3.6 Cầu Mưa
Trời nắng lâu ngày mà không mưa, sơn môn (chùa) phải yết bảng cầu mưa. Sau đây dựa theo Kinh Đại Vân Luân cầu mưa. Cần lưu ý: lập đàn tràng nên chọn nơi sạch sẽ, đủ rộng cho số người tham dự. Cấu trúc đàn tràng sao cho thích hợp, trang nhã đẹp mắt; trên bàn bày biện hoa quả, lễ phẩm và hương đèn xoay về hướng đông; các bàn phía tây, nam, bắc cũng tương tự. Như vậy đều cúng long vương một thân 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu hay 9 đầu. Bốn góc đàn tràng, mỗi góc cắm 7 lá phan màu xanh; mỗi bàn có bình hoa, dĩa quả, đèn dầu. Chung quanh đàn lấy chiếu làm tường, bốn bên có 4 cửa, mỗi bên có 2 lối đi cho long hộ vệ lấy đó làm ranh giới. Kinh ghi rằng hoặc lấy tro hay mực làm ranh giới mà ngày nay thường dùng mấy thứ này thay thế. Đầu rồng hướng ra phía cửa mà đuôi uốn lượn hợp với bụng nó. Ngoài cửa có che cũng lấy chiếu làm ranh, chọn một vị cao tăng trì giới đức hạnh làm chủ đàn; chư tăng cũng lựa người giới hạnh thanh tịnh để tụng kinh mới có hiệu quả tốt.
Ngoài ra, cũng phải cắt đặt 2 người thị giả lo chăm sóc hương đèn, châm nước cúng và những lúc cần… như Kinh có ghi rõ. Nhất là trong thời gian Chùa cử hành lễ cầu nguyện, ngày đêm phải nghiêm tịnh, chí thành tụng kinh, niệm chú đến một tuần, 2 tuần, hay đến 3 tuần; tự nhiên được cảm ứng tới chư thiên và lòng thành được thành tựu như ý nguyện.
Chứng nghĩa giải rằng: nói một cách tổng quát, đàn dùng đất vàng thế trâu, núi tai trâu. Trâu núi tức giống bạch ngưu ở dãy Himalaya, chúng ăn toàn cỏ thơm ở núi tuyết, mở chúng có mùi thơm có thể dùng được. Những giống trâu khác đều hôi hám không nên dùng. Ở phương đông chúng ta không thể lấy được loại hương này nên dùng đất vàng sạch thay thế. Theo Kinh Trang Nghiêm ghi rằng: màu xanh, sắc xanh án hướng bắc, màu đen là lấy nước công đức vậy. Ngoài ra, nói một khủy tay mà ngày nay tương đương một mét; 3 khủy tay tức 3 mét vậy.
Kế nói về hình long vương ở bốn bên đàn tràng. Hình long vương vẽ trên bình phong, tấm bình phong cao 2m60, rộng 1m60. Bình phong treo cao 1m20, ở giữa dùng lụa mỏng bồi (dán) chắc chắn. Các hướng khác theo Kinh chỉ dẫn hình vẽ, số đầu rồng nơi tranh vẽ. Tại hướng đông, rồng 1 thân 3 đầu; hướng Nam, 1 thân 5 đầu; hướng Tây 1 thân 7 đầu; hướng Bắc 1 thân 9 đầu và cùng với quyến thuộc chúng vây chung quanh phía dưới là biển sóng, trên có mây bay. Quyến thuộc long vương rất đông không thể vẽ hết. Nên mỗi phương chỉ vẽ 4 quyến thuộc đứng 2 bên tả hữu; số đầu rồng y theo Kinh mà vẽ.
Kế tiếp, Kinh nói về tấm màn. Tấm màn ở giữa đàn tràng hướng về Đông che tòa cao, bề ngang bề rộng 2 trượng, chu vi 9m, giữa nhô lên như mái nhà. Màn này may bằng vải xanh, chống chỏi dùng trụ gỗ sơn đen. Vã lại màu làm cho đen, buộc vải 4 góc thả thòng xuống đất; riềm của 4 phía đều rủ châu anh lạc thanh tịnh trang nghiêm, rực rỡ như châu báu vậy.
Kế tiếp nói về bàn của chủ đàn: chủ đàn là vị tăng, bàn xoay hướng Đông. Bàn có một chỗ ngồi lấy gỗ đóng, thiết chỗ tòa cao 4 bàn nhỏ cao 2m60, vuông 3m dùng vải xanh trải để Kinh lên trên rồi dùng miếng vải xanh đậy Kinh lại, khi nào tụng hẳn giở ra. Chỗ ngồi cao 1m60, vuông 2m; chiếu trải ngồi dùng đệm xanh lót lên trên.
Kế nói tới thứ tự 2 bàn ngồi: thứ tự 2 bàn sắp đặt 2 bên chủ đàn nhìn qua 2 phía, Nam Bắc đối diện hoặc cả 4 bên, tùy số người mà bàn cao 9cm, vuông 2m cũng dùng gỗ đóng để Kinh có phủ vải giống như bàn chủ đàn. Chỗ ngồi dưới đất trải đệm xanh vuông vức 2m.
Kế là hương đèn hoa quả: một thảo lư dùng dâng hương (niệm hương), một cặp đèn dùng đèn cầy đốt. Trước bàn để một lư trầm dùng hương bột, hương xông đốt cho thơm hoặc dùng trầm để ở 2 bàn xông hương. Nói chung các loại hương thơm phải có thị giả luôn luôn theo dõi ngày đêm không cho tắt để tỏ lòng thành kính. Bốn bình hoa để ở bốn góc đàn tràng trước các cây đèn. Bình phải tương xứng không lớn quá cũng không nên nhỏ quá và để nước bên trong vừa phải để giữ hoa lâu tàn. Dùng nước thuốc xịt cho hoa tươi tắn cũng như rảy nước sương sương lên hoa. Mỗi ngày chế châm thêm nước hoặc có thể đem ra ngoài thoáng khí nếu để cách đêm. Làm vậy làm cho hoa tươi tốt không héo, làm cho long thiên quỷ thần hoan hỷ.
Kế nói tới quả: mỗi lần cúng chọn 5 loại trái cây khác nhau để hợp với ngũ hành (5 thứ lưu hành) trong trời đất. Dĩa quả lớn nhỏ tùy vị trí và bàn thờ, miễn sao quả cho tươi tốt là được.
Kế nói về phan: phan dùng 28 lá trồng trụ chung quanh 4 góc đàn tràng: mỗi góc 7 lá, dùng vải xanh mới để may chiều dài 3m; cán dùng mực đen sơn, đầu cán gắn khoăn để treo.
Kế nói về cách đặt đèn: thông thường 28 ngọn đặt 4 bên đàn tràng, mỗi bên theo 7 lá phan làm chuẩn. Đèn còn tùy vị trí mà cở lớn nhỏ cho cân xứng. Trên mỗi đèn khắc chữ Long bên trong có đổ dầu, và ngày đêm giữ cho đèn cháy sáng mãi.
Bên trên nói về đàn pháp xong, kế nên dựa theo Kinh làm đúng pháp, Kinh ghi rằng: tôi nay có mặt tại hội này, mong tất cả các vua rồng nương vào đây vì muốn cầu mưa. Trước là triệu thỉnh các vị vào đàn; tăng chúng đều tắm rửa sạch sẽ, giữ giới thanh tịnh, tất cả trang nghiêm vào đàn. Chủ sám và 2 vị tả hữu sẵn sàng và Trụ Trì mặc áo xanh, đắp y màu xanh. Đến giờ mẹo (từ 5-7g sáng) vào chánh điện niệm hương, lạy Phật xong. Chủ sám cử tán:
Ngọc trời lồ lộ, biển giác sóng vàng,
Cõi thế giới ba ngàn phân đà tán,
Tam muội sạch làu,
Ít nhiều nước sáng,
Một giọt rạng sơn hà.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Tiếp theo cầm chén nước tịnh đọc vừa kiết ấn cam lồ:
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Đầu nhành liễu Bồ Tát cam lồ rãi
Một giọt tung trải khắp mười phương
Tanh hôi tẩy sạch dường lắng trong
Gia hộ đàn tràng được thanh lương
Lời mật ngôn ngưỡng mong trì tụng…
Chúng cùng tụng Chú Đại Bi (vị chủ sám đi xung quanh làm lễ sái tịnh; đi chậm rãi, trước đi trong chánh điện theo phía tay mặt ra tới ngoài cửa đi nhiễu một vòng, từ từ bước vô lễ đàn đi tới đàn trên đi nhiễu 3 vòng xong, trở lại chỗ. Chúng có thể tụng 3 biến Chú Đại Bi tùy theo vị trí rộng cở nào và thì gìờ nữa).
Chủ sám bắt lên: Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần). Chủ sám bước tới vào ngay chính giữa niệm hương bạch Phật, phía sau vị Trụ Trì cùng niệm hương xong, lui ra chỗ của mình, cùng đứng tán bài:
Ruộng cả đất cằn hạn hán gây nên
Dân chúng tinh thành cầu khẩn nào quên
Lúa mạ khô quèn kỳ nguyện ngày đêm
Mong cho khắp chốn được mát êm
Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Xong rồi xướng đảnh lễ: Nam Mô thập phương biến pháp giới thường trụ Tam Bảo (3 lần).
Pháp sư nhiếp tâm quán tưởng 10 phương chư Phật, chư đại Bồ Tát và long thiên thánh chúng đều dùng thiên nhãn trông thấy, thiên nhỉ lắng nghe, tha tâm thông rõ biết. Biết đây là nước Việt Nam, tỉnh, huyện, xã… lâu nay không mưa, vì đó mà theo đúng pháp lập đàn, theo Kinh triệu thỉnh các Ngài tới đây chứng minh gia hộ. Tưởng xong liền bạch:
Cung kính nghe rằng Như Lai diễn pháp
Thường dạy tụng Kinh triệu thỉnh trời mưa
Lòng từ cao hiển nghĩa cả chở che
Thiết tòa cao phô vẽ màu đất vàng
Chí thành sắp đặt pháp đàn
Đốt đèn nhang, lập tràng phan
Theo Kinh triệu thỉnh sẵn sàng
Nhờ đây khổ hết lạc an tái hồi
Rồng thiêng linh cảm tới nơi
Vẹt mây dâng nước người người hân hoan.
Nay đây tại Việt Nam…tỉnh, quận, xã… ngày… tháng… năm… trời nắng hạn đã lâu, ruộng lúa nửa khô sắp thành đồng không mông quạnh. Do vậy, y theo Kinh thiết lập đàn tràng cầu trời giáng mưa để cứu vớt muôn dân. Song chỉ sợ nghi tiết thất cách thiếu sót, tăng già giới đức kém nghiêm, cầu không đúng pháp khó mà đạt sự cảm thông. Tha thiết nghe Đại Luân minh chú hay trừ dứt lỗi này. Đại chúng chí thành cùng tụng chú Đại Luân Minh Vương 7 biến để an vị đàn nghi. Tụng 7 biến xong, pháp sư và đại chúng tụng kệ khai kinh, tán lư hương, tụng chú Đại Bi 21 biến. Xong, tiếp xướng thỉnh:
Nhứt tâm triệu thỉnh… long vương… mong mỏi dùng tha tâm thông, với thần túc thông; trên vâng lời Phật chỉ định, dưới thương xót chúng hữu tình mà đến tỉnh, quận, xã… sớm giáng cơn mưa. (Chú Đại Minh Luân Vương).
Thỉnh xong, sám chủ quỳ gối chấp tay bạch theo pháp đại từ trong Kinh và ban chú an lạc rồi; sám chủ và vị thầy đại diện lắc linh, đại chúng cùng tụng chú đại từ pháp và thí nhứt thiết lạc 3 lần. Sau đó sám chủ lễ thỉnh chư Phật:
Nhứt tâm phụng thỉnh hoặc Đa Bảo Như Lai, Bảo Thắng, Diệu Sắc Thân, Quảng Bác Thân, Ly Bố Úy, Cam Lồ Vương, A Di Đà Như Lai, hoặc thỉnh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai v.v.. Thỉnh xong, tiếp đọc:
Mong thay chư Phật Như Lai dùng từ lực vô duyên sắc xuống tỉnh, quận… sớm giáng trận mưa. Nếu đàn tràng có 54 vị nên chia làm 6 ban, mỗi ban 9 vị tuần tự thỉnh cho đến ban cuối thỉnh xong, vị sám chủ quỳ gối chấp tay, nhịp một hồi 3 tiếng khánh, đọc Kinh, trì chú, niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện…
Bài hồi hướng:
Cầu mưa công đức hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Khắp nguyện huyện, châu gặp hạn hán
Chóng được mưa nhuần thấm đượm sâu
Việc gấp như cứu lửa cháy đầu
Vì cầu tiêu chướng giáng mưa mau
Ngưỡng mong Tam Bảo, thiên long thảy
Thương xót chúng sanh hợp thời mưa
Mười phương ba đời Phật Như Lai
Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.
Tam tự quy đảnh lễ.