Dẫn chứng Đức Phật nói kinh Kim Cang và Bát Nhã trong 21 năm đầu đi bạn
Chữ tô đỏ của bạn là dòng này không rõ ý "Bản chữ Phạn tổng có hai mươi vạn bài tụng"
Bạn vui lòng trích dẫn nguyên văn ra. Thanks
Printable View
Dốt à! Xem khoảng không gian nầy mà suy ra thời gian nghe
Đức Phật thuyết Kinh này tính ở bốn chỗ:
1. Núi Thứu Phong nơi thành Vương Xá;
2. Vườn Cấp Cô Độc;
3. Cung Trời Tha Hóa Tự Tại
4. Tịnh Xá Trúc Lâm thành Vương Xá.
Người có trí biết suy
Kẻ có tâm biết luận
"Dẫn chứng Đức Phật nói kinh Kim Cang và Bát Nhã trong 21 năm đầu đi bạn"
Dẫn chứng không được thì nói thẳng ra, việc gì mà trả lời lòng vòng không ra rồi nổi sân lên chửi người khác vậy? Kẻ có trí thì phải biết Đạo Phật không phải là Đạo suy diễn. Câu kinh nào nói "Đức phật thuyết kinh Kim Cang và Bát Nhã trong 21 năm đầu" hỏi lại bạn lần cuối, CÂU KINH NÀO? DẪN CHỨNG ĐI.
ÔI !!! ĐÔNG VUI QUÁ !!! NHẨY ???!!!
xem ra mình ko có duyên với chuyên đề này rồi @ @
Tôi thấy mọi người không nên đấu đá nhau như kẻ thù. Kiến thức của tôi về đạo phật không nhiều, khi đọc bài này cũng không phân biệt được ai nói đúng ai nói sai. Nhưng tôi chỉ biết đạo phật là đạo của lòng bắc ái bởi thế mà tôi tin nó, tin vào nhân quả công bằng. Khi đọc bài này tôi thấy rất buồn,chán, ..... không biết cái niềm tin của mình có đúng không? Những người mới học đạo như tôi chắc cũng sẽ có tâm trang giống như thế. Cho nên xin mọi người và những vị sư hãy bình tĩnh lại coi như là vì chúng tôi những người mới đến giữ lại cho chúng tôi niềm tin.
Chả biết nói gì hơn cho chủ đề này , nhưng chỉ có 1 ý cơ bản, là tất cả những kinh sách của đức phật được truyền lại đến bây h , đều được biên soạn sau khi đức phật viên tịch , trước đó phật chỉ giảng pháp chứ không hề viết lại bất cứ kinh sách nào . Vậy trong số những đệ tử của đức thế tôn , ai là người chắc chắn rằng , tôi nhớ toàn bộ lời của đức phật ? Đến cả ngài A Nan người có trí nhớ tốt nhất và theo hầu đức phật trong suốt 25 năm , còn phải mở đầu bằng câu "như thị ngã văn..." .
Nếu như nói như Người mù thì rõ ràng chẳng có kinh sách nào là đáng tin cả , vì chả có kinh sách nào do chính tay đức thế tôn viết cả , vậy thì tất cả những lời của đức thế tôn, ý nguyện của người được nhắc đến trong kinh điển ta cũng không nên tin luôn , vì rõ ràng lời và ý của đức thế tôn được viết lại bởi người khác -> càng không đáng tin . Vậy với những giáo điều , kinh sách và hơn 4 vạn 8000 pháp môn , đức thế tôn để lại , chắc cũng đem bỏ xó là được rồi , có cái gì là của đức thế tôn tự tay viết ra đâu .
Lời của đạo hữu nghe thì đao to búa lớn , nhưng giúp ích được bao nhiêu cho nhân loại ? Nếu không có bồ đề tâm tự hỏi vì sao đức phật phải tốn thời gian đi giảng pháp cứu độ chúng sinh làm gì ?
Đức phật dù có đứng giữa 1 phiên chợ thì vẫn là đức phật , sự giác ngộ giải thoát của ngài là đến từ bên trong , sâu thẳm trong tâm của ngài , lúc nào lòng cũng thấy thanh thản thì đứng giữa chợ hay trong rừng có khác gì nhau ? Tất nhiên tôi ko phủ nhận việc ta nên xa lánh chốn hồng trần để hưởng đc sự an bình của việc ẩn cư , nhưng thử hỏi nếu đức phật cũng chỉ biết lo đến cái sung sướng của bản thân mình mà không biết đau cho cái đau của chúng sinh , o biết thương xót cho hàng trăm triệu kiếp người vẫn lăn lộn trong 1 đời sống giả tạo đầy khổ đau , vậy thì xin hỏi chúng ta ngày nay có ngồi đây mà mang giáo lý của đức thế tôn ra xỉa xói nhau không ?
Cũng là 1 phật tử , trình độ tu học của tôi còn non kém , nhưng tôi tự hiểu rằng ở thời đại này , mấy ai đã hiểu thấu đáo lý lẽ của phật ? 4 vạn 8000 pháp môn để lại là có nguyên do của nó , vì đức thế tôn hiểu rằng mỗi người lại có 1 sự giác ngộ , một sự lĩnh hội khác nhau , và đấy cũng chính là sự vĩ đại trong trí tuệ của người .
Năm mới , ta nên tinh tấn tu tập vì đây là thời một khoảng thời gian quan trọng , cãi vã không làm nên công đức , người khoe khoang thì ít làm nên việc . Ta tu được đến đâu , chứng ngộ được chừng nào thì trời biết đất biết , phật biết , tâm ta biết , cứ lặng lẽ mà tu tập, giúp mình giúp người .
Chúc các đạo hữu tâm an lạc .
Tôi xin chia sẻ một chút ý kiến cùng với những lời viết của quý vị nguoi_mu như sau:
1. Học gì, tu tập tôi cũng lấy trí nhận biết của mình mà phân định cuối cùng, như vậy kinh, sách, sử, giai thoại ... tất có phần tôi thấy thật lợi ích phần chưa lợi ích cho đường tu của mình. Nếu để cái gì cũng căn cứ vào Phật nguyên thủy vốn nói ... để làm tôn chỉ ngay thì tôi chưa làm vậy.
2. Tôi cho rằng đường đạo là vô biên, không có giới hạn nên chỉ thấy mình có tiến bộ ---> không thấy mình thành gì ---> không mong mình giác ngộ hoàn toàn (đã là hoàn toàn thì giới hạn rồi).
3. Tôi tự thấy mình năm vừa rồi may mắn đã ăn được một mẩu bánh của tâm không (cũng khá hay ho đấy), thường cố an trú trong đó (vì nghiệp lực còn sâu dày luôn muốn lôi cuốn mình đi), bớt đi những thói quen xấu, dần lập những thói quen tốt của thân khẩu ý ---> nhưng tôi quý nhất là cái mẩu tâm không đó thôi, những cái khác lúc nào đó sẽ đến khi cần theo sự trú mình trong mẩu tâm đó (ăn ít, ngủ ít, khỏe mạnh, ....)
4. Vì những gì tôi đã tiến bộ tôi luôn tìm cách khéo léo hòa đồng với mọi người (có ti tỉ cách) để lồng vào đó những hiểu biết tôi cho là chân chính để mọi người xung quanh tôi nghe được ... còn làm đến đâu thì tuỳ, kiếp này ko làm còn vô lượng kiếp, đâu có chi vội vã.
5. Tôi muốn chia sẻ ý mình với mọi người, không chê ai, không phủ định ai, không khuyên ai phải làm gì ... tôi muốn nói về tôi để mọi người thấy một chút về tôi ... tôi thấy mình học qua quan sát, chiêm nghiệm chứ học trực tiếp từ lời dạy bảo, khuyên can, tranh cãi thì chưa nhiều.
Gud luck to all!
Xin mời Quý Đạo Hữu xem
BÀI 2: KHÚC GỖ TRÔI SÔNG
Không Tranh - Không Tham - Không Truy Cầu - Không Ích Kỉ - Không Tự Lợi - Không Nói Dối
Phần 1:
http://www.youtube.com/watch?v=o2vEab_QAzY
Phần 2:
http://www.youtube.com/watch?v=EwXiWuHR6UY
Phần 3:
http://www.youtube.com/watch?v=ssA6yeAb2Ok
Phần 4:
http://www.youtube.com/watch?v=ZhWyyWddle8
Phần 5:
http://www.youtube.com/watch?v=Jf2Cc-bN5kc
Phần 6:
http://www.youtube.com/watch?v=AqGgZgy6rtI
Phần 7:
http://www.youtube.com/watch?v=WKVe9NF0FF8
Trích http://www.quangduc.com/kinhdien-2/3...anhbatnha.htmlTrích dẫn:
B) NGUỒN GỐC KINH BÁT NHÃ
Kinh Đại Bát Nhã đã được chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng nói, trải qua nhiều pháp hội, tại bốn đạo tràng lớn: núi Linh-thứu, tu viện Kì-viên, cung trời Tha-hóa-tự-tại, và tu viện Trúc-lâm. Đại sư Trí Khải của tông Thiên Thai (Trung-quốc) đã y cứ vào nội dung kinh điển mà phân loại và hệ thống hóa các thời giảng pháp của đức Phật. Ngài đã phân chia thời gian bố giáo của đức Phật (theo thuyết cũ là 49 hay 50 năm) làm năm giai đoạn, trong đó, kinh hệ Bát Nhã thuộc giai đoạn thứ tư -- gọi là “Bát Nhã Thời” -- chiếm một thời gian dài đến 22 năm.
Nhưng, vì nguyên do gì mà đức Phật nói kinh này? Trong bộ luận Đại Trí Độ, Bồ-tát Long Thọ đã đưa ra những nguyên do sau đây:
- Vì muốn chỉ dạy đầy đủ về Bồ-tát hạnh mà đức Phật nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì muốn giúp cho các vị Bồ-tát được tăng thêm lợi ích trong công phu tu tập pháp môn “Niệm Phật Tam Muội”, mà đức Phật nói kinh Đại Bát Nhã.
- Sau khi thành đạo dưới gốc cây bồ đề, vì chuẩn hứa sự ân cần khuyến thỉnh của chư thiên, và cũng vì nhớ đến tâm nguyện đại từ đại bi của mình, nên đức Phật đã quay bánh xe pháp; và chính vì “Bát nhã ba la mật” là pháp sâu xa nhất trong các pháp, cho nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì trong thế gian có kẻ hoài nghi, cho rằng Phật đã không chứng được “nhất thiết trí”, để hóa giải mối nghi ngờ này, đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Có nhiều chúng sinh bị tà sư mê hoặc, tâm đắm chìm trong tà pháp, không vào được chánh đạo; đức Phật muốn chỉ bày thật tướng của vạn pháp để đoạn trừ tất cả mọi nghi kết của chúng sinh, cho nên đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Có nhiều người tâm đầy tà ác, tật đố, phỉ báng đức Phật là người có trí tuệ không ra khỏi trí tuệ của loài người, chỉ khéo dùng huyễn thuật để mê hoặc người đời. Để hóa giải những lời phỉ báng ấy, và đồng thời để giúp mọi người tin nhận chánh pháp, vượt thoát lưới tà kiến, diệt trừ kiết sử, được an vui tự tại, cho nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Cũng có người nghĩ rằng, Phật cũng như mọi người, cũng có sinh tử, cũng có lúc chịu đói khát, cũng bị lạnh bị nóng, cũng phải già bệnh, v.v… Để dứt trừ những ý nghĩ đó, đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Có rất nhiều người mang kiến chấp cực đoan, hoặc chuyên cầu khoái lạc, hoặc chuyên khổ hạnh hành xác; Phật vì hóa độ cho những hạng người này, đưa họ vào Trung Đạo, nên đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Để phân biệt quả báo cúng dường sinh thân và pháp thân, mà đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì muốn giảng thuyết về những pháp như “bất thối chuyển, ma huyễn, ma ngụy, ma sự”; lại muốn thọ kí cho hàng Tam thừa, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì muốn giảng thuyết về “đệ nhất nghĩa tất đàn” (tất đàn trong ý nghĩa tuyệt đối), nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì muốn hàng phục các nhà đại nghị luận (như trường hợp phạm chí Trường Trảo), mà đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì muốn chỉ rõ thật tướng của các pháp, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì muốn nói những pháp không có chỗ tranh cãi, cũng như những pháp môn gồm hai phần tương đối như: có tướng -- không tướng; có vật -- không vật; có y cứ -- không y cứ; có trên – không trên; thế giới – chẳng phải thế giới, v.v…, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì muốn chỉ rõ tướng các pháp không phải thiện, không phải bất thiện, không phải vô kí; cũng như các pháp môn có ba phần như: pháp học – pháp vô học – pháp phi học phi vô học; pháp do kiến đế đoạn – pháp do tư duy đoạn – pháp không đoạn; pháp thượng – trung -- hạ; pháp tiểu -- đại – vô lượng, v.v…, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
- Vì muốn phá bỏ các pháp phương tiện đã nói ở các kinh khác như: Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Thiền, Bốn Đế, Năm Uẩn, v.v…, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.
Trích http://www.quangduc.com/kinhdien-2/3...anhbatnha.htmTrích dẫn:
Bộ kinh Đại Bát Nhã không phải đã được kết tập một lần, mà đã được hình thành trải qua nhiều đợt kết tập khác nhau. Về thời điểm kết tập, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào xác định niên đại chính xác, mà chỉ biết rằng, trong số các kinh làm thành hệ Đại Bát Nhã, kinh Đạo Hạnh Bát Nhã (tức Tiểu Phẩm Bát Nhã) đã xuất hiện sớm nhất; tiếp đến là kinh Đại Phẩm Bát Nhã; rồi sau nữa là các kinh khác trong hệ Bát Nhã.
- Đạo Hạnh Bát Nhã là tên bản kinh Hán dịch của ngài Chi Lâu Ca Sấm, dịch từ bản Phạn văn là kinh Astasahasrika-prajnaparamita (Bát Thiên Tụng Bát Nhã). Kinh này đã xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ thứ 2 TL, được ngài Trúc Phật Sóc (?-?), người Ấn-độ, mang đến Lạc-dương (Trung-quốc) vào cuối đời vua Hán Hoàn Đế (147-167), và được ngài Chi Lâu Ca Sấm (Locasema – 147-?, người nước Đại-nhục-chi, đến Trung-quốc năm 167) dịch ra Hán văn vào năm 179. Đây là bản Hán dịch xưa nhất của kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã, mà cũng là bản kinh đầu tiên trong hệ thống Đại Bát Nhã tại Trung-quốc. Năm 257, kinh Đạo Hạnh Bát Nhã này đã được ngài Chu Sĩ Hành (203-282 -- người Hán đầu tiên được xuất gia làm tăng, và cũng là vị tăng Trung-quốc đầu tiên sang Tây-vực cầu pháp) giảng thuyết lần đầu tiên tại Lạc-dương. Đến đời Tam-quốc (220-280), cư sĩ Chi Khiêm (?-?, người nước Nhục-chi, đến Trung-quốc năm 220), hành đạo tại nước Đông Ngô (222-280), lại dịch kinh này với tên mới là Đại Minh Độ Vô Cực Kinh. Đến đời Tiền Tần (351-394), kinh này lại được hai ngài Đàm Ma Bì (Dharma-priya -- người nước Kế-tân), và Trúc Phật Niệm (người Cam-túc, Trung-quốc) cùng dịch với tên mới là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Sao Kinh. Đến đời Hậu Tần (384-417), ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva – 334-413 - người nước Qui-tư) lại dịch kinh này với tên mới là Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Sang đời Đường (618-907), ngài Huyền Trang, khi dịch toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (gồm cả thảy 16 hội, 600 quyển), đã dịch lại cả kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã này, và đặt thành “Hội (hay Phần) Thứ Bốn” (Đệ Tứ Hội, hay Đệ Tứ Phần), gồm từ quyển 538 đến quyển 555. Đến đời Bắc Tống (960-1279), kinh này lại được ngài Pháp Hiền (?-1001, người Trung Ấn, đến Trung-quốc năm 973) dịch với tên mới là Phật Mẫu Bảo Đức Tạng Bát Nhã Ba La Mật Kinh; kế đó, ngài Thi Hộ (?-? -- người Bắc Ấn, đến Trung-quốc năm 980) lại dịch với tên mới là Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh. Lại nữa, khi viết về sự nghiệp hành đạo của ngài Khương Tăng Hội (một vị cao tăng của Phật giáo Việt-nam sống vào thế kỉ thứ 3 TL), hòa thượng Nhất Hạnh cho biết: “Theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, ông cũng đã dịch Ngô Phẩm (tức Bát Thiên Tụng Bát Nhã hay Đạo Hành Bát Nhã) là kinh bản xuất hiện sớm nhất trong số các kinh Bát Nhã. Như thế, Phật Giáo Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ ba đã hoàn toàn là Phật Giáo đại thừa, ……” Theo sách Cao Tăng Truyện (của Phật giáo Trung-quốc) thì ngài Khương Tăng Hội đã từ Giao-châu (tên nước Việt-nam thời xưa) sang Đông Ngô vào năm Xích-ô thứ 10 (tức năm 247, hay giữa thế kỉ thứ ba). Vậy, ngài đã dịch kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã ra Hán văn (với tên là Ngô Phẩm) vào đầu thế kỉ 3 tại Giao-châu, trước khi sang Đông Ngô hành đạo; rất tiếc là bản kinh Ngô Phẩm này ngày nay đã thất truyền.
- Đại Phẩm Bát Nhã là tên bản kinh Hán dịch của nguyên bản tiếng Phạn Pancavimsati-sahasrika-prajnaparamita (Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã), do ngài Cưu Ma La Thập dịch; cũng gọi là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Xét về lai lịch kinh này, thật có điều lí thú. Nguyên là, khoảng thập kỉ thứ ba của thế kỉ 3 TL, sau khi bản kinh Hán dịch Đại Minh Độ (tức tên khác của kinh Đạo Hành Bát Nhã nói trên) của cư sĩ Chi Khiêm xuất hiện ở Đông Ngô, thì phong trào nghiên cứu Bát Nhã Học nở rộ ở Trung-quốc (lúc đó là thời đại Tam-quốc, gồm ba nước Tây Thục, Bắc Ngụy và Đông Ngô). Năm 260, ngài Chu Sĩ Hành (203-282, người ở Bắc Ngụy), đã khởi chí sang Tây-vực để tìm cầu các bản kinh Phạn ngữ. Ngài đến và ở tại nước Vu-điền (Ku-stana, nay là đất Hòa-điền, nằm ở Tây bộ xứ Tân-cương), đương thời là nơi lưu hành rất nhiều kinh điển tiếng Phạn. Tại đây, ngài sao lại được bản kinh Pancavimsati-sahasrika-prajnaparamita (Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã). Năm 282, trước khi viên tịch, ngài đã sai đệ tử là Phất Như Đàn mang bản kinh ấy về Lạc-dương. Năm 291, đời Tây Tấn (265-316), ngài Vô La Xoa (người nước Vu-điền) và cư sĩ Trúc Thúc Lan (người gốc Thiên-trúc, sinh tại Trung-quốc) đã đem bản kinh Phạn ngữ (do Chu Sĩ Hành sao chép và do Phất Như Đàn mang về) này dịch ra Hán văn, gọi tên là Phóng Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh; đến năm 303, Trúc Thúc Lan cùng với Trúc Thúc Tịch hiệu khám lại, kinh này mới được hoàn chỉnh và lưu hành. Sau Phất Như Đàn, năm 286, ngài Kì Đa Mật, cũng người Vu-điền, lại mang vào Trung-quốc Phạn bản của kinh Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã; gặp cơ duyên, ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa - người gốc Nhục-chi, sinh ở Đôn-hoàng, đến Trường-an năm 265) đã dịch bản kinh Phạn ngữ này ra Hán văn ngay năm đó (286), với tên là Quang Tán Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Vì vậy, bản Phạn ngữ của Chu Sĩ Hành vào Trung-quốc trước mà bản Hán dịch (Phóng Quang Bát Nhã) lại ra đời sau; còn bản Phạn ngữ của Kì Đa Mật tới Trung-quốc sau mà bản Hán dịch (Quang Tán Bát Nhã) lại ra đời trước. Đại Phẩm Bát Nhã (hay Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh) của ngài La Thập là bản Hán dịch thứ ba (vào đời Hậu Tần – 384-417) của kinh này. Đến đời Đường (618-907), ngài Huyền Trang lại dịch kinh này, và đặt thành “Hội Thứ Hai” (Đệ Nhị Hội) trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.
- Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật (Pravara-deva-raja-pariprccha) đã được ngài Cầu Na Bạt Đà (người Vu-điền) mang vào Trung-quốc năm 548, và đến năm 565 thì được ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Upasunya -- người Trung Thiên-trúc, hoàng tử của vua nước Ưu-thiền-ni) dịch ra Hán văn với tên như trên. Đến đời Đường, ngài Huyền Trang đã dịch lại kinh này, và đặt thành “Hội Thứ Sáu” (Đệ Lục Hội) trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.
- Bản kinh Phạn ngữ Saptasatika-prajnaparamita (tức Thất Bách Tụng Bát Nhã) được ngài Mạn Đà La Tiên (Mandra -- người nước Phù-nam, tức nước Cao-miên ngày nay) mang đến Trung-quốc năm 502 đời Lương Võ Đế (502-549), và qua năm sau (503) thì dịch ra Hán văn với tên là Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Ngài Tăng Già Bà La (Sanghapala – 460-524), cũng người nước Phù-nam, đến Trung-quốc trước đó vào thời Nam Tề (479-502), khi ngài Mạn Đà La Tiên sang thì hai vị cùng cộng tác để dịch kinh. Trong lúc ngài Mạn Đà La Tiên dịch kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh (2 quyển), thì ngài Tăng Già Bà La cũng dịch kinh này với tên Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Kinh (1 quyển). Đến đời Đường, kinh này lại được ngài Huyền Trang dịch lại, đặt thành “Hội Thứ Bảy” (Đệ Thất Hội), gọi là “Mạn Thù Thất Lợi Phần”, trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.
- Đời Lưu Tống (420-4479), ngài Tường Công ở quận Nam-hải (Quảng-châu) dịch kinh Nhu Thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phần Vệ (Phạn ngữ có 400 bài tụng); đến đời Đường, ngài Huyền Trang dịch lại, đặt thành “Hội Thứ Tám” (Đệ Bát Hội), gọi là “Na Già Thất Lợi Phần”, trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.
- Bản Phạn ngữ kinh Vajracchedika-prajnaparamita (Kim Cang Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Đa), không biết được mang vào Trung-quốc từ năm nào, chỉ biết bản Hán dịch xuất hiện đầu tiên vào đầu thế kỉ 5, với tên Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, là của ngài Cưu Ma La Thập (334-413). Bản dịch thứ hai, cũng cùng tên Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, là của ngài Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci -- người Bắc Thiên-trúc, đến Lạc-dương năm 508), đời Nguyên Ngụy (471-550). Bản dịch thứ ba cũng cùng tên, được dịch vào đời Trần (557-589), do ngài Chân Đế (Paramartha – 449-569, người Bắc Thiên-trúc, đến Trung-quốc năm 546). Bản dịch thứ tư có tên Kim Cang Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Kinh, do ngài Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta -- ?-619, người Nam Ấn, đến Trường-an năm 590) dịch vào đời Tùy (581-619). Đến đời Đường, ngài Huyền Trang (602?-664) dịch lại kinh này, đặt thành “Hội Thứ Chín” (Đệ Cử Hội), gọi là “Năng Đoạn Kim Cang Phần”, trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. Sau đó, ngài Nghĩa Tịnh (635-713) lại dịch kinh này với tên Phật Thuyết Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh.
- Bản kinh Phạn ngữ Prajnaparamita-naya-satapancasatika (Nhất Bách Ngũ Thập Tụng Bát Nhã) đã được ngài Huyền Trang (đời Đường) dịch và đặt thành “Hội Thứ Mười” (Đệ Thập Hội), gọi là “Bát Nhã Lí Thú Phần”, trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La mật Đa. Sau đó, cũng vào đời Đường, ngài Bồ Đề Lưu Chí (Bodhiruci – 562-727, người Nam Ấn, đến Trường-an năm 693) cũng dịch kinh này với tên Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Kế đó, kinh này lại được ngài Kim Cang Trí (Vajrabodhi – 671?-741, người Nam Ấn, đến Trung-quốc năm 719) dịch với tên Kim Cang Đảnh Du Già Lí Thú Bát Nhã Kinh; rồi ngài Bất Không (Amoghavajra – 705-774, người Nam Ấn, theo thầy là Kim Cang Trí đến Trung-quốc năm 719) cũng dịch kinh này với tên Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam Ma Da Kinh. Sang đời Bắc Tống (960-1279), ngài Pháp Hiền cũng dịch kinh này với tên Tối Thượng Căn Bản Kim Cang Bất Không Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh; rồi ngài Thi Hộ lại dịch kinh này với tên Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật Kinh.
Nguyên bản tiếng Phạn của tất cả 7 bản kinh vừa nêu trên, ngoại trừ bản kinh sau cùng, 6 bản kinh trước đều đã được đưa vào Trung-quốc và được dịch ra Hán văn trước thời đại ngài Huyền Trang. Bản chữ Phạn của bản kinh sau cùng vừa nêu trên (tức “Hội Thứ Mười” trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa), có thể đoán chắc rằng, nó đã được chính ngài Huyền Trang mang từ Ấn-độ về. Cũng vậy, nguyên bản tiếng Phạn của những kinh còn lại mà ngài Huyền Trang đã dịch để hình thành toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (tức các kinh được xếp vào các Hội 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15, và 16), cũng đã được chính ngài mang về từ đất Ấn. Có thể nghĩ rằng, sau khi từ Ấn-độ về nước, có bao nhiêu loại kinh thuộc hệ Bát Nhã hiện có mặt ở Trung-quốc, ngài Huyền Trang đều thu thập lại, những kinh nào ngài mới mang về thì dịch mới, những kinh nào đã được các vị tiền bối dịch từ trước thì dịch lại, rồi sắp xếp làm thành bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, gồm 16 hội, 600 quyển. Như vậy, bộ kinh này của ngài Huyền Trang dịch là một tập đại thành của Bát Nhã căn bản và Bát Nhã tạp bộ -- căn bản là kinh Đại Phẩm Bát Nhã; tạp bộ là các kinh còn lại.
Tuy nhiên, thuộc kinh hệ Bát Nhã trong Hán Tạng, có kinh Phật Thuyết Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật, do ngài La Thập dịch từ trước vào đời Hậu Tần, nhưng không thấy ngài Huyền Trang nhắc tới. Kinh này, sang thế kỉ 8, ngài Bất Không dịch lại với tên Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh.
Bản kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamita-hrdaya-sutra) do chính ngài Huyền Trang dịch cũng không thấy đưa vào bộ kinh Đại Bát Nhã. Có lẽ, vì đó là bản kinh toát yếu của toàn bộ tư tưởng Bát Nhã, không thuộc riêng một Hội hay một Phẩm nào, nên ngài Huyền Trang đã để nó đứng riêng một mình. Kinh này, trước đó đã được ngài La Thập dịch (thế kỉ 4) với tên Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh; ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch (thế kỉ 6) với tên Bát Nhã Ba La Mật Đa Na Đề Kinh. Sau ngài Huyền Trang, cũng thuộc đời Đường, kinh này lại được ngài Pháp Nguyệt dịch với tên Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh; hai ngài Bát Nhã và Lợi Ngôn dịch chung với tên Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh; ngài Trí Tuệ Luân dịch với tên Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh; ngài Thi Hộ (đời Tống) dịch với tên Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh.
Do tình hình dịch kinh Đại Bát Nhã như vừa trình bày trên, chúng ta có thể thấy, bộ kinh Đại Bát Nhã do ngài Huyền Trang dịch và được thu vào Hán Tạng, nguyên thỉ đã không phải là một bộ kinh thuần nhất với thuận tự mạch lạc xuyên suốt từ đầu đến đuôi, mà là một tập đại thành của nhiều bản kinh rời rạc nhưng cùng chứa đựng tư tưởng Bát Nhã. Những bản kinh này không phải đã được kết tập tại một nơi nhất định nào, do một tập thể chư tăng nhất định nào, mà chúng đã được kết tập rải rác, trải qua thời gian lâu dài từ đầu thế kỉ 2 TL; không những ở vùng Nam Ấn, mà còn ở khắp mọi địa phương, nhất là Bắc Ấn. Và cũng nhờ cơ duyên tốt lành, các kinh ấy, sau khi được kết tập và lưu hành ở Ấn-độ, thì chúng cũng liền được truyền sang Đông độ; nhờ vậy mà chúng được bảo tồn, tránh khỏi thảm họa bị tiêu diệt bởi quân Hồi giáo khi họ xâm lăng Ấn-độ từ cuối thế kỉ 10 TL. Các kinh bản Phạn ngữ ấy đã được mang đến Trung-quốc bằng hai đường: đường bộ từ Bắc Ấn-độ qua ngả Tây-tạng, Vu-điền, Tân-cương; đường thủy từ miền duyên hải Đông Nam Ấn-độ qua Ấn-độ dương, xuyên qua Java, Mã-lai, Phù-nam, Giao-châu; và cũng không phải đã do chỉ một vài người mà do rất nhiều vị cao tăng đem vào, trong số đó, nhiều nhất, đáng kể nhất, chắc hẳn là số lượng kinh bản do ngài Huyền Trang đích thân mang về sau 17 năm (629-646) tu học ở Ấn-độ. – Như ta biết, qua tác phẩm Đại Đường Tây Vực Kí, khi sang Ấn-độ, ngài đã có thuận duyên, hầu như được đi khắp xứ Ấn-độ, nhất là những địa phương có cộng đồng Phật giáo thì ngài đều không bỏ sót. Đến đâu ngài cũng được đón tiếp nồng hậu, và chắc chắn là ngài đã có được cơ duyên thu thập kinh điển tại mỗi nơi ngài đã đặt chân tới.
Đây là bài có thể dùng để kết thúc chủ đề nầy.
Ta cần biết Kinh Phật có giúp ta pháp hành hay không, có giúp ta giản nghiệp tham sân si hay không, có giúp ta sống an vui trong cùng cảnh đó người thường xem là khổ hay không, nếu có thì đó là Kinh Phật, Kinh Phật có nghĩa là "sách dạy ta giác ngộ" chữ Phật là giác.Ta cũng có thể biết Kinh đó không phải Kinh Phật khi trong đó truyền sự mê tín, mong cầu tiền bạc vật chất, cầu khẩn thần linh , mong cầu sự linh ứng mà chẳng hề dựa vào bất cứ quy luật hay bổn nguyện của bổn tôn nào.
Ngoài ra hãy nhớ lời Phật dạy :
Bạn người mù có thể tin chỉ có một mình Phật Thích Ca, còn người khác có thể tin có Đức A Di Đà và 48 bổn nguyện của Người. Bạn có thể tin con người không có linh hồn, chết là hết , không còn gì cả, cũng chẳng có nghiệp quả gì mang theo sau khi chết, cũng chẳng có luân hồi chuyển kiếp gì hết; còn người khác vẫn tin có linh hồn, chết là còn phải mang theo nghiệp tùy duyên nghiệp mà luân hồi....Trích dẫn:
” Đừng tin tưởng vào một điều gì vì phong văn. Đừng tin tưởng điều gì vì vin vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều gì vì cớ được nhiều nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vin vào uy tín của các thầy dạy các người. Nhưng chỉ tin tưởng cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho mình và người khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ chuẩn”.
Tăng Chi Bộ Kinh
(The Anguttara Nikaya/The "Further-factored" Discourses)
Nếu Thầy Thích TL mà giỏi ngang bậc Arahan, thì ông không tò tò đi sau vị Pháp Vương Drupa, ông phải mạnh dạn mà nói rằng:
- Nầy Drupa, ta là người đã được TT Thích Thanh Từ chứng cho ta quả Arahan đây, ngươi chưa được ông nầy chứng, vậy ngươi phải để ta đi trước ...
Thôi nhé nguoimu, hãy chọn các lời dạy tốt nhất để tu thân -tu nhân- tu giải thoát cho mình và cho người , đó là Kinh Phật, ta cũng chẳng có thời gian mà độ cho ngươi, ta phải đi phóng sinh và độ cho mấy con gián chết sau hè đây.
Mọi lời nói của nguoimu ta sẽ không còn muốn trả lời, vì cả ta và ngươi cũng chẳng sống ở thời Phật còn tại thế làm sao biết Kinh nào thật Kinh nào giả, ngay cả Phật còn nói : Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân(với ngụ ý dùng là Phật nói đi nữa!), thì các Kinh Pali đã nêu ở trên cũng có thể là giả Kinh, chỉ có điều duy nhất, Phật giúp ta pháp Hành, đọc Kinh nào trích ra được pháp hành thì đó là Kinh Phật (hiểu theo nghĩa Phật là Giác) còn có thật là Phật Thích Ca thuyết hay không há có ích gì? Chẳng lẽ nghe lời Phật thuyết mà thành Phật hay sao. Ta thấy Tâm ngươi còn lăng xăng lắm , nên niệm Phật đi nghe!
Cuối cùng, ta cầu cho mọi chúng sinh loài sống trên bờ, hay dưới nước đi ngang qua máy tính của nguoimu đọc được những lời nầy thảy đồng giác ngộ, gặt hái được quả lành có kết quả làm người , cùng quả niết bàn , tất cả đồng thành chánh giác.
sa thú, Lành thay!
Aum A Hum
Những gì bạn nói chả ăn nhập gì đến 21 năm đầu tiên Đức phật thuyết kinh Kim Cang và Bát Nhã mà bạn đã nói lúc đầu. Tôi chỉ tin Nghiệp đi tái sanh luân hồi, chứ không có cái Linh hồn nào hết. Ông phật A di đà có hay không tôi chẳng biết, nhưng cái kiểu tu hành khi chết được về Tây phương Cực Lạc thì đối với tôi nó quá là mơ hồ, sống còn chả biết tu hành thế nào có nên cơm cháo gì không, nói gì chết.
A Di Đà Phật!
Đúng là không nói không được.
TTL "thuyết" rằng :"...con người khi chết đi sẽ lại làm người, người nào có tu ở kiếp này thì kiếp sau sẽ làm ông đồng, bà cốt..." Rõ ràng là một cái vòng luẩn quẩn, chẳng có một chút gì gọi là đạo Phật, là sự giải thoát rốt ráo cả. Vậy mà có kẻ còn mù quáng tin vào những lời đó thì sắp tới lại sinh ra vài TTL nữa.
Xem cái video này mà chưa tỉnh ngộ thì chẳng còn gì để nói.
http://www.youtube.com/watch?v=A3cHcGOZmd8
Thêm cái nữa cho tỉnh luôn đi
http://www.youtube.com/watch?v=4Kw0G3RvZmg
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Đoạn cuối của video nầy , ai không nghe rất uổng một đời, Vietnamese niệm A Di Đà Phật là ông đang chửi Phật đó nghe.
Thiệt tình cái ông nầy, vậy niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là chữi Phật Thích ca sao Ngài?
Những người Niệm Phật tam muội vãng sanh đều biết trước ngày chết và để lại xá lợi, còn ông nầy chắc có xá lị đây.
Vậy mà ông tò tò theo sau Pháp Vương Drupa, Pháp Vương nầy truyền pháp liên hoa quán âm tứ thủ cho mọi người, sao lúc đó ông không lên nói không có Phật Quán Âm đi ông?
Đoạn cuối của video clip đầu mới thật hay, TTL cho rằng :mọi chúng sinh đều thành người khi đầu thai, cái gì đi đầu thai, ông nói nghiệp đi đầu thai, người nam có tu thành thầy pháp, người nữ có tu thành bà đồng. Địa ngục không có , mà địa ngục chính là trần gian nầy đây.
Vậy kiếp sau thầy TTL thành thầy pháp hay bà đồng?
Tôi xin sám hối vì tạo khẩu nghiệp, từ nay trở đi thấy nguoimu ở đâu là né tránh khỏi chổ đó he.
Nếu bạn cho là có cảnh giới Địa ngục là nơi để trừng phạt các linh hồn, cảnh giới Thiên đường cực lạc để sau khi chết linh hồn được hưởng sung sướng vậy các linh hồn lang thang bạn giải thích thế nào khi những linh hồn ấy không đi tái sinh đầu thai (làm người, làm thú v.v...). Nhắc lại với bạn là Đạo phật không chấp nhận có cái gọi là linh hồn bất biến, trường tồn. 33 cõi trời là cõi tưởng hay có thật? Đức phật có nói những gì có hình tướng là có sinh diệt đúng không bạn?, cái mà bạn gọi là linh hồn ấy theo tôi chỉ là sóng từ trường của người chết còn lưu lại mà khi bạn tu tập thiền định đến một lúc nào đó sóng não của bạn bắt được những tần số rung động ấy thì bạn cảm được thôi, nó cũng giống như cái ăng ten bắt sóng tivi vậy. Về đọc kỹ lại Ngũ uẩn và Thập nhị nhân duyên nhé bạn.