Tố Sa Ma Minh Vương; cũng gọi là Uế Tích Kim Cang, Hỏa Đầu Kim Cang, Bất Tịnh Kim Cang, Thụ Xúc Kim Cang, Bất Hoại Kim Cang, Trừ Uế Phẫn Nộ Tôn…. Là 1 trong các Tôn Phẫn Nộ được thờ cúng nơi Thiền Tông và Mật Giáo, là Giáo Lệnh Luân Thân của Yết Ma Bộ ở phương bắc.
Đức Thích Ca Như Lai sắp Nhập Diệt. Khi đó có vô lượng trăm ngàn vạn chúng, 8 Bộ Trời rồng, người, Phi Nhân, Đại Chúng của Chư Thiên, Thích Đề Hoàn Nhân…. đều đến cúng dường, chỉ có Mâu Kế Phạm Vương chẳng những chẳng đến yết kiến thăm hỏi, mà còn ở trong cung Trời vui đùa cùng với các Thể Nữ. Sau khi Đại Chúng hiểu biết sự việc, đối với vị Phạm Vương ngạo mạn như thế đều cảm thấy bất bình giận dữ, thế là mỗi người cử trăm ngàn Chúng Chú Tiên , đi đến chỗ vị Phạm Vương, muốn khiến cho vị đó đi đến. Nhưng vị Phạm Vương sớm đã có sự chuẩn bị, đem 4 vòng Thành Hào củaThiên Cung, dùng mọi thứ vật ô uế Bất Tịnh để kết Giới, những Tiên Nhânnày trông thấy mọi thứ vật Bất Tịnh, liền bị phạm Chú mà chết. Lúc ấy, các Thiên Chúng lại ra lệnh cho Vô Lượng Kim Cang đi, nhưng tình hình cũng giống như trước, như thế 7 lần, vẫn không có người nào bắt vị Phạm Vương về được. Đại Chúng thấy tình hình như vậy lại càng thêm buồn thương, ở trước di thể của Đức Như Lai nghẹn ngào, nức nở, kêu than, gào khóc. Lúc đó, Đức Như Lai vì thương xót các Đại Chúng liền dùng Đại Biến Tri Thần Lực, từ trái Tim bên trái hóa hiện ra vị Bất Hoại Kim Cang, liền ở trong Chúng từ chỗ ngồi đứng dậy nói với Đại Chúng rằng: “ Tôi có Đại Thần Chú, có thể bắt vị Phạm Vương kia”. Sau khi nói xong, liền ở trong Đại Chúng hiện Đại Thần Thông, biến hóa khiến 3.000 Đại Thiên Thế Giới chấn động theo 6 cách; Cung Trời, cung Rồng, cung Quỷ Thần thảy đều hủy nát. Liền tự thân bay đến chỗ vị Phạm Vương dùng ngón tay chỉ Thành Hào, thì mọi thứ uế vật ấy lập tức biến thành đại địa. Bấy giờ, vị Kim Cang đến Thành Hào bảo với vị Phạm Vương rằng: “ Ngươi thật là đại ngu si, Đức Như Lai muốn vào Niết Bàn, vì sao ngươi không chịu đến? Liền dùng sức của Kim Cang Bất Hoại, hơi dùng ngón tay chỉ thì vị Phạm Vương phát Tâm đi đến chỗ Đức Như Lai. Khi ấy, Đại Chúng khen rằng: “ Đại Lực Sĩ! Ông hay có Thần Lực này mới bắt vị Phạm Vương kia đi đến nơi đây “. Thời vị Kim Cang liền bảo rằng: “ Nếu có chúng sinh ở thế gian bị các Trời, Ma ác, tất cả Ngoại Đạo gây não loạn, chỉ cần tụng Chú của tôi 10 vạn biến thì tôi tự nhiên hiện thân, khiến cho tất cả hữu tình tùy ý mãn túc, vĩnh viễn xa lìa sự nghèo túng, thường khiến cho an vui. Chú ấy như vầy, trước tiên nên phát Đại Nguyện này: Quy mạng Đức Bổn SưThích Ca Mâu Ni Phật của tôi. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, thọ trì Chú này, thề độ quần sinh, khiến cho Phật Pháp chẳng diệt, trụ lâu ở đời “. Sau khi phát nguyện này xong, liền nói Đại Viên Mãn Đà La Ni Thần Chú Uế Tích Chân Ngôn là:
“ Án – Bút quát hốt lốt, ma ha bát la ngân na, ngái vẫn trấp vẫn, vi hiệt vi ma na thê. Ô thâm mộ hốt lốt, hàm hàm, phán phán phán, sa ha “
Phạn văn : OM BUDDHA _MAHA GUGU GANA ,PAVIN CHANVIN _VIHEGI HEMAGI MANATHE .OM CHAKRA GUGU HUM HUM HUM PHAT PHAT PHAT SVAHA
Thời vị Kim Cang nói chú này xong, lại nói rằng: “ Sau khi Đức Như Lai diệt độ, tôi thường tụng Chú này. Nếu có chúng sinh tình nguyện thọ trì Chú này, tôi thường làm sứ giả cung cấp cho sự mong cầu được như nguyện. Nay con ở trước Đức Như Lai nói Thần Chú này. Nguyện xin Đức Như Lai ở trong Chân Tế chiếu biết cho con.Thế Tôn! Nếu có chúng sinh bị các Quỷ Thần ác gây não loạn, mà hay trì Chú này, đều chẳng thể bị hại, vĩnh viễn xa lìa khổ nạn. Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện muốn cầu trị bệnh. Tụng Thần Chú trên 40 vạn biến, nhìn thấy kẻ có bệnh thì trị liệu nhất định sẽ có linh nghiệm, không kể Thanh Tịnh và Bất Tịnh, tùy ý sai khiến, con thường tùy theo cho mãn tất cả nguyện “. Trong Kinh Điển cũng có nói mọi loại Pháp trị liệu bệnh tật, Tà bệnh. Nếu muốn trị bệnh cho người. Tác Ấn Đốn Bệnh. Trước tiên tay trái đem ngón trỏ, ngón giữa co đè quấn nhau, liền Chú 100 biến. Dùng Ấn Đốn Bệnh quơ dưới người bệnh 7 lần liền khỏi. Nếu người bệnh sắp chết, trước tiên kết Ấn Cấm Ngũ Lộ, sau đó hãy trị thì người bệnh chẳng chết, ấn vào con mắt. Ấn này dựa theo Ấn lúc trước, chỉ co ngón vô danh hướng vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng ngón út, chú 100 biến thì bệnh ấy mau khỏi. Nếu trị bệnh tà, chỉ ở bên đầu của người bệnh, đốt An Tất Hương tụng Chú thì trừ được bệnh.
https://www.facebook.com/permalink.p...86741424671074
-
Nam mô gugu ! Bạch thầy bậc đạo sư tôn kính với những phẩm hạnh vô song.Thế gian chìm đắm trong chiến tranh,bệnh tật và nghèo đói.Chúng con là kẻ bề tôi trung thành cho bản ngả thấp hèn.Đến hôm nay con mới hiểu được rằng hạnh phúc vô bờ con được gặp ân sư được nghe ngài giáo huấn và sách tấn tu hành.Hôm nay trước thềm cận kề vía đức Phật Dược Sư con xin chia sẽ với đại chúng pháp tu Dược Sư theo truyền thống Kim Cương thừa cho người chưa nhận Quán đảnh
Hành giả tự quán thân mình đối trước tam bảo bên phải là mẹ với số chúng sanh nữ,bên trái là cha với vô số chúng. sanh nam.Những người mà mình ghét nhất ở phía trước.Tự thân nầy quán vô lượng vô số thân mỗi thân có vô số chúng nhiều như hải hội đảnh lể tam bảo.
Nam Mô Đông Phương Thế Giới Dược Sư Quang Như Lai 3 lễ
Hành Giả phát nguyện
Con cùng tất cả chúng sanh mẹ vô biên như hư không.Xin quy y kim cương thượng sư,quy y Phật,Pháp ,chưng Thánh Tăng từ nay cho đến khi thành tựu vô thượng bồ đề.Nguyện con thành Phật độ chúng sanh 3 lần
Giai đoạn thực hành
Hành giả nghỉ về nổi buồn của sanh tử,cái khó khăn của cuộc sống, cũng như kiếp người tất cả là do nhân quả và các pháp duyên Khởi.Sau đó hãy sám hối tất cả những việc làm của minh( đúng hay sai đều sám hối)
Quán phía trước hành giả trên đỉnh đầu vô lượng ánh sáng xanh rực rở như rubi xanh hiện thành đức Phật Dược Sư.Luồn ánh sáng đó chiếu vào thân hành giả tịnh hóa bệnh khổ,chướng nạn ,thư ếm ....thân hành giả chảy ra những luông nước đen,bò cạp ,rắn...chất dơ bẩn .Từ từ thân nầy trở nên trong sáng và thuần khiết.Đồng thời hành giả trì chú
te ya tha om pe khan che pe khan che ma ha pe khan che pra ja sam mo ka te xoa ha
Tadyathā, oṃ, bhaiṣajye bhaiṣajye mahābhaiṣajye raja-samudgate svāhā
Hành giả trì tụng càng nhiều càng tốt.Cuối cùng quán đức Phật Dược Sư tan vào ánh sánh tan vào thân hành giả.Hành giả trụ ở trạng thái đó nhiều lúc nào thì an lạc lúc đó.
Hành giả đem hết công đúc mình tích lũy qua việc trì tụng thần chú của ngài cho tất cả chúng sanh.
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/
-
khi phá bể Tam muội da do cố tình hoặc vô tình, cách tốt nhất là tịnh hóa bằng trì tụng mỗi ngày 21 hoặc 108 biến chân ngôn một trăm âm Kim Cương Tát Đỏa. Giáo lý Kim Cương thừa dạy rằng thực hành Kim Cương Tát Đỏa tịnh hóa bất kì nhiễm ô, vô minh che chướng hay Tam muội da bị phá bể ở mức thông thường.
Việc thực hành tịnh hóa phục hồi giới luật Mật thừa phạm khuyết qua pháp tu trì Phật Bản tôn Vajrasattva Kim Cương Tát Đỏa cần hội đủ bốn năng lực:
- Năng lực hỗ trợ: nương sự gia trì của đức Kim Cương Tát Đỏa
- Năng lực hối tiếc: ân hận về những lỗi lầm mình đã tạo
- Năng lực cam kết: phát nguyện không tái phạm. Nguyện dẫn dắt giúp chúng ta có tâm và ý trí mạnh mẽ không tái phạm hoạt động xấu
- Năng lực giải độc: thực hành nghi quỹ Kim Cương Tát Đỏa.
Nhìn chung, sám hối là phương pháp hữu hiệu để tịnh hóa các nhiễm ô mà chúng ta lỡ tạo dưới xu hướng mạnh mẽ của các nghiệp tiêu cực. Mặc dù nhìn từ bên ngoài dường như chúng ta có những hành vi, việc làm đúng đắn và đạo đức, nhưng bên trong, chúng ta vẫn còn nhiều chi phối của bản ngã vị kỷ. Chúng ta nghĩ bản thân không phạm giới nhưng vẫn dễ mắc phải các lỗi trọng. Hành giả tu tập Tiểu thừa ít có khả năng phạm giới hơn vì chỉ khi phạm lỗi về Thân hay Khẩu thì mới cần sám hối; dù trong tâm hành giả có không giữ giới thì cũng không bị coi là phạm các giới của Tiểu thừa. Trong Kim Cương thừa, giới Tam muội da dễ bị vi phạm hơn vì chỉ cần một thoáng suy nghĩ trong tâm sai lệch là hành giả đã phá vỡ Tam muội da. Vì thế, các hành giả Kim Cương thừa cần luôn sám hối, một ngày có sáu thời là sáu lần cần sám hối. Sự tương tục của trí tuệ và năng lực Kim Cương thừa là trọng tâm và phần chính thực hành phục hồi giới nguyện thanh tịnh và hoàn thiện của hành giả Kim Cương thừa.
ÔM BENH DA SÁT TOA SA MA DA .MA NU PA LA YA, BENH DA SAT TOA TÊ NÔ PA TÍT SA. ĐI ĐÔ MÊ PHA VA. SU TÔ KA DÔ MÊ PHA VA. SU PHÔ KA DÔ MÊ PHA VA. A NU RẮC TÔ MÊ PHA VA. SA VA SÍT ĐI MÊ .PHA DA SA. SA VA KA MA SU SA .MÊ CHI TĂNG. SI DĂNG .KU RU HUNG. HA HA HA HA. HÔ. BA GA VĂN .SA VA TA THA GA TA. BENH DA MAMÊ MUN CHA. BEN DI PHA VA. MA HA SA MA DA .SÁT TOA A.
Câu tâm chú ÔM BENH DA SÁT TOA HUM
Nam mo GuGu !
Kính thưa chư hành giả cùng chư thiện hữu tri thức.Lỗi lầm,ác nghiệp là đặc tính của phàm tình.Ngài Kim Cang Tát đỏa đã rất từ bi chỉ ra phương tiện nhằm tịnh hóa nghiệp chướng giúp hành giả phục hồi các phẩm hạnh và giới nguyện của Mật Giáo( samaya).Khi ta tạo một nhân ác chúng ta sẽ tạo ra vô lượng quả xấu và ác nghiệp ( Đừng nghỉ chỉ tạo ra một quả xấu nhé).Như ta trồng một cây ớt và kết quả là ta thu được vô số quả ớt khi nhân duyên thành thục.Có nhiều cách thực hành tịnh hóa Kim Cang Tát đỏa khác nhau do các vị đạo sư hướng dẩn khác nhau làm cho chư vị độc giả cũng như hành giả bị rối loạn và phân vân.Con xin giới thiệu cách thực hành được đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ 12 biên soạn ,do văn phong mộc mạc dể tu dể nhớ chỉ cần đọc lên và trì tụng với tâm chí thành tha thiết chúng ta đã nhận sự gia trì từ ngài.Cách đây con bị bệnh mỗi khi làm việc nặng là đau như ai đâm xuyên ngực bác sỉ nói bị đau cơ liên xường ngực uống thuốc và điều trị không giảm mà còn nặng thêm.Trong long buồn chán và mệt mỏi khổ não cô cùng con dừng hết tất cả thuốc và công việc để trì chú mong tịnh hóa nghiệp chướng của mình.Ngày đầu trì không thấy dấu hiệu khởi sắc .ngày thứ 2 khoảng giửa trưa toàn thân nhất là chổ đau rung động và cảm giác đau giảm hẳn.Trong lòng vô cùng an lạc và sùng mộ con tiếp tục chí thành trì tụng đến sáng ngày thứ ba ngủ dậy thì toàn thân an lạc,hạnh phúc vô bờ dường như chưa hề có bệnh vậy.Kể ra đây không phải vì danh lợi phàm tục mà kể, hầu để sách tấn chư hành giả và làm tài liệu chu những ai mong tìm sự lợi lạc từ giáo lý của Mật Thừa.
Cách thực hành như sau:Ngồi thẳng lưng giử tâm tha thiết chí thành.Hành giả đọc bài kệ ngắn
Trên đảnh đầu con thượng sư an tọa
Ngài bất khả phân với Vajra sát toa va( KIm Cang Tát Đỏa)
Từ ngài dòng cam lộ tuôn chảy
Tịnh hóa tam độc ,chướng nạn và bệnh tật
Chỉ cần đọc như thế và quán tưởng dòng ánh sáng trắng tuôn chảy xuống thân hành giả tịnh hóa khổ đau ,bệnh tật .Từ thân hành giả các bệnh tật là những dòng nước đen hay ánh sáng đen chảy ra sau đó trì chú
OM BENZA SATTOA SAMAYA MANU PALAYA BENZA SATTOA TÊNÔPA TITSTA DRIDÔMÊ PHAVA SUTÔ KAYÔ MÊPHAVA SUPÔ KAYÔ MÊPHAVA ANU RAKTÔ MÊPHAVA SARVA SIDDHIM MÊPRA YATTSA SARVA KARMA SU TSAMÊ CHITTĂNG SHRI YANG KURU HUNG HA HA HA HA HÔ PHAGAVĂN SARVA TATHAGATA BENZA MAMÊMUNCHA BENZI PHAVA MA HA SAMAYA SATTOA AH!
Trì cho đến lúc tâm an lạc trống rổng không tạo tác hành giả giử trạng thái đó càng lâu càng tốt
Sau đó hành giả hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh
Chúc giáo pháp nầy làm lợi lạc người hữu duyên
Om Benza sattoa Hum
https://www.facebook.com/H%C3%A0nh-G...6741424671074/