-
BÀN VỀ TÍN NGƯỠNG CỬU THIÊN HUYỀN NỮ
Ở VÙNG HUẾ
(“Cửu Thiên Huyền Nữ” belief in Hue area)(*)
https://kuir.jm.kansai-u.ac.jp/dspac...7/1/hue_14.pdf
[PDF]ONISHI, Kazuhiko Citation CULTURE AND HISTORY OF HUE FROM ...
https://kuir.jm.kansai-u.ac.jp/dspac....../hue_14.pdf
Translate this page
by K ONISHI - 2010
Mar 26, 2010 - là học trò Thánh Mẫu Nguyên Quân (tức Tây Vương Mẫu). (---) Xi. Vưu tạo ra tai họa tuy ý, ... Kinh Hoàng Đế Độn Giáp Duyên Thân (黄庭遁甲縁身経) được trích dẫn trong. Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籤) ..... tắt của “Cửu Thiên Huyền Nữ Thánh Tổ Đạo Mẫu Nguyên Quân”. Chúng tôi sẽ bàn lại về tên vị ...
-
-
Miếu Năm Bà ( Gần Ngã 4 Nguyễn Văn Linh & Phạm Hùng Q8 )
Quan Âm Các tại Khu Biệt Thự Ven Sông Bình Chánh ( Gần Ngã 4 Nguyễn Văn Linh & Phạm Hùng)
https://vi-vn.facebook.com/pages/Mi%...17845914922815
-
-
-
-
-
-
5/5 Âl Ngày Lễ Vía Linh Sơn Thánh Mẫu
Tác giả: Nguyễn Việt
Thể loại: Cổ Tích
Biên tập: lan luong
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 350 / 1
Cập nhật: 2017-06-19 14:10:57 +0700
Link download: epubePub KindleMobi/PRC PDF A4A4 PDF A5A5 PDF A6A6 - xem thông tin ebook
5/5 ÂL NGÀY LỄ VÍA LINH SƠN THÁNH MẪU
Ngày 30 và 31/5/2017 tức vào ngày mùng 5 và mùng 6 tháng 5 năm Âm lịch Đinh Dậu, được xem là ngày vía Đức Linh Sơn Thánh Mẫu tại Tây Ninh (còn được gọi núi Điện Bà Tây Ninh)
“Linh Sơn Thánh Mẫu” tức Bà Đen được thờ trên núi Điện Bà Tây Ninh (thời nhà Nguyễn núi này mang tên núi Một, sau gọi núi Bà Đen hay núi Điện Bà tỉnh Tây Ninh) trong một quần thể có nhiều chùa chiền tính từ chân núi lên đến đỉnh.
Bà được thờ cúng tại một Điện thờ nằm trong thạch động, bên cạnh có chùa “Linh Sơn Tiên Thạch Tự”. Về thời gian có điện thờ Bà Đen tại đây chưa ai rõ, nhưng có những truyền thuyết về Bà sau đây, có thể lý giải được thời gian có cốt tượng Bà vào khoảng thời gian nào.
- TRUYỀN THUYẾT BÀ ĐEN
Tương truyền tại Trảng Bàng cách núi Một chừng 40km, có đôi trai gái, nàng tên Lý Thị Thiên Hương giỏi văn thơ và võ nghệ, diện mạo trông duyên dáng nhưng lại có nước da đen sậm. Chàng tên Lê Sĩ Triệt cũng là người văn hay võ giỏi. Cả hai đem lòng thương nhau, khi ấy có con trai viên quan huyện quyết tâm bắt Thiên Hương về làm thiếp, hắn dùng tiền bạc mua chuộc không được liền cho thủ hạ đi bắt cóc nàng.
Nhưng bọn vô lại chưa kịp thực hiện ý đồ đã bị Sĩ Triệt giải nạn cho người yêu. Thiên Hương lại càng yêu mến Lê Sĩ Triệt, nàng thuật lại chuyện cho cha mẹ rõ. Cha mẹ Thiên Hương liền hứa gả nàng cho Sĩ Triệt. Nhưng thời bấy giờ đang giặc giã nên Lê Sĩ Triệt đành giã từ Thiên Hương lên đường tòng quân. Sĩ Triệt được Thiên Hương hứa hẹn: “Một lời đã hứa, thiếp xin giữ trọn lời nguyền”.
Thiên Hương ở lại, nàng bị đám thủ hạ con quan huyện ùa tới vây bắt. Biết cùng đường và giữ trọn trinh tiết với Lê Sĩ Triệt, nàng Lý Thị Thiên Hương lao mình xuống vực sâu tự tử. Gia đình Thiên Hương không hay biết, chỉ lo lắng cầu khẩn cho nàng sớm bình yên trở về.
Ba hôm sau, Hòa thượng trụ trì chùa trên núi Một đang ngồi niệm Phật, bắt gặp một người con gái da đen nhưng duyên dáng báo mộng cho biết:
– Ta là Lý Thị Thiên Hương, năm nay vừa tròn 18 tuổi chẳng may bị bọn quan trấn ức hiếp nên tự tử để tuẫn tiết. Xác ta đã ba ngày nhưng còn nguyên vẹn, Hòa thượng đi xuống chân núi phía Đông sẽ thấy mà chôn dùm. Ta chết nhưng linh hồn sớm siêu thoát, do kiếp trước ta đạt căn tu, nên kiếp này được đắc quả thần thông. Hòa thượng sẽ gặp điều lành.
Vị hòa thượng theo lời báo mộng của Thiên Hương tìm được xác và đem chôn cất nàng tử tế. Các Phật tử khi viếng chùa đều được nghe vị hòa thượng kể lại, họ tới mộ Thiên Hương cầu xin mọi chuyện, đều được như ý. Chuyện từ đó đồn vang, đến tai Thượng quốc công Lê Văn Duyệt đang cai quản trấn Gia Định, ông liền lên núi Một và đến phần mộ của Thiên Hương mà truyền:
– Trinh nữ có hiển linh hãy chứng tỏ cho ta thấy.
Thượng quốc công vừa dứt lời, thì sau lưng ông có người con gái cất tiếng chào:
– Xin chào thượng quan.
Thượng quốc công Lê Văn Duyệt và đám tùy tùng đều sửng sốt. Nhưng ông nghiêm nghị hỏi là ai, người con gái đáp:
– Tôi chính là người mà thượng quan vừa truyền dạy, tên Lý Thị Thiên Hương đây.
Thật ra cô gái ấy cũng là Phật tử đi viếng chùa, được Thiên Hương mượn xác chứng tỏ sự linh hiển của mình, Thiên Hương lại nói tiếp:
– Tôi xin báo cho thượng quan biết về tương lai của ngài, dù rằng “thiên cơ bất khả lậu”, sau này thượng quan chết không được vinh, nhưng rồi sau đó được giải oan và được phong Thần vinh hiển mãi mãi.
Thượng quốc công hỏi lại:
– Chuyện tương lai của ta, ta không cần lưu ý đến. Nay ta hỏi, cớ sao mà trinh nữ phải chết?
Thiên Hương thuật lại câu chuyện gá nghĩa giữa hai gia đình, rồi bị con viên quan huyện ép buộc lấy làm thiếp, nàng không thuận nên bị vây bắt, đến đường cùng phải tuẫn tiết để giữ tròn trinh tiết với Lê Sĩ Triệt. Rồi nàng lại lên tiếng nói tiếp:
– … Ngọc hoàng chứng được sự đoan chính mấy kiếp của tôi, xét về kiếp trước đã tu hành đắc quả, nên ngài cho xuống trần gian cứu dân độ thế. Xác Thiên Hương chỉ là đời thứ hai, trước đây khi chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu vào Nam lạc bước đến nơi đây, tôi đã mách giúp là phải dựa vào quân Xiêm mới làm nên nghiệp lớn. Lúc đó tôi chưa đầu thai về nhà họ Lý.
Nói dứt lời cô gái ngã ra bất tỉnh, hồn Thiên Hương thoát xác, cô gái mới hồi tỉnh lại.
Thượng quốc công Tả quân Lê Văn Duyệt bấy giờ mới tin lời đồn của thiên hạ là đúng, ông dâng sớ tâu trình lên vua Gia Long và xin phong sắc cho Lý Thị Thiên Hương. Vua Gia Long nhớ lại chuyện xưa, liền phong bà là “Linh Sơn Thánh Mẫu” cai quản nơi núi Một và chủ sự tại chùa Linh Sơn.
Truyền thuyết thứ hai về Linh Sơn Thánh Mẫu:
– Đất Tây Ninh ngày trước cũng như bây giờ, phần đất từ Trảng Bàng – Suối Sâu đến tận miệt tây và tây bắc giáp với biên giới Campuchia, có người Miên sinh sống cùng người Việt rất đông.
Có một gia đình người Việt gốc Miên làm quan tại địa phương, sinh được hai con, gồm một trai một gái. Cô con gái tên Đênh (có sách gọi là Đinh). Lúc nàng đến tuổi dậy thì, có vị sư già từ Bến Cát tìm đến núi Một kiếm đất lập chùa để phụng sự Phật pháp.
Khi đến Tây Ninh, vị sư già đến nhà gia đình nàng Đênh xin tá túc một thời gian để tìm đất. Cả gia đình viên quan đều mộ đạo, nên ai cũng muốn nghe nhà sư thuyết pháp nhất là nàng Đênh. Còn viên quan lập cho vị sư ngôi chùa Ông Tàu (do ông là người Hoa) nằm ở chân núi phía đông gần làng Phước Hội. Một thời gian sau vị sư về lại Bến Cát, để chùa Ông Tàu cho nàng Đênh trông nom.
Như truyện tích nàng Thiên Hương, nàng Đênh cũng bị viên quan trấn ở Trảng Bàng ngấp nghé hỏi cưới, duy có điều là nàng Đênh chưa có bóng dáng một thanh niên nào trong lòng mà lại phát nguyện xuất gia thờ Phật. Mặc dù cha mẹ đã hứa gả cho viên quan ấy, nàng Đênh không thể chiều lòng cha mẹ, nên đã bỏ nhà ra đi tìm nơi tu đạo.
Khi bà Đênh từ giã cõi trần, hồn bà hiển thánh và về báo cho cha mẹ biết là bà tu đã đắc đạo, được thượng giới phái xuống trần cứu nhân độ thế. Bà hiển linh báo cho Nguyễn Ánh khi bôn tẩu trên núi Một trốn quân Tây Sơn, những việc phải làm để giành lại ngôi vua.
Sau này lên ngai vàng, chúa Nguyễn Gia Long nghĩ đến bà Đênh liền sai đúc cốt Bà Đênh bằng đồng đen đem lên núi Một để thờ, phong Bà Đênh làm “Linh Sơn Thánh Mẫu”. Nơi điện thờ Bà gọi là “Linh Sơn Tiên Thạch Động”.
Tuy bà Đênh người không đen như Thiên Hương nhưng lại là người Việt gốc Miên có làn da bánh mật và tên gọi là Bà Đênh, sau dân địa phương gọi trại là Bà Đen, gọi núi Một là núi Bà Đen.
Với hai truyền thuyết trên, chúng ta dựa vào thời gian Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long vào năm 1802 (và mất năm 1819). Ta suy đoán tượng Bà Đen có vào khoảng những năm 1805 – 1815.
Cũng có thêm truyền thuyết về tượng Bà như sau:
– Trên núi Một ai cũng đồn có Phật Bà hiển thánh, nhưng việc lập điện thờ Bà làm nơi cúng bái không ai làm. Sau này có tu sĩ Đạo Trung (vào thế kỷ XVIII), ở trên núi suốt 31 năm khai sơn phá thạch, cho đến một ngày bỗng ông thấy Phật Bà hiện ra trên đỉnh núi, và ít lâu sau tìm được cốt tượng bằng đá có chân dung Phật Bà nơi một dòng suối (gần chùa Hang bây giờ). Ông liền lập động để thờ phụng. Điện Bà có từ đó.
Với những truyền thuyết trên, xét về mặt nghệ thuật điêu khắc, tượng bà mang nhiều ảnh hưởng văn hóa Phù Nam pha trộn nền văn hóa Việt như tượng Bà Chúa Xứ Châu Đốc. Nên xuất xứ của pho tượng Bà có thể được tạc vào thế kỷ XVIII vào thời ông Tổ Đạo Trung, nhưng lúc đó tạc trên đá, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long vào đầu thế kỷ XIX, mới đúc tượng Bà bằng đồng đen (đồng nguyên chất pha với Acid Nitric cho ra đồng đen, nhưng không phải lấy từ quặng đồng đen thứ thiệt) như bây giờ chúng ta vẫn thấy, và khớp với lịch sử xây dựng chùa và điện trên núi Linh Sơn vào thời gian 1871 – 1880, thời Tổ Thánh Thọ Phước Chí lên Điện Bà xây hang điện đưa cốt tượng vào thờ, trước đó tượng còn để bên chùa Linh Sơn (nay là chùa Ông hay Linh Sơn Tiên Thạch Tự).
Điện thờ Bà Đen ở lưng chừng núi, được vua Tự Đức năm thứ 3 sắc phong lại là Thánh Mẫu nên người dân miền Đông Nam bộ tôn kính gọi Bà bằng Đức Phật Mẫu.
QUẦN THỂ CHÙA TRÊN NÚI BÀ ĐEN
1- Chùa Trung: Khi lên núi Bà Đen, sẽ gặp ngôi chùa Trung nằm ngay dưới chân núi, dân địa phương cho rằng là nơi Bà dừng chân đi tu khi đến đây, sau đó trên núi có chùa mới dựng lên, Bà rời chùa Trung lên trên núi tu.
Chùa Trung trước kia rất khang trang nhưng do chiến tranh nên kiến trúc ấy không còn, nay chùa được dựng lên đơn sơ hơn trước, nhưng cách bày trí trong chùa vẫn theo nét cũ.
Phía ngoài chùa là pho tượng Tiêu Diện Đại Sĩ, bên trong đứng xoay lưng với pho tượng ngoài là tượng ngài Hộ pháp, sau đó là 4 pho Tứ vị sơn thần đặt theo 4 hướng Đông Tây Nam Bắc. Vào chánh điện dàn hàng ngang phía trái là tượng Phật Bà Quan Âm cùng với Cửu Thiên Huyền Nữ, rồi các tượng Thích Ca Mâu Ni, Địa Tạng, Phật Di Đà, Phật Di Lặc. Phía phải là bàn thờ Quan Công.
Gian sau đấu lưng với bàn thờ Phật là ban thờ Linh Sơn Thánh Mẫu tượng tạc thời Bà còn trẻ, da mặt hồng hào đầu đội mũ triều thiên, choàng khăn áo màu đỏ. Hai bên tượng Thánh Mẫu có cô Hồng, cô Cúc đứng hầu. Đối diện ban thờ của Bà là ban thờ Bà Thiên Hậu. Bên gian thờ tổ có pho Đức Diêu Trì Kim Mẫu và ban thờ Đạt Ma Sư Tổ.
Chùa Trung thờ tự như những ngôi chùa miền Bắc thường thờ là Tiền Phật hậu Mẫu.
2- Chùa Ông (Linh Sơn Tiên Thạch Tư): Hiện nay chùa Ông lấy tên Linh Sơn Tiên Thạch Tự, khi khách hành hương từ dưới núi lên là gặp (nay ngoài đường bộ lên núi, còn có cáp treo và máng trượt).
Chùa nằm về hướng Đông Nam, có kiến trúc bền vững, khang trang. Giữa sân chùa là tượng Phật Bà Quan Âm, phía sau tượng Quan Âm là pho Tiêu Diện Đại Sĩ, đấu lưng là tượng Hộ pháp mặt nhìn vào trong, như là 2 ông Thiện ông Ác kiểm soát khách vào ra.
Vào trong chùa, phía bên phải là 3 pho Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu (theo sách cũ ghi dãy này trước đây là những pho tượng mang hình tượng của Thập điện Diêm Vương). Tường bên trái cũng là dãy tượng mang hình tượng Thập Bát La Hán, nhưng nay chỉ còn 4 pho.
Nơi chánh điện, nhìn hàng ngang có 3 ban thờ. Ban giữa pho tượng lớn là Phật A Di Đà; bên trái là ban thờ Quan Âm Bồ Tát, Phật Chuẩn Đề 18 tay, Địa Tạng; bên phải là ban thờ Phật Chuẩn Đề, Đại Thế Chí, Địa Tạng cỡi sư tử.
Phía sau là gian thờ tổ, thờ Đạt Ma Tổ Sư, Quan Công và bàn thờ hương linh bá tánh. Ngoài ra còn ban thờ Phật Dám với tư cách coi sóc đồ lễ.
Chùa Ông khác với chùa Trung là không thờ Mẫu, tức chùa không thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, Bà Thiên Hậu v.v… Chỉ đơn thuần thờ Phật.
3- Điện Bà: Điện Bà Đen nằm cạnh chùa Ông (ngôi chùa vừa nói, có trước đời Nguyễn Ánh tức cuối thế kỷ XVIII, có tên là Linh Sơn Tự nơi Bà Đen hiển linh), điện Bà có kết cấu 2 phần. Phần trong là một vòm hang đá được tạo bởi một phiến đá rất lớn nhô ra khỏi sườn núi, vòm chỉ cao gần 2 mét có diện tích khoảng 20m2. Phần ngoài xây nối tiếp với hang động, trống 3 phía chỉ có trần nhà, diện tích bằng gian thờ Bà Đen.
Cửa hang được bố trí cửa hai bên, một gian nhỏ thờ ngựa gỏ, một gian thờ Ông Địa. Nhưng khách hành hương nhìn thấy bên hang còn có 2 miếu nhỏ thờ Ông Tà, thờ 1 hòn đá hình trụ cao gần năm tấc, đường kính khoảng một tấc, như một Linga thờ ở Miếu Bà Chúa Xứ, trên phiến đá trùm một tấm vải điều đỏ.
Bên trong điện hai bên thờ Tứ Vị Sơn Thần nay chỉ có bát nhang. Trong cùng là chánh điện, ở giữa là tượng Bà Linh Sơn Thánh Mẫu da mặt toàn thân màu đen, choàng áo thêu kim tuyến. Hai bên trái phải thờ cô cậu: Cậu Tài cậu Quý – Cô Hồng cô Hạnh. Phía trước có 2 pho tượng, một trắng (do khách hành hương cung tiến) được mọi người cho đó là tượng Bà Chúa Xứ Châu Đốc, một đen (các vị giữ điện nói từ động Thanh Long đưa về) là tượng của Linh Sơn Thánh Mẫu.
Phía ngoài là tượng Địa Mẫu tạc đứng khá lớn. Cùng 4 pho Tứ Thiên Vương là các vị Ma Lễ Hồng, Ma Lễ Hải, Ma Lễ Thọ và Ma Lễ Thanh. Ngoài cùng là tượng Phật Bà Quan Âm.
Ở điện thờ Bà Đen ta nhận thấy cách bày trí rất kỳ ảo và không kém phần trang nghiêm. Và cũng là cách thờ Tiền Phật hậu Mẫu như những đền điện thờ Mẫu khác.
4- Chùa Hang (Động Ông Chàm): Từ điện Bà, khách muốn lên chùa Hang phải đi tiếp 155 bậc thang qua suối Bạc là tới (xưa gọi là động Ông Chàm, vì lúc mới khai phá núi Một, có một người Chàm lên đây lập động tu luyện bùa chú, khi ông chết mới có người lên núi và phát hiện, gọi động này là Long Châu Tự).
Chùa Hang nằm gọn trong một hang đá có diện tích, độ cao và tạo hình như điện Bà Đen ngự.
Trước cửa hang cũng gồm hai lối vào ra, trấn cửa là Tiêu Diện Đại Sĩ, phía trong là Hộ pháp quay mặt vào trong chánh điện. Ở giữa chánh điện có pho tượng Phật Di Đà, ở bốn góc chùa có các tượng Phật: Quan Âm, Thích Ca sơ sinh, Thế Chí Bồ Tát và Phật Chuẩn Đề.
Phía trong cùng, dãy ban thờ hàng ngang từ ngoài nhìn vào, phía góc trái thờ Địa Tạng cỡi sư tử, kế bên có tượng Linh Sơn Thánh Mẫu màu đen, hai bên tượng Bà có 2 tượng nhỏ cô cậu đứng hầu. Kế đó là tượng Bà Chúa Xứ. Góc bên phải là ban thờ tượng Ngọc Hoàng. Phía ngoài hang là một sân có 2 pho tượng Phật Bà Quan Âm cao khoảng 2 mét. Ngoài ra kế bên chùa Hang là một ngôi chùa 2 tầng kiến trúc như những ngôi chùa miền Bắc với 4 góc cong vút, được dựng trên nền Long Châu Tự cũ.
Qua các chùa trên núi Bà Đen, các nhà nghiên cứu về văn hóa tâm linh, có nhận xét về quần thể trên như sau:
– Các chùa trừ Linh Sơn Tiên Thạch Tự, các chùa khác trên núi bày trí theo cách thờ “Tiền Phật hậu Mẫu”. Do các chùa đều tập chung việc thờ Linh Sơn Thánh Mẫu là Mẫu Tiên Thiên (Miếu Bà Châu Đốc là Mẫu Địa Tiên). Là loại hình thờ Mẫu trong dân gian ở nước ta.
– Ngoài ra trong quần thể chùa núi Bà Đen có thờ thần Linga (Ông Tà), Quan Công, Bà Thiên Hậu cho thấy ở đây có sự hòa đồng sắc tộc gồm Khmer, Champa, Hoa, Việt trong tín ngưỡng dân gian của tục thờ Thần.
- LỄ HỘI VÍA BÀ
Hàng năm tỉnh Tây Ninh đều tổ chức Lễ hội Vía Bà (còn gọi Hội Xuân Núi Bà) từ mùng 10 tết đến hết rằm tháng giêng âm lịch. Nhưng ngày vía chính hằng năm vào ngày 5 và 6 tháng 5 âm lịch.
Việc tổ chức ngoài việc thu hút khách thập phương đến Tây Ninh tham quan cảnh trí trên núi Điện Bà, còn là lễ hội thuần túy về tín ngưỡng.
Khác với lễ vía Bà Chúa Xứ, lễ vía Bà Đen rất đơn giản. Dù được tổ chức nhiều ngày, nhưng chỉ tập trung vào giữa đêm mùng 5 sang rạng sáng mùng 6. Đó là lễ tắm Bà.
Trước khi diễn lễ mộc dục, trong hang điện thờ cấm cung không cho người không phận sự được vào, chỉ có các ni cô tiến hành lễ tắm tượng và thay khăn áo cho Bà là được hiện diện.
Nước tắm là nước dừa có bông thơm, trong cung mùi trầm hương tỏa ngát. Trước khi lau cốt tượng, các ni cô giăng mùng che kín mới bắt đầu lau chùi bụi bậm trên cốt tượng rồi thay khăn áo cho Bà, khăn áo mũ mão và nước hoa xịt lên tượng Bà đều do các thiện nam tín nữ dâng lên để được Bà ban lộc. Lễ tắm xong, thau nước lau cốt tượng được mọi người xin để uống hoặc xoa bóp nhằm chữa bệnh.
Trong lễ mộc dục các khách hành hương bày mâm lễ ở ngoài sân điện đủ các loại đồ cúng, nhưng tựu trung là hoa quả nhang đèn, nhưng dừa và trầu cau dâng Bà là đa số.
Lễ tắm Bà dứt là lúc mọi người bắt đầu được vào Điện viếng Bà, tiếng cầu xin vang dội hòa cùng tiếng xin xăm xin keo không dứt. Ngoài sân trước chùa Linh Sơn có sân khấu hát tuồng phục vụ bá tánh thập phương. Tạo cho ngày vía Bà thêm phần hào hứng đến với khách hành hương. (trích trong cuốn “Phong tục thờ cúng” của tác giả, đã xuất bản)
Nguyễn Việt
https://isach.info/story.php?story=5...u__nguyen_viet
-
-
-
[PDF]ONISHI, Kazuhiko Citation CULTURE AND HISTORY OF HUE ... - Core
https://core.ac.uk/download/pdf/59113319.pdf - Translate this page
by K ONISHI
Mar 26, 2010 - ta cho rằng nữ thần này là một vị thần quân sự linh thiêng. Chúng tôi đặc ..... Chí Đức Tôn Thần, Cao Các Quảng Thổ Đại Vương, Cửu Thiên. Huyền Nữ .... 神尊位, 魯班魯ト二位先師尊神, 本処城隍尊神, 本処土地尊. 神, 五行列位.
https://core.ac.uk/download/pdf/59113319.pdf
-
Cách cúng vía Trời, Ngọc Hoàng
Hàng năm, vào ngày mùng 9 tháng Giêng thường được chọn là ngày làm lễ cúng vía Trời Trời hay lễ cúng Ngọc Hoàng thượng đế. Vậy cách chuẩn bị lễ cúng vía Trời như thế nào? Lễ vật cần chuẩn bị gồm những gì? Văn khấn vía Trời ra sao? Mời các bạn tham khảo bài viết sau đây.
Văn khấn chuyển bàn thờ thần tài
Văn khấn lễ cúng Tiên Sư
Văn khấn ngày giỗ tổ Hùng Vương
1. Ý nghĩa lễ cúng Ngọc Hoàng (cúng vía trời)
Xưa nay, theo tín ngưỡng dân gian của người Hoa lẫn người Việt, trong mùa Tết nguyên đán hằng năm bà con mình chọn ngày mùng 9 tháng giêng âm lịch để cúng Trời, cũng là lễ vía Ngọc Hoàng Thượng đế.
Rạng sáng mùng 9 thì người ta bắt đầu cúng vía Trời mà thời gian cúng tốt nhất là lúc mặt trời chưa mọc.
2. Cách chuẩn bị lễ cúng Ngọc Hoàng
Về lễ vật, theo cách cúng đơn sơ nhưng phổ biến thì chỉ gồm nhang, đèn cầy, hoa, trà (hay nước lã). Tuy nhiên, cách cúng Trời/Ngọc Hoàng thật đầy đủ, đúng theo bài bản cổ truyền thì vẫn được những gia đình khá giã – nhất là người Hoa trong vùng Chợ Lớn - thực hiện nghiêm chỉnh, tức cúng đủ “lục lễ” gồm “hương, đăng, hoa, trà, quả, phẩm”.
Ngoài 4 món cúng thông thường (như vẫn dùng ở các nghi thức cúng quảy khác) là nhang, đèn cầy, hoa cúng và trái cây, trà cúng Trời phải là loại trà khô, được để ra thành 9 chung (hoặc chén nhỏ). Đặc biệt về món “lễ” cuối cùng là “phẩm” (phẩm vật), cúng Trời phải là các loại đồ khô (như: bột khoai, bột bán kim, nấm mèo, đông cô, táo tàu, bùn tàu, tàu hủ ki, phổ tai.v.v…), với số lượng tính theo số lẻ, là 5, 7 hay 9 loại tùy theo gia chủ.
Đi kèm theo “phẩm” là đồ vàng mã thì nhất thiết phải có ‘vàng’ thọ, ‘vàng’ ông trời, một cặp thùng giấy (giống thùng xách nước, một cái màu vàng kim, một cái màu bạc), một cặp mía màu vàng (còn nguyên ngọn) và đường đổ khuôn. Món đường cúng Trời/Ngọc Hoàng là loại đường mía, được thêm màu vàng, đỏ hay hồng, sau đó nấu đổ vào khuôn thành hình tháp lục giác, kỳ lân, hay lý ngư, thỏi vàng… Một số bà con đã mua sẵn món đường đổ khuôn này ngay từ những ngày đi chợ cận Tết để sắm sửa, trang trí cho bàn thờ trong nhà. Và đến sáng ngày mùng 9, đúng ngày vía Trời, món đường đổ khuôn lại được bày bán rộng rãi ở các chợ và những tiệm bán nhang đèn, đồ thờ......
Văn khấn cúng Ngọc Hoàng
3. Bài văn khấn thông dụng tại nhà
Nam mô a di đà phật
Nam mô a di đà phật
Nam mô a di đà phật
Con xin cung thỉnh đức vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức vua cha Bát Hải, Đức vua cha Thủy Tề, Hội đồng đức vua cha. Quan nam tào bắc đẩu, tứ đại thiên vương, thiên long hộ pháp.
Con xin cung thỉnh Ngũ vị Hoàng tử, ngũ vị Tiên Ông.
Con xin cung thỉnh Đức Hoàng Thiên Quốc mẫu, Mộc Công thiên mẫu, Mẫu Bát Hải, Mẫu Thủy tề. Thánh mẫu Cửu trùng thiên.
Con xin cung thỉnh Đức phật a di đà dược sư lưu ly quang như lai Phật – con xin cung thỉnh đức Phật thích ca mâu ni, giáo chủ cõi cực lạc sa bà như lai - con xin cung thỉnh Đức Phật mẫu Chuẩn Đề quan thế Âm bồ tát. Con xin cung thỉnh Đức phật Hoàng Trần Nhân Tông, cùng muôn ngàn chư vị Phật, chư vị Bồ tát, các chư vị La hán, các đức Hộ pháp.
Con xin cung thỉnh các Vua, các Mẫu, các chầu các quan, Mẫu đệ nhất, Mẫu đệ nhị, Mẫu đệ tam, tam tòa đức Thánh mẫu.
Con xin cung thỉnh Tứ phủ chầu bà, Tứ phủ vạn linh, long thiên thánh chúng vị tiền.
Con xin cung thỉnh các vị tiên thiên, tiên thánh, tiên thần, Đức thánh Tản Viên Sơn Thần, Đức thánh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, các thánh cô, thánh cậu, hồn thiêng sông núi.
Con xin cung thỉnh các Quan thần linh bản địa, Thần hoàng bản thổ, Thần công thổ địa, Thần tài, Thần quân Táo công muôn vàn chư vị thân linh đang cai quản …(Địa chỉ nhà mình).
Con xin cung thỉnh đức thánh tổ dòng họ bố hoặc (Nhà chồng) Bà cô tổ dòng họ…, các cụ tổ tiên hai bên nội ngoại, các hội đồng bà cô, ông mãnh, các vong linh, hương hồn dòng họ……, các cô bé đỏ cậu bé đỏ.
Hôm nay ngày ….. tháng ….. năm …... Chúng con: (họ tên chồng, vợ rồi đến các con….)
có nén hương, chút lễ mọn với lòng thành kính dâng lên Trời, phật, các cung các cõi linh thiêng.
Cầu xin các ngài gia hộ độ trì cho chúng con: Được âm phù, dương trợ, được trên kính, dưới nhường, được bạn bè người thân giúp đỡ, để công việc được thuận buồm xuôi gió. Cho chúng con Nhà cửa yên ấm, bình an, vợ chồng hạnh phúc, các con khỏe mạnh, có tài có lộc, có điều kiện, có phương tiện để làm phúc làm thiện, tích phúc, tích đức, làm rạng danh cho dòng họ, tổ tiên.
Lễ mọn lòng thành xin các ngài, các cung các cõi linh thiêng chấp lễ, chấp lời cầu xin thỉnh nguyện của chúng con.
Nam mô a di đà phật
Nam mô a di đà phật
Nam mô a di đà phật
https://vndoc.com/van-khan-cung-ngoc-hoang/download
-
Văn khấn bà chúa xứ Châu Đốc
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam tọa lạc nơi chân núi Sam, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một di tích kiến trúc và tâm linh quan trọng của tỉnh và của khu vực. Trong bài viết này VnDoc xin được chia sẻ với các bạn bài văn khấn bà chúa xứ Châu Đốc và sự tích bà chúa núi Sam để các bạn cùng tham khảo.
Văn khấn đổi tên
Văn khấn gia tiên mùng 1 và rằm
Bài văn khấn bà Chúa Nam Phương
Bài văn khấn cúng tại đền Bà Chúa Kho
Bà chúa Xứ Châu Đốc
Châu Đốc cách TP.HCM khoảng 250km, cách TP. Long Xuyên khoảng 55km, là một thị xã trực thuộc tỉnh An Giang, nằm bên ngã ba của sông Châu Đốc và sông Hậu sát biên giới Việt Nam với Campuchia. Thị xã Châu Đốc có chiều dài lịch sử gắn liền với những câu chuyện ly kỳ về Bà Chúa Xứ Núi Sam - nơi có Lễ hội Bà Chúa Xứ vào khoảng tháng Tư âm lịch hàng năm.
Miếu bà chúa Xứ
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam nằm trên vùng đất trũng phía tây bắc núi Sam, lưng quay về vách núi, chính điện nhìn ra con đường và cánh đồng làng. Kiến trúc có dạng chữ ""quốc"", hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng.
Bà chúa Xứ núi Sam
Trông từ xa, ngôi miếu như một bông sen xanh ngự uy nghi trên cao để người đời hướng về bái vọng. Lại gần, khách sẽ thấy ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng các hoa văn ở cổ lầu chính điện, thể hiện đậm nét nghệ thuật Ấn Độ. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi ở nơi đây cũng rực rỡ vàng son.
Bài cúng bà chúa xứ Châu Đốc
"Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Sứ.
Cúi xin được phù hộ độ trì. Hương tử con là: Ngụ tại:….
Ngày hôm nay là Ngày….. Tháng….. Năm.
Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý. ……. (Muốn gì cầu xin) Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Sứ, cúi xin được phù hộ độ trì."
Xin lộc bà chúa Xứ
"Ai đi cũng nên xin một BAO LÌ XÌ LỘC BÀ về cho may mắn... nói thẳng trong bao có khi là tiền, có khi là tấm áo Bà Mặc cắt ra làm lộc.
Cách sử dụng lộc Bà chúa Xứ như sau:
- Khi rước lộc về nhà, thỉnh lộc bà lên một cái dĩa, sau đó để 4 ly nước suối kế bên, cầm từng ly lên khấn cung nghinh bà về cư gia, cứ mỗi ly nước ta khấn xong ta chế 4 góc nhà.
- Sau đó trân trọng đặt lên bàn thờ ở Mẹ Quan Âm chứ không nên để chỗ thờ Ông Địa như các nhà thường làm. Sẽ khinh thường bà, mà ông địa ông thần tài năm đó cũng không về được khánh.
- Khi đặt lên thì trong 9 ngày phải thay nước và 3 ngày thay trầu cau 1 lần.
- Sau đó ta có thể bỏ bóp hay để bàn thờ nhưng ta nhớ thường xuyên khấn Bà xin độ cho chúng con. Nếu để bàn thờ thì nên đặt thêm quanh bao lộc đó 5 thứ ngũ cốc.
- Cuối năm ngày 23 âm lịch hóa bao lộc này
Bà chúa Xứ là ai ?
Hiện nay tồn tại khá nhiều dị bản khác nhau về sự hình thành Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam. Đây được xem là tổ miếu của dạng thức tín ngưỡng này, có qui mô lớn nhất vùng, không chỉ mang ý nghĩa phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của cư dân địa phương, mà còn có ý nghĩa trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua hoạt động du lịch.
Sự tích bà chúa Xứ
Sự tích bà Chúa Xứ Châu Đốc thứ nhất:
Trên núi Sam ngày xưa có một bệ tượng hình vuông bằng đá sa thạch. Vào những năm đầu thế kỷ XIX, giặc Xiêm thường sang khu vực này để quấy nhiễu. Trong một lần lên núi và bắt gặp tượng Bà, họ liền có ý định cậy tượng ra khỏi bệ đá để đem xuống núi. Nhưng kỳ lạ thay tượng trở nên nặng vô cùng, họ không cách nào khiêng được mặc dù có bao nhiêu lính tráng khỏe mạnh.
Trong lúc tức giận, một quân lính người Xiêm đã vớ một khúc gỗ phang vào tượng làm sứt một miếng ở cánh tay. Ngay lập tức người lính Xiêm này hộc máu chết tại chỗ. Sau đó, một hôm dân làng lên núi thấy tượng Bà bèn cùng nhau khiêng tượng về lập miếu thờ. Tuy nhiên, cũng như lần trước, tượng nặng vô cùng, bao nhiêu trai tráng trong làng góp sức nhưng cũng không khiến cho bức tượng xê dịch được.
Lúc đó, bỗng một phụ nữ lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ và phán rằng, muốn thỉnh Bà xuống thì cần phải có 40 cô gái đồng trinh tắm rửa sạch sẽ mới có thể khiêng Bà xuống. Dân làng tin lời và làm theo. Quả thật linh nghiệm; tuy nhiên, đến chân núi Sam thì tượng Bà lại trở nên nặng trịch, không thể khiêng tiếp được nữa. Hiểu được dụng ý của Bà, dân làng liền cho lập đền thờ ở khu vực này.
Sự tích bà Chúa Xứ núi Sam thứ hai:
Kể lại rằng cách đây gần 200 năm, có một cô gái trong làng Vĩnh Tế bỗng lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ về núi Sam để cứu dân độ thế. Bà còn nói thêm là hiện nay, tượng Bà đang ngự trên núi, yêu cầu dân làng lên núi thỉnh về để thờ phụng. Dân làng liền phái 40 chàng thanh niên lực lưỡng lên núi để khiêng tượng, nhưng cũng không thể xê dịch bức tượng. Lúc đó, cô gái lại lên đồng và cho dân làng biết chỉ cần 9 cô gái đồng trinh là có thể khiêng được. Quả thật linh nghiệm; đến chân núi Sam, dây khiêng tượng bị đứt, thế là dân làng hiểu ý Bà mà cho lập miếu thờ Bà ở đây.
Sự tích bà Chúa Xứ thứ ba:
Thì cho rằng, dưới thời Thoại Ngọc Hầu trấn thủ Châu Đốc, đeo ấn bảo hộ Cao Miên, vợ ông (tức là bà Châu Thị Tế) ở nhà thường cầu nguyện cho ông bình an trở về, nếu được thì sẽ lập chùa thờ Phật để báo ân phù hộ. Sau khi Thoại Ngọc Hầu trở về, ông vì cảm kích trước tấm lòng của vợ mình nên đã cho quân lính sang tây Trấn Thành chở cốt Phật về lập chùa để thờ, đặt tên là chùa Tây An. Chùa xây xong, ông lo ngại tin đồn ác ý rằng xây chùa để thờ Phật của giặc nên đưa pho tượng ra ngoài chùa, lập miếu thờ để tránh phiền phức.
Sự tích bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc thứ tư:
Thì kể về việc một thiếu phụ Cao Miên đi tìm chồng, đến chân núi vì quá mệt mỏi nên đã ngồi nghỉ, sau đó bà đã hóa đá ở chân núi này. Sau đó, linh hồn người phụ nữ này nhập vào cốt đồng để nói về quá khứ và tương lai để giúp đỡ những người hiền và trừng phạt những người xấu. Dân làng liền lập miếu thờ và gọi bà là Bà Chúa Xứ.
https://vndoc.com/van-khan-ba-chua-xu-chau-doc/download
-
Ngọc Hoàng Thượng Đế
(玉皇上帝): tên gọi của vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của Thiên Đình, với nhiều tôn xưng khác nhau như Hạo Thiên Thượng Đế (昊天上帝), Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝), Ngọc Đế (玉帝), Ngọc Hoàng (玉皇), Hạo Thiên Kim Khuyết Chí Tôn Ngọc Hoàng Đại Đế (昊天金闕至尊玉皇大帝), Huyền Khung Cao Thượng Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế (玄穹高上玉皇大天帝), Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế (玉皇大天尊玄靈高上帝), hay dân gian thường gọi là Thiên Công (天公, Ông Trời). Dưới thời nhà Tống, vua Chơn Tông (眞宗, tại vị 997-1022) cũng như Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) đều có ban Thánh hiệu cho Ngọc Hoàng Đại Đế. Vua Chơn Tông ban cho Thánh hiệu là Thái Thượng Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chơn Thể Đạo Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế (太上開天執符御歷含眞體道玉皇大天 ). Vua Huy Tông là Thái Thượng Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chơn Thể Đạo Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng Đế (太上開天執符御歷含眞體道昊天玉皇 帝). Trong các kinh điển của Đạo Giáo tôn xưng là Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Chí Chơn Ngọc Hoàng Đại Đế (昊天金闕無上至尊自然妙有彌羅至眞 皇大帝). Ngài được xem như là một vị thần minh tối cao của Đạo Giáo, địa vị chỉ dưới Tam Thanh Tôn Thần (三清尊神) mà thôi. Dưới con mắt thế tục, Ngài được kính ngưỡng như vị thần tối vĩ đại, là vua trong các vị thần. Theo truyền thuyết dân gian, Ngọc Hoàng Thượng Đế không những thọ mạng Thiên Tử thống trị con người, mà còn cai quản cả Tam Giáo Nho, Lão, Thích, cùng với chư vị thần tiên của ba đạo này, cũng như các thiên thần, địa kỳ, người, quỷ đều thuộc quyền thống quản của Ngài. Ngoài việc quản lý ba cõi Thiên, Địa, Nhân, Ngọc Hoàng Đại Đế còn trông coi về sự hưng long, suy bại, tốt xấu, phước họa của vũ trụ vạn vật. Thuộc hạ quản lý về học vụ có Văn Xương Đế Quân (文昌帝君); về thương vụ có Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君); về công vụ có Công Thánh Tiên Sư (巧聖先師); về nông vụ có Thần Nông Tiên Đế (神農先帝); về việc địa phương có Đông Nhạc Đại Đế (東岳大帝), Thanh Sơn Vương (青山王), Thành Hoàng Da (城隍爺), Cảnh Chủ Công (境主公), Thổ Địa Công (土地公), Địa Cơ Chủ (地基主); về cõi âm có Phong Đô Đại Đế (酆都大帝) và Thập Điện Diêm Vương (十殿閻王). Theo lý luận của Đạo Giáo, Trời có 13 tầng, mỗi tầng có 3 vạn dặm, địa phương ngoài Trời ra được gọi là Vô Cực (無極), cõi trong Trời là Thái Cực (太極). Ngọc Hoàng Đại Đế là thần linh tối cao vô thượng trong vũ trụ, hết thảy chư thần linh đều phải vâng lịnh Ngài. Cõi Trời Thái Cực chia thành 5 cõi Trời khác nhau: Trung Thiên (中天) có Ngọc Hoàng Đại Đế an ngự, trên chưởng quản 36 cõi trời, ba ngàn thế giới, dưới trông coi 72 cõi, hết thảy sinh linh. Đông Thiên (東天) có Tam Quan Đại Đế (三官大帝), chủ quản ban phước, kéo dài tuổi thọ, giải trừ tai ách, xá tội, tiêu nạn. Nam Thiên (南天) có Văn Hành Thánh Đế (文衡聖帝), chủ quản việc ủy nhiệm chư thần linh, lên xuống, khảo sát, xem xét công tội của các thần. Tây Thiên (西天) có Thích Ca Mâu Ni (釋迦牟尼), chủ quản việc tín ngưỡng, quy y của con người. Bắc Thiên (北天) có Tử Vi Đại Đế (紫微大帝), chủ quản việc ban phước, tiêu tai, ban bố tài lộc. Về lai lịch của Ngài, theo Cao Thượng Ngọc Hoàng Bản Hạnh Tập Kinh (高上玉皇本行集經) của Đạo Giáo cho rằng vào thời xa xưa có một trú xứ tên Quang Nghiêm Diệu Lạc Quốc (光嚴妙樂國); Quốc Vương xứ này là Tịnh Đức Vương (淨德王), Hoàng Hậu là Bảo Nguyệt Quang (寶月光). Cả hai đều lớn tuổi nhưng không có con nối dõi. Bỗng một đêm nọ, bà mộng thấy Thái Thượng Lão Quân (太上老君) ẵm một đứa hài nhi đưa vào trong bài thai của Hoàng Hậu. Bà cung kính đón nhận, đến khi tỉnh dậy mới hay rằng mình đã có thai. Mang thai tròn 12 tháng, rồi đến ngày mồng 9 tháng giêng năm Bính Ngọ thì hạ sinh Thái Tử. Ngay từ lúc nhỏ, Thái Tử đã thông tuệ, đến khi lớn lên phụ tá cho Quốc Vương rất đắc lực, thương dân, làm việc thiện, cứu người nghèo khổ. Sau khi vua cha băng hà, Thái Tử từ bỏ ngôi vị, vào trong Phổ Minh Hương Nham Sơn (普明香岩山) tu đạo, trãi qua 3.200 kiếp, mới chứng được Kim Tiên, hiệu là Tự Nhiên Giác Hoàng. Sau đó, lại trãi qua cả ức kiếp mới chứng thành Ngọc Đế, hy sinh thân mạng để cứu độ chúng sanh. Từ đó, mồng 9 tháng giêng hằng năm được xem như là ngày khánh đản của Ngọc Hoàng Đại Đế. Tại các Đạo Quán đều có thiết lễ dâng cúng, gọi là Ngọc Hoàng Hội (玉皇會) để cầu nguyện phước quả, sống lâu. Tại tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc cũng như Đài Loan, ngày này được gọi là ngày Bái Thiên Công (拜天公, Lạy Ông Trời); cho nên cả gia đình lớn nhỏ, già trẻ đều giữ gìn trai giới, tắm rửa sạch sẽ, dâng hương hành lễ, vái lạy, tụng kinh. Thời xưa, ở phương Bắc của Trung Quốc có tục lệ tế lễ Ngọc Hoàng, rước tượng Ngài đi cùng khắp thôn xóm. Tương truyền 25 tháng 12 là ngày Ngọc Hoàng Đại Đế hà phàm tuần tra nhân gian, cho nên các Đạo Quán cũng như trong dân gian đều có thắp hương, tụng kinh để nghênh đón Ngài. Trong Đạo Mẫu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua Cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Trong bài Mộng Tiên (夢仙), Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) có đoạn thơ xưng tán Ngọc Hoàng Đại Đế rằng: “An kỳ tiện môn bối, liệt thị như công khanh, ngưỡng yết Ngọc Hoàng Đế, khể thủ tiền trí thành (安期羨門輩、列侍如公卿、仰謁玉皇 、稽首前致誠, mong sao lòng kẻ mọn, hầu hạ như công khanh, ngưỡng tâu Ngọc Hoàng Đế, cúi đầu tâm chí thành).
http://phatam.org/dictionary/detail/...ng-thuong-de/2
-
崇正天后聖母宮
Miếu Thiên Hậu Sùng Chính .
Chùa Bà Sùng Chính - Vũng Tàu.
Chùa Bà tại Vi ba! Chùa mới sửa sang lại trang nghiêm và cảnh thì tựa lưng vào núi lớn rất đẹp!!!
Chùa Bà 21 ViBa - Vũng Tàu
chùa bà 21 Vi Ba núi lớn Vũng Tàu
Miếu Bà Thiên Hậu Sùng Chính, tại đường Vi Ba-P.1-TP.Vũng Tàu, có Phối thờ Phật Bà, Phật Tứ Diện, các tượng Quan Công, Quan Bình, Châu Xương và Ngựa Xích Thố. Phong cảnh và kiến trúc rất đẹp, không thua các ngôi chùa tại Đài Loan hay Hong Kong
miếu bà thiên hậu sùng chính Vũng tàu,tại 38 đường vi ba phường 6.
https://upanh1.com/images/16864326_7...45699125_n.jpg
https://upanh1.com/images/Untitled42cbdc9838a6c636.png
https://upanh1.com/images/40092808_4...03196928_n.jpg
https://upanh1.com/images/40002163_1...54534912_n.jpg
https://upanh1.com/images/33599234_2...56699904_n.jpg
https://upanh1.com/images/16806816_7...62777123_n.jpg
https://upanh1.com/images/14192115_1...18817976_n.jpg
https://www.facebook.com/pages/ch%C3...12839305505156
==========
https://upanh1.com/images/37843761_2...47291904_n.jpg
https://www.facebook.com/pages/ch%C3...12839305505156
============
https://www.youtube.com/watch?v=Nn9slurqYjU
Miễu Bà Sùng Chính Vũng Tàu tháng 4 năm 2018/ Vung Tau, Viet Nam
-
Category:Temple of Bà Chúa Xứ
Good pictures
Advanced...
View Wikimedia Commons in Tiếng Việt
From Wikimedia Commons, the free media repository
Jump to navigationJump to search
English: Bà Chúa Xứ (主處聖母, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Pinyin: Zhǔchù shèngmǔ; lit. “Lady of the Realm”) is a prosperity goddess of southern Vietnam's Thanism. She is a tutelary of business, health, and a protector of the Vietnamese border. She is housed in Vĩnh Tế village at the foot of Sam Mountain, near Cambodia. A three-day festival is held in the village at the beginning of the rainy season, beginning on the twenty-third day of the fourth lunar month, in her honour. Bà Chúa Xứ reached her peak of popularity in the 1990s and still entertains pilgrims every year with her responsiveness to loyal followers. Main Temple of Bà Chúa Xứ is on Mount Sam, Vinh Te, Chau Doc
https://commons.wikimedia.org/wiki/C...BAa_X%E1%BB%A9
-
-
-