Bạn có thể gửi cho tôi đc không? Địa chỉ thư đt của mình: alexiskhair@yahoo.com.
Cám ơn nhiều!
Printable View
Bạn có thể gửi cho tôi đc không? Địa chỉ thư đt của mình: alexiskhair@yahoo.com.
Cám ơn nhiều!
Đệ cũng muốn có vài tấm ảnh quá:i_dont_want_to_see::i_dont_want_to_see:. Nếu các cô bác, huynh đệ tỉ muội nào có, làm ơn khuyến mại cho đệ vài ngàn tiền ảnh nhé:drooling::drooling::drooling:. Xin trân trọng cảm ơn trước!
email: tranhoaivan@tlen.pl
Chuyện về "Thầy phù thuỷ" chữa bệnh
Thursday, 31. January 2008, 08:46:35
Chuyện về ngôi mộ cụ
Người ta đồn rằng, có một ngôi mộ nằm ven quốc lộ 21B phát ra năng lượng kỳ lạ chữa được bách bệnh. Hàng ngày dân tứ xứ đổ về đó rất nhiều, họ ngồi bên mộ những mong "hấp thụ" được chút năng lượng vào cơ thể.
Từ những năm 70, 80 của thế kỷ XX, hiện tượng cụ Nguyễn Đức Cần "phù thủy" chữa bệnh bằng năng lượng đã gây xôn xao dư luận. Nhưng rồi thời gian gần đây, khi cụ đã ra đi hơn 20 năm, dư luận lại thêm một lần thổi bùng lên "phép nhiệm mầu" về "năng lượng dưới mộ" cụ Cần. Hiện chưa có đủ căn cứ để khẳng định đây là hiện tượng mê tín dị đoan hay dựa trên cơ sở khoa học. Còn thực tế, ngôi mộ ấy hàng ngày vẫn nghi ngút khói hương và người đến thăm viếng.
Bí ẩn về "thầy phù thủy" và "phép nhiệm mầu"
Gần 11 giờ trưa 1/3 âm lịch, cái nắng đầu hè khiến ai cũng mệt mỏi, khó chịu. Thế nhưng bên ngôi mộ giữa cánh đồng vẫn dựng mấy chiếc xe máy mang biển số Hà Nội. Gia đình ông Xiêm, ở ngõ 97, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội đã ngồi trước mộ cụ Cần rất lâu. Ông Xiêm cho biết ông là một trong những bệnh nhân của cụ Cần từ hồi cụ còn sống.
Trước đó, ông bị liệt hai chân, tưởng rằng vô phương cứu chữa. Ông tìm đến cụ Cần xin chữa bệnh và thật bất ngờ, chỉ bằng một mảnh giấy cụ cho, ông đem về đặt lên cốc nước đốt và uống mà khỏi bệnh, khiến các bác sỹ đang điều trị cho ông hết sức ngạc nhiên.
Thế rồi từ đó, ông thường xuyên qua lại thăm cụ Cần, đưa con gái đến chữa bệnh. Ông Xiêm cũng kể cho chúng tôi nghe rất nhiều trường hợp bệnh nhân được cụ Cần chữa khỏi bằng năng lượng. Nhưng có một điều đặc biệt là cụ không lấy của ai một đồng.
http://files.myopera.com/nguyentaidu...g/DSC00034.JPG
Bà Nguyễn Thị Sinh là con gái cụ Cần, hiện đã gần 60 tuổi hàng ngày vẫn cùng chồng chăm sóc phần mộ cụ kể lại câu chuyện về cha mình: Cụ Cần sinh năm 1909, có học vấn , thông thạo tiếng Pháp, hoạt động cách mạng trước năm 1945. Khi lên Việt Bắc, cụ gửi lại bà Sinh làm con nuôi cho một gia đình, ở xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai. Sau này, bà Sinh lấy chồng và sinh sống tại đây. Năm 1955, từ Việt Bắc trở về cụ sống tại Đại Yên, quận Ba Đình, Hà Nội, làm nghề trồng hoa. Các con không biết việc cụ tu luyện như thế nào, nhưng nghe cụ kể rằng, cụ được một người thầy miền núi khai mở.
Cần một nghiên cứu khoa học về hiện tượng này
Dư luận lại thêm một lần bán tín bán nghi về hiện tượng ly kỳ này khi ông Nguyễn Tiến Huy, ở thôn Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai công bố "công trình nghiên cứu" của mình. Theo ông Huy, khi ông lập hình đo năng lượng ở mức 13.500BE thì phát hiện năng lượng tại mộ cụ Cần là năng lượng dương, vượt quá con số trên. Ngạc nhiên hơn, năng lượng của ông qua tập thiền ở thời điểm này mỗi ngày chỉ tăng 2-3 BE, nhưng sau một thời gian có mặt tại ngôi mộ đã tăng đột biến từ 115-200BE. Ông Huy cùng một số người có trình độ ngoại cảm đi thăm mộ và kết luận ở đây có trường năng lượng rất cao, đặt tay vào mộ thấy năng lượng truyền vào mình ào ạt (!?)... Năng lượng mà ông Huy đo ở ngôi mộ đã vượt quá 33.000BE (!?).
Chúng tôi đã trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải ở Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thì được biết: Phương pháp đo cảm xạ của ông Huy là bằng con lắc hay còn gọi là nghiên cứu cảm xạ học, mang tính chủ quan. Ông Hải kể, lần đầu tiên gặp cụ Cần, ông đã giật mình bởi cụ có đôi mắt sáng quắc, khuôn mặt rất thông minh. Năm 1974 ông bắt đầu nghiên cứu về cụ và đã gặp rắc rối bởi lẽ thời kỳ đó, khoa học nước ta chưa phát triển, nên người ta cho rằng cụ Cần là "phù thuỷ". Nhưng đến ngày nay, người chữa bệnh bằng năng lượng sinh học được coi là bình thường. Có thể nói ông Hải là người duy nhất nghiên cứu về cụ Cần và cũng là người thường xuyên chứng kiến cụ chữa bệnh. Ông cho rằng, năng lượng chứa đựng trong miếng giấy mà cụ Cần dùng để chữa bệnh là năng lượng sinh học, trong Yoga gọi là năng lượng Prama.
Để nghiên cứu về cụ, ông Hải dựa trên những lá thư cảm ơn của bệnh nhân, ông chọn bệnh nhân nặng, sau đó đến tận nhà họ để điều tra. Mặt khác, ông nghiên cứu trên cơ sở bệnh nhân đến chữa trực tiếp. Ông Hải kể cho chúng tôi nghe rất nhiều trường hợp được cụ Cần chữa khỏi bệnh, mà cách chữa bệnh của cụ cũng "độc nhất vô nhị" ở nước ta vào thời gian đó. Cụ không cần hỏi bệnh mà chỉ nói những câu chuyện không ăn nhập gì tới căn bệnh. Cụ đứng cạnh chiếc bàn, trên bàn là những mảnh giấy (gọi là đạo) đã được cắt sẵn, tay cụ vê vê miếng giấy (truyền năng lượng vào giấy) rồi đưa cho người bệnh bảo về nhà đốt lên uống. Cụ Cần còn chữa bệnh từ xa, chữa cho người đang ở nước ngoài. Có người đến xin cụ chữa bệnh, cụ bảo cứ về nhà là khỏi. Có người bệnh được cụ chữa bằng cách nhận sóng qua trạm trung gian... Nhưng cụ Cần không truyền được khả năng này cho ai bởi nó thuộc về khả năng riêng của từng người.
Theo ông Hải thì có 4 con đường dẫn đến khả năng như cụ Cần. Đó là bẩm sinh; tai biến (điện giật, chấn thương); dày công tập luyện Yoga; chân sư khai mở, hay còn gọi là "Chakre" (trung tâm lực hay những huyệt đạo trong cơ thể). Hiện mộ cụ có chứa năng lượng như cách đo của ông Huy hay không thì ông không biết, bởi nước ta chưa có bộ đo phản xạ năng lượng của con người bằng con lắc.
Ông Nguyễn Văn Chính, cán bộ Văn phòng UBND xã Thanh Mai, cho biết ngôi mộ được đặt ở đó đã lâu trên diện tích đất của gia đình bà Sinh. Chính quyền xã cử cán bộ tìm hiểu thì thấy người về đây thắp hương không có biểu hiện mê tín dị đoan, không ảnh hưởng đến an ninh trật tự địa phương nên chưa can thiệp.
Theo Báo Công An nhân dân
Chữ của Cụ
http://files.myopera.com/nguyentaidu...g/CIMG0110.JPG
( Bút tích của Cụ Nguyễn Đức Cần )
Chữ Người ý nghĩa tuyệt vời
Chữ ban hạnh phúc thay Trời cứu dân
Nét thần phấp phới xa gần
Tung bay cao thấp , muôn dân được nhờ
Từ bao giờ đến bây giờ
Việt Nam có Cụ ,dân chờ dân mong
Mong như cha mẹ rủ lòng
Thương con thương cháu, giống dòng rồng tiên
Nghìn xưa Cụ ở thượng thiên
Nghìn nay giáng thế dịu hiền biết bao
Trần gian đau đớn ra sao
Nhất tâm xin Cụ, bệnh nào cũng yên
Đức dày được cứu khỏi liền
Cụ không dùng thuốc, bạc tiền cũng không
Trần gian mù điếc phải thông
Nếu còn ngây dại: chất chồng oan khiên
Cụ cho giác ngộ tự nhiên
Ai cầu nấy được , từ thuyền độ ngay
Cụ thương không kể đêm ngày
Ai mà có phúc , gặp Thày thượng thiên.
Hà Nội ngày 28 tháng 8 Nhâm Tuất
Kính dâng
Con
Ngọc Thanh
Cụ ốm
Chúng ta biết rằng cụ có một năng lực kỳ diệu, đã cứu bệnh cho hàng ngàn người, kể cả những bệnh nhân ở nước ngoài. Có lẽ vì thế mà nhiều người đã vô cùng khâm phục suy tôn cụ lên ngôi thần thánh. Nhưng cụ nói rằng :” Tôi chỉ là người, cũng ăn , uống , sống , chết như mọi người khác” và cũng có nhiều người tưởng rằng với năng lực siêu phàm như vậy, cụ không bao giờ ốm đau bệnh tật.
Nhưng có những buổi chiều tối, khi nhà đã vãn khách, cụ bảo với chúng tôi :”Các cô chú trông nhà cho thầy đi nằm nghỉ một chút, đầu mình có phải bằng sắt đâu “.
Chúng tôi nghe cụ dạy như vậy mà bỗng thấy thương cụ vô cùng.
Vào tối 30 Tết Canh Thân 1980 , cụ bị mệt nặng , nằm thiêm thiếp làm mọi người chúng tôi ai cũng lo lắng.Ngày mồng 1 Tết cụ đã tỉnh hơn ,cụ hẹn với chúng tôi trưa mai ( mồng 2 Tết) sẽ khỏi.Và thật kỳ diệu đúng trưa mồng 2 Tết là ngày Hội của các cháu thiếu nhi, cụ đã dậy và ra đứng trước sân âu yếm nhìn đàn con cháu đang ngồi thụ lộc đầu năm.Chúng tôi ai cũng mừng vui khôn tả.Cụ nói vui rằng : “Tôi cũng phải để dành điện để tự chữa chứ.
Đầu xuân cụ đã dạy chúng tôi: Năm nay nhiều người ốm lắm chú ạ và quả nhiên mới vào đầu hè trời đã nắng gay gắt và Hà Nội có dịch cảm sốt. Người bệnh đến đông quá và cụ tiếp khách suốt cả ngày.
Tôi nhớ một hôm lên cụ, vì đông người bệnh trong nhà ,nên tôi ra làm vườn cùng chị. Chị bảo với tôi rằng :” Chị bị sốt quá “.
Tôi vội hỏi :” Chị đã xin ông chưa ?” Chúng tôi thường thưa với cụ như vậy.
Chị trả lời : “ Chị xin ông rồi , nhưng ông lại bảo chỉ cho cô nhẹ cái đầu thôi .” Nghĩa là đầu không còn nóng nữa , chứ người vẫn còn sốt. Chị bảo tôi :” Em sờ tay chị thử xem “.
Tôi làm theo lời chị , quả nhiên thấy tay chị nóng hầm hập, tôi thấy chị thoáng buồn , vì tôi biết hàng ngày chị lên trên cụ giúp đỡ cho cụ các việc trong nhà như một người con, chị bảo rằng :”Những người khác cũng ốm sốt như chị , lên xin ông là khỏi ngay “. Thậm chí có người vừa ra khỏi cửa lại thấy chạy vào khoe với cụ là đã khỏi sốt rồi. Thế mà những người luôn được gần cụ thì cụ lại chỉ cho đỡ sốt chứ không khỏi ngay.
Điêù đó làm tôi ngạc nhiên…
Nhưng hôm sau, khi tôi lên thì thấy thái độ của chị không còn buồn nữa. Chị bảo nhỏ tôi : “Em ạ, ông cũng đang ốm đấy”. Thì ra khi chi thay chiếc áo cho cụ, thấy người cụ cũng đang sốt hầm hập.
Cho nên khi nghe danh của cụ, thấy việc chữa bệnh của cụ tưởng như thật dễ dàng chỉ cần mảnh giấy hoặc một lời nhận của cụ là bệnh đã chuyển.
Nhưng mấy ai biết được những sự chịu đựng , sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, sự gánh chịu bệnh nạn mà cụ đã trải để cứu giúp cho bao người.
Tôi đã học được những bài học cuộc đời ở nơi đây.Cuộc sống không phải lúc nào cũng có hoa tươi và chim hót , đôi lúc đó là một cuộc chiến đấu để chúng ta vươn tới một cái gì đó tốt đẹp hơn.
Lòng Nhân từ
Một hôm, trong một buổi tiếp chuyện có một người thưa với cụ là :” Lạy ông, sao trời không giết hết những bọn người gian tham, độc ác.”
Cụ từ tốn trả lời rằng :” Nếu người ta chết hết , thì mình ở với ai.”Câu trả lời của cụ làm chúng tôi phải suy nghĩ.
Thường , chúng ta khi xem xét một vấn đề gì đó hay về một con người cụ thể nào đó, chúng ta chỉ thấy được người mà quên đi mình.Ta nhận xét người khác với những thói xấu của họ bằng một con mắt khắt khe ,mà đôi khi lại quên đi chính mình cũng còn có bao nhiêu thói hư , tật xấu như vậy.
Tôi còn nhớ, thời thanh niên đã được đọc cuốn sách “ Chuông nguyện hồn ai” của nhà văn Mỹ Ernest Miller Hemingway. Cuốn tiểu thuyết viết về Robert Jordan, một người Mỹ thuộc Lữ đoàn quốc tế, tham gia chống Phát xít trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Tựa Chuông nguyện hồn ai được Hemingway lấy từ tác phẩm Meditation XVII của nhà thơ John Donne
"Không có một người nào là một hòn đảo, tự bản thân là một thể hoàn chỉnh hết thảy; mỗi người là một mảnh của đại lục, một phần của đất liền; và nếu sóng cuốn xuống biển một mỏm đá ven bờ, thì châu Âu sẽ bé đi, cũng như là nếu nó cuốn mất một mũi đất hay phá đổ nhà bạn anh hoặc nhà anh; cái chết của bất cứ con người nào sẽ làm chính tôi bé đi, vì tôi là một thể thống nhất với toàn nhân loại; do đó anh đừng bao giờ hỏi chuông nguyện hồn ai, chuông nguyện hồn ta đó."
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta ăn uống, đi lại và sử dụng biết bao thứ đồ dùng do người khác làm ra và có bao giờ chúng ta tự hỏi mình rằng đã làm gì cho mọi người, cho Tổ Quốc Việt Nam yêu quý.
Những năm tháng tôi được gần bên cụ, thật ít ỏi nhưng có biết bao điều mà mình còn phải học, phải sửa mình.
Chúng tôi xin kể lại một câu chuyện..
Trong vô vàn những người bệnh lên gặp cụ, có một người làm chúng tôi thấý khó chịu. Bà khách này lần nào cũng đến nhà cụ rất muộn, mãi sẩm tối mới thấy bà ta thuê xe xích lô đến và mới vừa vào đến cổng ngõ nhà cụ, chưa thấy cụ đâu, bà ta đã nói oang oang :” Con lạy cụ ạ ! Con lạy cụ ạ “ mà cụ thì sau một ngày tiếp khách bận rộn vừa mới ngả mình được một chút.
Thế mà khi bà ta vào trong nhà thì cụ đã dậy và ra ngồi ở chỗ tiếp khách hàng ngày.
Mấy người chúng tôi ngồi ngoài sân lẩm bẩm với nhau sao mà có người vô duyên thế…Lát sau đã thấy bà ta vội vàng bước ra, trên khuôn mặt người đàn bà giàu có đó còn ngấn lệ …
Hôm sau, nhân lúc vắng khách cụ nói với chúng tôi rằng :Người ta giàu có, vàng đeo đầy người nhưng cũng khổ tâm lắm, lại còn phải cưu mang một lũ cháu mồ côi ở quê nội, quê ngoại, chứ có sung sướng gì đâu.
Nghe cụ dạy vậy , chúng tôi thấy thật hổ thẹn với lòng mình.
Và rồi một câu chuyện buồn đã đến …
Nguyên vì thấy mẹ kiếm được nhiều tiền, nên có một đứa con trai của bà khách trên đâm ra hư đốn và không coi ai ra gì.Một hôm nó nổi điên vì không được cho tiền và cầm dao rượt đuổi những người trong gia đình.Người nhà vội chạy ra báo với đồn công an và các chiến sỹ công an chạy đến để can thiệp . Nhưng thằng kia thì có biết sợ ai, liền cầm con dao phay xông tới, các anh công an chạy lùi lại , như được thể và đang cơn hăng thằng điên hơ dao để chém.. Trong lúc luống cuống, một anh công an vô tình bóp cò súng và lại trúng ngay vào chỗ phạm của thằng điên kia,mọi người ai cũng sững sờ, không ngờ sự việc lại xảy ra nhanh như thế. Người ta vội đưa nạn nhân đi cấp cứu , nhưng không kịp nữa, người đó đã chết trong bệnh viện.
Khi lo tang ma cho người con xong, nhà bà kia bỗng thấy tiếc thương và hàng xóm có người nọ người kia xúi dục là phải thưa kiện anh công an kia phạm tội giết người.
Khi gia đình họ chuẩn bị viết đơn tố cáo thì họ bỗng nhớ đến cụ và bà ta lại lên gặp cụ và lần này thì không đến muộn như mọi khi.
Bà ta thưa chuyện về sự việc như thế và ý định đi kiện anh công an về tội giết người.Cụ nghiêm trang dạy rằng :” Nó chết là may phúc cho nhà bà, lẽ ra nó đã chém chết mấy mạng người nhà bà rồi, người ta vì công việc mà xông vào cứu chẳng may như thế, vậy còn mong kiện gì nữa ?”.
Nghe theo lời cụ dạy, gia đình đó đã thôi không thưa kiện và anh công an kia cũng thoát nạn.
Cái chết thì chẳng ai muốn , nhưng điều quan trọng hơn là sống có ý nghĩa gì, để có ích cho đời.
Trả Nghiệp
Chúng tôi xin giới thiệu một tích xưa
Thuở xưa về triều vua Đường Ý Tôn có một vị quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt, ngài thường gặp gỡ một nhà sư ở đất Kinh Sư trong một ngôi chùa nọ. Nhà sư ấy mắc bệnh Ca ma la (bệnh cùi) ai cũng gớm, chỉ có ngài Tri Huyền là thường gần gũi hỏi han, không hề nhàm chán. Nhân khi chia tay, nhà sư vì quá cảm khích phong thái của ngài Tri Huyền mới dặn rằng:
- Sau này ông có nạn chi nên qua núi Cửu Lũng tại Bành Châu đất Tây Thục tìm tôi và nhớ trên núi ấy có hai cây tùng làm dấu chỗ tôi trú ngụ.
Sau đó ngài Ngộ Đạt quốc sư đến ở chùa An Quốc thì đạo đức của ngài càng vang khắp. Vua Ý Tôn thân hành đến pháp tịch nghe ngài giảng đạo. Nhân đó vua mới ân từ rất hậu cho ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương và từ đó trên đầu gối của ngài bỗng nhiên mọc mụn ghẻ tựa như mặt người, đau nhức khôn xiết! Ngài cho mời tất cả các bậc danh y, nhưng không ai chữa được. Nhân ngài nhớ lời dặn trước bèn đi vào núi mà tìm.
Trên đường đi, trời đã mờ tối, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mù, ngài nhìn xem bốn phía, bỗng thấy dạng hai cây tùng ngài mới tin rằng lời ước hẹn xưa không sai. Ngài liền đến ngay chỗ đó, quả nhiên thấy lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa nhà sư đang đứng chờ đón ngài một cách thân mật.
Nhân ở lại đêm, ngài Ngộ Đạt mới tỏ hết tâm đau khổ của mình. Nhà sư ấy nói:
- Không hề gì đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng ngày rửa mụn ghẻ ấy khỏi ngay.
Mờ sáng hôm sau một chú tiểu đồng dẫn ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa thì mụn ghẻ kêu lên:
- Đừng rửa vội. Ông học nhiều biết rộng đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Áng, Tiều Thố chép trong bộ Tây Hán chưa?
- Tôi có đọc.
- Ông đã đọc rồi lẽ nào lại không biết chuyện Viên Áng giết Tiều Thố vậy. Thố bị chém ở chợ phía đông oan ức biết dường nào. Ông chính là Viên Áng đó .Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bực cao tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay vì ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù được ông. Nay nhờ ngài Ca Nặc Ca tôn giả lấy nước pháp Tam muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trở đi tôi không còn báo oán ông nữa.
Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa mụn ghẻ làm nhức nhối tận xương tủy, chết giấc hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Nhân đó ngài mới biết thánh hiền ẩn tích kẻ phàm tình không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó ngoảnh lại thì ngôi bảo điện kia đã biến mất tự bao giờ. Vì thế ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo triều nhà Tống mới sắc hiệu là “Chí Đức Thiền Tự”. Có một vị cao tăng làm bài ký sự ghi chép việc này rõ ràng.
Khi đó Ngài Ngộ Đạt nghĩ đến nỗi oan trái đã bao đời nếu không gặp thánh nhân thì do đâu khỏi được. Vì cảm niệm cái ơn tế độ lạ lùng ấy, ngài mới thuật ra pháp sám này để mai chiều lễ tụng, sau truyền bá khắp thiên hạ.
Ba quyển sám đây tức là bài văn của ngài làm ra lúc đó vậy.
Nghĩa chính của bài văn này là lấy nước Tam muội rửa sạch nghiệp oan khiên nên mới đặt tên là Thủy Sám. Lại ngài Ngộ Đạt cũng vì cảm điềm dị ứng của đức Ca Nặc Ca nên dùng tên ấy mà đặt tên cho bộ Sám văn này để đáp cái thâm ân kia.
( Trích trong Kinh Thuỷ Sám )
Và chuyện nayỞ thôn Ngô thuộc xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm , ngoại thành Hà Nội, có một gia đình nông dân trung lưu, có bẩy người con trai. Gia đình nhà này làm ăn chất phác , chăm chỉ nên cũng tạo dựng được một cơ ngơi, có vườn ao rộng rãi..
Nhưng có một chuyện lạ, là các người con trong gia đình này, cứ đến năm 17 tuổi là bị tai nạn chết , người thì bị chết đuối, người thì bị ngã do trèo cây, người thì bi xe đâm…gia đình nọ rất sợ hãi , họ đã đi cúng lễ ở nhiều nơi, đã mời nhiều thầy về cúng lễ tại nhà nhưng cứ đến hạn định người con nào đến 17 tuổi là bị nạn mà chết thảm thương.Có 6 người con của họ đã bị chết như vậy.
Và chỉ còn một người con trai duy nhất năm đó đã đến tuổi 16 .Gia đình người nông dân đó như nằm trên đống lửa.
Năm đó, vào vụ găt mùa cụ đạp xe sang Thôn Ngô thăm một số bà con bệnh nhân mà trước đó họ đã thiết tha mời cụ sang chơi.
Khi cụ vào đến giữa cánh đồng làng thì nhiều người biết tin chạy ra chào đón tíu tít và cụ cũng dừng chân , đứng nói chuyện với mọi người.Không hiểu có ai mách bảo hay không,mà vợ chồng nhà nọ chạy đến quỳ ngay dưới chân cụ, kêu xin cụ cứu giúp. Cụ bảo cứ đứng lên mà nói rõ cho cụ biết.Họ vừa khóc mà kể lể sự tình và cầu xin cụ cứu cho. Lúc đầu cụ lặng im không trả lời, người nhà kia lại quỳ xuống mà kêu xin thảm thiết.Họ khóc mà nói rằng: “ Bây giờ chỉ còn đứa con trai duy nhất, lạy cụ cứu cho gia đình chúng con, nó mà chết đi nốt thì cả nhà chúng con tan nát “ rồi họ lại oà khóc nức nở….Có lẽ cụ cũng cảm động, Cụ bảo : Thôi được tôi sẽ giúp cho ông bà. Họ mời cụ đến nhà.Khi vào trong nhà cụ dạy thắp hương lên bát hương của gia đình và cụ hành đạo. Cụ bảo : Thôi tôi giúp xong rồi , cứ yên chí mà làm ăn sinh sống.
Bên ngoài ,bao bà con đang chờ để mời cụ vào nhà chơi và mãi đến tối cụ mới trở về nhà.
Mấy ngày sau, cụ có nói với chúng tôi rằng : Kiếp trước người nông dân kia đã làm chết 7 người của một gia đình trong một hố vôi, họ bị chết cũng rất thảm thương và đến đời này họ đòi lại nợ.
Đó là luật vay trả.
******
Người con trai của nhà kia, nay đã có cháu ngoại và vào dịp ngày giỗ của cụ, cả gia đình họ thuê một chuyến xe Lam về mộ cụ thắp hương để tỏ lòng nhớ ơn.
Bức thư từ thế giới bên kia
Một buổi chiều thu năm ấy, khi tôi đang đứng chơi ở sân nhà cụ thì có một người con gái dắt xe vào nhà cụ.Người con gái này làm tôi ngạc nhiên vì khi tôi nhìn vào đôi mắt cô ta ,chỉ thấy toàn lòng trắng, nghĩa là cô đang trợn ngược đôi mắt ,nhưng lạ thay vẫn thấy cô ta dắt xe đi lại bình thường.Cô gái dựng xe ở sân và bước vào trong nhà.
Thấy việc này có vẻ kỳ lạ và vốn tôi lại hay tò mò, nên tôi cũng vào nhà theo để xem sự tình như thế nào.
Khi thấy cụ , cô gái chắp tay và nói :”Cháu lạy ông ạ” rồi đột nhiên cô ta đổi giọng tiếng nghe léo nhéo như nhiều người tranh nhau cùng nói:”Lạy ông, con này xin lên ông , nhưng giữa đường nó lại la cà xem ảnh ở sứ quán, chúng con định cho nó chui vào gầm ô tô, nhưng biết đến ông nên chúng con không giám”.
Lúc đó ngồi trong nhà cụ có rất nhiều người đến xin chữa bệnh, mọi người ngồi nghe và chứng kiến thật ngỡ ngàng, ai cũng há cả mồm ra mà chẳng ai nói được câu nào.
Bỗng cụ từ tốn bảo : “ Thôi, tha cho nó”. Tôi chưa bao giờ được nghe một giọng nói thật nhẹ như cụ nói hôm đó,nó giống tựa như là giọng của một người mẹ dỗ dành đứa trẻ.
Nói xong câu đó, thì cụ đứng lên đi xuống nhà dưới.Cô gái bỗng lại nói léo nhéo :”Lạy ông , để chúng con kéo lưỡi nó ra, cho nó biết”.
Chúng tôi thấy tự nhiên má cô ta hóp lại, lưỡi thè dài ra, khuôn mặt cô ta xám xịt, đôi mắt trợn ngược hoang dại.
Mọi người ngồi gần đó thất kinh.Bỗng cụ trở lại lên nhà. Lần này giọng cụ nghiêm khắc, cụ bảo :” Ta đã nói rồi, nếu không nghe lời ta , ta sẽ bắt hết cho lên thượng.”.
Cô gái chắp ta lạy cụ lia lịa và kêu xin :” Xin ông tha cho chúng con. xin ông tha cho chúng con..”
Và cô gái trở lại bộ mặt bình thường, cụ rót nước và bảo cô ta : Cháu uống nước đi.
Ngồi trong nhà một lúc ,thì cô ta đứng lên và đi ra sân.Tôi cũng ra theo và đến bên hỏi chuyện.
Cô cho biết là sinh viên chuyên ngữ của một trường Đại học, nhà cô ở khu Hoàn Kiếm - Hà Nội và sau một lần đi thăm quan về thì cô bị bệnh tâm thần và cô được gia đình đưa lên xin cụ chữa bệnh. Cô nói rằng trong người cô có một lũ ma quỷ tá túc mà toàn là trẻ con.
Tôi hỏi : Họ có đông không?
Cô ta trả lời : Có nhiều người lắm.
Tôi lại hỏi : Họ có khuôn mặt như thế nào ?
Cô ta trả lời: Họ luôn luôn có một bộ mặt buồn thảm, như thế này này.
Tôi thấy khuôn mặt cô đột nhiên thay đổi, từ một khuôn mặt thiếu nữ bỗng đổi sắc trông thật u tối và xám xịt…đúng là một khuôn mặt ma, trông thật khiếp sợ…rồi đột nhiên cô lại trở vào trong nhà và tôi cũng lại vào theo ,cô đã trở về trạng thái bình thường , tuy nét mặt vẫn phảng phất nỗi buồn nhưng đôi má thì đã thấy ửng đỏ …
Tôi đã được nghe những câu chuyện về ma quỷ, nhưng tôi không tin vì cho rằng đó là những câu chuyện trong cổ tích hoặc người ta phịa ra để doạ trẻ con.
Nhưng khi tôi được chứng kiến cô gái này, đã hỏi chuyện cô nhiều lần thì thấy rằng những quan niệm cũ của mình phải thay đổi, vì sự thật chính là chân lý của cuộc sống.
Sau này, chúng tôi có được xem một bức thư của những linh hồn mà có thể tạm gọi là từ thế giới cõi âm gửi đến cụ. Xin giới thiệu với các bạn:
Hà Nôi ngày 25 tháng 5 năm 1980
Kính lạy ông
Chúng con là những âm hồn ở trong xác người, là những tà ma bóng quỷ, hết sức sung sướng được viết lên những dòng này để bày tỏ lòng biết ơn của chúng con đối với ông.
Chúng con không sao nói hết được lòng biết ơn sâu nặng của chúng con đối với ông. Nhờ ông mà chúng con trở nên ngoan ngoãn , thuần phục , sửa đổi tâm tính mà không quấy đảo gì.
Nhưng nhiều khi chúng con cảm thấy một nỗi buồn, chán nản cùng cực, chúng con đã chán kiếp sống len lỏi , chui rúc trong thân xác người ta, ma trộn lẫn ma, ngày đêm mù mịt than khóc.
Kính lạy ông
Xin ông đoái thương đến loài tà vong hèn mọn, ngu mê điên đảo chúng con, xin ông độ trì cho chúng con được hiền lành và thông sáng để chúng con được tu tâm sửa tính, hết điên đảo và hoang mang.
Nhờ có ông mà chúng con cảm thấy yên tĩnh trong lòng và hối hận về những tội lỗi của mình, lòng tàn ác của chúng con cũng tiêu tan.
Giữa cơn bình địa ba đào và trong cơn quằn quại rên xiết của những linh hồn bị đày đoạ, ông là nguồn nước mát thiêng liêng không bao giờ cạn tưới cho những tâm hồn khô cạn héo hon của chúng con.
Chúng con muôn năm không bao giờ quên công ơn của ông.
Chúng con muốn được tu sửa để trở nên người tốt. Chúng con biết tội của chúng con là tày đình, nhưng vẫn trông chờ ở lượng bao dung của ông.
Chúng con cắn rơm, cắn cỏ lạy ông, xin ông đoái thương đến chúng con.Chúng con xin ông giải cho chúng con thoát khỏi cái kiếp tà ma chui rúc trong thân xác người ta, dù là ma ở đâu đâu, đều được một lòng cúi xin ông cho về âm bằng hết
Kính chúc ông vạn thọ , cứu nhân độ thế được hết cả trần gian này.
Kính lạy ông
Các vong ở trong xác người
***********
Đã lâu tôi không gặp lại cô gái viết lá thư kỳ lạ trên. Có người bảo cô đã khỏi bệnh và vào nam, nơi quê hương của cha mẹ cô để sinh sống, nhưng có người lại bảo cô đã bị chết vì một bệnh khác...
Thế giới trước mắt chúng ta còn rộng mở với bao điều kỳ lạ….
Nồi cơm Thạch Sanh
Xưa nghe câu chuyện Thạch Sanh
Có nồi cơm nhỏ để dành nuôi quân
Ngày nay trong cõi hồng trần
Có nồi cơm nhỏ cứu dân muôn nhà
Người ta sống ở trên đời, ăn uống là một nhu cầu cần thiết. Con người ăn để mà sống, chứ đâu phải sống để mà ăn.
Dân tộc Việt Nam sống trong vùng nhiệt đới gió mùa và trồng cây lúa nước và cây lúa đã gắn bó bao đời với người nông dân đất Việt.
Từ ngày còn trẻ thơ, trong ngôi trường làng xưa, thầy giáo đã dạy chúng tôi câu ca dao:
Cày đồng giữa buổi ban trưa
Mồ hôi đổ xuống như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Trong kinh sách nhà Phật, chúng tôi cũng cũng có nghe nói rằng muốn làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao nhiêu công việc: từ lúc chọn giống, làm đất, cày sới, tháo nước, gieo mạ, cấy trồng, bừa cỏ, bỏ phân…đến lúc vào vụ thu hoạch gặt hái ,gánh về , phơi hong, xay xát,sàng xẩy để rồi mới có được hạt gạo trắng.
Ôi! Có biết bao công sức và mồ hôi của người nông dân lao động đã đổ xuống.Cụ rất thương yêu những người nông dân lam lũ quê mùa mà rất đỗi mộc mạc chân tình.
Khi xưa cụ đã bao lần sang thôn Ngô, xã Thạch Bàn, ngoại thành Hà Nội và trong những ngày khó khăn của cuộc đời cụ đã về nương nhờ dưới những mái nhà tường rơm , mái rạ mà ở đấy chứa chan những tấm lòng thơm thảo nghĩa tình.
Trên thế giới mỗi dân tộc, mỗi vùng, có một phong tục tập quán riêng. Những nếp sống, ăn uống, sinh hoạt hàng ngày, mỗi nơi một khác.
Bữa cơm trong gia đình của người Việt Nam ta, có một phong cách riêng, rất đặc biệt, nó đầm ấm và thi vị.
Sau một buổi lao động, cả gia đình xúm quanh mâm cơm. Người mẹ thường bao giờ cũng ngồi đầu nồi và từ bàn tay mẹ những bát cơm trắng còn đang bốc khói được xới ra , đưa đến từng người. Rồi tiếng con trẻ mời cơm ríu rít, tiếng người già chậm rãi ề à...cả nhà vừa ăn cơm vừa chuyện trò vui vẻ. người già thì thích kể lại những câu chuyện xưa kia, còn lũ trẻ thì lựa lúc này để vòi vĩnh cha mẹ…
Nhớ lại năm xưa, chúng tôi cũng được nhiều lần được cụ gọi cho ngồi ăn cơm cùng. Có khi chỉ đôi ba người, nhưng có lúc dễ đến cả chục người, ngồi vây kín trên chiếc chiếu rộng giữa nhà.
Ai đã từng đến nơi đây, đã được ngồi quây quần bên cụ, mới càng nhận thấy tình yêu thương vô bờ mà cụ đã dành cho mọi con người. Cụ là người chở che, đùm bọc, cứu giúp bao người vượt qua những đau thương hoạn nạn ,mà sao thấy gần gũi thân thiết như một người ông, người cha già trong gia đình.
Bữa cơm của cụ thật đơn sơ và đạm bạc, thường chỉ là rau dưa muối cà, hoạ hoằn mới có thêm bìa đậu luộc hoặc đĩa lạc rang. Điều mà ai cũng phải ngạc nhiên khi nhìn thấy nồi cơm nhà cụ, nó quá bé, tưởng chừng chưa đủ để xới được hai bát cơm nhỏ.Thế mà có bữa sáng cụ ăn không hết, buổi chiều cụ chỉ ăn bát cơm rang lại là xong bữa.
Cụ vẫn nói vui với chúng tôi rằng :” Dạ dày tôi chỉ bé bằng quả quýt, thì ăn làm gì cho nhiều.
Bà cụ Chút, một người em họ của cụ ,có thời thường đến nhà thổi cơm giúp cho cụ ,kể với chúng tôi rằng: Từ xưa ông vẫn dùng cái nồi cơm bé xíu ấy ,mà bữa cơm của ông cụ có gì đâu, thường quanh năm chỉ có cơm cà với nước rau, có hôm nước rau còn không có thì cơm cà chan với nước lã ( nước lấy từ bể nước mưa ở cuối sân nhà ).
Và cũng thật lạ ,rất nhiều người khi được ăn cơm cùng với cụ, dù ít hay đông người ai cũng cảm thấy no ,mà vẫn chỉ có một nồi cơm nhỏ bé đó mà không hết.Cụ nói vui rằng : đó là nồi cơm Thạch Sanh.
***********
Xe đạp
Những câu chuyện về chiếc xe đạp
Ngày nay, trên các đường phố Hà Nội và ở nhiều thành phố trên đất nước Việt Nam, phương tiện giao thông của người dân đa phần là xe gắn máy.Một số gia đình cũng đã có xe ôtô riêng.Xe đạp ngày càng ít thấy.
Nhưng cách đây vài chục năm, từ khoảng những năm 1980 trở về trước, thì những chiếc xe đạp là phương tiện đi lại của đa số người dân Hà Nội, không những vậy xe đạp còn là một tài sản quý giá .Vào thời đó những chiếc xe đạp mang nhãn hiệu Thống Nhất, Hà Nội, sản xuất ở trong nước , nhưng không phải dễ mua.Xe đạp được bán theo tiêu chuẩn cung cấp.Trong những cơ quan, xí nghiệp người ta tiến hành bình xét và phải đúng tiêu chuẩn, thì mới được mua xe.Ai mà được mua xe thì hớn hở như trúng xổ số vậy.Mua được xe rồi thì phải đi đăng ký .Mỗi xe đều phải có biển số đăng ký do công an cấp…
Ngày ấy, có một gia đình người bệnh, sau khi được cụ chữa cho khỏi một căn bệnh nặng, đã mang biếu cụ một chiếc xe đạp mới.
Cụ cảm ơn và từ chối không nhận, cụ nói rằng cụ cũng đã có xe rồi.Nhưng gia đình người bệnh kia,bàn với nhau cứ để xe lại trong sân nhà và nhân lúc đông khách, họ lẳng lặng ra về.
Cuối buổi chiều , cụ ra sân thì thấy chiếc xe đạp mới để lại đó và cụ dắt vào để trong buồng nhà.
Những ngày sau, thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy cụ cầm phất trần vào phủi bụi cho chiếc xe đạp mới ( vì buồng nhà cụ không có cửa, nên ngồi uống nước bên phòng khách cũng thấy chiếc xe để ở bên trong ).Với tôi thì chuyện này thật lạ, vì tôi biết cụ có bao giờ màng đến của cải, vật chất và tôi để ý xem câu chuyện này thế nào.Dường như cụ cũng biết được những ý nghĩ của tôi.
Một hôm, cụ lại cầm phất trần vào phủi bụi chiếc xe đạp mới, lúc quay ra, cụ bỗng tủm tỉm cười và bảo tôi rằng :” Sắp sửa đòi lại rồi “.
Quả nhiên vào buổi chiều ngày hôm sau, gia đình người bệnh kia lại kéo nhau lên gặp cụ.Lúc đầu thì thấy họ ngần ngừ, thì thầm với nhau, rồi một người mạnh dạn nói với cụ rằng: Vì thấy cụ không dùng đến chiếc xe, mà nhà thì có người còn chưa có, nên xin cụ cho lại.
Cụ ôn tồn trả lời là cụ đã già, có đi đâu mà dùng đến. Thôi mang về mà đi.
Gia đình người kia rối rít cảm ơn cụ và vội dắt xe ra về.
Nhưng cũng từ ngày đó chúng tôi ít khi gặp lại gia đình họ, chắc là họ còn bận nhiều việc và chẳng còn gì khó khăn trong cuộc sống nữa chăng ?
Câu chuyện thứ hai…Có một bác là cán bộ nhà nước và cũng là một bệnh nhân cũ của cụ.Bác cán bộ này được cử đi làm chuyên gia tại Châu Phi và khi về nước có mua được một chiếc xe đạp Peugeot của Pháp.Thời đó xe đạp “Pơ giô” hay còn gọi là “Lơ giô” là mơ ước của những thanh niên Hà Nội như chúng tôi.
Chẳng thế mà có câu: “Đẹp trai đi bộ, không bằng mặt rỗ đi Lơ (Lơ giô)”.Cho nên chiếc xe Peugeot là cả một gia tài.
Một hôm, khi đi chơi về ,bác cán bộ để xe ở sân nhà rồi vào nhà và quên không khoá xe.Chợt nhớ ra, nhưng khi trở ra thì chiếc xe đạp đã không cánh mà bay mất.Cả nhà đố xô đi tìm và đi báo công an.
Hôm sau, bác cán bộ kia lên trình bày với cụ sự việc mất xe như vậy và xin cụ giúp đỡ. Cụ bảo rằng : Cứ về đi rồi sẽ thấy.
Một tuần sau, chúng tôi gặp lại và bác vui mừng cho biết, đã tìm thấy xe rồi.
Bác có kể lại câu chuyện:
Khi trên cụ trở về thì ba ngày sau, bên công an mời bác lên nhận lại xe.Sau khi làm các thủ tục cần thiết và nhận lại xe, bác cảm ơn cơ quan công an và ngỏ ý muốn gặp riêng đồng chí công an đã tìm ra chiếc xe để cảm ơn.
Nhưng người cán bộ phụ trách công an ( là một người bạn quen của bác), nói rằng :” Anh không phải cảm ơn ai cả “ và người phụ trách kể lại câu chuyện tìm được chiếc xe đạp.
Nguyên là trong thời gian đó công an Hà Nội đang tiến hành điều tra một vụ án lớn về một vụ trộm cắp tài sản của một cơ quan ngoai giao và nhiều cán bộ trinh sát được cử đi bám sát các địa bàn phức tạp tụ điểm buôn bán tiêu thụ của gian, trong đó trọng tâm là khu vực chợ giời –Hà Nội.
Cũng trong buổi chiều hôm đó, bọn trộm xe đã mang chiếc xe đạp Peugeot này ra chợ giời để tiêu thụ. Chúng định bán cho một cửa hàng thu mua đồ cũ và cửa hàng này chuyên tiêu thụ của gian. Nhưng chưa kịp bán, thì bọn chúng phát hiện ra một nhóm trinh sát công an đang ngồi uống nước ở bên kia đường, thế là bọn trộm để chiếc xe lại và lặng lẽ chuồn mất.
Lại nói , tay chủ cửa hàng kia cũng quen mặt một số trinh sát và y tưởng rằng công an đang giăng bẫy và để cao tay hơn công an ,nên y đã đóng vai một công dân lương thiện, dắt chiếc xe Peugeot kia , đến nộp cho đồn công an.
Chúng tôi nghe câu chuyên trên quả thật là ly kỳ, còn cụ cười vui mà nói rằng :” Tôi cũng có công an riêng chứ .”
Câu chuyện thứ ba
Có một ông ở phố Mã Mây – Hà Nội, đã biết cụ từ những năm 1950 và ông hay thường xuyên lên gặp cụ và cụ cũng đã giúp cho ông trong những lúc hoạn nạn , ốm đau. Ông cũng cho chúng tôi xem một số kinh sách về đạo Phật và ông là một người hiền nhân.
Gia đình ông có người nhà ở nước ngoài và một lần họ gửi cho ông một chiếc xe đạp từ Mỹ quốc. Chúng tôi không nhớ nhãn hiệu của chiếc xe đó, nhưng đạp đi rất nhẹ..
Hàng ngày ông lên thăm cụ và ông còn có một thú vui là tham gia vào một hội thơ ở phố Sinh Từ cũ.
Một hôm, khi nghe bình thơ xong,ra đến cửa thì chiếc xe của ông đã bị lấy mất, mặc dù ông đã khoá kỹ càng.
Lúc đó đã là buổi chiều muộn, ông vội đi bộ lên để trình với cụ và hy vọng..
Cụ lặng im trong giây lát và dạy rằng :” Chiếc xe đó là mãi của ông à “.Nghe lời cụ dạy như vậy , ông chắp tay và hiểu rằng “ Cái thân xác mình còn là vật tạm và cho nên còn có cái gì phải đáng tiếc nữa.”
Ít lâu sau, ông xin cụ sắm một chiếc xe đạp cũ và chúng tôi thi thoảng lại được cùng nhau ngồi bên cụ để được nghe những lời dạy ân tình của cụ.
Hoa màu vàng
Đi tìm những bông hoa màu vàng
http://files.myopera.com/nguyentaidu...ge%2520124.jpg
Một hôm, sau chuyến du xuân , cụ ra đứng ở sân nhà gọi chị mà dặn rằng: “ Cô đi tìm cho thầy cây hoa màu vàng để trồng ở đây”.
Nhớ lời dặn đó, vào một buổi chiều mấy ngày sau, chị cùng tôi, hai chị em lên xe đạp vào làng hoa, đi tìm những bông hoa màu vàng.
Thời đó, làng hoa Ngọc Hà vườn tược vẫn còn nhiều, muôn sắc hoa vẫn còn đang khoe màu trong mùa xuân mới.Chúng tôi đi quanh trong lối xóm, giữa những hàng cây xanh ngát với muôn màu xanh lá biếc, cứ đi tìm mãi như thế ,rồi bỗng nhiên đến một vườn kia ,trước mắt chúng tôi hiện ra muôn đoá hoa vàng tươi rực rỡ.
Hai chị em vui mừng bước vào, thì cũng vừa may gặp được bà chủ vườn. Biết chúng tôi từ nơi cụ đến, bà vồn vã hỏi thăm và để cho chúng tôi vào vườn tuỳ ý mà chọn cây.
Khi chúng tôi đánh xong những khóm hoa, thì trời đã dần tối.Lúc tôi trả tiền, bà chủ nhà nói rằng :chỉ tính vốn mua giống cây mà thôi. Tôi lấy ví trả bà 5 đồng. Chúng tôi cảm ơn và buộc những khóm hoa lên xe trở về.
Màn đêm đã buông xuống tự bao giờ, hai bên làng xóm đã đỏ đèn.Mưa xuân nhẹ rơi trên mái tóc xanh.Khi trở về đến sân nhà, chị khẽ khàng nhắc tôi nhẹ bước, để cụ có thể được nghỉ yên đôi chút.
Chúng tôi chia các khóm hoa ra hai bên bồn hoa,rồi hai chị em cặm cuị trồng.
Lúc gần xong, ngẩng đầu lên , tôi đã thấy cụ đã ra ngồi xem nơi cửa chính từ lúc nào.
Chúng tôi chào cụ , rồi ra rửa tay ngoài giếng nước góc sân. Khi tôi quay vào nhà, thì cụ hỏi mua bao nhiêu tiền hoa để cụ trả.
Tôi thưa lại rằng : Thật là chẳng đáng là bao.Tôi nghĩ đến công ơn cứu giúp của cụ với gia đình tôi, thì tiền nào có thể đổi lại được.
Cụ lấy ví trong túi áo ra và bảo tôi :” 5 đồng phải không”.
Lúc đó, chị quay sang nói với tôi:” Em thấy chưa, ông đã biết hết”.
Tôi đứng lặng yên, không chỉ vì cụ đã đã nói đúng số tiền mà tôi đã trả cho người chủ vườn lúc trước, mà tôi chợt hiểu rằng : Cụ đã dạy tôi lẽ sống công bằng ở đời ” có vay có trả”.
Tôi đưa hai tay ra đón nhận lại số tiền mà cụ đã trao cho.Chợt cụ quay lại bảo chị :” Thầy đã đói rồi, cô đi dọn cơm cho thầy.”
Chúng tôi biết rằng: cụ vừa dùng xong cơm bữa tối, nhưng muốn cho chúng tôi được ngồi lại bên thầy.
Chỉ một lát , mâm cơm đã được dọn lên. Một bát cơm rang, ít chút dưa muối, một đĩa lạc và vài ba chén rượu trắng.Cụ ngồi nhìn chúng tôi ăn và chỉ nhấp môi chén rượu.
Chúng tôi ngồi bên cụ trong một buổi tối mùa xuân, ngắm nhìn mái tóc bạc phơ với dáng ngồi uy nghi mà hiền từ của cụ , mà sao thấy thân thiết như một người ông ,một người cha già trong gia đình.
Có ai biết chăng- chính ở nơi đây , cụ đã gieo trồng xuống cõi đời bao mầm giống của lòng nhân từ. Để rồi mai ngày sẽ nở ra muôn đóa hoa vàng, thơm ngát cho đời.
Sợ ai nhất
Trong một lần tiếp một người khách quen là một vị tướng công an.Cụ có hỏi:” Ông có biết ,tôi sợ ai nhất không?”.
Câu hỏi đó làm vị tướng ngỡ ngàng và tự hỏi không hiểu sao ông cụ lại hỏi mình như vậy?
Thế rồi cụ trả lời: người làm cụ sợ nhất là anh công an hộ khẩu ở đây.Vì anh ta thường vào nhà cụ nhũng nhiễu,hạch sách đủ điều: là tại sao có nhiều người đến đây thế,có giấy phép chữa bệnh không,thu bao nhiêu tiền….mà cụ thì không biết trả lời anh ta như thế nào.
Chúng tôi thấy ở trong nhiều đồn công an,thường treo trên tường lời dạy của Bác Hồ với công an nhân dân, đại ý là như thế này:” Đối với dân thì phải kính trọng lễ phép. Đối với công việc thì phải gương mẫu ,tận tuỵ…”.
Khẩu hiệu nêu thì như vậy,nhưng có những anh công an khi tiếp xúc với dân,kể cả ngay đó là những người cao tuổi,thì vẫn nghe thấy những câu hỏi cộc lốc,hách dịch tưởng như đang tra vấn người bị phạm pháp….ở nước ta văn hoá ứng xử còn nhiều điều phải nói lắm.
Chúng ta lại trở về câu chuyện ngày hôm đó…
Vị tướng công an có thưa chuyện với cụ rằng: Gia đình ông vừa dọn đến nhà mới, có một việc làm ông sợ là đêm ngủ ông ta bị như có người đè và bóp cổ.
Cụ nói vui:” Ông có súng mà sợ nó à?” Ông tướng cầu xin cụ đến nhà chơi và giải cứu cho ông ta.Cụ nhận lời sẽ xuống chơi.
Mấy ngày sau ,cụ đi chơi nhân thể đến thăm nhà . Đấy là một khu nhà có người gác ở bên ngoài cổng.Anh lính gác thấy một ông cụ nhà quê đứng đó như tìm ai bèn ra quát bảo: ông già kia đi chỗ khác mà đứng.May sao vừa lúc đó thì vị tướng mở cửa ,thấy cụ đang đứng đó, ông ta bỏ cả dép chạy chân không ra mời cụ vào nhà.
Cụ bảo cho cụ xin môt tờ giấy hay là một tờ báo cũ cũng được.Vợ ông ta đưa cho cụ một tờ báo .Cụ cầm tờ báo vặn xoắn lại và nói một câu gì đó rồi bảo hoá đi.Hai vợ chông vị tướng bật lửa đốt tờ báo đó ngay trong phòng.Khi cháy hết tờ báo,cụ dạy :”Thôi xong rồi, tôi về” ,mặc dù gia đình đó cố giữ cụ lại để mời cụ sơi bữa cơm.Cụ bảo nhiều người còn đang chờ cụ ở nhà.
Một tuần lễ sau,chúng tôi gặp lại vị tướng trên nhà cụ . Ông ta vui mừng báo tin là sau hôm cụ đến chơi nhà ,ông đã ngủ ngon giấc .Cụ dạy rằng :”Tôi đã bảo đi ,thì nó phải đi.”
Nửa tháng sau,có một anh công an lạ đến thăm cụ.Anh ta tự giới thiêu:cháu là công an hộ khẩu mới đến thay thế ở địa bàn này,xin cụ giúp đỡ.
Cụ mời anh công an sơi nước và nói:”Việc chú ,chú cứ làm.Tôi và chú đều vì dân mà phục vụ”.
Rất mong đồng chí Bịn71 cố gắng post nhiều bài viết về cụ Nguyễn Đức Cần.
Đọc những bài viết về cụ Hay,cảm động,sâu sắc và nhất là qua đó chúng ta có thêm bao nhiêu bài học về lẽ sống,đạo đức,qua tấm gương lớn "Tâm Đức của Cụ Nguyễn Đức Cần".
Tu hay sửa mình
Năm ấy,mùa thu có một người đem dâng cụ cuốn kinh “Hồi dương Nhân quả”. Đó là một câu chuyện kể về thiện sỹ Lâm Tự Kỳ bị quỷ vô thường bắt nhầm và sau đó được trở về dương thế…
Cụ đã cho chúng tôi đọc cuốn kinh sách đó.
Sau đây chúng tôi xin lược ghi lại đoạn nói về việc tu hành:
…Lâm Tự Kỳ tâu:
”Tôi cảm ơn vương gia cho sống lại,từ nay sắp tới quyết chí tu hành.Song chưa biết lớp lang điều nào làm trước cho đúng cách?”
Tần Quảng Vương phán rằng:
“Đạo là ngũ đại: Chúa –tôi,cha-con,chồng-vợ,anh-em,Bằng hữu (bạn bè) cũng trong năm bậc ngũ luân,chớ không có điều chi lạ.
Sao gọi là đạo chúa-tôi?
Phàm làm quan thì trước phải ngay chúa,thương dân, ở trong triều hay trấn cõi ngoài, đều giữ theo luật cho xứng chức phận,hết lòng hết sức,cứ lẽ công bình mà quên tư vị,lo viêc nước mà quên việc nhà ấy là theo bực chức phận.Còn dân dã thì lo cho đủ xâu thuế,không phạm phép nước,giữ bổn phận thảo thuận,ngay chính thật thà,giữ theo lễ nghĩa,nhà ở nhân nhường,khuyên dạy quê khờ,giữ gìn phong hoá. Ấy là bậc chúa –tôi.
Còn đạo cha- con,làm cha nuôi con thì phải dạy.thương con thì phải tập cho nó cần lao hoặc dạy sách kinh cho thông đạo lý hoặc dạy ruộng rãy,buôn bán nghề nghiệp làm ăn.Chẳng nên cưng hư,chớ tập lũ hoang đàng bài bạc.Còn làm con,lo nuôi dưỡng kính yêu cha mẹ,việc lớn thì lo ăn học nên danh cho cha mẹ vinh hiển, ở thanh liêm ngay thẳng cho cha mẹ được tiếng khen,kế đó phải rán sức hết lòng mà nuôi cha mẹ, ăn mặc cho xứng đáng tuỳ theo sức mình,giàu sang thì dâng mùi ngon ngọt và chiều lòng cho cha mẹ vui, đừng để cha mẹ bất bình mới trọn thảo.Nếu nghèo khó muối dưa hẩm hút,cũng nuôi cha mẹ đẹp lòng,liều thân trâu ngựa mà đền ơn cúc dục.Chớ ỷ một sự nuôi mà không kính lễ.Còn phải biết,thân vóc này là thịt xương của cha mẹ chia cho,nên phải thủ thân,chẳng dám huỷ hoại thân thể và cũng không dám làm quấy cho nhục cái vóc của cha mẹ sinh thành,mới là trọn thảo. Ấy là đạo cha con như vậy.
Còn chồng-vợ ,phải phân biệt,chồng lo việc ngoài,vợ lo việc trong cho đúng cách.Chồng cầm quyền vợ,song phải lấy lễ nghĩa mà đãi nhau, đừng bỏ phép mà mày tao mi tớ ,hoặc chồng ỷ quyền mà đánh hiếp vợ,hoặc vợ vô lễ mà sỉ nhục chồng.Chồng trọng vợ tại đức hạnh,chẳng nên mê sắc.Vợ kính chồng như thờ chúa,phải giữ đạo tôi,vợ chồng thuận hoà,thì nên gia đạo.Chồng dạy vợ hiền kính cha mẹ chồng cho dâu sẽ bắt chước,Hoà thuận chị em dâu thì trong nhà hết sinh nghi.Chồng dạy thì vợ phải nghe mới gọi xướng tuỳ trọn đạo. Ấy là tu việc vợ chồng.
Còn như anh-em,chị-em cùng một chỗ mà ra,một máu một thịt như tay chân,thể như các nhánh cây cùng chung một gốc.Nếu anh đau như em đau,coi như một vóc,dầu sự may rủi,sự vui sự buồn cũng chung cùng nhau một thể.Như cha mẹ còn mà anh em hoà thuận,thương yêu nhau thì cha mẹ vui mừng lắm.Tuy cha mẹ đã khuất,ngó thấy anh em,cũng như thấy cha mẹ,thương anh em cũng như thương cha mẹ.Nói tắt một điều:cha mẹ,anh em là trời định,không đổi dời được,còn vợ con là ở sau,tại nơi người định,nên đổi dời được.Vi vậy chẳng khá trọng vợ con mà khinh anh em,chớ khá vị tình sau mà quên nghĩa trước ,thì tu việc anh -em rồi
Còn bầu bạn cũng đứng vào năm bậc nhân luân là cớ làm sao vậy?.Mình chưa làm việc lỗi,nhờ bạn trách mới bỏ.Việc làm nên hư,lợi hại,phải quấy của mình,có khi cha mẹ,vợ con nói không được vì không nỡ nói,mà bạn dám nói.Có việc cấp nạn,cha mẹ vợ con cứu không được mà bạn lo được ,cứu được.Cho nên con người không nên chẳng có bạn đạo nghĩa,cho nên kêt bạn,nói phải chắc chắn nghìn lời,lâu ngày cũng chẳng quên nhau.Mình ở trọn đạo với bằng hữu,tự nhiên bằng hữu giúp lợi ích cho mình.Tu xong cái đạo bằng hữu thì năm bậc đại nhân luân trọn rồi.
Người tu hành chẳng luận bỏ nhà hay ở nhà,gái trai,già trẻ,cũng không luận sang hèn,giàu nghèo hoặc trôi nổi hoạn nạn.không người nào mà tu chẳng được,không chỗ nào mà tu chẳng được,không thủa nào mà tu chẳng được.Tại nơi mình,tuỳ theo bổn phận trong lòng cho an.Mình có dư coi như còn thiếu,chớ sinh lòng kiêu căng,xài phí quá chừng.Mình tuy thiêú coi như có dư, đừng sinh dạ tham, ước mơ quá lẽ. Ở với người cứ một chữ Dung.Trị trong nhà nhớ trăm câu Nhịn.Nếu ai ở điều chi quấy quá,mình hết lòng tìm kiếm cho ra chỗ phải của người.Mình ở điều chi phải nhiều,mình hết sức xét suy cho ra chỗ phải còn thiếu.Lo cần kiệm là đầu sinh ý,giữ hiếu đễ là cội tu thân,lại còn bố thí giúp đời,làm lành chẳng mỏi.Làm được vậy trọn đời,gìn chay tốt,không gìn cũng tốt.Niệm phật linh,không niệm cũng linh.
Việc ăn chay là ép xác sửa lòng ,miễn là làm 10 điều lành ,lánh 10 điều dữ thì đủ rồi.nếu ăn chay niệm phật mà 10 điều dữ không bỏ,10 điều lành không làm chẳng những không phúc,không công mà lại nhiều tội ,nhiều lỗi.Nếu chân tu thì phải sửa mình,giữ đạo là thứ nhất,bố thí ăn chay là thứ nhì.Cái nào cũng quý tại chữ Tâm,bố thí khó tại lòng Nhân,không khó đều ra có của. Ăn chay khó tại lòng Chính,không khó miệng cữ kiêng.
Ấy là lời khuyên của trẫm .Xin thiện sỹ rán lên.
Cụ có dạy chúng tôi rằng:Cuốn kinh” Hồi dương Nhân quả “ là kinh tu tắt.
Có lẽ vì lời giảng truyền rất gần gũi với cuộc sống đời thường,với những con người bình thường như chúng ta.
Và cụ dạy thêm rằng: tu là việc khó,nên điều trước tiên là phải biết sửa mình.
"Điện Biên phủ trên không"
Kỷ niệm những ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không “
35 năm chỉ là một khoảnh khắc của lịch sử. Nhưng sau cái khoảnh khắc ấy "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" đánh bại đợt tập kích chiến lược bằng pháo đài bay B52 của đế quốc Mỹ mưu toan đưa Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá, Hà Nội đã có những đổi thay diệu kỳ về mọi mặt trong đời sống xã hội, Hà Nội ngày càng to hơn, đẹp hơn, đàng hoàng hơn, xứng đáng là thành phố vì hòa bình, là Thủ đô của lương tâm và phẩm giá con người mà bạn bè thế giới tôn vinh
Vào những ngày cuối tháng 12 mùa đông giá lạnh này, nhớ về những ngày Hà Nội chìm ngập trong lửa bom ngút ngàn B.52 cách đây 35 năm về trước, ta càng thêm yêu Hà Nội...
Tháng 12 năm 1972. Những ngày mùa đông năm ấy trời rét đậm và nhiều sương mù. Hà Nội như ấm lại khi đón nhận tin vui Văn bản Hiệp định Pari về ngừng chiến ở Việt Nam đã soạn thảo xong và chỉ còn chờ ký. Cái tin ấy loang nhanh đến các trận địa tên lửa, pháo cao xạ, sân bay dã chiến, chiến hào tự vệ trực chiến trên các tầng cao... Nó lan đến cả các vùng quê nghèo sẵn sàng nhường cơm nhường nhà, dang tay đón những người già và bốn chục vạn trẻ em rời khỏi thành phố, về sống với họ... Trên các con phố vắng rợp bóng cây xanh, hai bên hè đường chi chít hầm trú ẩn... đã thấy lác đác những bà mẹ đạp xe đèo con mũ rơm trên đầu từ nơi sơ tán trở về. Những chuyến tàu điện rung chuông leng keng bình thản xuôi ngược chạy qua các con phố cổ. Đêm khuya, nhiều ô cửa sổ nhà dân sáng đèn. Cứ tưởng rằng hòa bình đã ở tầm tay, nhưng chỉ sau có mấy tiếng đồng hồ Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Lê Đức Thọ từ Pari trở về bước xuống sân bay, Hà Nội đã chìm ngập dưới những làn bom rải thảm của pháo đài bay hạng nặng B.52.
Đó là 23 giờ 15 phút ngày 18 tháng 12. Chỉ còn tuần lễ nữa là đến Giáng sinh và sắp bước sang năm mới. Đêm ấy, Hà Nội cùng với Vĩnh Phú, Nghệ An bắn rơi 3 B.52, 3 máy bay phản lực, bắt sống nhiều giặc lái, có cả những tên lái B.52. Chủ tịch Tôn Đức Thắng gửi hoa và thư khen Hà Nội lập công xuất sắc; và lẵng hoa ấy của Bác Tôn được đưa ngay xuống trận địa tên lửa vừa hạ tại chỗ pháo đài bay B.52. Đây là lần đầu tiên trong cuộc chiến tranh đất đối không ở nước ta, Hà Nội bắn rơi B.52, thu được xác máy bay và bắt sống nhiều giặc lái.
Ngày 20/12, bom rải thảm ngang dọc sân bay Gia Lâm. Ngày 21/12, đúng giờ Ngọ, chúng bắn tên lửa vào
ga Hàng Cỏ. Chiếc đồng hồ hết sức thân thiết với người Hà Nội văng xa . Ngày 22/12, ba lần B.52 rải bom xuống Bệnh viện Bạch Mai,nhằm hủy diệt hoàn toàn bệnh viện to nhất nước xây cất từ năm 1933, giết chết nhiều bác sĩ, y tá,bệnh nhân…
Đêm 26 tháng 12 nǎm 1972, sau một ngày đi cầu nguyện, bọn Mỹ lại tung một lực lượng lớn nhất kể từ ngày 18 tháng 12 đến nay. Cả ngày và đêm 26 tháng 12, chúng sử dụng hơn 300 lần/chiếc máy bay chiến thuật và 42 chiếc B52 giội 3.820 quả bom xuống thủ đô Hà Nội. Một vệt bom dài bắt đầu từ hồ Thuyền Quang và bến xe Kim Liên đến tận chợ Khâm Thiên, đã có 1.100 quả bom và không biết bao nhiêu người đã hy sinh. . Đêm 26 tháng 12, hai chiếc B52 cháy ngút trời trên đỉnh đầu. Người dân Hà Nội hả hê, bọn giặc lái bị bắt xếp hàng vào Hoả Lò và bị dẫn đi diễu phố, người xem như mở hội.
Đêm ngày 27/12/1972, đêm thứ 9 của cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam ,36 máy bay B-52 xuất phát từ căn cứ Gu-am, U- ta- pao và 48 máy bay hộ tống chia làm 3 hướng: Đông Nam, Tây, Tây bắc đánh vào các mục tiêu của Hà Nội.
Căm thù lũ cướp trời, các chiến sỹ tên lửa dồn sức mạnh vào từng quả đạn bay tới máy bay quân thù. Kẻ gieo tội ác bị trừng phạt. Đêm đó, các lực lượng phòng không của ta bắn rơi 5 máy bay B-52, 2 máy bay chiến thuật của Mỹ.
Đêm đó tôi cũng như bao người còn ở lại Hà Nội không thể nào ngủ yên vì chốc chốc lại có báo động, đứng trên cửa sổ ngôi nhà cũ ở phố Sơn Tây nghe rõ tiếng máy bay B52 ì ầm từ trên cao, trong màn trời đêm tối mịt mù, tôi bỗng thấy hai quả đạn tên lửa đỏ lừ vút lên, bùng nổ .Chiếc máy bay B-52 trúng đạn,bốc cháy như một bó đuốc lớn rồi lớn dần như một quả cầu lửa lao xuống làng hoa Ngọc Hà, Hà Nội. Một phần máy bay phơi mình trên đường Hoàng Hoa Thám, cạnh vườn Bách Thảo, một phần khác rơi xuống hồ Hữu Tiệp.Tôi hô lớn B52 cháy rồi và nghe thấy tiếng bom rơi reo réo và vội nhảy xuống hầm.
Ngày 26. Ngày 27. Ngày 28. Ngày 29.... Ngày nào Hà Nội cũng cuồn cuộn những cột lửa bom kéo dài thành vệt như đã được căn tính sẵn. Không ở An Dương, Yên Phụ thì ở Triều Khúc, Phương Liên. Không Cường Nỗ, Uy Nỗ thì ga Yên Viên, Cầu Đuống... Chẳng có ngày nào Hà Nội không có người chết, nhà sập, máu đổ. Nhiều lúc máy nước công cộng và trong từng nhà, vòi vặn ra không một giọt nước chảy, điện không sáng phải thắp bằng đèn dầu hôi và nến sáp...
Nếu tính cả số B.52 vào giội bom Hà Nội ngày 30/12 thì trong vòng 12 ngày đêm, tổng thống thứ 37 của nước Mỹ Ních - xơn ra lệnh dùng toàn bộ lực lượng 200 máy bay chiến lược B.52 của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á - bằng một nửa tổng số 400 máy bay B.52 của toàn nước Mỹ mở đợt tập kích chiến lược ồ ạt đánh phá Hà Nội, như chúng tuyên bố “sẽ đưa Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá!".
Cả thế giới dõi theo cuộc đánh trả không lực hùng mạnh Hoa Kỳ trên vùng trời Hà Nội, cứ ngỡ Hà Nội vụn nát phải chịu khuất phục không điều kiện trước những trận mưa bom rải thảm khủng khiếp chưa từng có trong cuộc chiến ở Việt Nam.
Trong vòng 12 ngày đêm ấy, quân và dân Hà Nội và các tỉnh áo giáp đã bắn hạ tan xác 81 máy bay, trong đó có 34 pháo đài bay B.52 và 5 chiếc phản lực "cánh cụp cánh xòe". Có chiếc B.52 bị bắn hạ rơi xuống hồ sen làng hoa Ngọc Hà, rơi trên đường Hoàng Hoa Thám, rơi trên cánh đồng ngô lá non vừa nhú ở vùng ven Hà Nội. Bắn rơi cả phản lực trinh sát, cả máy bay lên thẳng đến cứu phi công nhảy dù. Những người hùng lái B.52 rơi cả xuống hồ Trúc Bạch, mắc trên ngọn tre làng ngoại thành, thụt xuống đầm lầy và rơi cả vào chuồng trâu hợp tác xã... Hà Nội ngày nào cũng bắn rơi B.52, ngày hôm sau bắn rơi nhiều hơn ngày hôm trước, đến nỗi các đài tâm lý chiến của Mỹ cũng phải thốt lên: Các cuộc ném bom Hà Nội được coi là cuộc ném bom dữ dội nhất trong cuộc chiến tranh đã làm cho Mỹ bị thiệt hại nặng nề nhất về người và trang bị. Với đà thiệt hại này, chẳng bao lâu nước Mỹ sẽ mất hết toàn bộ máy bay B.52 nước Mỹ có.
http://files.myopera.com/nguyentaidu...nbienphu_2.jpg
Cánh máy bay B52 rơi trên đường Hoàng Hoa Thám
Hãng tin Anh Roi-tơ tính toán chi li và chỉ ra rằng, căn cứ mức độ thiệt hại 33 chiếc máy bay B.52 bị hạ trong vòng 10 ngày, thì chiếc cuối cùng sẽ bị bắn rơi vào ngày 28/4/1973.
Hãng tin Pháp AFP bình luận đây là lần đầu tiên trong lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam, lực lượng máy bay B.52 của Bộ chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ đã vấp phải một hệ thống phòng không có hiệu lực đến như thế, đã bị thiệt hại nhiều máy bay đến như thế trong một thời gian ngắn như thế ở một thành phố như Hà Nội. Địch đánh phá ác liệt và khủng khiếp như thế, mà các tờ nhật báo Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Hà Nội mới... vẫn ra đúng giờ. Sáng sáng, các quầy báo phố Tràng Tiền người ta vẫn xếp hàng mua báo đọc. Trên các góc đường vẫn không vắng các quầy đổi bánh mỳ bằng tem phiếu cho những khách vãng lai và những người ở lại với Hà Nội. Nhà máy cơ khí trung quy mô Hà Nội vẫn tổ chức đám cưới cho hai pháo thủ cao xạ tự vệ ở ngay trận địa để ngày mai chú rể lên đường nhập ngũ. Đám cưới không có pháo, nhưng vẫn có hoa tươi, trà Thái Nguyên, thuốc lá thơm và bánh kẹo. Hồi sinh thời, nhà văn Nguyễn Tuân có mặt trong đám cưới này, ông bảo trong đời chưa bao giờ ông được dự một cái đám cưới vui, xúc động và rất Hà Nội như thế. Chỉ có ở Việt Nam, chỉ có ở Hà Nội - Thủ đô của lương tâm và phẩm giá con người.
Chúng tôi xin ghi lại cuộc hỏi chuyện…... viên phi công Mỹ mặt mũi xám ngoét quấn chiếc chăn chiên quanh người, ngồi thu lu một đống ở góc nhà kho hợp tác xã, trả lời câu hỏi bằng tiếng Anh của nhà báo Chính Yên.
- Máy bay B.52 ở Utapao hay ở Guam đến?
- Thưa ngài, ở Guam đến.
- Vào không quân từ bao giờ?
- Đã 15 năm.
- Làm việc gì trên máy bay?
- Hoa tiêu chính. Theo dõi đường bay và bấm nút thả bom.
Viên phi công có nhiều năm bay và dày dạn kinh nghiệm này thổ lộ rằng bay đêm thì không sợ MIC công kích, các bệ tên lửa và các ổ súng phòng không không nhìn thấy được. Nhưng bắt đầu bay vào vùng trời Hà Nội rồi mới thấy là cực kỳ khủng khiếp. Nhìn về hướng nào cũng thấy tên lửa lao đến. Bay ở tầng nào cũng thấy đạn pháo vút lên. Chỉ biết cầu Chúa và sợ. Không thể chờ lệnh chỉ huy được, anh ta đã tung dù thoát khỏi máy bay. Những phi công được lệnh trèo lên phản lực B.52 đi ném bom rải thảm Hà Nội, gọi Hà Nội là tọa độ lửa.
Đúng như vậy. Hà Nội đã chia ô bắn, đã chia vùng trời cho tất cả mọi cỡ súng trong trận đánh Điện Biên Phủ trên không đã đi vào lịch sử.
Sau này tôi được nghe kể rằng:Vào trước những ngày tháng 12 năm đó, cụ có ra sân hành đạo, cho thắp hương ở trên hòn non bộ. Cụ có nói rằng : Máy bay (B52) sẽ rơi.
Và thật lạ , chiếc máy bay B52 khi bị bắn rơi xuống làng hoa Ngọc Hà - Hữu Tiệp ,phần lớn các mảnh xác đều rơi xuống các ao hồ trong làng và bao nhiêu bom rơi xuống đây không có quả nào nổ.Còn các phi công Mỹ thì khai rằng :do quá sợ hãi và không chờ lệnh chỉ huy đã nhảy dù thoát khỏi máy bay .
Thật là Đại phúc cho làng hoa Ngọc Hà - Hữu Tiệp.
http://files.myopera.com/nguyentaiduc49/blog/xacb52.jpg
Xác máy bay B52 rơi xuống hồ Hữu Tiệp.
Không tham vàng
Lời dẫn: Anh Lê Quang,trước đây là cán bộ điều vận của một công ty xây dựng ở Hà nội.Anh có cho chúng tôi biết,sở dĩ anh được biết đến cụ Nguyễn Đức Cần là do mẹ anh bị một bệnh gọi là sơ gan cổ chướng.
Lúc đó bà mẹ anh đã ngoài 60 tuổi và hai lá gan bị nhiễm bệnh,bụng sưng to căng phồng như người mang thai 7 tháng.Gia đình đã đi chữa ở nhiều bệnh viện,thậm chí lên cả miền ngược để tìm thuốc,nhưng bệnh của mẹ anh cũng không thuyên giảm.
Một lần tình cờ đến làng Đại Yên-Hà Nội, để mua thuốc nam, được một người mách bảo,anh đã tìm đến cửa cụ và được cụ nhận lời cứu giúp.
Sau đó,mẹ anh đã khỏi bệnh một cách nhanh chóng và từ đó hàng ngày anh xin phép cụ được lên nhà, để giúp đỡ các công việc trong gia đình.
Nhưng có một thời gian,do công việc cơ quan anh phải đi xa…Chúng tôi xin trích dẫn một lá thư của anh gửi tới cụ
Quảng Ninh ngày 23 tháng 11 năm 1980
Con kính thưa ông
Chiều tối hôm nay con nhận được lá thư ông gửi và 6 lá đạo ông ban cho con.Con mừng quá và khoẻ thêm ra.
Thưa ông
Sáng ngày thứ hai 17 tháng 11,con đã đưa hương của ông cho, mang ra đền Cửa Ông để ông từ ngoài đó thắp.Một điều con thấy rất đột ngột là ông từ ấy vừa bị chết, đúng vào buổi sáng mà ông cho con mang hương đi từ Hà Nội.
Thưa ông sự bất ngờ ấy đã cho con nhiều suy nghĩ về những lời ông dạy,cũng như là con vừa được nghe tin ở Angiêri bị động đất lớn chết và bị thương hàng vạn người.
Con càng thấy rõ lời ông dạy:”Quyền lực tạo hoá là vô biên,loài người ngày càng phải thấy rõ cái quyền lực tối cao thiêng liêng của trời đất”.
Thưa ông
Hiện chỗ con đang làm việc bên mỏ than cọc 6 cách Cửa Ông và Mông Dương khoảng 10 km theo đường chim bay và cách Hà Nội khoảng 200km,sinh hoạt của chúng con gặp nhiều khó khăn,nước rất hiếm và mọi thứ giá cả rất đắt đỏ,chỉ có than đun là sẵn vì chúng con ở ngay mỏ than.
Thưa ông, Dãy nhà con đang ở đầu hồi đã đổ bốn năm lần,nay vừa mới xây lại,mà anh em chúng con ở ngay cái gian đầu hồi đó,ai cũng lo vì gió to thì rất là nguy hiểm không biết đổ xuống lúc nào.Con chợt nhớ lời ông dạy là vùng Mông Dương này nhiều ma lắm.Xin ông dõi đạo che chở cho chúng con được yên ổn và an toàn…
Cuối thư con kính mong ông luôn luôn mạnh khoẻ để chúng con được nhờ công đức ông mãi mãi.
Kính thư
Chúng tôi xin tiếp tục câu chuyện…
…lúc đó là thời kỳ bao cấp,cuộc sống còn nhiều khó khăn, mọi thứ cần thiết phải mua bằng tem phiếu.Cũng như bao gia đình khác ,gia đình của anh Quang, ngoài giờ làm,phải làm thêm việc gì đó để cải thiện đời sống và thế là anh chọn thêm nghề bơm xe đạp ở hè phố.
Anh kể với chúng tôi rằng :có lẽ số mình thế nào đó,người ta mang bơm ra cũng ngồi như mình thì có khách gọi bơm xe và kiếm được tiền,còn mình chỉ ngồi ngáp dài cả tuần chẳng ai gọi đến.Một tối ngồi suy nghĩ miên man,chưa biết kiếm thêm tiền bằng cách gì mà nhà thì đông con,chợt nghe thấy tiếng đài thông báo kết qủa xổ số Thủ Đô.” Đúng rồi ,mình sẽ mua xổ số,biết đâu lại trúng “….nhưng khi sờ đến túi thì anh chẳng còn đồng tiền nào.
Sớm hôm sau như thường ngày anh lại lên trên cụ.Bỗng nhiên anh thấy cụ mở ví và đưa cho anh tiền,cụ nói :”Thầy cho chú tiền mà mua xổ số”.
Anh thật ngạc nhiên và mừng rỡ.Anh xin cụ đi mua ngay mấy tấm vé số.Buổi tối hôm đó cả nhà anh háo hức ngồi chờ nghe kết quả mở thưởng,các dãy số trúng thưởng được đọc lên,nhưng chẳng có tấm vé nào của gia đình anh trúng cả..mọi hy vọng thế là tiêu tan.
Hôm sau, lên nhà cụ hỏi :”Thế nào, chú có trúng xổ số không? Khó nhỉ?”, rồi cụ mỉm cười …
Chúng tôi xin kể tiếp một chuyện xổ số khác…
Giáo sư Hoàng Phương,là một nhà khoa học có đến nghiên cứu về cụ và say mê triết học phương đông.Một lần do thiếu tiền để phục vụ công việc khoa học, ông cũng nghĩ đến môt giải pháp là mua vé số .
Sau khi mua mấy tấm vé số , bỗng nhiên ông được nghe thấy một giọng nói ở trong tai mình:”Nhà ngươi định kiếm tiền bằng việc không chính đáng này à?”. Ông giáo sư thật ngạc nhiên,không hiểu ai đã biết việc này rõ thế vậy.Thế rồi tiếng nói lại tiếp tục:”Nhưng thôi, ta cũng thương nhà ngươi, cho hoàn lại đủ vốn”.Giáo sư Phương cho biết,kết quả lần ấy, số tiền ông trúng thưởng đúng bằng số tiền đã bỏ ra mua vé số.Có lẽ đây cũng là một bài học cho vị giáo sư đáng kính.
… câu chuyện dưới đây mà chúng tôi muốn các bạn suy nghĩ thêm về tiền của
Anh Lê Quang có kể lại rằng:
Một lần,không biết vì công chuyện gì đó,(mà chúng tôi không tiện hỏi), anh đã nhặt được một chiếc ấm pha trà bằng vàng ở khu lăng Hoàng Cao Khải gần gò Đông Đa –Hà Nội.Thời ấy với một gia đình nghèo như gia đình anh thì đó quả là một vật có giá tri lớn.
Anh lên trình thưa chuyện với cụ.Cụ dạy nếu anh muốn thử vàng, cụ sẽ nói giúp,vì trong số bệnh nhân của cụ có người làm nghề kim hoàn.
Sau khi thử,người đó cho biết đúng là chiếc ấm bằng vàng ,nhưng độ tuổi non,vàng chỉ độ 5-6 tuổi.
Nhưng anh cũng biết rằng người ta thường nói:” Được bạc thì sang, được vàng thì lụi”.Cho nên anh chẳng dám bán chiếc ấm vàng đó,mà cụ cũng không dạy gì . Điều đó làm anh phải suy nghĩ.
Mấy ngày sau, lựa lúc vắng khách anh xin cụ cách xử trí .Cụ dạy:”Chú phải biết nơi đó(chỗ anh Quang nhặt được ấm vàng),máu đã chảy thành sông”.
Chúng ta biết rằng,vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789,vua Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh,tiêu biểu là trận đánh Ngọc Hồi -Đống Đa..sử sách có ghi rằng:Quân nhà Thanh bị giết,thây nằm ngổn ngang khắp đồng,máu chảy như tháo nước,xác chất chồng thành 13 gò đống…về sau chỉ còn giữ lại một gò trên đó có trồng những cây đa nên gọi là gò Đống Đa…
Nghe được cụ dạy như vậy,anh thấy mình tỉnh ngộ và anh xin cụ cho phép anh thả chiếc ấm vàng đó xuống sông.
Anh cho chúng tôi biết, sáng tinh mơ hôm đó anh đạp xe lên cầu Long Biên-Hà Nội , đến giữa cầu bên dưới là dòng sông Hồng, nước đang cuộn chảy,anh mang chiếc ấm vàng ra,miệng cầu xin cụ và thả nó rơi tõm xuống dòng sông.Anh kể lại rằng lúc đó có một cảm giác rất lạ như có một dòng điện chạy suốt qua người,rồi sau đó thấy tâm hồn mình thật thảnh thơi.
Khi về nhà cụ ,sau khi anh trình lại việc làm đã xong,cụ dạy :”Thật mừng cho chú “…vì đã không tham.
http://files.myopera.com/nguyentaiduc49/blog/19.JPG
Anh Lê Quang (ảnh chụp tại đồi Ba Cây,Sơn Tây)
Bà Hoàng Thị Thế
Đêm 30 Tết năm ấy, có một người khách đặc biệt và cũng là một bệnh nhân , đến Đại Yên chúc Tết cụ Nguyễn Đức Cần. Người khách đó chính là cụ Hoàng Thị Thế -một người con gái của lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Thế - Hoàng Hoa Thám.
Chúng tôi xin trích dẫn một tư liệu sau :
Đặng Thị Nhu - Bà Ba Đề Thám anh hùng
Bà Đặng Thị Nhu ( Đặng Thị Nho ) sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo khó ở Yên Thế (Bắc Giang). Miền đất này đã tạo nên cho bà trở thành thiếu nữ gan dạ tháo vát và giàu lòng yêu nước thiết tha.
Trong cao trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta cuối thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ thứ XX, cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám và nông dân vùng Yên Thế là cuộc đấu tranh vũ trang quyết liệt nhất, kéo dài nhất và cũng làm cho giặc lo ngại nhất. Cuộc khởi nghĩa kéo dài tới 30 năm, trong cuộc khởi nghĩa này, bà Đặng Thị Nhu đã góp phần quan trọng cùng chồng xông pha trận mạc.
Khoảng đầu năm 1894, nghĩa quân Yên Thế ở vào một giai đoạn gay go ác liệt, lực lượng bị tiêu hao sau nhiều trận chiến, nghĩa quân đành phải phân tán, một bộ phận lánh sang Thái Nguyên. Bản thân Hoàng Hoa Thám lúc đó cũng bị địch truy lùng gắt gao nên phải ẩn náu trong núi rừng. Một buổi chiều khi tới làng Vạn Vân, trên đường đi bỗng Hoàng Hoa Thám gặp một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh đó là Đặng Thị Nhu. Đề Thám nói dối với cô Nhu, ông là người đi buôn, bị kẻ cướp lấy hết tiền nong vốn liếng, trời lại sắp tối, sẵn lòng thương người, cô Nhu đưa khách về nhà diện kiến với cha. Cha cô có người con nuôi là Thông Luận là một vị tướng của Đề Thám, hôm ấy cũng về thăm cha nuôi, cũng từ đó, gia đình cô Đặng Thị Nhu trở thành cơ sở của nghĩa quân và cô Nhu trở thành người giúp việc đắc lực cho Đề Thám. Thấy Đề Thám và cô Nhu tâm đồng ý hợp, với sự cho phép của cha già, chẳng bao lâu cô Nhu trở thành vợ ba của Hoàng Hoa Thám, thành hôn Đặng Thị Nhu có tên mới là “Bà Ba Cẩn”. Sát cánh bên chồng bàn định kế hoạch xây dựng lực lượng, bà Ba Cẩn đã đề xuất ý kiến là ta nên tranh thủ sự hòa hoãn, để xây dựng lực lượng, để có thực lực chiến đấu lâu dài. Bà phân tích cặn kẽ, lập luận vững chắc, đã được tướng lĩnh nghĩa quân và thủ lĩnh Đề Thám tán thành.
Đến năm 1907, nghĩa quân của Đề Thám đã lan rộng đến Hà Nội, do sáng kiến và tổ chức của bà Ba Cẩn, Đảng Nghĩa Hưng một tổ chức yêu nước chống Pháp được thành lập ngay ở Hà Nội. Đảng Nghĩa Hưng đề ra kế hoạch đánh úp Pháp và đầu độc lính Pháp tại Hà Nội. Việc tiến hành bị lộ nhưng đã làm bọn Pháp rất hoang mang lo sợ.
Ngày 29-1-1909, quân Pháp tập trung lực lượng đánh vào Yên Thế, bà Ba Cẩn đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu kiên cường, kêu gọi binh sĩ người Việt quay lại với dân với nước. Bà Ba Cẩn đã chiến đấu dũng cảm liên tục 10 tháng trời nhưng thế giặc càng ngày càng mạnh, rồi chẳng may sáng ngày 1-12-1909, bà Ba Cẩn cùng con gái bị giặc bắt cùng một số chiến hữu. Thực dân Pháp đã đem bà đi đày cùng con gái sang Guyane (Nam Mỹ). Dọc hải trình viễn dương, thừa lúc quân canh sơ ý, bà đã nhảy xuống biển tuẫn tiết.
Là một cô gái nông dân, với ý chí căm thù giặc sâu sắc, bà Đặng Thị Nhu đã trở thành vị chỉ huy mưu hoạch chiến đấu oanh liệt và đã anh dũng hy sinh. Tấm gương dũng cảm, bất khuất của bà góp phần làm rạng ngời thêm truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam ta.
***
http://files.myopera.com/nguyentaidu...de_De_Tham.jpg
Bà Đặng Thị Nho và con gái Hoàng Thị Thế( ảnh )
Bà Ba sinh cho Đề Thám hai người con: Hoàng Thị Thế sinh 1903 ( Nhưng có tài liệu nói rằng Bà sinh năm 1901 và mất ngày 9 tháng 12 năm 1988, mộ bà được xây tại khu di tích Yên Thế- Bắc giang )và Hoàng Văn Vi sinh năm 1908.
Năm 1913, để xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng, thực dân Pháp đưa bà Thế (lúc đó 10 tuổi) sang Pháp. Sau đó, bà dần nổi danh, ở tuổi 15 đã đóng phim Một Bức Thư, mà báo Pháp gọi bà là "công chúa Tàu". Bà lấy chồng người Pháp là ông Robert Bourges một nhà sản xuất rượu vang ở Toulouse đầu năm 1930 và có lúc sinh sống ở Bỉ. Sau này, vào cuối thập kỷ 60, bà về sống ở khu Văn Chương , Hà Nội.
Riêng ông Hoàng Văn Vi, tức Phồn, còn ít được biết.
Năm 1935, báo Ngày Nay của nhóm Tự lực Văn đoàn có cử phóng viên lên tận Bắc Giang, tìm gặp nhân vật này, đến tận làng Trũng nơi sinh trưởng của Đề Thám. Cuộc gặp gỡ thú vị này được chính Việt Sinh kể lại trong phóng sự dài Bóng người Yên Thế từ Hồ Chuối đến Đền Gồ, đăng tải hai kỳ liền trên Ngày nay. Bài báo cho biết, ông Vi sinh năm 1908 ngay tại đại bản doanh Phồn Xương của Đề Thám ở Yên Thế, nghĩa là khi cha mất, ông mới 5 tuổi. Thực dân Pháp bắt được ông, khi ông mới lên 7 tuổi. Chúng giao ông cho án Giáp Bắc Ninh nuôi và cho ông đi học trường tỉnh nhưng "mỗi bước đi tới trường đều có hai người lính đi kèm" sợ ông trốn... Khi ông 15 tuổi, người Pháp cho ông lên Hà Nội học trường bách nghệ. Ông mê nghề máy móc, nhưng người ta chỉ cho học nghề mô.c. Sau 3 năm, ông xin về quê nhà làm ăn, lấy vợ là con gái ông Thống Luận, một bộ tướng cũ của Đề Thám..”
Có một sự tình cờ của lịch sử : Một trong những mưu sỹ thân cận của lãnh tụ Đề Thám là cụ nho Toàn tức cụ Nguyễn Đức Toàn, là ông nội của cụ Nguyễn Đức Cần.
Nhớ lại đêm giao thừa năm ấy, mọị người vẫn còn nhớ cụ Hoàng Thị Thế , mặc một chiếc áo gấm đỏ sang trọng đến chúc Tết. Cụ Thế bảo rằng :” Ở nước Việt Nam có hai người cụ quý mến và kính trọng, đó là anh Hồ ( chủ tịch Hồ Chí Minh ) và anh Cần .” và cụ hay nói chuyện với cụ Cần bằng tiếng Pháp, có lẽ do thói quen sống lâu ngày ở nước ngoài, thành thử những bọn trẻ như chúng tôi chẳng hiểu mô tê gì cả.
Chúng tôi xin giới thiệu một bút tích của cụ Hoàng Thị Thế.
http://files.myopera.com/nguyentaidu...g/DSCF1891.JPG
Hà Nội ngày 22 tháng 9 năm 1980
Anh Cần thân
Tôi có nhời hỏi thăm anh và gia đình, nếu được mạnh khoẻ thì tôi lấy làm mừng.
Tôi vẫn nhớ đến anh , nhưng đường xa xôi không đến được.
Anh đã chữa cho tôi 4 năm trước khỏi, bây giờ nó lại về đường ruột nhiều, hơi táo bón.
Tôi vừa mới ốm hôm thứ 3 vừa rồi…sốt 4 đêm ngày liền…cả đời không bao giờ tôi ốm như vừa rồi. Tôi ở bên Pháp hơn 30 năm không bao giờ tôi đi bệnh viện .Hôm nào , tôi cố đến thăm anh, nhưng anh phải cho tôi sức khoẻ.
Chúc anh được mạnh khoẻ
Kính thơ
Hoàng Thị Thế
Cụ Thế không chỉ nổi danh là con gái của Hùm thiêng Yên Thế, mà cụ còn có một tài năng đặc biệt là dự báo được tương lai và vận mệnh của con người qua ngày sinh tháng đẻ hoặc nhìn khí sắc của họ.
Giữ lấy chữ Đức
Phỏng vấn
Hôm nay , một ngày đầu xuân năm Kỷ Mão 1999, chúng tôi những người làm tư liệu về Cụ, đến làng Đại Yên thăm và hỏi chuyện một người cháu của Cụ Nguyễn Đức Cần.
-Xin chào anh, xin anh cho biết qúy danh ?
-Tôi là Nguyễn Đức Phú , sinh năm Tân Mão 1951
-Thưa anh, xin anh cho biết quan hệ của anh với cụ Nguyễn Đức Cần là như thế nào ?
-Ông cụ Cần là bác họ tôi. Cụ thân sinh ra ông cụ Cần và ông nội tôi là hai anh em ruột.
-Thưa anh , anh có biết gì về cụ Tổng Nhuận?
-Cụ Tổng Nhuận là bố đẻ của ông cụ Cần và là anh ruột của ông nội tôi. Xưa Cụ làm cai thầu, rồi sau cụ ra làm phó tổng của Thập tam trại của Tổng nội. Cụ Tổng có mở các xưởng củi ,xưởng thủy tinh và bố tôi từ bé đã được cụ đưa đi phụ việc, giúp đỡ cụ trong việc buôn bán kinh doanh.
-Thưa anh, anh có biết cụ Cần đi học đạo từ lúc nào ?
-Có lẽ ông cụ đi học đạo từ lúc còn ít tuổi.Tôi được nghe bố tôi kể lại rằng : Khi cụ Tổng Nhuận xây cái nhà thứ hai tại Đại Yên ( chỗ tập thể xưởng phim bây giờ) thì tự nhiên sau đó cụ Tổng bị mắc bệnh, ở trong bụng cụ có một cái gì đó to như quả trứng gà.Lúc đó bố tôi còn bé vào thăm cụ, thì cụ có cho sờ vào, bố tôi bảo thấy nó như một quả trứng ấy. Khi uống thuốc vào thì nó chạy.Cụ Tổng phải nằm một chỗ, không đi lại được. Thuốc tây, thuốc ta đều không khỏi.Gia đình lấy làm lo lắng.Khi đó cụ Tổng bà ( mẹ ông cụ Cần) có đi mời một ông thầy về. Không biết có cúng lễ như thế nào đó, nhưng sau khi ông thầy đó đến chữa thì cụ Tổng ông khỏi bệnh.
Sau đó thì cụ Tổng bà có gửi con trai cho đi theo ông thầy đó lên Sơn Tây để học, vì thấy ông thầy đó giỏi quá, vừa là để trả ơn thầy, vừa là để cho con theo học thầy.Nghe nói Ông Cụ Cần còn đi rất nhiều nơi ở các miền rẻo cao, rồi sau đó mới về làng Đại Yên chữa bệnh cho mọi người.
-Thưa anh, anh có xin ông cụ Cần chữa bệnh lần nào không ?
-Tôi xin nói thật với anh như thế này. Tôi là con cháu trong nhà, cũng được nghe người ta nói là ông cụ chữa bệnh rất giỏi. Nhưng lúc đó mình còn trẻ nên bán tín bán nghi, mà mình thì chẳng có bệnh gì cả. Hồi đó tôi đang đi làm cơ quan nhà nước, tự nhiên tôi bị sưng một cái hạch rất to như quả trứng ở bẹn, tôi có đi khám ở bệnh viện Đống Đa, người ta gửi tôi đến bệnh viện Việt –Đức, nhưng ở đấy người ta không biết là bệnh gì, nghi là thoát vị bẹn. Bệnh viện họ hẹn tôi ba ngày nữa ra khám lại để mổ, vì lúc đó nó đã sưng to lắm.Tôi có về trên nhà trên Đại Yên, tôi nói chuyện với mẹ tôi về bệnh tật và nói bệnh viện bảo phải mổ. Mẹ tôi mới bảo là :” Chúng mày buồn cười nhỉ, nhà có ông bác chữa bệnh như thế, ông còn chữa cho bao nhiêu người thiên hạ mà chúng mày là con cháu lại không đến xin ông chữa cho “.
Mẹ tôi đưa tôi lên gặp bác ( Cụ Cần). Khi đến tôi có trình bày là cháu tự nhiên bị sưng hạch như thế, rồi mẹ tôi cũng nói xin ông chữa cho. Ông cụ không xem, cũng không hỏi gì cả. Ông chỉ nói : “Thôi cứ về đi, mai kia nó khỏi”.Lúc sau, cụ nghĩ thế nào ,cụ cho tôi một tờ giấy có chữ của cụ.
Tôi về nhà, tôi cũng chẳng để ý. Đến ngày thứ ba thì tôi mới sực nhớ là bệnh viện người ta hẹn đến khám lại để mổ. Tôi mới đi tắm rửa, thì tôi thấy cái hạch sưng to đó đã hết. Tôi mừng quá, tôi vội đạp xe lên nhà để báo cho mẹ tôi biết ( lúc đó tôi đã có gia đình riêng , không ở trong làng). Mẹ tôi bảo : “ Thôi khỏi là tốt rồi , bây giờ vào báo để ông biết “.Ngày đó còn bao cấp, mọi thứ đều thiếu thốn và phải có tem phiếu, tôi có tiêu chuẩn mua được một cân đường, mẹ tôi thêm mấy quả chanh .Mẹ tôi đưa tôi vào nói với ông là cháu nó khỏi rồi ông ạ. Ông cụ bảo : “ Ừ , thế thì tốt lắm”.Tôi nói :“ Con chẳng có gì biếu ông, chỉ có cân đường với mấy quả chanh để bác uống nước ngày hè .”
Ông cụ bảo tôi : “ Bác thì bác nhận rồi, bác cho con mang về cho các cháu.”
-Thưa anh ,trước khi đến, anh có tin là cụ sẽ chữa khỏi hay không?
-Trước khi đến xin ông cụ chữa thì tôi cũng không tin lắm, vì tôi thấy từ trước đến nay chưa thấy ai chữa bệnh mà lại không dùng đến thuốc cả. Ngay cả bệnh viện họ cũng không chuẩn đoán được là tôi bị bệnh gì, tại sao nó lại sưng như vậy. Thế mà khi đến ông bác tôi chỉ bảo cứ về đi rồi nó khỏi và từ đó đến nay không thấy bị tái phát nữa.
-Thưa anh, anh thấy tình cảm của Cụ với họ tộc, với dân làng như thế nào?
-Chúng tôi thỉnh thoảng có đến chỗ bác tôi chơi. Bác tôi rất là quí mến, có khi ông cụ bảo các cháu đến giúp bác thau cái bể nước mưa chẳng hạn, vì lúc đó làng chúng tôi chưa có nước máy, hàng năm phải thay bể. Sau khi làm xong thì ông bảo ở lại ăn cơm với ông, mâm cơm thì cũng chẳng có thịt cá gì nhiều, nhưng tôi thấy đông vui đầm ấm , rất bình dị .Còn trong làng cũng nhiều người biết ơn ông Cụ đã chữa bệnh cho họ.
-Thưa anh vào mùa hè năm Qúy Hợi 1983 thì ông cụ mất. Vậy trước đó, Cụ có nói gì không với gia đình?
-Sau khi ông cụ mất được ít ngày, thì có một người bác họ là cụ Hoàng Văn Viên đến nhà tôi chơi và nói chuyện với bố tôi.Theo lời kể lại của cụ Viên thì tháng trước đó ( tháng 5 năm Quí Hợi 1983) Cụ Viên có đến chơi nhà Cụ Cần. Ông Cụ Cần có nói rằng : “ Chú ạ, nếu đến 6 giờ tối ngày thứ tư tháng tới ( mồng 4 tháng 6 năm Qúy Hợi ) mà anh qua khỏi thì anh sống thêm được 12 năm nữa. Nếu đúng giờ ấy, ngày ấy mà anh không qua được thì đi thôi”.
Ông Cụ Viên nói với bố tôi rằng : “ Chưa thấy ai giỏi như Ông Cụ Cần, vì ai cũng biết sinh thì có hạn mà tử thì bất kỳ. Nhưng rõ ràng ông Cụ Cần biết được cả cái giờ, cái ngày ông ấy chết.
-Thưa anh , anh cảm nhận như thế nào về đám tang ông Cụ ?
-Nói chung là đám tang ông cụ rất to. Chúng tôi là con cháu tất nhiên là chúng tôi có đến dự.Tôi nhớ khi xưa khi chưa có sự ngăn cấm Ông Cụ chữa bệnh, thì những người bệnh đến rất đông. Người ta đến xếp hàng từ sáng sớm. Lúc đó làng tôi còn lát gạch,hai bên là cống rãnh còn bẩn, thế mà nhiều người đến đây người ta giải chiếu nằm la liệt để chờ ở bên ngoài để mong được gặp Cụ sớm, để xin chữa bệnh.Vậy nên khi ông cụ mất, bệnh nhân người ta đến rất đông.Tất cả những người bệnh đều chít khăn tang trắng để tang ông cụ. Bởi vì người ta rất biết ơn ông cụ. Có những người coi ông cụ là người sinh ra người ta lần thứ hai. Bởi vì đau ốm, bệnh tật người ta đã tưởng rằng sẽ bị chết rồi, mà lại được cụ cứu sống, được khỏe mạnh, lại không mất tiền, thì người ta rất biết ơn ông cụ.
- Thưa anh, anh có kỷ niệm nào mà anh nhớ nhất về Cụ ?
-Tôi nhớ xưa, mỗi khi vào dịp 30 tết, bác tôi làm bữa cơm tất niên. Bác có nói với bố tôi là cho tất cả chúng tôi anh em, con cháu đến đây ăm cơm với bác.Không khí thật chan hòa đầm ấm, có lần tôi hỏi : “ Bác ơi, năm nay thì cháu thế nào ?”.
Bác tôi bảo : “ Các con, nhà mình là họ Nguyễn Đức, thì mình cứ giữ cái chữ Đức, thì không có sức mà ăn’’. Bác tôi chỉ khuyên chúng tôi như thế mà thôi.
-Thưa anh, Cụ là một người hiếm có trong lịch sử chữa bệnh và phương pháp chữa bệnh của cụ thật là thần diệu. Cuộc đời đạo đức của Cụ thật là cao đẹp.
Làng Đại Yên – Hà Nội và dòng họ Nguyễn Đức ở thế kỷ 20 này thật vinh hạnh là đã có một con người đặc biệt như cụ.Cũng như anh vừa nói về lời khuyên của cụ với con cháu trong dòng họ - Hãy giữ lấy chữ Đức. Đó cũng là một lời khuyên cho tất cả mọi người chúng ta.
Xin cảm ơn anh đã tiếp chuyện hôm nay.
Người thực hiện
Nguyễn Tài Đức
"Chữa bệnh trái phép"
Phỏng vấn
Trong lịch sử của nhân loại, đã từng chứng kiến những người đi tiên phong vì sự tiến bộ của loài người, luôn bị các thế lực bảo thủ đương thời ngăn cản.
Việc cứu bệnh cho nhân dân của cụ Nguyễn Đức Cần cũng đã gặp biết bao khó khăn , nguy hiểm..
Chúng ta hãy trở lai những ngày hè nóng bỏng của năm 1974 ,qua một bản tường trình của một bệnh nhân mà chúng tôi xin trích dẫn dưới đây:
“Kính thưa cụ
Trong quá trình của những ngày cụ đi chơi vắng nhà. Một hôm có 4 người ( 1 nam và 3 nữ ) với danh nghĩa là cán bộ nhà nước và tự giới thiệu là bác sỹ Nguyễn Văn Minh ở phòng y tế khu Ba Đình.
Họ nói : Chúng tôi muốn được xem một số bức thư của bệnh nhân đã được chữa khỏi bệnh viết thư cảm ơn.
Sau họ nói : Cho chúng tôi mượn về xem, ngày mai sẽ trả lại ngay, vì ở đây xem không hết được.
Con lúc ấy đã nhẹ dạ ,quá tin người ,nên con đã tự tiện đưa hơn mười cái thơ và quyển viết của anh Nguyễn Hoàng Phương cho họ mang về, họ đưa lại cho con một giấy biên nhận ký tên là bác sỹ Nguyễn Văn Minh ở phòng y tế khu Ba Đình..
Ngay sau đó , con đã thấy nghi ngờ. Nhưng sự đã chót đưa cho họ rồi. Con đành ngóng chờ xem ngày mai , họ có đem trả lại không.
Ngày tháng và hàng năm trôi qua và đến nay, họ cũng không đem trả lại.
Con đã viết thư qua bưu điện để đòi, nhưng người không thấy lại….có lẽ không có ai tên là bác sỹ Nguyễn Văn Minh.
Kính thưa cụ
Sau việc làm sai trái của con như trên, con đã đem lại rất nhiều sự không hay và nguy hiểm không riêng gì mình con….”
Chúng tôi được biết rằng : Sau khi có những bức thư cảm ơn trên, người ta tiến hành đến từng địa chỉ gây sức ép, để những người bệnh này không dám nói đúng sự thật,thậm chí còn đe doạ cắt sổ gạo của họ.
Ngày 16 tháng 6 năm 1974 trên báo Hà Nội mới đã đăng bài “ Về một chuyện chữa bệnh trái phép “ phỏng vấn bác sĩ Trịnh Văn Khiêm , giám đốc sở y tế Hà Nội.
Chúng tôi xin trích dẫn sau đây
Về một chuyện chữa bệnh trái phép
L.T.S- Ngày 18-5-1974 Sở y tế Hà Nội đã ra thông báo về việc chữa bệnh trái phép của ông Nguyễn Đức Cần, tức Trưởng Cần ở 86A Đại Yên . Theo yêu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi đã gặp và phỏng vấn bác sĩ Trịnh Văn Khiêm, Giám đốc sở y tế Hà Nội, đẻ tìm hiểu rõ hơn về chuyện này.
Hỏi- Xin đồng chí cho biết cái mà ông Nguyễn Đức Cần gọi là “chữa bệnh” là như thế nào?
Trả lời- Qua lời kể của nhiều bệnh nhân và những người được xem ông Cần “biểu diễn” chữa bệnh thì cách chữa chủ yếu gồm mấy điểm sau:
1- Ông Cần chữa bệnh không cần khám bệnh để đi đến chuẩn đoán trước khi chữa. Nhiều trường hợp bệnh nhân không cần đến nhà ông, mà chỉ cần có người nhà đến kể bệnh, thậm chí bệnh nhân ở xa chỉ viết thư kể bệnh xin chữa cũng được.
2- Ông Cần nhận người bệnh để chữa qua người môi giới thân tín hoặc qua những bệnh nhân đang được chữa bệnh giới thiệu…
3- Ông Cần chữa bệnh không dùng bất kỳ loại thuốc gì. Động tác chữa bệnh chỉ là nhìn trực tiếp vào bệnh nhân, đồng thời đưa tay bắt ấn, bắt quyết…phần lớn người bệnh được ông Cần đưa cho một “ đạo “, tức là một mảnh giấy, kích thước bằng bao diêm. Bệnh nhân sẽ dán đạo lên chỗ đau hoặc đeo vào người, đặt dưới gối hoặc đốt lên trong phòng bệnh nhân.Với bệnh nhân ở xa , ông Cần gửi “đạo “cho họ qua người nhà.
4- Những người được giới thiệu đến chữa bệnh đều được căn dặn phải tuyệt đối tin tưởng và kiên trì…
Tóm lại, cách thức chữa bệnh như thế chỉ có thể gọi là cách làm ăn của một thầy cúng hay thầy phù thuỷ.
Hỏi- Với cách thức “chữa bệnh” như vậy, ngành y tế đã kiểm tra chưa và thấy kết quả ra sao ?
Trả lời- Chúng tôi chưa có điều kiện thống kê và đánh giá kết quả ở tất cả những bệnh nhân đã được ông Cần chữa, nhưng chúng tôi khảo sát khoảng 20 trường hợp mà những người môi giới cho là thánh công nhất. Những trường hợp này chia làm 5 loại:
1-Đầu tiên là hai trường hợp bệnh kết tóc và bệnh bại liệt mà ông Cần đã chữa biểu diễn trước một số người….Chúng tôi khẳng định kết tóc không phải là một bệnh, trường hợp thứ hai bệnh nhân không có gì chuyển biến rõ rệt.
2-Một số trường hợp khác…trong khi bệnh nhân chờ đợi kết luận chính xác của bệnh viện, đã tranh thủ đến nhờ ông Cần chữa….
3-Một số trường hợp là những bệnh nhân sau một thời gian được điều trị nội trú trong bệnh viện vẫn đang tiếp tục chữa ngoại trú và đang tiến triển tốt, thì lại đi tìm đến ông Cần và đã gán mọi kết quả chữa bệnh từ trước ỏ bệnh viện cho ông Cần.
4-Một số trường hợp bệnh nhân có bệnh thực thể kèm theo các triệu chứng chức năng, sau khi được ông Cần chữa, cảm thấy có tiến bộ về mặt chức năng ( như thấy thoải mái , ăn ngủ được )..
5-Trong một số trường hợp, cách làm ăn của ông Cần có thể có tác dụng tạm thời đối với một số bệnh chức năng đơn thuần như suy nhược thần kinh, rối loạn thần kinh chức năng, hysteria…
Hỏi- Xin đồng chí cho biết những nhận định, kết luận khái quát đã dẫn đến quyết định của sở y tế cấm ông Cần hành nghề.
Trả lời-Như đã nói trên, cách chữa bệnh của ông Cần có thể có một số kết quả nhất định đối với các bệnh chức năng như rối loạn thần kinh, hysteria, nhức đầu…
Những kết quả đó- nếu có – là do ông Cần đã gây một tác động tâm lý mạnh đối với người bênh và gia đình..
Có người nói ông Cần chữa bệnh bằng thôi miên… theo nhận định của các bác sĩ chuyên khoa tâm thần, thì ông Cần không phải chữa bằng thội miên..
Có người nói ông Cần chữa bệnh bằng điện sinh học..cũng có người nói rằng dòng điện của ông Cần không phải là dòng điện sinh vật mà là một dạng năng lượng sinh vật đặc biệt…thực ra đây chỉ là một giả thiết.Về những “ đạo” của ông Cần, chúng tôi đã đề nghị Bộ y tế cho đơn vị nghiên cứu phóng xạ để đo hoạt tính phóng xạ, nhưng hoàn toàn không có gì
Còn về pháp lý thì rõ ràng ông Nguyễn Đức Cần không có đăng ký hành nghề, ông cũng tự nhận mình không phải thầy thuốc.
Không phải thầy thuốc , không có đăng ký hành nghề ..rõ ràng là một việc trái phép mà lụật pháp không thể dung thứ.
Vì vậy , Bộ y tế rất nhất trí với chúng tôi khi chúng tôi ra thông báo cấm ông Nguyễn Đức Cần hành nghề.
http://files.myopera.com/nguyentaidu...g/DSCF1892.JPG
Cụ có nói với chúng tôi rằng : Nếu nhà nước công nhân và đồng ý cho cụ chữa bệnh cho nhân dân thì chỉ cần mỗi khu phố cho cụ một chỗ hay một gốc cây cũng được , cụ sẽ đến đấy chữa bệnh cho nhân dân..
Nhưng đáng tiếc rằng sự việc đã không như lòng cụ mong muốn.
Người thực hiện
Nguyễn Tài Đức