đánh dâu đọc sau,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
Printable View
đánh dâu đọc sau,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
CHƯƠNG MƯỜI
Acharya đến ngay vào lúc đồng hồ gõ 11 giờ như tôi nghĩ. Đầu tiên thầy bảo đưa ông xem bài ghi những kinh nghiệm tôi đã có trong tuần qua. Ông đọc chúng thật kỹ lưỡng trước khi nói. Trong Iúc đọc, nét mặt của ông lộ càng lúc càng rõ nét vui vẻ đối với những nỗ lực của tôi, nên tôi không ngạc nhiên chút nào khi ông bảo:
- Tôi phải khen ngợi anh về tất cả những gì đã làm trong bảy đêm qua. Để anh làm một mình trong giai đoạn huấn luyện sớm sủa này của anh là chơi trò may rủi, những kết quả chứng minh là tôi không nghĩ sai khi tin rằng anh sẵn sàng nhận lãnh một chút trách nhiệm, dù chỉ được huấn luyện trong một thời gian ngắn. Tôi rất vui đã được chọn làm vận cụ để giúp giảm bớt nỗi đau khổ thấy hết sức rõ khi chúng ta mới gặp nhau.
“Không có mấy điều cần nói về kinh nghiệm của anh vào đêm thứ hai. Xi nê hay được cư dân thường trực của cõi trung giới sử dụng, để cho thấy hình ảnh của những nơi đặc biệt họ muốn trưng ra với bạn bè, mà chẳng cần làm nặng trí nhớ không cần thiết về cảnh muốn tả. Dùng phim bằng hình chụp ở cõi tình cảm lại là phương pháp giản dị hơn nữa, miễn là người chiếu phim khi qua đời có hiểu biết kỹ thuật, kết quả sẽ giống hệt với xi nê chiếu ở cõi trần.
"Tôi hài lòng là anh ý thức rằng khó mà Charles muốn rời bỏ cảnh hắn hiện đang sống ở cõi trung giới, và sẽ ở đấy một lúc khá lâu.
"Rồi còn kinh nghiệm của anh vào đêm thứ tư khi tất cả cái anh nhớ là ác mộng. Anh hỏi Daphne là có có nhớ dự phần vào giấc mơ của anh chăng, và cô đoán chắc với anh rằng xem kỹ thì cô không can dự chút nào vào đó. Hãy an tâm là cô nói đúng, vì ở cõi tình cảm không có lúc nào mà cô mất ý thức và không chắc mình đã làm gì. Để anh có thể hiểu lời giải thích của tôi về sự việc này, tôi muốn anh nhớ lại một buổi nói chuyện trước. Khi đó tôi bảo rằng các vị toàn thiện hay Chân sư chỉ dạy đệ tử trong một số trường hợp. Tôi sẽ cho anh biết thật vắn tắt việc làm của những đệ tử này.
"Có hai hàng để tử, một là cấp Dự bị (Probationary) và cấp kia là Thực thụ (Accepted), sự khác biệt duy nhất giữa hai cấp là một khi đệ tử được Chân sư thực thụ nhận thì anh thuộc về nhân viên thường trực, và được sử dụng cho công việc này không phải chỉ trong kiếp hiện thời mà luôn cả sau khi chết và trong những kiếp tới. Người đệ tử dự bị được thử thách, chỉ sau khi anh đã làm việc với tư cách ấy có lẽ trong nhiều kiếp, anh mới được tiếp xúc thân cận hơn với vị Chân sư nào chịu thâu nhận để tử (không phí tất cả Chân sư đều nhận đệ tử). Người ta không hề bị ép buộc phải qua thử thách, vì ngay cả vị Chân sư cũng không có quyền can thiệp vào tự do ý chí mà mỗi một ai khi từ thú vật thành người được ban cho, tuy nhiên trước khi một người được dụng cho công việc bí truyền của những Đấng Cao cả, họ phải chứng tỏ là đã loại trừ hết tính sợ hãi trong lòng, và lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh thân mình cho lợi ích của công việc.
"Người đệ tử cần trải qua năm thử thách ở cõi tình cảm mà họ thường nhớ lại như là ác mộng hay giấc mơ. Tôi được cho phép nói với anh, là sự quyết tâm của anh nhằm khắc phục những khó khăn khi tìm hiểu cảnh sống ở cõi trung giới, đã được một trong các Chân sư để ý, và có thể là khi tới ngày giờ, anh sẽ được cho cơ hội phục vụ nhóm Huynh Đệ Chánh Đạo (White Brotherhood) mà ngài thuộc về. Nó có nghĩa có thể anh sẽ được chọn thành đệ tử dự bị. Giấc mơ anh có vào đêm thứ tư thật ra là thử thách nơi cõi trung giới, và anh đã thành công.
“Thử thách ấy nhằm chứng minh rằng quả thật anh kinh hãi quái vật giống như khỉ đột, thật ra nó là hình tư tưởng do vị Chân sư vừa nói tạo nên, nhưng anh lại sẵn sàng quên mình và nếu cần sẽ có hy sinh tới cùng, để bảo vệ cái chỉ là hình tư tưởng về Daphne mà lại hết sức thật đối với anh. Nếu vào lúc đó anh từ chối không gắng sức cứu cô, hẳn anh sẽ trả về thể xác sớm hơn và cũng vẫn nhớ ác mộng; nhưng trong trường hợp ấy anh thất bại và chứng tỏ với vị Chân sư theo dõi anh lúc bấy giờ, là anh không thích hợp và chưa tiến hóa đủ cho mục đích mà ngài dự định trong trí.
“Trong vài năm tới có lẽ anh sẽ thấy nhớ nhiều giấc mơ hơn nữa, gặp thêm thử thách ở cõi trung giới mà anh phải qua hết tất cả trước khi có đủ khả năng làm công việc đề nghị cho anh. Phàm ngã của anh biết rất ít về những việc này, nhưng con người thật tức chân ngã thông suốt điều gì xảy ra và tôi được biết là nó rất mong muốn tiến bước, được sử dụng để giúp đỡ nhân loại.
“Vì anh tỏ ra thích thú đối với chỉ dạy tôi đưa ra cho anh, tôi sẽ cho anh một khái niệm sơ sài về chuyện gì anh sẽ hoàn thành trước khi đủ tư cách làm phần việc đặc biệt này. Anh cần biết cách di chuyển mau lẹ và hữu hiệu trong mọi cảnh của cõi tình cảm. Anh phải biết hết tất cả về những sinh vật ở các cảnh thấp nơi đây, kể cả sinh vật có thân xác bằng chất ether như các tinh linh anh gặp dưới đáy biển, và anh phải được huấn luyện sao cho anh hưởng thôi miên do mắt của những sinh vật này không có tác động gì đối với anh.
“Có một thử thách về Iửa dưới hình thức trận cháy rừng dữ dội, anh phải đi băng qua đó không sợ hãi và không bước cuống cuồng. Nghe thì dễ mà khi làm thì không dễ. Sức nóng khủng khiếp mà anh cảm thấy trong thể tình cảm, thì y như sức nóng anh sẽ cảm thấy khi có trận cháy lớn tương tự ở cõi trần; nó sẽ dễ dàng làm anh kinh hoảng khiến anh nghĩ mình sẽ tiêu nếu tìm cách băng ngang qua đó. Một khi ý thức là đang ở trong thể tình cảm và không thể bị hại, anh sẽ bình tĩnh đi qua ngọn Iửa và như vậy thành công trong cuộc thử thách.
“Rồi có thử thách về nước, dạy cho anh cách du hành dưới đáy biển, anh sẽ ngạc nhiên thấy số học viên bị thất bại trong thử thách này. Họ bị lôi cuốn theo cảm giác sẽ chết ngộp, hoàn toàn do tưởng tượng mà dầu vậy vẫn sinh ra sợ hãi; nó làm họ quay trở về thể xác và khi tỉnh giấc, cho rằng mình có cơn mộng dữ. Anh phải làm Chân sư chú tâm đến anh, được hài lòng là anh có thể phân biệt giữa thường trú nhân ở cõi tình cảm và người chỉ qua đó trong lúc ngủ. Anh phải chứng tỏ mình đã phát triển lòng cảm thông và hiểu biết, hai đức tính cho phép anh làm việc chung với ai thuộc đường tiến hóa thiên thần, hợp tác với họ thường là chuyện cần thiết trong loại công việc đó.
“Anh phải có thể phân biệt sự khác nhau giữa hình tư tưởng của một ai và con người thật của họ, vì nếu Chân Sư muốn anh mang tin để trao cho ai sống ở cảnh khác nơi cõi trung giới, cảnh mà lúc đó họ đang hoạt động, anh có thể bị một thực thể thù nghịch với vị Chân sư ấy theo dõi, và để lừa gạt anh nó tạo ra hình dáng của người mà anh đi tìm (thực ra chỉ là hình tư tưởng giống hệt diện mạo họ), anh có thể đưa tin cho hình này nghĩ đó là người thật; chuyện có thể sinh ra hệ quả nghiêm trọng cho công việc mà ngài đang làm lúc ấy.
“Cách giả hình như vậy là chuyện rất thường ở cõi tình cảm, và anh phải được huấn luyện để dùng một số dấu hiệu về quyền lực, cho phép anh kết luận rõ ràng là kẻ liên hệ là người thật hay giả mạo. Chắc anh có nghe chuyện người dơi hút máu (vampires). Họ có thật nhưng may mắn là hiếm thấy, họ sống trong tình trạng tương tự như người tự tử; cả hai đều vất vưởng ở cõi trần chưa siêu thoát và anh chẳng những phải biết cách giúp họ, mà biết luôn cách giải thoát họ khỏi trói buộc của mình. Tôi nghĩ nói đã đủ cho anh thấy còn rất nhiều điều phải học.
“Nay bước qua cuộc phiêu lưu của anh vào đêm thứ sáu, khi anh gặp khó khăn trong việc đi lên những cảnh cao hơn mà không có mốc điểm nào để tập trung tư tưởng. Tôi vẫn giữ liên lạc với anh trong tâm tưởng, vì nghĩ có thể anh sẽ thử làm chuyện đó vào một trong những đêm tôi để anh tự do thí nghiệm một mình. Như anh đã thấy, đi tới bất cứ nơi nào của cõi tình cảm là chuyện thật giản dị, miễn có mốc điểm đặc biệt để dùng cho mục đích ấy. Chắc tôi không cần phụ giúp anh lần nữa trong tương lai. Tôi không cho anh mốc điểm để chú tâm vào ở cảnh thứ bảy, vì không có mấy chuyện ở đó hấp dẫn anh, mà cũng không nên để anh có tiếp xúc không cần thiết với những vỏ còn hiện diện nơi ấy vào lúc này.
“Quả thật anh rất may mắn có được cơ hội chứng kiến lễ tốt nghiệp (như anh gọi), trong đó tinh linh chuyển sang thành người non trẻ của thế giới thiên thần. Dĩ nhiên tinh linh là một thành phần của đường tiến hóa thiên thần, tuy có sự khác biệt rất đỗi lớn lao giữa tinh linh và thiên thần. Tôi không thể cho anh thí dụ tương đương trong đường tiến hóa của loài người. Rất ít người dù sống ở cõi tình cảm hay cõi trần có đặc ân thấy điều mà anh chứng kiến tối hôm đó, và tôi hết sức vui khi từ những cảnh cao trở về anh đã ngừng một lúc ngắn ở cảnh thứ tư.
“Tôi không can dự gì vào việc tạo ra cơ hội cho anh thực hành đôi chút chỉ dạy mà tôi có đặc ân trao cho anh, trong kinh nghiệm có vào tối thứ bảy và chủ nhật, vì thế tôi không ngần ngại nói rằng việc làm của anh chẳng những có giá trị hết sức, mà còn thực hiện rất tốt đẹp. Khi đề nghị truyền lại phần nào những hiểu biết mà anh có cho cô Mary, dĩ nhiên anh nhận lấy một phần trách nhiệm, và rất có thể là anh chàng cứu trợ cõi trung giới mà anh gọi là Jim, sẽ nhờ anh giúp nữa bất cứ khi nào nhóm của anh ta có quá nhiều việc phải làm.
“Điều ấy chẳng những sẽ cho anh thêm cơ hội lớn lao để phụng sự, việc luôn luôn tạo ra karma tốt lành, mà anh sẽ thấy là sự quan tâm và hiểu biết của anh về người đồng loại sẽ gia tăng ngàn lần nhờ công việc đó. Phương cách mà anh sử dụng đối với cô gái Mary và gia đình của cô đúng hết mọi mặt. Anh đừng thất vọng nếu Mary không đáp ứng với sự chỉ dạy của anh, và tỏ ra là học trò giỏi đúng như anh đối với tôi, vì như tôi đã nói nhiều lần rằng ý định mới là cái đáng quan tâm mà không phải kết quả.
“Nỗ lực của anh để em nhỏ Irene khi thức giấc phải nhớ lại phần nào điều anh dạy trẻ trong lúc ngủ đã thành công hoàn toàn, và hôm nay em nhỏ có cái nhìn khác hẳn về sự mất mát em phải gánh chịu. Tôi để anh tự quyết định là có cần trở lại tham gia đình ấy hay không, vì nay họ là trách nhiệm của anh và người khác chỉ đảm nhận nó nếu anh không giúp họ như đã tự nguyện hứa.
“Nay tôi sẽ trình bày với anh về cõi trí còn gọi là cõi thượng giới. Tôi có nói là sau một thời gian, tất cả chúng ta cần bỏ lại thể tình cảm, rời cõi trung giới đi sang cõi trí. Thời gian ở cõi tình cảm lâu mau thay đổi theo giai đoạn tin hóa của ta, ai mới làm người chừng 50 kiếp sẽ ở lâu trong cõi trung giới và ở ngắn hơn trong cõi trí, so với ai đã sống 500 kiếp trong những thế khác nhau, và trong môi trường mà họ có cơ hội theo dõi hoạt động trí tuệ. Trong một bài nói chuyện của tôi, tôi có so sánh những thể chúng ta sử dụng như là người mặc ba lớp: quần áo lót, y phục bình thường và áo khoác ngoài. Khi cái chết xảy ra ở cõi trần thì nó giống như bỏ cái áo khoác ngoài cũng là thể xác, sau đó cái chết ở cõi trung giới tương đương với việc cỏi bỏ lớp y phục bình thường, khi ấy con người còn lại quần áo lót là thể trị và anh bước vào cõi trí trong thể này.
"Như tôi có nói, thể trí là thể đầu tiên mà chân nhân tạo nên quanh mình lúc nó từ cõi thượng thiên (ba cảnh trên của cõi trí) đi xuống, thể được tạo bằng chất liệu thanh bai hơn thể tình cảm. Nói cho đúng thì nó là hình tư tưởng của cá nhân. Bởi anh chưa thể hiểu lời mô tả về hình thể này, cái như sương khói, mỏng manh như mây có vẻ không đậm đặc chút nào, tôi chỉ đưa ra cho anh sự so sánh về mặt vật chất của thể trí kẻ chưa tiến hóa, thí dụ mới trải qua khoảng 50 kiếp làm người, với thể trí kẻ tiến hóa đã sống chừng 500 kiếp, bằng cách ví chúng với cái rổ mây ở hai giai đoạn khác nhau khi đan rổ, là lúc mới bắt đầu đan và lúc đan sắp xong. Trong những giai đoạn đầu anh thấy cái rổ khởi sự có hình dáng nhưng nó chỉ có nhưng sợi mây xỏ dính vào đáy. Cuối cùng tất cả những lỗ hổng được đan kín, rổ mây hoàn tất với hàng trăm sợi mây riêng biệt tách rời cái nọ với cái kia nhưng hòa lại với nhau, mới nhìn thì tưởng như là một khối liên lạc. Mỗi sợi này có thể xem như là tượng trưng cho một đề tài đặc biệtt trong sự phát triển tâm trí mà cá nhân ấy đã làm chủ được ít nhiều.
“Khi ai sống xong quãng đời của họ ở cõi trung giới, họ tiến sang cảnh thứ bảy của cõi ấy; lúc tới ngày giờ để rời nơi đây họ trở nên buồn ngủ, mất tri thức và tỉnh giấc gần như tức thì ở cõi thượng giới. So sánh thì sau khi thể xác chết đi người ta có tri thức trọn vẹn ở cõi trung giới, và cảm nhận đầu tiên là thấy khoẻ khoắn và có sức sống hăng hái. Nay sau cái chết ở cõi tình cảm, họ có được tri thức hoàn toàn ở cõi trí thì cảm nhận đầu tiên là an lạc sâu đậm, thấy an hòa với mọi người. Trong những giai đoạn đầu tiên họ còn có thể không ý thức là mình đã sang cõi trí, vì cảm thấy vô cùng hài lòng, hạnh phúc ở đó, nên họ để mọi việc tự nó trôi trong một khoảng thời gian. Tới lúc nào đó họ ý thức là khung cảnh chung quanh thay đổi, và một lần nữa họ phải được ai đang chờ đón họ chỉ dạy sự khác biệt giữa điều kiện ở chỗ bây giờ họ phải sống và chỗ mà họ vừa rời bỏ.
“Cõi trí là thế giới của tư tưởng. Tư tưởng là cái thực tại duy nhất ở đó, chúng là vật y như bàn ghế là vật, chỉ có điều - giống như thể trí tạo bằng chất liệu thanh bai hơn thể xác – tư tưởng cũng tạo bằng vật chất thanh nhẹ hơn. Điều sau không thể làm được nhưng hãy giả dụ là ta có thể đem vật chất cõi trung giới hay cõi trần vào cõi tư tưởng, thì chúng không hiện hữu cho người ở đó. Vật như thế không ít thì nhiều cũng y như hình tư tưởng ở cõi trần, chúng luôn luôn bao quanh chúng ta nhưng ta lại không thể thấy chúng, tuy rằng chúng ảnh hưởng tâm trí ta. Cái khó khăn lớn nhất của tôi khi giải thích cho anh hay về cách sinh hoạt ra sao ở cõi trí, là không có chữ cho phép tả chi tiết tình trạng của tâm thức, cái hoàn toàn xa lạ theo sự hiểu biết nơi cõi trần. Ở cõi trí anh không nhìn người khác như là cá nhân hay như là thể tình cảm tương ứng với thân xác cởi trần, mà như là hình tư tưởng của người liên hệ, vì những hình này tương ứng với sự phát triển trí tuệ của mỗi người.
“Ai sinh hoạt ở coi trí thì có thể vì như bộ máy vô tuyến vừa nhận vừa phát sóng. Số lượng tần số mà họ có thể dùng để phát và nhận hoàn toàn tùy thuộc vào số đề tài mà người đó quen thuộc. Họ có thể nhận được tư tưởng của người khác miễn là họ có thể vặn được tần số đặc biệt ấy - nói khác đi nếu họ có đôi chút hiểu biết về đề tài mà tư tưởng được tạo ra - và họ có thể bàn luận về đề tài ấy vì họ có thể trả lời lại hình tư tưởng đã nhận, bằng cách phát ra tư tưởng của chính mình, cái sẽ được người khác có hiểu biết tương tự và quan tâm bắt lấy.
“Ở cõi trung giới anh thấy người trí thức hay nghệ sĩ đại tài soạn ra nhạc tuyệt diệu hay tạo ra bức họa tuyệt sắc v. v. và dạy người khác về nghệ thuật, khoa học. Khi họ từ cõi này sang cõi thượng giới, họ tiếp tục giúp những ai khác đang đi cùng đường mà họ đã đi, nhưng ở cõi trí, sự chỉ dẫn của họ có hình thức là những bài giảng về kỹ thuật và lý thuyết, truyền đi như là dòng tư tưởng bất tận. Tất cả ai quan tâm về cùng đề tài có thể bắt lấy những điều này. Anh chỉ bắt được những tư tưởng mà tri thức của anh trong quá khứ hiểu được, phần tư tưởng nào vượt ngoài tầm hiểu biết của anh thì anh không ghi nhận chút nào, vì bộ máy thu bị giới hạn vào mức hiểu biết của anh; nếu anh chưa hề học những môn như toán hay hóa học, anh sẽ không thể đáp ứng với tư tưởng về các môn này, cái có thể đầy dẫy chung quanh anh, được ai thông thạo về các khoa học này tuôn ra.
“Nơi cõi trí cuộc sống nhiều phần vui thú cho người trí thức hơn là cho người có trí thông minh giới hạn. Lấy thí dụ người mà trong lúc sống ở cõi trần đã học hỏi một môn nào đó, khi lên cõi này họ sẽ tiếp xúc với những người trí thức khác thông thạo về môn của họ, chỉ bằng cách cảm biết và thấy hình tư tưởng mà các bậc thầy này biểu lộ ra. Vì người này bây giờ không còn bị não bộ giới hạn ngăn chặn, họ có thể hiểu rõ ràng không những tất cả những gì họ đã hiểu thấu đáo ở cõi trần, mà còn cả nhiều điều khi sống trong thể xác họ chỉ mới bắt được nguyên tắc và chưa nắm hết trọn vẹn.
“Con người tiếp tục phát triển trí tuệ trong một thời gian đáng kể, không những làm họ được mãn nguyện lớn lao mà còn có lợi ích to tát cho những kiếp sau này. Do công việc mà họ đã làm, trong kiếp tới họ được quyền có bộ não thông hiểu trọn vẹn kiến thức đã củng cố trong khoảng thời gian ngụ ở cõi trí. Khi tôi nói rằng có trường hợp người mà trí tuệ nảy nở cao độ đã sống ở cõi trí lâu từ 2 - 3 ngàn năm nay, hẳn anh sẽ nhìn nhận là với người như thế cuộc sống không thể nói là nhàm chán.
"Mặt khác thời gian mà người chưa tiến hóa dành cho nơi này quả thật rất ngắn, vì họ không có gì mấy để củng cố, và chắc chắc là cảnh sống của họ ở đó không dễ chịu hay vui thú cho bằng cảnh sống của người mà trí tuệ phát triển nhiều hơn. Người chưa tiến hóa không ý thức được giới hạn của mình nên họ không đau khổ chút gì, ngay cả cho người có trí tuệ hết sức giới hạn mà anh tưởng tượng được. Khi những linh hồn sống trong Kim Đô bước sang cõi thượng giới, họ vẫn chỉ có một tư tưởng chính yếu trong đầu là ý niệm của họ về Cõi Trời. Những giáo sĩ trong tôn giáo của họ dạy rằng một khi lên cõi trời là họ sẽ ở đó mãi mãi. Họ tin chắc là mình đã vào đó, vì đã sống trong khung cảnh mà theo họ nó phù hợp với lời hứa hẹn về cõi an lạc đời đời, điều mà họ trông mong ao ước.
“Họ nghĩ là sẽ được mãi mãi ở trong cõi trời và vì niềm tin mạnh mẽ chế ngự này mà họ luôn luôn mơ tưởng, ảo tưởng về cõi trời được tạo ra cho họ; họ sống trong đó, trao đổi tư tưởng của mình với tư tưởng của ai khác tuôn ra vì cũng bị ảo ảnh đó chi phối. Thế nên trọn quãng đời nơi cõi trí của họ là sống trong hình tư tưởng khổng lồ. Tuy có hạnh phúc tột cùng, người như vậy thường không được lợi mấy trong cảnh sống đó, so với ai khác dùng cõi trí chẳng những để củng cố sinh hoạt trí tuệ của mình, mà còn thêm vào hiểu biết trí tuệ đã có trước khi lên tới bầu tâm thức này. Người mà cuộc sống được bao quanh bằng ý tưởng về cõi trời thì tỏa ra hạnh phúc và sự hài lòng tột độ, nên ai nói được là họ thua sút kẻ đi con đường khác?
“Cõi trí hay thượng giới có bảy cảnh tâm thức tương ứng với những cảnh ở cõi trung giới, nhưng ở cõi trí đi lên hay đi xuống từ cảnh này sang cảnh kia không gặp chút khó khăn. Tuy nhiên về thực hành anh sẽ thấy là cư dân thường trú nơi đây thực ra di chuyển rất ít. Người trung bình tìm được chỗ cư ngụ là cảnh nào thích hợp nhất cho họ, và nơi mà họ hạnh phúc nhất là trong bốn cảnh đầu tiên (từ dưới đếm lên). Chỉ có những cá nhân mà trí não ngoại hạng mới đi ra ngoài cảnh thứ tư. Thông thường ai từ cõi trung giới lên cõi trí được người cứu trợ chỉ dẫn, sẽ gần như lập tức tìm được bầu tâm thức đặc biệt hợp với mức phát triển trí tuệ của họ, và họ ở đó cho tới ngày giờ bỏ thể trí, dành một thời gian ngắn ở cảnh của căn thể, là nơi cư ngụ vĩnh viễn của chân nhân.
“Trước khi nói thêm về đề tài này, tôi đề nghị mang anh lên cảnh thứ hai của cõi trí vào tối thứ tư, để may ra anh có hiểu biết rõ ràng hơn về những gì tôi đang cố gắng trình bày. Khi đó chẳng những anh ý thức được sự khó khăn tôi có hiện giờ, mà không chừng còn thấy là nếu có công ghi lại hoạt động trong cuộc du hành ấy, anh không có chữ đủ để diễn tả những gì quan sát nơi đó. Tôi sẽ gặp anh trở lại vào sáng thứ sáu, như vậy anh sẽ có ba đêm để tiếp tục những thí nghiệm ở cõi trung giới, tuy tôi khuyên anh rất mạnh mẽ là đừng mong ước đặc biệt điều gì trong tối nay, mà nên để trị óc được nghĩ ngơi. Hãy dành riêng tối thứ tư cho tôi."
Acharya nói xong rời phòng và tôi ngồi lặng ở bàn, mê mẩn với trọn những chi tiết mới mẻ.
Tối THỨ HAI tôi ngủ yên lành và thức dậy sảng khoái, không nhớ có chuyện gì đã xảy ra trong đêm.
Tôi THỨ BA tôi đến với Daphne một cách dễ dàng. Từ Vườn Tiên nàng đã về nhà không gặp khó khăn, chắc nàng đã phát triển đủ năng lực ý chí cho phép mình di chuyển từ đó từ cảnh này sang cạnh khác. Nàng cho hay là sau khi tôi rời chỗ đó, một màn vũ đẹp không tưởng nổi đã diễn ra với thiên thần, tinh linh và ngay cả chim chóc cũng dự phần. Khi nàng chào từ giã vị Chủ Lễ, ngài nói rằng chúng tôi được hoan nghênh đến thăm thung lũng trở lại vào bất cứ lúc nào.
Tôi hỏi nàng có muốn đến gần Kim Đô để xem; bởi nàng tỏ ý thích tức thì, ngay ở đó chúng tôi nắm tay nhau đi tới mốc điểm ở cảnh thứ năm chỉ trong một khoảng rất ngắn, nửa đường có ghé qua Vườn Tiên. Cánh cổng nặng nề dường như làm bằng vàng đóng chặt, nhưng được một ông lão có vẻ như là thánh Peter huyền bí mở khóa và mở ra cho chúng tôi; ông hỏi chúng tôi muốn gì và bọn tôi giải thích mình là ai, cũng cho biết mục đích chính của cuộc viếng thăm chỉ là tính hiếu kỳ. Làm như ông không màng điều này cho lắm và đề nghị cho người hướng đạo dẫn chúng tôi đi xem.
Đường phố dường như dát bằng vàng ròng, nhiều cây trồng ở hai bên đường có trái trĩu nặng là đá quí. Hình tư tưởng của kim cương, bích ngọc, hồng ngọc, ngọc trai v. v. hết sức xinh đẹp, nhưng cho tác dụng là cảnh giống như hàng cây Noel rực rỡ chạy dài bất tận. Tôi để ý thấy mỗi con đường có ít nhất một nhà thờ, chúng tôi được dẫn vào nơi mà người hướng đạo nói là một trong những nhà thờ Công giáo nhỏ nhất. Cung thánh có kiến trúc rất đẹp, còn ban thờ chính tòa làm như được tạc từ một viên ngọc trai khổng lồ; nhạc sĩ đang chơi phong cầm tỏ ra là tay thiện nghệ về nhạc.
Người dẫn đường mời chúng tôi thăm thánh đường của những chi phái khác, tôi hỏi có phải là những chi phái ở cách biệt với nhau, anh bảo nơi cõi Trời các chi phái tôn giáo khác nhau có cuộc sống riêng biệt và thực hành giáo lý riêng của họ, nhưng không hề có bất hòa nơi đây vì ai cũng ý thức là chân lý đứng sau tất cả những triết lý đèu y như nhau, chỉ có hình thức biểu lộ là dị biệt. Để trả lời một câu hỏi của tôi, anh nói rằng ở đây Thượng đế là đấng trị vì tối cao, thỉnh thoảng đến thăm Kim Đô; người bình thường không thấy ngài nhưng làm như giọng nói của Thượng đế vang lừng từ đám mây bao phủ ngài.
Anh khẳng định rằng đức Chúa và mười hai tông đồ của ngài vẫn còn giảng dạy trên đường phố, và thuyết pháp trước đám đông. Tôi hỏi phải ý anh muốn nói mười một tông đồ, vì chắc chắn là Judas không được nhận vào cõi Trời chứ. Tuy nhiên anh quả quyết với tôi là bởi Judas đã trả giá cho tội lỗi của mình bằng lòng hối hận kinh khủng, và tự tạo cho mình một địa ngục thực sự, sự ăn năn của ông được ghi nhận và được cho phép nhập lại với những tông đồ khác. Chung tôi viếng thăm một nhà hát lộ thiên có ít nhất ba ngàn người tụ họp, ai cũng mặc y phục trắng, Lắng nghe bản hợp ca xướng thanh có đàn thụ cầm và phong cầm với âm ngọt ngào phụ họa; họ có vẻ như là thiên thần tả trong kinh sách nhưng chúng tôi không thấy ai ngồi trên mây gảy thụ cầm.
Chúng tôi quay trở về nhà Daphne và thảo luận về kinh nghiệm của mình, sau đó tôi gặp một số bạn của nàng.
Tối THỨ TƯ tôi chờ Acharya thì Ông bước vào phòng đúng lúc chuông gõ 10 giờ tối. Ông chào tôi với câu:
- Nếu anh sẵn sàng thì ta lên đường.
và chúng tôi đi ngay.
Chúng tôi đi cùng đường như khi trước, qua làng ở cảnh thứ hai, Học Viện ở cảnh thứ ba, Vườn Tiên ở cảnh thứ tư, Kim Đô ở cảnh thứ năm và hồ nơi cảnh thứ sáu. Tại điểm chót này tôi có giờ thấy hai chiếc thuyền nhỏ được dùng, một cái ở bờ bên kia của hồ còn cái thứ hai gần khe mở sang cái hồ nhỏ hơn. Phải nhìn một lúc tôi mới có thể thấy có chuyển động vì chúng đi rất chậm. Đây quả là chỗ lý tưởng cho người muốn sự cô tịch. Vì tôi chưa lên thăm cảnh thứ bảy và không có mốc điểm nào để chú tâm vào, Acharya bảo tôi nắm tay ông. Khi khung cảnh chung quanh bắt đầu rõ trở lại tôi thấy mình đang đứng trên đỉnh cao nhất của một rặng núi mà Acharya gọi là “World's View” – từ đây người ta nhìn được khắp thế giới chung quanh là nơi họ cư ngụ cho đến khi tái sinh. Tuy vùng đồng quê có rừng dầy với hoa nở rộ khắp nơi, nó lại không có nhà cửa chi cả và khung cảnh có vẻ đìu hiu. Tôi được nghe dạy là một số nhà ẩn tu và đạo gia dành phần lớn đời mình trong chỗ như vậy; tôi mừng là con đường huyền học (mysticism) không hấp dẫn đối với tôi. Tôi để ý thấy hai người trông giống như một nam và một nữ đang lướt nhẹ trong thung lũng. Hỏi Acharya rằng họ là ai thì ông đáp:
- Ta đi xem cho biết.
Chúng tôi lướt đến, khi tới gần họ không đi chậm lại, dáng đi nhanh hơn thả bộ một chút và khi Acharya cất tiếng hỏi han thì cả hai không trả lời. Tôi hỏi người đàn bà một câu, bà quay mặt về phía tôi mà nhìn xuyên qua tôi không đáp lời nào; mặt bà vô hồn và gương mặt không có chút sống động. Họ lướt dọc trên đường xem ra như đi theo vòng tròn. Thầy bảo đó là những cái vỏ mà hai người bỏ lại khi họ sang cõi thượng giới.
Nay Acharya giải thích rằng để du hành qua cõi trí chúng tôi phải để lại thể tình cảm của mình ở đây. Để bảo đảm rằng chúng được chăm nom cẩn thận không bị các thực thể ở cõi trung giới chiếm đoạt, Ông đề nghị giao chúng cho hai người bạn của ông trông chừng, đây là những người mà ông tin cẩn. Ông tập trung tư tưởng mạnh mẽ sau chừng một phút, bảo rằng họ đang trên đường tới đây. Gần như lập tức có hai người đàn ông tây phương, diện mạo rất là trí thức và có nét tâm linh cao độ bay về phía chúng tôi. Sau khi chào hỏi, Acharya cho hay điều ông muốn nhờ cậy. Khi đó tôi được kêu nằm ngửa với hai tay gối đầu; Acharya cũng làm tương tự nhưng đặt bàn tay phải lên trán tôi. Thầy bảo tôi nằm thoải mái và ráng giữ trí não trống không.
Như Acharya tiên đoán, tôi thấy gần như không thể tả bằng lời cõi trí giống như thế nào. Làm như hai hay bà phút trôi qua từ lúc tôi được dặn là giữ cho tâm thoải mái tới khi ý thức rằng Acharya đang nói với tôi, tuy ông không dùng lời hay phát ra bất cứ âm thanh chi. Tôi mở mắt và thấy một sự tĩnh lặng lạ lùng tràn khắp; có vẻ như chúng tôi bị ngưng đọng trong không gian, nhưng được bao quanh bằng đủ mọi loại vật thể mở ảo, có thể mà cũng không có thể là cao ốc, cảnh sắc hay người ta. Một số vật thể này có màu mà không gì có đường nét thật rõ rệt; tất cả chúng, ngay cả hình có thể là người ta, xem ra thay đổi luôn luôn. Thực sự thì tôi không nhìn thấy chúng bằng mắt mình, mà cảm nhận theo cách khác hẳn với những gì đã kinh nghiệm trước đó.
Tôi có thể thấy hình tư tưởng trôi nổi sau lưng rõ như thấy hình trước mặt, vì vậy tôi không cần phải xoay đầu đối diện với một hình đặc biệt để xem nó giống cái gì. Mọi chuyện hết sức lạ lùng và có lẽ tôi sẽ thấy sợ hãi một chút nếu không có người bạn đường tuyệt vời bên cạnh. Trong suốt những phút này Acharya gửi tư tưởng đến tôi
và tôi nhận nó rõ ràng y như ông nói chuyện, thấy ngay là ông nhận câu đáp của tôi vừa khi chúng lộ ra trong trí.
Ông bảo đây là cảnh thấp nhất của cõi trí và đa số người ở đây có mức phát triển trí tuệ rất thấp. Thầy chỉ cho xem hình tư tưởng của vài người cư ngụ ở cảnh này. Chúng là sinh vật mỏng manh như sương khói không có nét cứng chắc nào, nhiều cái khó mà nói là hình cụ thể vì chúng không khác gì khói hay mây có hình người, và bởi không
đậm đặc, chúng không giữ đường nét y nguyên một thời gian dài ngắn nào cả. Tôi đã thấy những hình dạng tương tự thành hình khi xem khói bốc ra từ đám Iửa, và hình tức khắc tan loãng khi bay lên trong ống khói.
Trong khung cảnh cõi trí đó Acharya xem ra là người có vóc dáng lớn trội so với ở cõi trung giới và cõi trần, và ông làm như có đường nét sắc gọn hơn, cứng chắc hơn so với bất cứ thực thể nào khác có hình trôi nổi trong tầm mắt của tôi. Hình dáng của ông nơi đây cho phép tôi hiểu ra cái so sánh ông nói về thể trí của người tiến hóa thấp và thể trí của người tiến cao, như cái rổ mây đang đan dở và cũng rổ ấy khi đã hoàn thành.
Acharya kêu tôi đứng lại gần ông, thầy đặt tay lên vai tôi dù tôi không cảm thấy có đụng chạm, và bảo nay chúng tôi đi sang cảnh thứ hai. Tôi không cảm thấy có sự di động nào như đã kinh nghiệm trước đây, khung cảnh thay đổi theo cùng một cách như thay đổi trên màn ảnh xi nê. Cảnh trí mới không khác cho lắm nơi chúng tôi vừa rời bỏ, ngoài trừ việc những hình đang trôi nổi chung quanh có đường nét rõ hơn.
Acharya bảo tôi chọn đề tài mà tôi muốn thảo luận với một người thường trú, và kêu tôi gửi hình tư tưởng vào không trung, xin ai chú ý tới đề tài này tiếp xúc với tôi. Không suy nghĩ cho lắm tôi chọn đề tài so sánh các tôn giáo, ngay lập tức cơ hội đáp bằng hình tư tưởng như là câu hỏi, hỏi tôi thuộc tôn giáo nào. Tư tưởng tôi trả lời rằng tôi thuộc Công giáo La mã tuy không sùng đạo cho lắm. Tư tưởng đáp lại nói rằng tất cả tôn giáo đều có công dụng của chúng, theo nghĩa chúng cho phép ai chưa đứng vững một mình có chỗ để nương tựa, và trong đa số trường hợp tôn giáo tác động như là mực thước hướng dẫn cho những quyết định mà con người phải làm trong đời.
Người đối thoại nói mỗi tôn giáo được khởi đầu cho một mục tiêu riêng biệt, những nói về mặt căn bản thì chân lý trong mọi tôn giáo đều giống nhau. Anh xác định rằng cái nốt chính của Thiên Chúa giáo là Tình Thương, và theo triết lý của nó thì con người chỉ có thể tiến hóa bằng cách thương yêu đồng loại, tỏ ra Khoan Hòa với quan điểm và hành động của người khác. Tôn giáo mà đức Phật lập nên thì cũng có triết lý vi diệu y như điều mà đức Chúa giảng dạy, và nốt chính của Phật giáo là Minh Triết; theo lời dạy của tôn giáo này thì điều quan trọng nhất trong đời là hành xử theo luật nhân quả. Nó nói rằng con người được khổ hay sướng tùy theo hành động, tư tưởng hay lời nói của mình, khuynh hướng của Phật giáo là loại trừ thất tình lục dục.
Một tôn giáo lớn khác là Ấn giáo đã được Krishna làm hồi sinh gần 2000 năm về trước, có nốt chính là Trong Sạch và Hành Xử Đúng Cách, tín đồ chính thống của đạo này thực hiện các nghi thức đặc biệt vào những thời điểm định sẵn. Đạo Hồi do giáo chủ Mohammed lập ra có nốt chính là Can Đảm, với tín đồ không thiếu đức tính ấy.
Hỏa giáo, đạo của người Parsi (Ba Tư), do giáo chủ Zoroaster tái sinh nhiều kiếp vun trồng nó. Tôn giáo này dùng Iửa làm biểu tượng vì lửa luông luôn được xem là chất thanh lọc, và nốt chính của Hỏa giáo là sự Tinh Khiết. Tín đồ của Hỏa giáo còn đi xa tới mức nói rằng không được phép làm lửa mất tinh thiêng liêng bằng cách mồi lửa điếu thuốc lá hay ống hút.
Người đối thoại chỉ trích việc chiêu dụ người khác vào đạo dưới bất cứ hình thức nào, và thúc giục tôi chớ hề tìm cách thay đổi tôn giáo của một ai, trừ phi ta biết chắc rõ ràng là họ muốn tìm điều mới lạ và đã mất tin tưởng vào tôn giáo họ được sinh ra. Anh bảo không sao hiểu được người vô thần, vì không ai có thể biết chắc là không có kiếp tương lai hay quá khứ; nhưng anh thông cảm với người theo phái Vô Thông (agnostics), họ là người thành thật, sẵn sàng tin nếu lời biện luận làm họ thỏa mãn. Cái đáng tội là họ không ý thức rằng đa số các triết lý trong tôn giáo liên quan đến điều kiện phi vật chất, sẽ không hề chứng minh được bằng thí nghiệm ở cõi trần.
Tôi còn muốn tiếp tục với những đề tài khác nhưng vì thầy hướng dẫn bảo tôi chấm dứt cuộc trò chuyện, vì tôi đã có đủ cho một đêm và không chừng có nhiều hơn là tâm thức cõi trần chứa đựng được. Tôi hỏi cảnh này có âm nhạc chăng. Acharya trả lời bằng cách hỏi tôi ưa thích bản hòa tấu nào, tôi đáp chắc là bản hòa tấu số chín của Beethoven. Ông nói:
- Hãy tạo một hình tư tưởng về hành ấm mà anh thích nhất và không chừng anh sẽ có ngạc nhiên.
Lẽ tự nhiên tôi nghĩ đến hành âm hợp xướng đẹp đẽ và còn đang suy nghĩ, tai nghe tiếng nhạc mình rất đỗi ưa thích làm như phát ra quanh chúng tôi. Tôi lắng nghe mê mẩn cho tới khi nó chấm dứt với những nốt cuối của tác phẩm tuyệt vời đó. Tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ quên việc ấy, bản hòa tấu hay hơn bất cứ cái gì về mọi mặt có thể tưởng tượng được trong điều kiện dưới trần; giọng hát trong trẻo và tiếng đàn tuyệt diệu trội hơn những gì mà tôi tin là có thể có được.
Acharya bảo rằng nhớ một mốc điểm để trụ tâm thức vào chỉ vô ích, vì tôi không thể nào viếng thăm cõi trí lần nữa với mức phát triển hiện thời của tôi. Chung tôi khởi sự việc trở về theo cùng cách thức như khi đến, và sau một lát tôi cảm thấy như thức dậy trong thể tình cảm của mình, nó vẫn còn nằm trong tư thế lúc tôi rồi bỏ nó, có hai người cứu trợ ở cõi trung giới “canh giữ'”. Cả hai mỉm cười khi thấy nét mặt ngơ ngác của tôi, nhưng tôi vẫn thấy hết sức lạ lùng rối trí với những gì đã chứng kiến. Họ cúi người lịch sự chào từ giã hai chúng tôi và đi dần ra xa. Một lúc ngắn sau tôi tỉnh giấc trong phòng ngủ thấy khi đó là 3.15 sáng. Tôi ngồi dậy ghi lại những gì vẫn còn rõ ràng trong trí mình.
Đêm THỨ NĂM trước khi đi ngủ tôi quyết định là sẽ xem Mary tiến triển ra sao, nhưng khi ra khỏi thể xác thì tôi gặp Charles trong phòng. Hắn không tính đi đâu tối nay nên tôi hỏi xem có muốn đi cùng với tôi đến bệnh viện ở London - nghĩ rằng kinh nghiệm sẽ có ích cho hắn. Charles đồng ý và chúng tôi ra đi. Tới khu ở bệnh viện, thấy Mary còn thức, tôi mới đề nghị với em là trong lúc chờ cô ngủ và thoát ra khỏi thân xác, hai tôi lên cảnh thứ ba thăm Daphne. Em không màng tới ý này chút nào nên chúng tôi đi tới lui trong khu, cho tới khi quay lại thì thấy Mary đã ngủ và ra khỏi cơ thể.
Mary bảo tôi rằng sự việc đã tốt đẹp hơn cho cô từ lúc cô gặp tôi lần chót, và Irene nhớ nhiều hơn cô về những gì tôi nói vào dịp ấy. Ban đêm Mary về nhà cũ gặp mẹ và em, nhưng không nhớ mấy chuyên gì đã xẩy ra. Tôi giải thích cho cô với hết khả năng của mình, lấy trường hợp của tôi làm thí dụ. Tôi dặn cô là trong tương lai, bất cứ khi
nào cần sự giúp đỡ của tôi, cô hãy nghĩ đến tôi thật mạnh mẽ và tôi sẽ ráng sức đáp lại.
Cảm tưởng duy nhất của Charles về chuyện này là Mary rất xinh xắn! Em đề nghị danh thì giờ còn lại của buổi tối để lái phi cơ chở tôi đi chơi, vì hắn luôn luôn tìm cách cho tôi thấy là ít nhất có chuyện hắn nhiều kinh nghiệm hơn tôi. Tôi đồng ý và em tạo ra hình tư tưởng một phi cơ Pussmoth hai chỗ ngồi, cầm lái đưa tôi bay khắp nước Úc, giải thích cụ thể hoạt động của máy móc trong lúc bay. Lúc vẫn còn trong bầu trời ở Ức, tôi cảm nhận cái gọi nay đã quen thuộc và rời phi cơ khi nó đang lượn tới lui, thấy mình quay trở về xác thân ở Colombo.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Acharya đến sớm hơn bình thường mười phút, trong lúc tôi chưa ăn sáng xong. Tôi phải mất một thời gian đáng kể để đánh máy chi tiết những gì diễn ra trong tuần, và tôi không dám cạo râu hay tắm trước khi làm xong việc đó, lỡ ký ức về hoạt động tối qua phai mờ và mất đi phần nào. Có vẻ ông không quan tâm lắm việc tôi chưa sẵn sang với ông, thầy xin lỗi là đến sớm, ngồi xuống thảm vào chỗ thông thường của ông và hỏi xem có thể đọc bài tôi đã ghi lại. Tôi đưa cho ông mấy trang đánh máy, gồm chi tiết những kinh nghiệm tôi đã trải qua từ khi thầy đến thăm vào thứ hai trước. Tôi hỏi tại sao ông muốn xem chúng, thêm rằng tôi tin chắc là thầy biết rõ những gì tôi đã làm.
Ông đáp:
- Phải, tôi giữ liên lạc với anh vì tôi được phép liên kết với anh về trí não trong suốt giai đoạn đảm trách việc chỉ dẫn anh. Sau đó dây liên kết giữa thể trí của anh và của tôi bị đứt ngay tức khắc, vì chúng ta không được phép nhìn vào tâm trí người khác, ngoại trừ những trường hợp rất đặc biệt, tương tự như sự liên kết giữa hai chúng ta trong hai tuần rồi. Mỗi người chịu trách nhiệm về chính mình và với Thượng đế về những gì họ làm và như anh biết, người ta được thưởng hay phạt tùy theo tư tưởng biểu lộ và hành vi thực hiện. Tôi hỏi xem bài ghi của anh vì tôi muốn biết anh nhớ lại bao nhiêu những gì đã làm - nếu không đọc bài viết của anh thì tôi không biết được.
Ông cẩn thận xem kỹ đến cuối và tiếp tục nói:
- Bài ghi của anh về tối thứ ba hay lắm, vì anh nhớ gần hết những gì xảy ra trong lúc đến thăm Kim Đô. Tuy nhiên anh bỏ quên một điều quan trọng, là không đề cập tới việc người hướng dẫn đưa ra ngoài vẹn của đô thị, chỉ cho thấy một đám đông đang lắng nghe hình tư tưởng mà họ tạo nên, tượng trưng đức Chúa đang nói chuyện với họ. Cả anh và Daphne lắng nghe bài giảng một lúc ngắn. Anh ngỏ ý với người hướng dẫn là tất cả những gì đức Chúa đang nói đều đã ghi trong các phúc âm khác nhau của kinh Tân Ước.
“Chuyện ấy tự nó là bằng chứng đủ cho anh thấy đó không phải là đấng Cao Cả dưới trần ta gọi là đức Chúa đang nói, mà chỉ là cái biểu lộ về vị giáo chủ Thiên chúa giáo, là một phần của tư tưởng và tâm trí các tín đồ ngoan đạo nhất của ngài. Tôi tin chắc nếu đó chính là đức Chúa đang nói - mà ngài vẫn đang sống và trông coi sự phát triển tinh thần của địa cầu – cảm tưởng về những gì ngài nói sẽ không dễ dàng bị xóa sạch khỏi ký ức của anh. Lần tới gặp Daphne hãy hỏi cô về chuyện này. Chắc chắn cô còn nhớ nó.
“Tôi hài lòng với sự mô tả của anh về thí nghiệm tối thứ tư, vì nó khá hơn là tôi tưởng. Tôi có khuyến cáo anh về những khó khăn sẽ gặp phải khi tìm chữ để diễn tả sinh hoạt trí tuệ, nhưng tôi nghĩ rằng ai đọc bài ghi của anh sẽ hiểu một chút việc anh muốn diễn tả. Tôi rất hài lòng là anh nắm được phần lớn những gì tôi cố công trình bày với anh trong lần nói chuyện mới rồi.
“Chi tiết anh ghi tối qua không cần tôi cho ý kiến mây. Nó có giá trị của nó vì nay anh hiểu là phải xem xét quan điểm của người khác, và ở một mức nào đó phải hòa hợp với họ ở cõi trung giới cũng như cõi trần. Tôi tin chắc là cô gái Mary được anh chăm sóc sẽ gọi anh lần nữa trong tương lai rất gần, và tôi biết anh sẽ gắng công giúp cô với nhiều vấn đề cô gặp phải. Nó sẽ là kinh nghiệm rất tốt đẹp cho anh.
“Hôm nay, trong buổi nói chuyện cuối của tôi, trước hết tôi sẽ trình bày với anh về “cái chết thứ ba” và chuyện gì xảy ra cho chân nhân khi nó bỏ vận cụ còn lại của tâm thức là thể hạ trí, và sống một thời gian trong cơ thể vĩnh viễn duy nhất mà nó có là căn thể (causal body) hay thể thượng trí. Tôi muốn anh lắng nghe chuyện kỹ lưỡng, vì nhiều người xem ra gặp khó khăn với chi tiết này.
“Cái chết thứ ba rất giống với việc đi từ cõi trung giới lên thượng giới (hay cõi tình cảm sang cõi trí, vì con người chỉ từ từ mất tâm thức và sau khi trôi ra ngoài thể trí, thấy nay mình ở trong căn thể (causal body). Ta gọi đó là căn thể vì nó chỉ linh hoạt ở cảnh giới của nguyên nhân, gồm hai bầu thứ sáu và thứ bảy của cõi trí. Căn thể được biết
là thể vĩnh viễn của người vì họ có nó từ khi cá nhân hóa, thoát kiếp thú làm người, trở thành con người là thực thể
riêng biệt.
“Cảnh giới của nguyên nhân là quê hương định sẵn của linh hồn hay chân nhân, nó trụ ở đó trong các giai đoạn mà ta gọi là kiếp sống dưới trần, khi một phần của nó biểu lộ ở các mức thấp hơn của tâm thức, và thu thập kinh nghiệm cần thiết khiến cho linh hồn được tự do, thoát khỏi việc tái sinh tới lui nhiều lần trong các thể xác khác nhau.
“Mỗi kiếp sống căn thể thay đổi chỉ bằng cách thêm vào đó kinh nghiệm mà con người thu thập được trong kiếp
vừa xong, vì lý do ấy thỉnh thoảng người ta gọi thể là “kho kiến thức”. Một ai tiến hóa có thể sử dụng kho này theo ý muốn, và rút ra ở cõi trần kinh nghiệm những kiếp đã qua; làm vậy cho phép họ tránh không phải học một
số điều mỗi lần có não bộ mới, vì tự nó thì não bộ không có ký ức về kinh nghiệm xưa. Nhờ lý do này mà người
tiến hóa có lợi thế to tát so với ai chưa tiến hóa bằng - nhưng mỗi chúng ta sẽ ở cùng vị trí khi đạt tới những giai đoạn phát triển đó. Bài học quan trọng nhất cho chúng ta là tiến bộ chỉ có nhờ công sức của riêng mỗi người. “Những chuyện này sẽ được chú ý nhiều hơn nếu người ta hiểu chúng hơn, và được ai phụng sự nhân loại chỉ dẫn rõ hơn. Chỉ có ít người trong chúng ta đủ sức hiểu sự kiện là phàm ngã phân biệt được ở cõi trần, lại chỉ là một phần nhỏ của con người thật hay chân ngã; mà chân ngã này hay cá nhân phù trợ và hướng dẫn phàm ngã theo hết sức khả năng của nó, trong giới hạn mà tự do ý chí cho phép, điều ban cho tất cả mỗi ai khi họ đạt tới tiêu chuẩn thành người.
”Nơi cảnh của căn thể, quá khứ, tương lai và hiện tại là một trong thực tại. Tôi sẽ cho anh thí dụ nơi cõi trần để diễn tả ý đó. Hãy tưởng tượng một con sông cứ vài trăm thước lại uốn lượn quanh co. Một người đứng trên sàn chiếc tàu hơi nước chảy trên sông, đang phì phò trong lộ trình nó phải hoàn tất, chỉ có thể thấy khúc sông mà tàu đi lúc đó. Họ không thấy được khúc sông nằm sau điểm uốn ở phía đuôi tàu, phần mà tàu đã đi qua, và cũng y vậy không thấy được khúc sông nằm quá điểm uốn ở phía trước mũi, nơi tàu đang dần đi tới.
“Ta hãy giả dụ là có một người khác đi cùng lộ trình ấy mà bằng phản lực cơ; họ sẽ thấy trọn con sông bằng cái nhìn quét mắt bao quát, phần đằng sau tàu và phần đằng trước vị trí đang có đều được tầm nhìn của họ thấy rõ rằng. Với người này khung cảnh mà tàu đã qua thì rõ ràng y như cảnh mà hành khách đang thấy vào lúc này, hay trong tương lai sắp đến. Như thế đối với ai trên phi cơ chuyện không có quá khứ hay tương lai, tất cả thực ra nằm trong hiện tại. Người chưa tiến hóa so với người tiến hóa thì giống như hành khách trên tàu hơi nước so với người trên phi cơ.
“Ở cảnh của căn thể, chân nhân được cho thấy trọn hồ sơ của quá khứ của nó dưới dạng một loạt nhiều hình, giống như các tấm phim trong xi nê. Những hình này cho nó thấy chính xác đã thất bại ở kiếp nào và thành công ở đâu; chúng cũng cho thấy kiếp tới có dụng ý ra sao cho linh hồn, thay đổi nào trong cá tính phải đạt được trước khi có thể có tiến bộ thêm. Người chưa tiến hóa thấy hết những việc ấy, nhưng bởi trí tuệ còn giới hạn, họ chưa nắm được ý nghĩa của nó như người phát triển trí năng hiểu. Họ giống như hành khách trên cạn.
“Mặt khác người tiến hóa thì giống như ai trên chiếc phản lực, thấy lập tức tại sao mình phạm lỗi trong quá khứ, và không phải chỉ thấy hậu quả những lỗi lầm này. Họ nhất quyết rằng sẽ không thất bại y vậy trong kiếp tới. Thế thì bài học học được từ những bức hình của kiếp đã qua được đem vào cấu trúc của hạt nguyên tử trường tồn - cái
kho hiểu biết chưa đựng tinh túy của những kinh nghiệm trong mỗi kiếp qua - và khi ngày giờ tới trong một kiếp tương lai phải quyết định vấn đề tương tự, tiếng nói lương tâm, cái là khuyến cáo chân nhân gửi cho họ, từ cõi cao nơi kho dự liệu hiểu biết đang hiện hữu, giúp bảo đảm là sai lầm tương tự sẽ không tái phạm nữa.
“Họ ý thức tại sao kiếp tới mình nên sinh vào một nhóm đặc biệt hay một quốc gia nào đó, vì nhờ hoàn cảnh chào
đời ấy họ có thể có được môi trường họ cần; vì lý do đó chân nhân không hề thiếu hợp tác khi được cho thấy kiếp tương lai. Nó biết rất rõ là cuộc đời được dàn xếp cho nó là cái thích hợp nhất để bảo đảm có được tiến bộ nhiều nhất. Đạt tới tiến bộ này trong khoảng thời gian ngắn nhất là điều mà mỗi chân nhân đều ước ao.
“Tuy tất cả chúng ta vui hưởng thời gian sống ở cõi của chân nhân, ta phải rời nó lần nữa để tuân theo luật tiến
hóa. Tất cả chúng ta đều muốn rời khỏi nơi ấy khi ngày giờ đến, vì cảm thấy trong lòng cái ham muốn có biểu lộ và kinh nghiệm thêm; chúng ta biết tiến bộ trong cuộc tiến hóa chỉ đạt được qua vô số kiếp sống ở cõi trần. Ta ý thức rằng mình không thể đáp ứng trọn vẹn với làn rung động chế ngự ở cõi của căn thể, cho tới khi nào ta tiến hóa đến mức không cần phải tái sinh nữa.
“Thời điểm ấy đôi khi ta học được tất cả những bài học mà cuộc sống ở cõi trần có thể dạy ta, và rồi sự chú ý của ta hướng về những bầu họat động khác, vượt xa bên ngoài cõi trần hay cõi tình cảm. Chân nhân nào đã tới mức toàn thiện này của con người, đôi khi quyết định theo ý muốn riêng của nó là vẫn tiếp xúc với những cõi tâm thức thấp, chỉ vì lòng Từ bao la của Ngài đối với nhân loại, và mong muốn giúp đỡ nhân loại trong cuộc tiến hóa của nó. Tốt lành biết bao khi có những linh hồn cao cả như vậy, bằng không sự tiến bộ của con người sẽ chậm hơn so với hiện giờ.
“Nay lời mô tả của tôi về cách tái sinh hẳn sẽ không khó hiểu đối với anh, nếu anh nhớ lại thí dụ nêu ra trước đó. Chân nhân trần trụi này phải khoác lấy những vận cụ của nó trở lại, nói khác đi là tạo ba thể mới để nhờ vậy có thể linh hoạt ở những cõi tâm thức thích hợp với chúng. Thể đầu tiên nó phải tạo làm bằng chất liệu cõi trí (quần áo lót), và để làm được việc này nó hướng tâm về hạt nguyên tử trường tồn mà như anh còn nhớ, nó đã giữ lại những phần tử tương ứng với mỗi cảnh giới có ở cõi trí.
“Chân nhân lấy hạt nguyên tử cõi trí, làm nó linh hoạt và bắt đầu lôi kéo vào quanh hạt những nguyên tố khác từ chất liệu ở cõi trí, theo cùng cách thức như một tinh thể khi thả vào dung dịch sẽ khiến những hạt tinh thể khác tạo ra chung quanh nó. Vật chất được thu hút về chung quanh nó sẽ tạo thành hình của thể trí kiếp vừa xong, vật nó bỏ lại sau giai đọan sống ở cõi trí, nhưng với một khác biệt nhỏ; đó là thể trí tốt đẹp hơn cái vừa thải ra, vì nó chứa đựng trong đó kết quả những nổ lực trí tuệ của kiếp vừa rồi.
“Chân nhân trở lại cuộc đời mới với thể trí chứa đựng tất cả hiểu biết nó đã thu thập trong bao kiếp đã qua, nhưng vẫn chưa có chút kiến thứcnào về những môn mà tới nay nó vẫn chưa học. Điều này giải thích tại sao người trong thế giới Iại khác nhau rất nhiều; trí tuệ của họ khác nhau vì họ có những thể trí thuộc các hạng khác nhau. Vì vậy ai có trí tuệ nhạy bén, thu thập được qua kinh nghiệm nhiều kiếp sống, chớ bao giờ nên lợi dụng ai có ít kinh nghiệm hơn mình, mà phần việc của họ là giúp đỡ thay vì gây cản trở cho các linh hồn non trẻ hơn.
“Sau khi tạo cho mình một thể trí mới, chân nhân tiến sang bước kế. Nó hướng tâm về hạt nguyên tử tình cảm và khiến cái sau linh hoạt. Lập tức hạt này tụ tập quanh nó chất liệu cõi trung giới thuộc cùng lọai như đã có trong thể tình cảm kiếp mới xong, vào lúc mà họ vứt bỏ nó. Chuyện có nghĩa tất cả những tiến bộ về mặt tình cảm mà họ có từ trước ở kiếp vừa rồi, được gom trong thể tình cảm mới (y phục thông thường), cái sẽ giúp linh hồn sinh hoạt trong kiếp mới này. Thể mới ấy chứa đựng trong đó kết quả công việc họ làm trong những năm sống ở cõi tình cảm, thí dụ nếu họ học hỏi sâu rộng về nhạc thì trong kiếp sau ở cõi trần, họ có sự thúc giục muốn học nhạc như là một nghề hay để giải trí, và phát triển năng khiếu về nhạc là chuyện rất dễ dàng đối với họ. Thể tình cảm mới này nhạy cảm nhiều lần so với thể có trước đây, theo nghĩa nó có thể ghi nhận tình cảm mạnh mẽ hơn thể đã bỏ.
“Kế tiếp chân nhân phải có một thể xác (bộ khoác ngoài). Vật này có được nhờ sinh ra theo cách bình thường vào một gia đình trên thế giới. Thể xác không nhất thiết phải là loại tốt đẹp hơn thế xác kiếp vừa qua, mà nhiều phần tùy thuộc vào những bài học phải học trong cuộc đời mới, và thể xác có được là thể cần có vào lúc ấy. Quyết định đầu tiên phải làm là thực hiện các thay đổi gì về tính khí. Câu trả lời cho việc này ấn định nhiều chuyện khác nhau, đầu tiên là chân nhân sẽ sinh vào quốc gia nào, vì mỗi quốc gia có những đặc tính nổi bật.
”Vì anh là người Anh, tôi sẽ lấy nước của anh làm thì dụ cho việc này. Lòng tận tụy với bổn phận có lẽ là tính chất trội hơn hết của người Anh. Nếu chân nhân sắp tái sinh trong những kiếp qua từ chối không chịu đương đầu với khó khăn - nó có thể còn hèn nhát đến mức tự tử trong một kiếp trước - thì hiển nhiên nó thiếu các đặc tính là một phần nổi bật của nước Anh; thế thì một kiếp làm con dân nước này chắc chắn sẽ tạo dựng cho đặc tính của họ điều cần có vào lúc ấy, để tới cuối đời tính khí của họ sẽ thay đổi đáng kể.
“Khi đã có quyết định về quốc gia sẽ đầu thai vào, nay chuyện cần thiết là chọn gia đình thích hợp trong nước ấy, đây là vấn đề phức tạp đòi hỏi chú ý đến chi tiết và là điều không hề do may rủi mà ra. Có thể có hàng chục gia đình cùng cho linh hồn môi trường mà nó cần, nhưng có thể nó không chọn được những gia đình ấy, vì hành động trong quá khứ của nó khiến nó không có đặc ân được sinh ra trong hoàn cảnh đáng ước ao. Gia đình phải được chọn sao cho linh hồn tiếp xúc được với một số dây liên kết mà cá nhân đã tạo trong quá khứ. Dây liên kết hay duyên sinh ra do tình thường, lòng thù ghét, hôn nhân, cha mẹ, là cha của trẻ ngoại hôn, bỏ rơi thiếu nữ lúc cô gặp khó khăn, v. v. , và bất cứ karma nào tạo ra trong những trường hợp này đều phải được giải quyết.
“Quyết định khác phải làm là câu hỏi về tính di truyền, sự việc được xem xét là chân nhân có xứng được hưởng sức khỏe tốt lành hay phải chịu bệnh tật, mặt mũi xinh đẹp hay chỉ có dung mạo trung bình, trí não đáng được thông minh tới đâu. Việc khác được cân nhắc là linh hồn có được cha mẹ thích hợp ra sao, loại cha mẹ và cuộc hôn nhân giữa hai người có hòa hợp; chân nhân có nên sinh ra với bà mẹ muốn có con, và do đó bà làm hết sức mình cho con có buổi đầu đời thuận lợi; hoặc nên sinh ra với cha mẹ đối đãi nó như linh hồn riêng biệt, xem xét những khả năng của nó lúc nhỏ như có thúc đẩy muốn học nhạc - điều mà không chừng linh hồn có được trong thời gian sinh sống vừa qua ở cõi trung giới, hoặc có cha mẹ làm nó nản lòng vì không quan tâm đến ước muốn đó, và can thiệp vào sinh hoạt của con ngay cả khi nó đã trưởng thành; cha mẹ cũng được chọn là người có tính khoan hòa về tôn giáo hay không khoan hòa.
“Những xếp đặt ấy được thực hiện, ngày tháng thuận lợi theo khoa chiêm tinh được chọn và linh hồn chào đời.
Vậy công việc của chân nhân là vượt qua những trở ngại do hoàn cảnh lúc sinh ra tạo nên; đôi khi có người sau này là vị lãnh đạo quốc gia lại sinh ra trong cảnh nghèo hèn và khốn khó. Ai khắc phục được khó khăn trên con đường của họ, chắc chắc sẽ liên kết với gia đình có nguyên tắc cao đẹp và trong hoàn cảnh đáng ước ao, khi trường hợp của họ lại được xem xét trong lần tái sinh tới.
“Trước khi kết thúc, tôi phải đề cập tới đề tài hệ trọng là Dạy Con. Dựa theo những gì đã nói, hẳn anh có thể ý thức là do thái độ của cha mẹ đối với việc này, linh hồn được trợ lực hay ngăn trở rất nhiều trong cuộc tiến hóa của nó. Tương đối thì không có mấy người chú tâm vào nhu cầu của trẻ, nên hiện nay việc tìm gia đình thích hợp để hướng dẫn linh hồn đã tiến hóa theo đường của nó trở thành khó khăn. Để anh có thể nhận thức tầm quan trọng tột bực của việc dạy con, trước hết tôi sẽ nhắc tới vào điểm chính yếu liên hệ đến sự phát triển của con người.
“Sự phát triển của con người được chia thành giai đoạn từng bảy năm một, mỗi cái đánh dấu bằng việc xuất hiện một khả năng hay tính chất mới. Những bước này liên hệ chặt chẽ với sự phát triển về sinh hoạt của tuyến nội tiết trong cơ thể. Chuyện mà ta gọi là “sinh ra” thì thật sự chỉ là việc sinh ra hình hài thể chất, thân xác đạt được hiệu năng cao độ trong thời gian tương đối ngắn so với những thể vô hình của linh hồn. Thai nhi nằm gọn trong lòng mẹ, cái che chở nó suốt thời kỳ thai nghén, cũng y vậy những thể thanh hơn là thể sinh lực, tình cảm và trí mà tôi cố gắng giúp anh hiểu chút ít trong những buổi nói chuyện này, được bao bọc trong lớp vỏ bằng chất ether, chất liệu cõi trung giới, thượng giới trong lòng vũ trụ hay thiên nhiên, cho tới khi nó phát triển đủ để chịu được tình trạng của cõi trần.
“Ta không thể thúc ép sự phát triển thể chất bên trong lòng mẹ, thì tương tự vậy, không nên có nỗ lực nào nhằm thúc ép sự nảy nở của những thể thanh lúc chúng còn nằm trong lòng thiên nhiên, ma phải để nó diễn ra tự nhiên theo sự hướng dẫn thích hợp cho trẻ. Bởi thế cha mẹ phải sẵn lòng làm người hướng dẫn, cố vấn và bạn của con mình cho tới khi chúng được 21 tuổi, khi ấy thể trí của chúng phát triển đầy đủ và để cho con có thể thành người lớn tự tin, mọi kiểm soát của cha mẹ phải ngưng hẳn. Sau đó cha mẹ chỉ nên có lời khuyên nếu con hỏi xin, do việc họ có kinh nghiệm hơn. Ràng buộc con vào mình như cha mẹ ích kỷ hay làm, viện cớ này hay cớ kia, là gây tổn hại cho cả con và cha mẹ.
“Ba giai đoạn (mỗi cái dài bảy năm) đầu tiên trong sự phát triển của người được đánh dấu bằng việc sinh ra, việc hoàn tất thể sinh lực lúc bảy tuổi, thể tình cảm lúc 14 tuổi là tuổi dậy thì, còn thể trí chỉ hoạt động đầy đủ từ lúc 21 tuổi. Nơi trẻ sơ sinh, chỉ những tính chất tiêu cực của các thế này linh hoạt và trước khi linh hồn có thể sử dụng trọn vẹn các thể khác nhau, đặc tính tích cực của mỗi thể phải được chín muồi. Trong bảy năm đầu tiên của kiếp sống, lực sinh hoạt dọc theo cực âm của chất ether được linh động, nên trẻ trong lứa tuổi này có thông nhãn (clairvoyance) mang tính âm giống như người đồng cốt; ấy là lý do tại sao việc trẻ nhỏ có bạn vô hình chơi với chúng mà người lớn không thấy, là điều hết sức tự nhiên.
“Về sau theo cùng cách thức, lực làm việc trong thể tình cảm chỉ khiến cảm giác có tính thụ động cho đến khi tính chất tích cực phát triển; tùy tình cảm tự do biểu lộ trong thời gian này nhưng chúng có tính thoáng qua không lâu bền. Thời gian giữa năm 14 và 21 tuổi khi bản tính ham muốn phát ra sôi nổi không kiềm chế, có lẽ là năm tháng phải đối phó khó khăn nhất cho cha mẹ, vì họ phải học tính khoan dung và hiểu biết hết mức trong lúc ấy. Trẻ rất nhạy cảm với lực tác động theo cực âm của cái trí, ấy là lý do tại sao chúng rất dễ dạy, dễ bắt chước và ta phải thông cảm trong cách đối phó cho tới khi các đặc tính tích cực thắng thế. Khi điều này xảy ra thì linh hồn sẵn sàng và hăng hái muốn độc lập, và nó phải được cho làm vậy. Nó sẽ phạm lỗi lầm, mà tất cả chúng ta đều đã làm lỗi, ấy là một trong những cách thức quan trọng nhất để học bài học của mình.
“Trong những ngày đầu dưới trần, con người không được cha mẹ giúp đỡ mấy vì chính cha mẹ không có đủ kinh nghiệm về tiến hóa để giúp ai khác, nhưng lúc này hoàn cảnh đã thay đổi tới mức thuật làm cha mẹ (parenting) cần phải được xem là khoa học ai ai cũng cần phải biết. Cha mẹ nào thực hành việc kế hoạch hóa gia đình và chỉ có hai hay ba con để chăm sóc, có thì giờ cần thiết để học tập và sẵn sàng làm vậy, là có thể tự trang bị cho mình hiểu biết để trở thành người hướng dẫn thích hợp cho con. Cha mẹ cần ý thức rằng trẻ con không phải đồ chơi được giao cho họ để muốn làm gì thì làm, mà họ là người đồng hành được thiêng liêng tin cẩn giao phó việc chăm và hướng dẫn chúng. Cho trẻ có được hướng dẫn thích hợp là một trong những việc làm hệ trọng nhất mà nhân loại được trao cho thực hiện; theo luật karma cha mẹ chịu trách nhiệm trong cách họ thực hiện phần việc này, và theo đó mà cuộc tiến hóa riêng của họ diễn ra mau hơn hay chậm lại.
“Trách nhiệm trong gia đình cần được chia sẽ đồng đều giữa cha và mẹ, mỗi người có phần việc phải làm và đóng góp vào việc nuôi dạy con. Thuật làm cha mẹ khôn ngoan chỉ thực hiện được với cha mẹ nào ít nhất đã học hỏi về sự phát triển con người, và sẵn lòng hy sinh cá nhân. Để làm tròn phần việc giao phó cho mình, cha mẹ phải chuẩn bị để dạy bằng chính gương của họ. Bởi không có gì dễ bắt chước trong đời như một đứa trẻ, thật ra bắt chước là phương pháp chính của nó để khôn Iớn, thế nên cha mẹ phải tự luyện mình không bao giờ làm việc gì mà họ không muốn thấy con bắt chước.
“Để hướng dẫn sự phát triển tình cảm của trẻ, có hai đề tài cần được tự do thảo luận trong gia đình ngay từ những năm đầu tiên của trẻ, một là tính dục và cái kia là tôn giáo. Khi chuẩn bị làm cha mẹ, cha mẹ đã học khoa sinh học về cây cỏ, thú vật và con người và do đó hẳn không gặp khó khăn trong việc giải thích cho trẻ rất nhỏ các nguyên tắc về sinh sản trong các loài khác nhau, theo cách hợp với tuổi và mức hiểu biết của chúng. Cho trẻ rất nhỏ thì cha mẹ có thể tưởng tượng ra chuyện thần tiên lý thú trong loài thảo mộc, cho con xem nhụy cái và ví nó với thiếu nữ, nhụy đực với thanh niên; cho thấy phấn hoa và túi đựng phấn hoa ở chân con ong.
“Cha mẹ có thể nghĩ ra chuyện về nam và nữ, như so sánh noãn sào bên trong nhụy cái là công chúa bị nhốt trong lâu dài mong ước được giải cứu thoát cảnh cô độc, và thanh niên như nhụy đực sẵn sàng làm kỵ mã mặc áo giáp lên ngựa (tức con ong) đi tìm công chúa mà khi gặp thì thành hôn, để tới phiên cả hai có gia đình sinh con trai, con gái. Nghe có vẻ quá đơn giản và sơ đẳng nhưng dẫu vậy không kém phần quan trọng, vì nguyên tắc sinh sản giống y như nhau ở các loài trong thiên nhiên; thế thì khi trình bày theo cách đơn giản này, phương pháp truyền giống nơi loài vật và loài người sau đó sẽ theo đúng diễn tiến và là chuyện hết sức bình thường.
"Tôn giáo có thể được giảng giải theo cùng cách thức. Ta không thể mong một trẻ nào hiểu được triết lý và tín điều của những tôn giáo khác nhau, điều ấy có thể đợi tới khi trẻ đến tuổi biết tự suy nghĩ. Trong thời đại này việc dạy giáo lý nên là dạy về cuộc đời và lời giảng của đức Chúa lúc ngài dưới thế sử dụng thân xác của đức Jesus, hay đức Phật và giáo chủ những tôn giáo khác. Nếu ta không biết gì khác hơn thì bấy nhiêu đủ là khuôn mẫu tuyệt diệu cho người noi gương. Vì vậy hãy dạy giáo lý cho trẻ nhỏ bằng cách kịch hóa cuộc đời các vị giáo chủ, chúng là những bài học tinh tế về nhiều mặt cho người.
“Cũng giống như khi dạy về tính dục, giáo lý cần được đưa ra dưới hình thức thích hợp cho mức hiểu biết của
trẻ, như chuyện viết bằng ngôn ngữ giản dị và trên hết thảy lấy cha mẹ làm thí dụ. Nếu cha mẹ thực hành lời giảng trong kinh sách thì con cái sẽ làm theo, và chỉ dạy trong kinh sách tạo thành nền tảng vững chắc cho hiểu biết về lòng Từ bao la và Tình Huynh Đệ đại đồng.
“Cha mẹ nào có được lòng khoan hòa và hiểu biết nhờ xem xét sự việc theo cái nhìn của con trẻ, theo quan điểm của chúng, nhận định theo cái trí của con, thì khi việc dạy con đã xong, họ ở trong vị thế thuận lợi nhất để biết chính mình và giúp người chung quanh một cách khoan hòa và khôn ngoan, chuyện nên là phần việc vào giai đoạn phát triển này của họ, phần việc mà tới phiên nó mang lại những đặc tính tích cực về mặt tinh thần cho cha mẹ.
“Tôi chỉ có thể cho anh nét đại cương rất ngắn gọn, về tầm quan trọng của sự hướng dẫn mà cha mẹ cho ra và làm gương trong việc dạy con, tôi không có giờ đi sâu hơn vào câu hỏi về phương pháp giáo dục. Tất cả việc tôi có thể làm là vạch ra rằng chưa bao giờ nhu cầu đó lại to tát hơn, hay cấp bách hơn lúc này trên thế giới. Nếu cha mẹ tiếp tục từ chối bổn phận của mình, không muốn hy sinh “thú vui” để nhận lấy việc làm cha mẹ, và nếu tiếp tục có đổ vỡ gia đình như hiện nay, khiến không còn tình thương và sự hiểu biết cần cho việc này, thì ta phải nghĩ đến câu hỏi là nuôi dạy trẻ trong viện thành nhóm theo tuổi, do người được huấn luyện và thông cảm, không chừng là giải pháp khôn ngoan nhất cho vấn đề. Ít nhất đây có vẻ là thắc mắc phải được thăm dò. Tự nhiên là có biện luận đưa ra biện hộ cho cả hai cách, nhưng nếu quyết định nghiêng về việc dạy trẻ ở nhà thì phải có những biện pháp để vun trồng, và dạy thuật làm cha mẹ cho khôn ngoan.
“Tôi hài lòng là anh hiểu rằng con người không ngẫu nhiên mà có mặt trên đời. Anh đã ý thức rằng cần có vô số kiếp ở cõi trần nếu ta muốn có đủ kinh nghiệm để thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử cần thiết, tái đi tái lại mãi. Anh đã tự mình chứng nghiêm rằng cái chết mà nhiều người trần sợ hãi, chỉ là việc chuyển tự trạng thái tâm thức này sang cái khác, và không ai nên kinh sợ thay đổi ấy, ngay cả khi trước đó thỉnh thoảng có đau đớn thể xác một chút.
“Anh đã biết rằng sự bất bình đẳng trong đời không do Tạo hóa Thiêng liêng gây ra, thương người này và ghét kẻ nọ, mà bất bình đẳng là do mức độ khác nhau của người trên đường tới sự toàn thiện, hoặc sinh ra do hành động thiếu khôn ngoan của cá nhân trong những kiếp qua. Tôi tin chắc nay anh hiểu rằng không việc gì anh làm ở cõi trần bị phí phạm, vì vào cuối mỗi cuộc đời anh mang thành quả theo mình, chúng trở thành một phần của hạt nguyên tử trường tồn, là kho chất chứa hiểu biết của anh.
“Sau khi tôi rời anh hôm nay, một lần nữa anh lại là người duy nhất làm chủ vận mạng của mình. Tôi hy vọng là anh tiếp tục theo mối liên kết đã nối lại giữa anh và Daphne, vì anh có thể giúp cô nhiều chuyện và đổi lại cô cũng giúp được anh. Định mạng xếp đặt cho hai người sẽ cùng nhau làm việc trong một kiếp tương lai, và hai bạn càng yêu nhau thêm lúc này thì càng có tiến bộ khi tới ngày giờ hai người sống chung với nhau dưới thế.
Trước khi qua đời, không chừng anh sẽ gặp ở cõi trần một người anh cảm thấy bị thu hút, và có thể còn muốn lập gia đình. Nếu có việc ấy, hãy giải thích với Daphne điều anh muốn làm, vì sự dối gạt mang lại hậu quả của nó, ngay cả khi một người sống ở cõi tình cảm và người kia còn ở cõi trần. Dối gạt luôn luôn là chuyện không khôn ngoan vì nó tạo ra khó khăn, việc có thể mất nhiều kiếp mới giải trừ được hoàn toàn.
“Tôi không nghĩ là Charles sẽ làm anh bận tâm nhiều thêm. Bởi anh là linh hồn già dặn hơn hắn, hắn sẽ thấy khó là theo anh trên đường anh tưởng là thích hợp nhất cho hắn, nhưng anh vẫn có thể giúp được cho em và có lẽ sẽ nối kết với hắn trong một kiếp mai sau, vi tình thương tạo nên dây ràng buộc rất mạnh. Đừng quên trách nhiệm anh đã nhận với Mary, vì tuy tôi không nghĩ là nó có gì nặng nhọc nhưng không thể lơ là vì anh đã nhận lấy cơ hội. Người cứu trợ ở cõi trung giới anh gọi là Jim, có thể rất có ích cho anh và anh cho họ, vậy hãy vun trồng tình bạn đối với anh những khi nào có cơ hội.
“Hãy nhớ rằng hiểu biết được trao cho anh không phải trao để dùng cho riêng mình mà thôi. Anh có trách nhiệm với những ai khác kém may mắn hơn anh, và tôi thật lòng tin rằng anh sẽ không bao giờ quên điều này. Mọi hiểu biết chân thật phải được chia sẻ mà không giữ làm lợi riêng cho người có nó; tôi có thể đoán chắc với anh rằng chẳng những anh sẽ hạnh phúc hơn khi chia sẽ hiểu biết với người khác, mà họ cũng vậy, họ sẽ có lợi nhờ sự giúp đỡ của anh. Anh có thể thấy là nhiều người khi được trao cho bánh hiểu biết này lại không muốn ăn nó. Kẻ như thế chưa sẵn sàng đối với hiểu biết mà anh trao tặng, những điều ấy không nên ngăn anh cho họ cơ hội lắng nghe điều anh muốn trình bày.
“Nay tới lúc tôi chào anh từ giã. Nó không có nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nữa, bởi mối dây chúng ta tạo nên trong những tuần qua sẽ có hệ quả tất nhiêu của nó. Duyên một khi sinh ra thì khó mà gẫy đổ hoàn toàn. Sau khi rời anh tôi sẽ không còn biết anh làm gì, như được phép biết trong giai đoạn ngắn ngủi này hầu chỉ dẫn giúp anh, nhưng tôi tin chắc là tiến bộ anh đã có sẽ được duy trì. Nếu trong tương lai bất cứ khi nào thấy cần tôi, hãy tạo hình tư tưởng thực mạnh tượng hình tôi, và phát ra vào không trung ước muốn tiếp xúc với tôi. Tôi có thể không tiện đáp lại lời kêu gọi của anh ngay tức khắc, nhưng anh có thể tin chắc là tôi đã nhận được nó, và sẽ tiếp xúc với anh ngay khi công việc cho phép làm vậy. Tôi rất cảm ơn sự hiểu biết anh tỏ ra vào những lúc mà lời nói của tôi có vẻ như chỉ trích anh và người khác trong đời. Xin hãy tin rằng tôi không có ý đó.
“Một trong những triết gia cao cả có Iần nói rằng “Khi đệ tử sẵn sàng thì Chân sư luôn có đó”. Điều ấy rất đúng vì dù khó khăn của anh là sao, anh không hề một mình đối đầu với việc. Các Ngài không bỏ rơi kẻ nào làm việc cho các Ngài. Nổ lực của anh đã khiến anh tiếp xúc được với vài Đấng Cao Cả đang gắng sức hướng dẫn bước chân của chúng ta, trên đường thích hợp cho tiến triển của ta. Phản ứng của anh đối với sự giúp đỡ của các Ngài đã khiến cho anh được tiếp xúc gần hơn với các Vị ấy. Các Ngài biết giới hạn và khó khăn của ta, các Ngài chỉ chờ đợi ta hỏi xin trợ lực tức cho phép các Ngài trợ giúp, và lập tức sự giúp đỡ tới ngay.
“Mong sao sự Bình An mà các Ngài kiên nhẫn làm việc để mang lại, ở cùng anh và những ai tìm cách làm nhẹ bớt gánh nặng của nhân loại. Xin tạm biệt, cho đến khi theo ý Trời ta gặp nhau lần nữa."
Một tháng đã trôi qua kể từ khi tôi viết xong những ghi nhớ về cuộc nói chuyện sau cùng của Acharya, và ngay cả lúc này tôi thấy khó mà cảm nhận là thầy không còn đến thăm nữa. Tôi đã quen mong chờ những buổi gặp gỡ hằng ngày ấy theo cách mà tôi không thể tin là có được hồi hai tháng trước đó: tôi vô cùng sung sướng thấy mình có thể nhớ vào mỗi sáng nhiều chuyện đã làm hồi đêm, vì ban đầu tôi tự hỏi khả năng nhớ lại chuyện có mất đi, sau khi liên kết về trí não tôi có với Acharya bị cắt đứt. Mấy đêm trước khi tới thăm Daphne, tôi hỏi nàng về những phần tôi quên trong chuyến đi thăm Kim Đô của hai chúng tôi. Như Acharya đã nói trước thật đúng, nàng nhớ chuyện đức Chúa làm như hiện ra giảng trước đám đông tụ họp, nhớ rõ ràng như những chuyện khác chúng tôi làm đêm ấy. Vì vậy, tôi quyết định rằng những đêm nào mà tôi thí nghiệm cùng với Daphne, thì sau đó sẽ kiểm lại với nàng. Tôi đã làm bạn với một vài người sống trong thung lũng như Daphne, thấy rõ là họ không phản đối việc lâu lâu tôi đến chơi, dù vào lúc này tôi chưa phải là cư dân thường trực trong cộng đồng của họ.
Hai đêm trước, tôi quyết định tự mình đi lên cảnh thứ sáu vì trong một thời gian dài, tôi từng mong ước có chuyến đi trên một trong những thuyền nhỏ neo bên bờ hồ. Khi tới nơi tôi thấy là có hai chiếc còn trống, chiếc thứ ba có một người đơn độc dùng và đã đi gần phân nửa chặng đường. Tôi lấy một chiếc thuyền còn lại, gỡ dây neo buộc thuyền, nó lướt ngay đi không cho tôi làm gì thêm, đi vòng quanh hồ theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, và lúc nào cũng không xa bờ hơn 50 thước, y như tôi được nghe nói về thuyền.
Tôi cố công tham thiền và thấy rằng tuy dưới trần tôi chưa hề thành công về mặt đó, điều kiện ở cảnh này nơi cõi trung giới làm cho sự việc hóa dễ hơn. Tôi thử gieo ấn tượng về Hòa Bình cho những ai vào lúc này đang lèo lái vận mạng đất nước của họ, tôi thấy làm kẻ thù của ta muốn có hòa bình thì cũng quan trọng như làm chính phe ta muốn có. Chắc tôi không sao biết được nỗ lực của mình có lợi ích gì, nhưng ít nhất tôi đã sử dụng quyền năng tư tưởng, cái sinh ra kết quả hết sức kỳ diệu ở những cảnh cao. Tám giờ đồng hồ trôi qua, tôi cảm thấy có thúc giục phải trở về và dường như tôi không có hành động chi, lập tức tôi bị buộc phải rời thuyền quay về cõi trần. Từ đó tôi thắc mắc cái gì xảy ra cho con thuyền, nó vẫn còn trôi quanh hồ hay dòng nước ngừng không ảnh hưởng thuyền nữa khi vòng đã đi xong?
Tôi gặp Mary nhiều bận trong tháng qua, vì lời tiên đoán của Acharya rằng cô sẽ nhờ tôi nữa trong tương lai gần, hóa đúng trong vòng hai tuần sau khi tôi gặp cô lần chót ở bệnh viện. Tôi ráng hết sức để cho Mary lời khuyên mà cô cần, và may mắn là bé Irene cũng có mặt trong đa số các buổi nói chuyện của chúng tôi. Em nhạy cảm hơn Mary rất nhiều nên tôi thấy là rất có thể em nhớ phần Iớn những gì tôi chỉ dẫn, và sẽ nhắc lại cho chị nghe khi thức dậy buổi sáng.
Một đêm Jim trưng dụng tôi để phụ anh vì có nhiều người bỏ xác hơn. Công việc rất lạ lùng thích thú, và tuy từ tưởng tượng là diễn biến của những trường hợp thanh niên trẻ tuổi bị đẩy ra khỏi thân xác một cách đột ngột hẳn lúc nào cũng y hệt nhau, tôi lại thấy cách thức thay đổi theo mỗi cá nhân. Dần dần tôi học được phải làm gì và cho Jim hay anh có thể gọi tôi bất cứ khi nào thiếu người; tôi nghĩ đây là cách khác để tỏ lòng biết ơn với sự giúp đỡ tôi đã nhận được, và hoan nghênh nó như bất cứ cơ hội nào đến với tôi.
Tôi không gặp lại Charles nữa, cũng như không có cách nào tiếp xúc được với em ngoại trừ việc gửi hắn tín hiệu S.O. S. khi cần. Có lẽ hẳn gắng sống đời bình thường của mình ở cõi trung giới, và tôi thành tâm tin rằng chẳng những em hạnh phúc ở đó mà theo với thời gian, tôi sẽ có thể giúp đỡ ít nhiều cho em. Cái lý thú là nguyên nhân khiến tôi vô cùng đau khổ và kết cục là khiến Acharya đến chỉ dạy, nay lại có vẻ không quan trọng bằng những duyên khác mà tôi tạo nên. Nó cho thấy cách mà hiểu biết dù chỉ chút ít lại có thể thay đổi trọn cái nhìn của ta. Việc sống trong hai cảnh giới này làm tôi vô cùng bận rộn và tự nhiên là cũng hết sức lý thú. Đôi khi tôi cảm thấy cuộc sống ngoài thân xác mới là cái thật, và cuộc đời tôi ở thế giới cõi trần không quan trọng bằng. Tôi phải giữ cho đừng mê muội tin như thế, bằng không tôi sẽ trở thành người mơ mộng viển vông, và có thể không thấy được tầm quan trọng của những bài học mà kiếp sống này sẽ dạy tôi.
Tôi không sao bày tỏ được hết lòng biết ơn đối với những đấng Cao Cả cai quản hành tinh này. Trọn kế hoạch của việc quản trị thật hữu lý, mỗi bước ta có xem ra là hệ quả tự nhiên của bước trước đó, và khó mà tưởng tượng là làm sao chuyện có thể khác hơn. Điều tôi không hiểu là tại sao nhưng chỉ dẫn diễn ra cho tôi lại không có nhiều người hơn biết tới trong thế giới. Thỉnh thoảng tôi mong được gặp Acharya, nhưng tôi dằn lại ước muốn phát ra kêu gọi thầy. Ông sống đời tuyệt diệu biết bao!
Đôi khi tôi tư hỏi ngày nào đó tôi có thể được dùng cho những mục đích tương tự chăng; nếu ước nguyện của tôi thành sự thật tôi hy vọng sẽ phụng sự Chân sư, bất kể đó là Vị nào, tận tụy như Acharya đang làm. Tôi vẫn chưa quên lời dặn là phải chia sẻ với người khác bất cứ hiểu biết nào thâu thập được, và bằng cách ấy tỏ lòng biết ơn để với sự giúp đỡ đã đến với tôi. Tôi sẽ tiếp tục ghi lại kinh nghiệm mà nếu thấy chúng lý thú với người khác, chắc chắn tôi sẽ nghĩ: đến việc xuất bản cuốn tiếp theo sách này.
Bổn phận ghi lại những điều lạ lùng xảy ra cho tôi trong mấy tuần qua nay đã hoàn tất. Còn ai đọc lời thuật này có chấp nhận chuyện đã diễn ra là thật hay không, thì không phải là việc của tôi. Tôi hài lòng là khi ghi chép nó tôi đã làm tròn phận sự mình. Tôi tin chắc là ai có tai để nghe sẽ nhờ vậy được lợi.
Ta chớ quên lời mà vị Chân Sự cao cả nhất đã hứa với chúng ta khi ngài nói:
Hãy Mừng Vui Bởi Những Vị Canh Giữ Vận Mạng Thế Giới Không Hề Ngơi Nghỉ
GHI CHÚ
Dưới đây là vài giải thích xét ra nên có để làm rõ nghĩa chuyện.
Căn thể (causal body, còn dịch là chân thân)
Thể không hề hư hoại (nên được dịch là chân thân), tồn tại qua bao kiếp trong khi những thể xác, sinh lực, tình cảm, trí, đều tan rã lúc qua đời, và mỗi lần tái sinh, linh hồn được tạo bốn thể mới. Ba hạt nguyên tử trường tồn được lưu giữ trong căn thể lúc con người đã qua đời chưa tái sinh, nó chứa đựng tất cả quá khứ và tiềm năng con người, nên muốn biết rõ nguyên do sự việc hay mức tiến hóa một ai, cách chính xác nhất là nhìn vào căn thể (thể tàng trữ mọi duyên cớ). Rất ít người làm được vậy, thường họ chỉ nhìn vào cõi tình cảm, do đó có ít nhiều sai lạc.
Cõi tình cảm
Vũ trụ được chia làm nhiều cõi tùy mức độ nặng nhẹ của nguyên tử cấu tạo nên cõi ấy, càng lên cao chất liệu càng thanh. Có 7 cõi trong thái dương hệ từ trên xuống dưới:
Cõi Thiêng Liêng - Adi (Tối đại Niết bàn, Mahanirvana)
Cõi Chân Thần - Anupadaka (Đại Niết bàn, Paranirvana)
Cõi Tinh Thần - Atma (Niết bàn, Nirvana)
Cõi Trực Giác - Buddhi (Bồ đề)
Cõi Trí (Mental plane), còn gọi là thượng giới, chia làm hai:
a/Ba cảnh trên ứng với óc trừu tượng gọi là cõi thượng trí hay thượng thiên, vô sắc giới (arupa, tư tưởng trừu tượng không diễn tả bằng hình rõ ràng như cái nhà, con vật mà bằng biểu tượng và màu sắc; thí dụ ước nguyện thanh cao, lòng sùng tín biểu 1ộ bằng hình sao nhấp nháy màu tím hay xanh dương).
b/Bốn cảnh thấp ứng với óc cụ thể còn gọi là cõi hạ trí hay hạ thiên, sắc giới (rupa, tư tưởng biểu lộ bằng hình, thí dụ ta thương mến và nghĩ tới ai thì tạo nên hình nhỏ bé của họ trong thể tình cảm của ta, người có thông nhãn thấy hình ấy và do đó “đọc” được ý nghĩ của ta, hay tín đồ dự lễ tại chùa, nhà thờ nhưng lòng ao ước nữ trang, nhà cửa thì các ý này cũng thấy rõ trong thể của họ!). Đây là tây phương cực lạc, hay thiên đàng trong tôn giáo, chỗ ta ngồi nghỉ (Devachan) giữa hai kiếp sống, chờ đợi tái sinh.
Cõi Tình cảm (Astral plane) còn được dịch là trung giới.
Chữ astral - astre: tinh tú – được dùng vì với người quan sát từ cõi trần, nó lấp lánh như ánh sao.
Cõi Vật chất (Physical plane), còn gọi hồng trần, hạ giới.
Mỗi cõi lại chia làm 7 cảnh, ba cảnh thấp nhất của cõi trần là đặc, lỏng và hơi; bốn cảnh cáo gọi là những cảnh ether. Cõi và cảnh không phải là nơi chốn không gian riêng biệt, mà xếp chồng và thấu nhập vào nhau tựa như khí lẫn vào chất đặc, lỏng. Theo cơ tiến hóa, con người sau khi làm chủ một cõi sẽ tiến sang cõi trên nó để học hỏi tiếp; như vậy sau cõi trần, ta phát triển và kiểm soát tình cảm thay vì để chúng chế ngự, rồi kế đó học sử dụng lý trí, dùng óc thông minh tìm tòi học hỏi.
Chân ngã, hay Chân nhân
Xin đọc chữ phàm ngã.
Chân Sư (Master)
Bậc tiến hóa cao được năm lần chứng đạo trở lên và thâu nhận đệ tử. Đây là danh vị chúng ta gọi các Ngài, còn thì các Ngài tự xưng mình là huynh trưởng, người đi trước ta một đoạn trên đường tiến hóa. Một trong các Chân Sư quen thuộc là đức Jesus, vị đã cho đức Chúa (đức Di Lạc, thầy Ngài) mượn xác trong ba năm cuối đời Ngài ở Palestine để giảng đạo. Đức Khổng Tử cũng là một vị Đại Chân Sư.
Chứng đạo (initiation)
Còn dịch là điểm đạo, chỉ mức độ phát triển tâm linh và nghi lễ xác định sự đạt tới mức độ ấy. Mục tiêu con người trong chu kỳ tiến hóa này là đạt tới lần điểm đạo thứ năm. La Hán là bậc được bốn lần chứng đạo.
Đạo đồ, đạo gia (initiate)
Có hai nghĩa, nghĩa rộng nói chung ai đã nhận chứng đạo, nghĩa giới hạn chỉ người nhận chứng đạo ba lần trở xuống.
Đạo sư (adept)
Vị qua năm lần chứng đạo trở lên.
Đệ tử
Sự tiến hóa của con người được đánh dấu bằng việc mở rộng tâm thức. Mỗi chặng như vậy được gọi là chứng đạo. Khi thấy một người có khả năng và muốn giúp đời, Chân Sư thâu nhận họ và chỉ dạy, làm cho khả năng phụng sự của họ được gia tăng, còn việc người ấy cùng lúc được phát triển về tâm linh là chuyện phụ và không hề là lý do chính để được thâu nhận; nói cách khác, Chân Sư đi tìm và bị hấp dẫn bởi lòng thành tâm giúp đời, mà không phải ước ao được tiến bộ tinh thần. Hiện nay, việc Chân Sư thâu nhận để tử vẫn đang tiếp tục.
Giống dân (root race)
Sách ghi rằng trong đời sống của trái đất có 7 giống dân chính (mẫu chủng) xuất hiện, hai giống dân đầu đã mất tích hẳn, giống dân thứ ba còn lưu lại dấu vết là thổ dân ở Úc hay bushman ở sa mạc Kalahari của Nam Phi. Giống dân thứ tư đa số ở châu Á, ngày nay là tầng lớp thấp của Trung Hoa, Mông Cổ. . . , giống dân thứ năm là người da trắng, còn hai giống dân chót chưa ra đời. Theo nguyên tắc vào một thời điểm chỉ có ba giống dân hiện diện cùng lúc trên địa cầu. Mỗi mẫu chủng lại có 7 chi chủng (sub - race, giống dân phụ), theo đó Nhật Bản là chi thứ 7 của mẫu chủng thứ 4, còn chi thứ 6 của mẫu chủng thứ 5 đang bắt đầu xuất hiện, và mỗi chi lại có 7 nhánh phụ (branches).
Mỗi giống dân chính có đặc tính riêng, có tính chất phải khai mở trong thiên cơ: giống dân thứ tư phát triển tình cảm, giống dân thứ năm trí tuệ và giống thứ sáu là trực giác. Ta chớ lầm cái chót với chi thứ 6 của giống thứ năm. Bởi có sự liên kết giữa những con số, chi thứ sáu của giống thứ 5 có liên hệ với giống dân thứ sáu, nhưng đặc tính nổi bật của chi này sẽ là việc sử dụng óc trừu tượng mà không phải hoàn toàn hướng về trực giác. Lại nữa, nó không có nghĩa tất cả người Á châu đều thuộc giống thứ tư và người da trắng nào cũng thuộc giống thứ năm; các linh hồn tiến hóa đầu thai vào bất cứ nơi nào cần để phụng sự và cũng để trang trải nhân quả, hay học điều cần phải học.
Hạt nguyên tử trường tồn (permanent atom)
Mỗi thể xác, tình cảm, trí có một hạt nguyên tử trường tồn, cái vẫn tồn tại sau khi những thể tan rã lúc con người qua đời. Chúng lưu trữ tất cả kinh nghiệm con người đã trải qua trong ba cõi. Khi tái sinh, thiên thần dựa vào hồ sơ trong ba hạt mà tạo những thể thích ứng với nhân quả.
Hình tư tưởng (thought form)
Mỗi tư tưởng cụ thể hay trừu tượng, tình cảm con người phát ra đều tạo nên hình ở cõi thanh, chúng có màu sắc và hình dáng tướng ứng với đặc tính của các ý. Nếu ý mạnh, hình có thể phóng tới đối tượng, mang theo năng lực của nó và đem chuyện lành hay chuyện dữ tới họ. Lời cầu nguyện của bà mẹ là một thí dụ, nó mang tình cảm thương yêu đến con bà cũng như lời cầu nguyện cho người chết có kết quả rất thực, giúp họ sớm thức tỉnh hơn với cảnh đời mới, và thấy bình an trong những ngày đầu chuyển tiếp giữa hai đời sống.
Hồn Khóm (group soul)
Thực thể thấp hơn loài người như cây cỏ, thú cầm chưa có phần hồn riêng biệt mà có một linh hồn chung gọi là hồn khóm. Khi chết mỗi sinh vật quay trở về nơi đây mang theo kinh nghiệm riêng của chúng, và thêm vào khối kinh nghiệm chung của hồn khóm. Vì có sự đóng góp và chia sẻ kinh nghiệm này mà mọi loài (hoa hồng, chó v. v.) có những đặc tính chung, thấy biểu lộ nơi mỗi sinh vật thuộc về loài ấy bên cạnh đặc tính riêng của sinh vật.
Karma.
Nhân quả.
Phàm ngã (Personality, còn dịch là phàm nhân)
Cái ngã, cái tôi, cá tính, chỉ phần thấp của linh hồn trong mỗi kiếp sống ở cõi trần. Trong các sách về Minh triết Thiêng liêng, chữ Ego với E hoa chỉ chân nhân, cái tôi thiêng liêng bất diệt, phần linh hồn; còn chữ ego với e thường chỉ phàm nhân. Ý nghĩa hai chữ ego này khác với lối dùng của khoa tâm lý và cần phân biệt, cũng như đôi khi ego với e thường lại ngụ ý chân nhân.
Tinh linh (Elementals)
Là những sinh vật ở ba cõi vật chất, tình cảm và trí, lo việc tạo dựng mặt hình thể của sự sống. Thường khi con người không thấy được chúng. Sinh vật chưa có ngã thức riêng, được sai khiến bằng thần chú để làm chuyện lành hay dữ tùy ý người sử dụng chú ngữ. Các phép thuật như hô phong, hoán vũ chính là sự điều khiển các tinh linh này. Tinh linh đất như chú lùn tạo nên tinh thể đá, khoáng thạch, làm mùa màng chín, cây lá đổi màu; tinh linh không khí sinh ra gió, thủy tiên sống ở suối, thác, biển và sinh ra mưa bão v. v. Tinh linh tiến hóa cao có được ngã thức và thành thiên thần. Chính thiên thần điều khiển tinh linh tạo nên các thể con người trong giai đoạn tạo hình khi tái sinh, nhân gian gọi các ngài là bà mụ.
Tinh linh thấp kém ưa thích làn rung động nặng nề, thô kệch, hung bạo, nên có hiện tượng sát sinh để tế thần. Trên đường tiến hóa hình chỉ V nói ở trên, tinh linh là sinh vật đang tiến hóa theo chiều đi xuống nên tuy có vị trí chính đáng trong thiên cơ, mục tiêu và đường lối hoạt động của chúng đối nghịch hẳn với người. Các tôn giáo lớn đều răn dạy tín đồ tránh xa việc tập luyện cùng ham muốn huyền thuật, vì huyền thuật sử dụng tinh linh mà với ai thân tâm chưa trong sạch, chưa thông thạo huyền bí học, đó là việc làm tối nguy hiểm.
Thể Sinh Lực (etheric body, vital body, còn dịch là thể phách)
Một thể thanh của con người, làm bằng chất ether cõi trần, có nhiệm vụ luân lưu sinh lực prana từ mặt trời đi vào thể xác.
Nhóm Huynh Đệ Chánh Đạo (White Brotherhood)
Tổ chức những đấng cao cả chăm sóc sự tiến hóa trên địa cầu, còn được gọi là Thiên đoàn (Hierachy), Đại đoàn Chưởng giáo, hay Đại đoàn. Trong sách về Minh Triết Thiêng Liêng, chữ Hierachy với H hoa được dịch như trên, với h nhỏ dịch là loài, thí dụ loài vật, loài người. Đức Phật, Đức Chúa và các Chân Sư đều thuộc về Thiên đoàn.
Thông nhãn, thông nhĩ (clairvoyance, clairaudience)
Khả năng thấy và nghe được sự việc ở cõi khác, còn được dịch là thần nhãn và thần nhĩ, nhưng xét ra chữ thần không đúng lắm vì ai cũng có thể luyện tập để có khả năng này (còn nên có hay không lại là chuyện khác), chứ không phải chỉ thần thánh mới có; nó cũng không phải là nhãn quan tinh thần mà trong nhiều trường hợp là biểu hiện của phần tâm linh thấp, chẳng hạn thú vật như chó, mèo, ngựa và người rất sơ khai ở các bộ lạc da đỏ hay Phi châu có khả năng ấy, nên chữ thông (clair: trong sáng) chính xác hơn.
cảm ơn huynh đã cho muội được dịp "mở mắt" và hiểu được ít nhiều gút mắt trong cõi đời này....Cảnh giới trong sách này tựa tựa như "Lục Đạo" trong sách nhà Phật nhuynh nhỉ.......
Bạn đọc chưa kĩ rồi, cõi tình cảm là cõi vật chất vô cùng thanh nhẹ, hình tướng con người, sự vật,v.v.. sẽ bị uốn nắn theo cái mình nghĩ. Bạn nghĩ có địa ngục ư? Khung cảnh sẽ hình tượng cho bạn thấy địa ngục như bạn nghĩ. Tương tự cũng như thiên đàng là vậy.
Còn trong chuyện CBCG, cái cô thấy không hẳn là không có, nhưng rất có thể các chư vị muốn cô là nhân chứng cho những gì trong kinh điển miêu tả với địa ngục để trừng phạt kẻ xấu, với mục đích răn đe người đời. Việc tạo ra khung cảnh địa ngục ghê rợn bằng vật chất thanh nhẹ của cõi trung giới thiết nghĩ không phải là khó đối với các ngài. Tất cả có thể chỉ là vì mục đích phục vụ, giáo dục nhân loại thôi.
Mà suy cho cùng địa ngục hay thiên đàng chẳng mang tính tương đối hay sao? Cần gì phải xuống tới trung giới để thấy địa ngục, bạn ngược thời gian về lịch sử, ví dụ như nhà tù Côn Đảo, chẳng phải người ta nói đó là địa ngục trần gian? Hay ví như với tâm trạng người đang yêu và được yêu, khung cảnh ghế đá công viên đối với họ có thể coi là thiên đường hay không? Theo mình nghĩ học huyền bí nên nắm được bản chất của vấn đề, việc công nhận hay không công nhận địa ngục có quan trọng gì?
Ồ chưa, mình chưa đủ trình độ đâu, để trải nghiệm được chuyện này phải thuộc hàng đệ tử chân sư. Nhưng mình nghĩ tin hay không là một chuyện khác. Có những thứ đâu cần phải trải nghiệm rồi mới tin hả bạn. Bạn có tin là có đức Phật không? Bạn có tin là có luật nhân quả hay luân hồi hay không? Không phải ai cũng có đủ niềm tin khi không tự mình trải qua hay chứng nghiệm đâu bạn ah. Niềm tin vào Minh triết thiêng liêng có được là do bạn đã trải qua nhiều kiếp mà có được đấy. Nó đã nằm trong tiềm thức con người (bạn đọc lại phần nói về nguyên tử trường tồn) mà khi đầu thai lại cho dù không thể nhớ được những sự kiện trong những kiếp trước nhưng cũng có thể giúp mình cảm nhận được cái gì nên tin hay cái gì không. Nếu nghiên cứu kĩ bạn sẽ thấy hệ thống triết lý đó cực kỳ logic, sâu sắc và không mơ hồ chút nào cả. Nhưng nếu bạn còn nghi ngờ thì cứ xem đó là những lý thuyết tốt nhất hiện có để giải thích những bí mật còn ẩn chứa trong cuộc sống hay trong vũ trụ. Những lý thuyết tốt đẹp ấy nếu con người biết và làm theo thì giúp cho nhân loại trở nên tiến bộ hơn? Thế thì tại sao không đáng để chúng ta tham khảo.
Vâng theo mình biết thiền nên được chỉ dẫn có phuơng pháp đàng hoàng để tránh những vấn đề mà bạn đã đề cập. Thông thường trước mỗi lần thiền có bài nguyện để thỉnh các chư vị hộ độ trong lúc tập.
Nếu bạn thành tâm muốn thực hành thiền, mình có thể giới thiệu một pháp thiền, đã từng được huynh Love Tamlinh giới thiệu trên TGVH. Pháp thiền này trước đây là bí truyền nhưng sau được cho phép phổ truyền cho mọi người cùng tu tập. Pháp thiền này đặc biệt là tập ở tư thế nằm nên gọi là ngọa thiền của ngài Lục Tổ Huệ Năng. Mình và một số người khác đã tập và thấy hiệu quả chỉ một thời gian là thấy cơ thể khỏe mạnh, bớt tham si. Bạn nên tập và giới thiệu cho mọi người cùng tập.
NGOẠ THIỀN PHÁP ẤN
Pháp ngọa thiền của Lục Tổ Huệ Năng
Do hai ông Pháp Minh và Tâm Tuệ nhận và phổ biến.
Khẩu quyết:
Hôm nay là ngày… tháng… năm...
Đệ tử con tên là ( Tín chủ con tên là ): … Tuổi:…. Hiện cư ngụ tại số nhà: …,
xin gột rửa tâm thân ý đủ đầy.
Sẵn sàng đón nhận Thiên Ân Mẫu ngự ban:
+ Nhất hỗn nguyên,
+ Nhị địa linh,
+ Tam tiên thiên.
Xin được bồi hoàn nguyên sinh khí- xả trược-trục độc khỏi nhục thể, xác phàm.
Kính tạ thỉnh nhận lệnh – Đa tạ Thiên ân.
Nhập thiền:
Trước khi thiền đọc lời khẩu quyết trên sau đó nằm hoặc ngồi kiết già, bán già đạt hiệu quả như nhau nhưng nên nằm xuống sàn có lót đủ ấm.
Hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng thật sâu chậm 5 lần để an bình tâm thân,
Tạo hai gót chân chạm nhau thành hình chữ V,
Hai bàn tay xòe duỗi xuôi tạo thành thước đo cảm xạ, khi thấy ngón tay (thường ngón giữa) máy động nhẹ,
Lấy hai ngón tay cái bấm nhẹ với hai ngón giữa,
Để hai tay xuôi thoải mái, tạo thế Ngũ Tâm Triều Thiên (Năm huyệt hướng lên Trời gồm: Bách hội, 2 Lao cung, 2 Dũng tuyền hướng lên trên),
Mắt nhắm tư thế thiền,
Lưỡi để chạm lên hàm ếch,
Hít bằng mũi, thở bằng miệng chậm dài lúc đầu hơi nhanh sau chậm dần theo Qui Tức Đại Pháp (Rùa thở).
Ta sẽ thấy dòng khí từ từ lan chuyển khắp châu thân, tất nhiên mỗi người sẽ có cảm nhận khác nhau.
Tập lâu thành quen và thở như rùa thở hay như người ta nói gần như không thở bằng phổi mà thở qua lỗ chân lông, Đan điền mấp máy phập phồng.
Xả thiền:
Xả khi thấy một trong hai hoặc cả hai ngón tay cái và ngón tay giữa tự rời ra.
Hai bàn tay úp xuống (áp địa xả trược, tà), tách 2 ngón cái và giữa, 2 gót chân tách rời. Sau khi xả có thể tiếp tục thiền ngay chu kỳ khác.
Thời gian mỗi lần thâu – xả của mỗi người không giống nhau.
Nếu có thời gian thì thực hiện thâu – xả nhiều lần.
Theo pháp này có Đức Chuẩn Đề, Tam Đại Tiên Thiên hành truyền trực tiếp độ, các khẩu quyết chú ấn tâm truyền bởi đặc ân theo phúc đức tự tại của bản thân.
Thường hành thời gian vào tứ thời tý- ngọ-mão-dậu nhưng ít nhất tý, ngọ hai thời trong ngày.
NHỮNG ĐIỀU LƯU Ý
Đây là pháp thiền phổ thông nên cho phổ cập, hành giả khi đọc khẩu quyết là đang thỉnh cầu và sẽ nhận được sự gia trì của thầy Vô Vi, cần phải tự hiểu được 3 thứ khí nói trên từ đâu mà có, tại sao lại mất hoặc giảm, phải phục hồi, các điều kiện để phục hồi và duy trì.
Khi phục hồi đủ lượng cần thiết có thể hành giả sẽ nhận đựơc một duyên lành là nhận một khẩu quyết khác để nhận Ân điển khác, lúc đó hành giả sẽ dần được khai mở một hay nhiều trong Lục thông.
Không biết có phải thực tế do có nhiều pháp thiền theo nhiều thầy. Đa số theo thầy trần gian nên kết quả có thể không mĩ mãn mà Các Vị Tổ trong vô hình mới ban cho chúng ta cách này chăng? Như vậy ai cũng có thầy, nhưng lúc này ta theo thầy Vô Vi cho hiệu quả phải không?Khi nhận pháp này hành giả nên cho người khác cùng tập rồi cùng thảo luận về 3 loại khí trên. Đã có câu trả lời nhưng hành giả tự tìm.
Trước đây vì trở ngại do chưa có mạng thông tin toàn cầu mà việc hoằng pháp có trở ngại. Vì thế mà ít hành giả thành công, việc truyền dạy của Các Vị Tổ bị tam sao thất bản, nhiều thầy trần gian coi là bảo bối của mình, của môn phái mình nên làm cho sự tinh tấn của hành giả chậm, dẫn tới số ít được trở về, không đúng mong muốn của Các Vị Tổ. Các Vị Tổ khuyên chúng ta không nên thương mại hóa, tạo phe phái, Pháp Bảo của chung nhân loại nên không ai được lãnh truyền mà coi là của riêng mình.
Các ông Pháp Minh và Tâm Tuệ nhận giờ Tý, ngày 10/4/Kỉ Sửu.
Phụng mệnh phổ biến.
Mình đang đánh máy, chuẩn bị post tiếp một tác phẩm hay của Thông thiên học, cuốn sách đề cập đến hành trình tái sinh qua nhiều kiếp của một nhân vật, thông quá đó người đọc có cơ hội tìm hiểu thêm về các quy luận nhân quả, luật tiến hóa... một cuốn sách đáng để đọc.
Bài hay quá nên đệ mạn phép copy đem về blog làm của riêng lun rồi, hihi. Tất nhiên là có ghi rõ nguồn từ thegioivohinh.com và người post là huynh TuTam.
Mong huynh bỏ qua cho!
Bạn làm vậy là tốt vì tạo điều kiện cho nhiều người khác tiếp cận với Minh Triết thiêng liêng, mình cảm ơn bạn mới đúng.
Vì lý do tuyệt bản nên có một vài chỗ thiếu logic nhưng cũng đáng đọc và suy ngẫm. Xin chân thành cảm ơn TuTam!
Mình xin góp thêm lời thảo luận với các bạn về đề mục này, theo mình Địa ngục phải là cõi tồn tại khách quan và tồn tại không chung trường năng lượng với cõi trung giới (tức cõi tình cảm, cõi cảm xúc, cỏi vía - đây là các cách gọi khác của cõi trung giới) và cũng không chung trường năng lượng với cõi trần chúng ta, mà nó thuộc về trường năng lượng thô trọc hơn nhiều, muốn đến đó cần phải hội đủ điều kiện , ví dụ người tham quan phải có người dẫn đi và được phép cho vào cảnh giới này, lí do là người tham quan không có trường năng lượng thô trọc cùng loại để mà lọt vào đó! Đấy là lí do tại sao các nhân vật trong cuốn sách này không thấy Địa ngục thật sự với hệ thống nhà giam và cực hình tra khảo, vị Thầy chỉ cho nhân vật Henry tình trạng của một số linh hồn bên cõi trung giới còn tham luyến nhiều đến cõi trần nên vất vưởng đau khổ vì them khát những thứ họ quen dùng lúc còn ở dương thế như bia rượu…và cho rằng đó chính là biểu hiện của Địa ngục thì tôi cho rằng Ngài ấy sai lầm.Bạn nên nhớ rằng các vị Thầy giác ngộ cũng có nhiều mức giác ngộ, cho nên không phải ai có tiến hóa tâm linh thì đều hiểu biết triệt để các bí mật của vũ trụ, bạn nên nhớ Đức Phật năm xưa dù đã đạt tới tầng Như Lai, tức đã vuợt khỏi các tầng sắc giới được mô tả trong cuốn sách này, mà Ngài còn nói rằng “nếu ví các bí mật của vũ trụ như khu rừng thì hiểu biết của ta về nó chỉ như nắm lá trong tay”, tức là Ngài ngụ ý trên tầng Như Lai còn nữa chứ chưa hết. chưa là đích cuối cùng trên chặng đường khám phá Chân nhân, tức giáp mặt Thượng Đế!
Vậy không có gì lạ nếu vị Thầy cho là không có cõi địa ngục thật sự, chỉ vì ông ấy chưa có cơ hội đến đó bao giờ.Còn những kẻ thực sự không bao giờ tin có cõi đó, cho rằng đều do óc tưởng thượng của con người bị tác động bởi các giáo lý tôn giáo nhào nặn ra cái gọi là Địa ngục, lại là những kẻ có nhiều “cơ hội” để nhập hộ khẩu vào đó sau khi chết!
Vì họ không tin, nên khi sống nếu có cơ hội dùng quyền lực để áp bức , đối xử tàn ác với đồng loại là họ không chùng tay.Nếu có cơ hội làm giàu trên đau khổ của bao người khác là họ làm ngay.Những kẻ này mà tin có địa ngục thì họ có dám làm không?Vậy làm sao có chuyện sau khi chết họ lo sợ đọa địa ngục, vì vậy mà nguyên liệu cõi trung giới sẽ kết hóa thành địa ngục riêng dành cho họ? Vậy bọn người này hiện diện ở tầng nào của cõi trung giới? Có bao giờ bạn đọc thấy hoặc nghe thấy chuyện một tài liệu nào đó đề cập đến việc có ai đó nhìn thấy hoặc tiếp xúc được theo cách nào đó với linh hồn Hitler or Võ Tắc Thiên., Tần Thủy Hoàng..? Bọn người này sao không có vẻ gì đang tồn tại bên trung giới, vậy họ ở đâu, nếu không phải là Địa ngục?
Các bậc Thầy ở mức cao, có quyền năng dẫn dắt loài người, hẳn buộc phải tạo ra cái cõi Địc ngục nhằm cải tạo các linh hồn quá sa đọa, điên rồ và dùng hình phạt nghiêm khắc để giúp họ trang trải bớt tội nợ nặng nề để có thể đầu thai lại cõi thế được.Bạn cứ nghĩ xem có đúng vậy không.Cho nên cõi Địa ngục là có thật, không phải do Thượng Đế tạo ra từ thưở ban sơ của vụ trụ. Mà do các vị Cao Đồ dùng ý chí các vị ấy để tạo ra nó ,khi mà các vị ấy thấy con người đã tiến tới mức biết dùng trí khôn để tàn hại nhau dưới danh nghĩa này, chủ thuyết nọ.Địa ngục không tồn tại do óc tưởng tượng của vài cá thể linh hồn!
Vâng bạn ạ, tài liệu là như thế nhưng còn cảm nhận bằng trực giác mỗi người mỗi khác bạn ạ. Trong chuyện này chẳng ai chứng minh được là đúng hay sai, tất cả đều chỉ là cảm nhận cá nhân từng người thôi bạn ạ. Riêng mình, thì vẫn tin rằng địa ngục hay thiên đàng chẳng qua là trạng thái của tâm thức. Nói nó tồn tại cũng đúng mà không tồn tại cũng chẳng sai tùy cách nhìn nhận. Thân mến!
Một cuốn sách hay nhưng có vài điểm hơi mù mờ, và đặc biệt với quan điểm đạo Phật tôi nghĩ hệ thống địa ngục là rất rõ ràng chứ ko phải nói do tâm thức mỗi người, dù làm ác cỡ nào cũng ko ai điên dại tự tạo ra tâm thức của mình cảnh địa ngục để đày đọa mình, có cũng do có sự tác động từ bên ngoài để tâm thức họ phải bị thấy như vậy và chịu như vậy. Nếu nhân quả và tái sinh trong đây giải thích có sự tác động dù ko nói rõ chi phối như thế nào thì địa ngục cũng bị tác động là bình thường.