-
Việt Nam - Lý Thái Tổ
PHẦN GIỚI THIỆU
Nhân dịp kỷ niệm 1000 Thăng Long 1010 – 2010, tác giả Oanh Vàng (tên thật là Nguyễn Thị Lạc) đã đồng ý cho người đại diện của mình là NNC Nguyễn Tuấn Thanh đưa 3 tập thơ lục bát khoảng 10.700 câu là Bộ Dã Sử về một Con Người Vĩ đại là Hoằng Trí – Lý Công Uẩn có tên: “Việt nam Lý Thái Tổ” lên mạng TGVH để chúng ta hiểu thêm về: Tiểu sử của Ngài, Thiên bẩm của Ngài, Sự nghiệp vĩ đại của Ngài, Ảnh hưởng của Ngài tới Đạo Phật Việt nam, Quốc hiệu Việt nam,… Ba người Thầy Vạn Xuân, Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân trụ trì ba chùa Vạn Pháp, Cổ Bi, Cổ Pháp đã dạy cho Ngài, một người có Thiên mệnh, khai mở đủ ba chữ Bi – Trí – Dũng để trở thành một vị Quân Vương toàn năng, toàn tâm, toàn đức, toàn trí, toàn dũng…
Tuy là Dã Sử nhưng Các Vị Linh Thiêng có cho ta biết về: Nhân quả, Luận về Đạo Làm Người, Đạo Phật, Cách tu tập… trong khi kể về Ngài. Xin hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc.
Vì lý do NNC Nguyễn Tuấn Thanh phải tranh thủ lúc rảnh tự đánh máy và hiệu đính nên chương trình lên mạng sẽ kéo dài.
Bản quyền thuộc về tác giả.
Thông qua người đại diện là NNC Nguyễn Tuấn Thanh
Mọi trích dẫn ghi rõ: Nguồn TGVH.
-
Việt Nam Lý Thái Tổ
Ngày 09/9/ Bính Tý
QUYỂN NHẤT
Ba năm thiên tai hạn hán mất mùa điềm Chúa Thánh Minh Vương ra đời
Bá hộ Trần Hà làm công đức
(tiểu mục do TGVH đặt)
Non sông một dải sơn hà
Nước non Nam Việt con nhà Lạc Long
Hiền thay dân chúng Lạc Hồng
Mùa màng thất bát ruộng đồng quạnh hiu
Đoàn gà lạc mẹ chích chiu
Bốn phương đói rách rất nhiều khổ đau
Xưa thì nước mạnh dân giàu
Nay vì nắng hạn đồng bào héo khô
Nhà thiền nhiều kẻ nam mô
Nhà nông không kẻ ra vô cúng chùa
Vì dân đói lạnh thất mùa
Nhằm năm nắng hạn cửa chùa quạnh heo
Con dân lắm kẻ đói nghèo
Nhà chùa cũng phải tùy theo thế thời
Tích này nhắc lại để đời
Cho dân bốn biển nhớ thời xưa xa…
Thuở xưa có cụ Trần Hà
Ở làng Hưng Thịnh vợ là Thị Lâm
Vợ chồng đồng ý đồng tâm
Sống làng Hưng Thịnh mười năm qua rồi
Vợ chồng là kẻ cút côi
Họ hàng không có nổi trôi bình bồng
Cũng nhờ tạo hóa thương lòng
Độ cho phát đạt vợ chồng hưng nha
Tôi trai tớ gái đầy nhà
Ruộng vườn cũng có heo gà thiếu chi
Dân làng Hưng Thịnh hàn vi
Trần Hà, Lâm thị nhu mì hiền lương
Thấy dân đói khát nên thương
Lâm thị bà mới phân tường trước sau:
Nay ta là kẻ có giàu
Nhớ xưa đói khổ biết bao nhọc nhằn
Nay làng Hưng Thịnh khó khăn
Dân nghèo đói khổ thiếu ăn đau sầu.
Trần Hà kể rõ đuôi đầu:
Muôn dân đói khổ có đâu lạ gì
Nhà mình lúa thóc thiếu chi
Đem ra bố thí cứu thì vạn gia
Tôi đây nghĩ chuyện xưa xa
Nghĩ đời thượng cổ mấy mà ngàn năm
Đây là chuyện cổ xa xăm
Năm châu bốn biển luôn tâm nhớ đời
Mỗi khi ách nước nạn trời
Ba năm liên tiếp khổ thời hiền lương
Nắng mưa thay đổi lạ thường
Đó là Chúa Thánh Minh Vương ra đời
Nay đà đói khát khắp nơi
Ắt có Thánh Chúa ra đời chẳng sai.
Lâm thị bà mới nói rày:
Đó là ông kể chuyện ngày xưa xa
Còn nay dân nước Nam ta
Mùa hè thì nắng nám da cháy mày
Mùa thu bão lụt tới hoài
Hạn không nước uống đắng cay nhà nhà
Đến khi gió bão mưa sa
Cuốn trôi đồ đạc cửa nhà dân đen
Nhà giàu cao cổng chắc then
Của ăn của để đáng khen không mòn
Nhà nghèo thì chẳng có còn
Cửa nhà trôi hết mẹ con xa lìa
Nếu ông so với xưa kia
Dân còn thống khổ đầm đìa lệ sa.
Trần Hà liền mới nói ra:
Ba năm dân khổ cửa nhà tiêu tan
Xuất sanh Chúa Thánh rõ ràng
Bà nên yên chí lo toan ngày ngày
Mình nghèo cực khổ quen tay
Nay giàu dư của thương thay bần hàn
Đón mừng Chúa Thánh Minh Hoàng
Nên đem lúa gạo bạc vàng cứu dân.
Lâm thị bà mới liền phân:
Tôi nay thai dựng đã gần khai hoa
Ông sai tôi tớ trong nhà
Hai ngàn đấu lúa thí ra dân nghèo
Cho dân thoát khỏi nạn eo
Bố thí kẻ nghèo lấy đức cho con
Vái trời tôi được vẹn tròn
Đến khi thai sản mẹ con mạnh lành
Tạo phước tích đức để dành
Cho con cho cháu thơm danh sau này.
Trần Hà mới nói như vầy:
Hai ngàn đấu lúa kho nầy đã lưng
Sẵn lòng tôi cũng vui mừng.
Tôi trai tớ gái đều bưng ra làng
Phát cho kẻ đói hân hoan
Có Trần bá hộ lòng vàng thương dân
Lúa nhà bố thí hai phần
Vợ chồng Bá hộ yên thân vui cười
Dân làng Hưng Thịnh vui tươi
No cơm ấm áo người người vẻ vang
Tiếng lành dân chúng đồn rang
Bá hộ trong làng tuổi trẻ đại nhân
Thật lòng rộng rãi thương dân
Họ hàng không có thân nhân chẳng người
Lòng nhân hiền đức vẹn mười
Sau này tuổi thọ của người đủ trăm
Dân làng đã thọ ân thâm
Lo phần tuần tự ba năm mới là.
-
Tai họa do con người giáng xuống dân làng Hưng Thịnh và gia đình Trần Hà
Tiếng lành đồn đại vang xa
Ở thôn Lập ấp lâu la lại nhiều
Toàn là ma quái quỷ yêu
Hiệp năm trăm đứa lo điều hại dân
Cùng nhau chúng nó luận phân
Bá hộ họ Trần giầu đã quá tay
Hai ngàn đấu lúa cho ngoài
Trong kho ắt hẳn còn rày mấy muôn
Từ đây đến đó ba truông
Một truông núi thẳm hai truông đồng lầy
Chúng ta đông đủ hiệp đầy
Đánh làng Hưng Thịnh phen này giàu to
Cùng nhau chúng nó hẹn hò
Đến làng Hưng Thịnh lần dò tới nơi
Dân làng xem thấy lạ đời
Người đâu vạm vỡ đi chơi đầy đàng
Mặt mày thiếu vẻ nghiêm trang
Hay là ăn cướp xa đàng tới đây
Trông xem đông đảo vầy vầy
Dân chúng làng nầy thì lại đói đau
Riêng nhà Bá hộ có giàu
Chẳng có nhà nào dư để dư ăn
Dân làng xúm lại bàn rằng
Bấy lâu Bá hộ nuôi ăn cả làng
Nhờ người con cháu gia đàng
Nhờ người có của cả làng ấm no
Nay sao kẻ lạ thăm dò
Dân làng hiệp lực điều lo thế nầy
Những ai trai sức hiệp vầy
Những cô thiếu nữ đủ đầy khôn ngoan
Cùng nhau đi đến gia đàng
Của Trần Bá hộ luận bàn nạn tai
Chúng tôi còn sống ngày nay
Nhờ Trần Bá hộ nhiều ngày ra ân
Nay xem khắp nẻo xa gần
Có người lạ mặt nối chân đầy đàng
Nghi là cướp đảng cường gian
Chúng tôi đi đến giữ an ông bà
Trần Hà nghe nói thở ra
Tôi trai tớ gái trong nhà cũng hay
Dân làng Hưng Thịnh ít thay
Trẻ già bé lớn hơn rày ba trăm
Sức làng Hưng Thịnh bao lăm
Phần nhiều lương thiện thiệt tâm cấy cày
Nghề văn nghiệp võ không ai
Binh thơ đồ trận không hay không tường
Nay nhà vương lấy họa ương
Thì đi ra đường cho khỏi đòn đau
Mặc cho ăn cướp nó vào
Nó khuân nó vác cản nào làm chi
Gái trai Hưng Thịnh nhu mì
Tựu đây đếm lại chưa thì đủ trăm
Thì là sức có bao lăm
Tránh xa kẻo để dập bầm xác thân
Dân làng nếu muốn báo ân
Cho ta thì phải ráng cần nghe ta
Khá mau lui hết về nhà
Tha hồ cho bọn lâu la nó vào
Phút đâu nghe tiếng ồn ào
Già trẻ bé lớn lao xao đầy đàng
Nhìn xem ngọn lửa đỏ làng
Nhà nào cũng cháy Trần trang thì còn
Ồn ào đảng cướp cười dòn
Cụ già cũng giết trẻ con chẳng chừa
Làng này nhiều của dân thưa
Mình nên giết hết chẳng chừa một ai
Nơi này Hưng Thịnh lắm thay
Chừa nhà Bá hộ ta rày ở đây
Nói rồi xúm lại vầy vầy
Vợ chồng Bá hộ nhà này ra mau
Chúng ta thương kẻ có giàu
Đuổi đi không giết phải mau đi liền
Lâm thị là gái lương hiền
Các ông cần gạo lúa tiền tới đây
Thì là cứ đến nhà nầy
Nhà tôi của cải đủ đầy thiếu chi
Các ông cứ việc lấy đi
Nhà dân đói khổ đốt chi người nghèo
Lâu la nghe nói cười reo
Giết hết người nghèo lúa gạo ta ăn
Đến đây ta cũng trừ căn
Giết người để của mà ăn nuôi mình
Những nơi vua chúa quan binh
Dành dân lấn đất dưỡng sinh dân làng
Chúng ta là kẻ ngược ngang
Dành của dành vàng chớ chẳng dành dân
Vợ chồng ngươi hãy mau chân
Không đi thì phải thiệt thân lúc này
Trần Hà ông mới nói vầy
Bà mang hành lý ra đây đi liền
Dân làng nam nữ thanh niên
Đến ta thì phải dính liền theo ta
Tôi trai tớ gái trong nhà
Sửa sang quần áo đi ra tức thì
Lâu la rằng chẳng lấy chi
Các ngươi muốn sống xiêm y cởi liền
Vợ chồng Bá hộ lương hiền
Tạo phước tích đức giao duyên ở đời
Ta cho hai cái khố tơi
Lụa là gấm nhiễu phải thời cởi ra
Ta thương phước của ông bà
Làng này lớn bé trẻ già mạng vong
Gái trai nam nữ có lòng
Ta cho hầu cận vợ chồng Trần gia
Lâm thị với lại Trần Hà
Nhìn dân lõa thể ông bà thảm thương
Gái trai tánh nóng chẳng nhường
Cùng bọn ăn cướp tranh đương sức tài
Vợ chồng Trần thị chạy dài
Thân mang khố rách nắm tay lên đường
Trần Hà tuôn giọt mắt hường
Ta vừa bố đức họa vương đến liền
Trời già ghét lắm người hiền
Xuôi cho tai họa tới liền ta mang
Lâm thị nhỏ nhẹ luận bàn
Xin ông đừng có thở than u sầu
Dù cho biển hóa nương dâu
Xin ông đừng có lo âu thảm buồn
Khổ nghèo cũng ráng qua truông
Bi lụy thảm buồn rủi phải ốm đau
Trần Hà nhỏ nhẹ thì thào
Vợ chồng ta thoát khỏi rào lâu la
Thương cho tôi tớ trong nhà
Thương cho trai gái làng ta liều mình
Ắt không đủ sức chống kình
Cả làng đều phải liều mình còn chi
Nên tôi nước mắt lâm ly
Khóc đây tôi khóc là vì dân đen
Trải qua mưa nắng nhiều phen
Hết nắng tới mức nghèo hèn biết bao
Mùa thu nước nổi quá cao
Của nhà vườn ruộng mòn hao quá nhiều
Xuân hè nắng hạn biết nhiêu
Lúa khoai hoa quả mòn tiêu hết rồi
Còn thêm cướp bóc dập bồi
Việt nam dân chịu lắm hồi bi thương
-
Trần Hà té giếng chết, Lâm Thị sắp lâm bồn
Thương dân lắm cảnh đoạn trường
Ắt là Chúa Thánh Minh Vương ra đời
Lâm thị bà mới nói thời:
Lúc nào ông cũng nói thời đâu đâu
Tôi đang nóng nảy nhức đầu
Còn thêm cáng náng cái bầu thai nhi
Tôi không than thở lời chi
Phải sao chịu vậy ráng đi khỏi rừng.
Mình bà thì lại nóng hừng
Mặt đỏ phừng phừng mắt đổ hào quang
Nên bà mê mệt xỉu ngang
Trần Hà xem thấy vội vàng đỡ lên
Lâm thị bà lại than rên:
Tôi đây khó nổi đứng lên ông à
Từ hôm đảng cướp vào nhà
Tôi chưa dùng bữa lại ra đi liền
Biết bao là đoạn thảm phiền
Đường đi vắng vẻ truân chuyên núi đồi.
Trần Hà ông lại ỷ ôi:
Bà mang bụng chửa có tôi đỡ đần
Nay mang cái sốt vào thân
Lạc bước phong trần khát nước đói cơm
Khổ lao rày đã mấy hôm
Thương bà bụng chửa không cơm khổ sầu
Nơi nầy tôi rõ từ lâu
Lúc tôi còn trẻ thường âu đến hoài
Làng này hiền hậu lắm thay
Gọi làng Tích Đức xưa nay đó bà,
Cách đây một khoảng xa xa
Có một cái giếng gọi là giếng Tiên
Ai mà lắm việc não phiền
Đến đây uống nước não phiền hết ngay
Bà đau mà lại mang thai
Tôi bà đến đó múc rày uống vô
Đói cơm khát nước cổ khô
Nước Tiên nếu được uống vô no lòng.
Lâm thị nối gót theo chồng
Đến nhìn miệng giếng nước trong thay là
Thấy gần nhưng nước thì xa
Chung quanh cát đất coi ra gập ghình
Lâm thị bà bước lại nhìn:
Nước này hai vợ chồng mình làm sao
Tôi e miệng giếng sụp ào
Thì ông phải chết sống nào được đâu
Tôi đang thai sản một bầu
Ông nên thận trọng đừng hầu dễ ngươi!
Trần Hà nghe nói liền cười:
Thuở tôi còn bé tánh người trẻ con
Tôi thường đi hái lá non
Chằm lại múc nước uống ngon lắm bà
Mỗi lần tôi có đi qua
Tôi uống nước quí no ba bốn ngày.
Nói rồi ông mới chạy quay
Ông đi bẻ lá chằm ngay làm bầu.
Lâm thị rằng giếng quá sâu
Nghe tôi ông chớ cúi đầu múc chi
Nếu ông có mệnh hệ gì
Chơi vơi rừng núi khổ thì thân tôi
Nhọc nhằn có bạn có đôi
Vui hòa hơn có một tôi khổ sầu
Đói no chẳng có sao đâu
Đủ đôi đủ bạn hơn câu lẻ bầy
Tôi xem cái miệng giếng nầy
Tôi xem đất đá nơi đây mơ hồ
Nghe tôi mà niệm nammô
Niệm Phật mình cứ nuốt vô vài lần
Nhờ Trời Phật độ an thân
Hơn là té giếng đất gần trời xa.
Trần Hà cười khẽ bước ra
Cái trí đàn bà nhút nhát làm sao
Để tôi múc nước cho nào
Nói chi lắm tiếng nghe vào không hên
Ông liền chạy đến một bên
Nghiêng mình định múc nước lên đưa bà
Cuồng phong phút lại thổi qua
Cát bay cây ngả chả cha mịt mù
Bên tai nghe tiếng ù ù
Trần Hà té giếng đất bù lở thêm
Chung quanh cát đất bên thềm
Giếng Tiên sụp đất lở thêm quá nhiều.
Lâm thị hốt hoảng liền kêu
Ông ơi ông hỡi mất tiêu ông rồi
Lâm thị kêu khóc một hồi
Một mình thui thủi bà ngồi thở than
Mắt nhìn cái giếng khô khan
Đã thành giếng lạnh mộ chàng nơi đây!
-
Hồn thiêng Trần Hà chỉ đường cho Lâm thị tới chùa làng Lập Đức
Lâm thị sanh con tại cổng Tam quan chùa trong mưa bão và tử nạn
Ta đành ở lại chốn nầy
Lâm tuyền vắng vẻ cỏ cây bịt bùng
Quạnh hiu mà lại lạnh lùng
Bà thiêm thiếp ngủ hồn trung mơ màng
Thấy chồng đi đến hỏi han
Bà mau cất bước đến làng gần đây
Nơi nầy vắng vẻ cỏ cây
Đến làng Lập Đức gần đây đó bà
Gần đây có cửa Vô dà
Gọi chùa Lập Đức nhiều mà ni cô
Sãi chùa thiện chí nam mô
Nhiều sư nhiều sãi nhiều cô chánh lòng,
Người theo Đạo Thích chánh tông
Vạn Xuân Hòa thượng thiệt lòng từ bi
Tôi nay Tiên cảnh hồi quy
Thương bà thai dựng gần thì nở sinh
Tôi theo phò hộ bên mình
Sau này bà có nở sinh nhi hài
Cửa thiền kinh kệ hằng ngày
Con mình nó sẽ quen tay Di Đà
Gượng đi nhanh gót nghe bà
Còn hai canh nữa thì bà sanh con
Nói mà ông lại cười dòn
Cõng bà ông chạy bon bon lộ trình.
Lâm thị bà lại giật mình
Mở mắt ra nhìn chẳng có một ai
Dế ngâm rỉ rả bên ngoài
Tiểu qui thỏ thẻ bên tai kêu sầu
Nghĩ thân hiu quạnh mà rầu
Nhìn sao mới biết là đầu canh hai.
Xa xa có bóng đèn ai
Lẹ làng bà mới bước rày chân theo
Đường mòn vắng vẻ chơn cheo
Bóng đèn phía trước bà theo đi hoài
Vẳng nghe có tiếng bên tai
Giọng cười tiếng nói của ai gần gần
Nên bà mạnh dạn mau chân
Bóng đèn sao lại khi gần khi xa
Phút đâu sấm sét dữ a
Cuồng phong nổi dậy mưa sa ào ào
Mắt nhìn sân rộng cây cao
Tam quan là cổng chùa nào ở đây
Gió dông bay đá ngã cây
Bóng đèn khi nãy đến đây mất rồi.
Bụng đau quặn quặn mấy hồi
Phút này thôi đã đến rồi canh ba
Ầm ù sấm sét mưa sa
Mưa như thác chảy lạnh đà ống chân
Bụng đau quằn quại châu thân
Bà đà ngất xỉu mấy lần không đi
Bà liền sanh đặng thai nhi
Hồn bà thiêm thiếp đã đi về trời.
Thai nhi vừa mới ra đời
Vì cơn mưa lớn nên thời ráo da
Khóc lên vang dội khổ a
Vạn Xuân Hòa thượng tuổi già niên cao
Nghe cơn mưa bão ào ào
Hương đăng lễ Phật cùng vào niệm kinh
Cả chùa sư sãi đồng tình
Nhang đèn chuông khánh niệm kinh Di Đà,
Vạn Xuân tuy tuổi đã già
Vẳng tai nghe tiếng khổ a cửa ngoài
Ông liền kêu sãi nói ngay:
Con ai mới nở khóc ngoài tam quan
Hai vãi quỳ xuống vội vàng
Bạch thầy mưa bão gió đàng thầy a
Hiện đang giờ tý canh ba
Vì dông mưa lớn thầy mà nhầm tai.
Vạn Xuân ông mới nói rày:
Hai sãi mau đến cổng ngoài tam quan
Vãi lười không dám ra đàng
Hai sãi mau phải lẹ làng theo ta
Đèn lồng hai sãi đem ra
Tam quan đi đến xem qua vật gì
Đến nhìn một cái tử thi
Hai tay ôm lấy hài nhi vào lòng.
Vạn Xuân để mắt nhìn trong
Hào quang sáng rực quanh vòng tử thi
Nhoáng quang này của hài nhi
Để tay Hòa thượng bồng thì trẻ thơ,
Tử thi phụ nữ nằm trơ
Hòa thượng mới nhờ hai sãi khuân vô.
Hai sãi tay chắp nam mô:
Tam quy ngũ giới thầy phô trước ngày
Đây là một cái thi hài
Của người phụ nữ tuổi ngoài ba mươi
Hai con khiêng lấy thây người
Thì phạm giới cấm tiếng cười đời sau
Thầy đà truyền dạy từ nào
Tà dâm tội ác làm sao cho tròn
Bạch thầy thương lấy hai con
Nếu để phạm giới sao tròn nam mô.
Vạn Xuân Hòa thượng liền phô:
Tam quy ngũ giới đem vô trong lòng
Tâm không vạn sự đều không
Tâm không vạn pháp hãy đồng theo chơn (chân)
Phải cần đo thiệt tính hơn
Đây là cái xác nữ nhơn chết rồi,
Sãi thì phước đức trao dồi
Cái xác chết rồi khiêng để đem chôn
Tà dâm cấm sãi mê hồn
Phạm giới dâm dục thiền môn đặng nào,
Các sãi nghe kỹ thấp cao
Các gái má đào thí chủ đàn na
Người vào lễ Phật cửa dà
Các sãi không được lân la nói cười
Liếc qua láy lại dễ ngươi
Đó là phạm giới gọi người tà dâm,
Còn đây xác chết đã nằm
Khiêng chôn mà gọi tà dâm là gì?
Nếu lười thì nói lười đi
Nếu nói phạm giới ai thì chứng cho!
Hai ngươi tâm tánh dại dò
Nếu còn nghĩ ngợi cân đo nọ nầy
Hai sãi đã bị quở rầy
Nên đành cúi xuống khiêng thây vào chùa
Ngoài trời mưa đổ lá khua
Vạn Xuân bồng trẻ vô chùa nói ra:
Trong chùa hai mụ vãi già
Cắt nhau đứa bé cho ta tức thì
Hai vãi vâng lệnh làm y
Hào quang của trẻ hài nhi đỏ hồng
Vãi thương hai mụ giành bồng
Vạn Xuân Hòa thượng hết lòng tưng tiu,
Hài nhi các sãi cũng yêu
Vạn Xuân Hòa thượng lắm điều truyền ra
Hiện giờ là lúc canh ba
Sấm vang sét dậy mưa sa thế nầy
Có người thai dựng tại đây
Tam quan ngoài cổng chùa này quí thai
Các sãi các vãi mau tay
Nhang đèn cung kính thi hài thay ta
Phải mau cơm nước dâng hoa
Xem như Bồ tát cửa dà giáng lâm!
Cả chùa lớn nhỏ đồng tâm
Các vãi thì lại khóc thầm thở than
Chẳng hay người ở hà phan
Chẳng hay thân thích họ hàng ở mô
Một mình đêm vắng lộ đồ
Nhằm cơn mưa bão ô hô hãi hùng
Cũng vì mưa gió lạnh lùng
Cho nên sản phụ di chung đây nầy
Phải chi vào được nơi đây
Thì không đến nỗi bỏ thây lâm bồn
Cầu cho Phật cứu linh hồn
Các sãi lo việc đem chôn thi hài
Thương tình giọt lệ vắn dài
Thương người mạng bạc không ai nhang đèn
Hòa thượng rằng: chẳng thân quen
Ta cũng nhang đèn tuần tự niệm kinh
Cho người tịnh độ siêu sinh
Giúp người mà phước về mình được mang
Các sãi đồng ý lo toan
Chôn xong xác chết luận bàn trẻ thơ
-
Hòa Thượng Vạn Xuân đặt tên em bé mới sanh là Hoằng Trí
Giao các vãi nuôi nấng Hoằng Trí
Hài nhi mới nở bơ vơ
Vạn Xuân Hòa thượng lệ mờ dần chan
Ông ngồi cất tiếng thở than:
Dân tình đói khát mùa màng thớt thưa
Chùa thì đạm bạc muối dưa
Ruộng chùa thì lại quá thưa mùa màng,
Khắp nơi dân chúng lầm than
Nay thêm một kẻ còn đang thiếu thời
Hiện giờ thì mới ra đời
Các sãi quỳ xuống thốt lời từ bi:
Bấy lâu cửa Phật tu trì
Cửa thiền thì phải từ bi độ đời
Dân tình đói khổ khắp nơi
Ruộng chùa tuy bị thất thời kém thu
Nhưng chùa là kẻ chí tu
Ắt là Phật thử công phu cửa thiền,
Chúng tôi đồng ý thay phiên
Mỗi người một việc nối liền với nhau
Phải bồng đứa trẻ mau mau
Bồng đi coi có nhà nào từ bi
Đàn bà con gái thiếu chi
Mình vào xin sữa nuôi thì trẻ thơ,
Mới vừa mở mắt u ơ
Mẹ cha không có bơ vơ Phật đường
Mắt nhìn trẻ dại mà thương
Chúng tăng sư nữ lo phương nuôi dùm
Lòng thiền bác ái bao trùm
Từ bi thì phải giúp dùm trẻ thơ.
Vạn Xuân Hòa thượng ngẩn ngơ
Thầy xem bộ máy thiên cơ hành tàng
Trẻ này đầu chứa hào quang
Nếu không Thánh đế cũng hàng Tiên gia
Đản sanh tại cửa Vô dà
Biết đâu phước của ông bà lưu lai
Khiến vào tại cổng Phật đài
Giữa cơn giông bão người rày đản sanh
Thì dân Nam có phước lành
Vị nào không biết đản sanh cửa thiền
Vãi cùng các sãi thay phiên
Từ bi tế độ lòng thiền độ sanh,
Hài nhi thầy đặt pháp danh
Gọi là Hoằng Trí cho rành xưng hô
Các vãi theo cứ trầm trồ
Tên đẹp mặt đẹp khôi ngô rõ ràng
Ngày qua tháng lại gian nan
Các sư các vãi lo toan một lòng
Nay đà thu chí sang đông
Hoằng Trí rày đã sáng thông đẹp hình
Hằng ngày lạy Phật nghe kinh
Vãi tụng đình huỳnh Trí cũng tụng theo
Dân thì lâm cảnh đói nghèo
Chùa chiền gặp lúc nạn eo bần hàn
-
Hoằng Trí lên ba đặt tên cho chùa
Giấc nam kha của Hòa thượng Vạn Xuân
Hoằng Trí càng lớn càng ngoan
Vãi bồng ra cửa tam quan nô đùa
Trí rằng: sao trước cổng chùa
Biển đề chẳng có, Quan Vua người vào
Bảo rằng chùa lập hồi nào
Biển danh không có biết sao phô bày?
Hai vãi nghe hỏi lạ thay
Trẻ lên ba tuổi hỏi rày quá xa
Biết bao là khách vô dà
Niên cao kỷ trượng ai mà hỏi chi
Vãi cưng Hoằng Trí thầm thì
Để bà vào bạch Trụ trì hỏi han,
Phúc đâu Hòa Thượng đi ngang
Hoằng Trí ra đứng chặn ngang hỏi rằng:
Chùa này có vãi có tăng
Vốn theo Đạo Thích thẳng bằng từ bi
Con nhìn không thiếu cái chi
Chánh điện đã có Mâu Ni Phật đài
Ác hữu thiện hữu đứng ngoài
Thập bát La hán đứng rày chung quanh
Ngự trù tịnh thất cũng rành
Đông lang Tây diện sẵn dành hai nơi
Tam quan cái cổng cao vời
Con nhìn sao chẳng thấy nơi biển đề,
Sau này Vua Chúa có về
Người hỏi biển đề, sư cụ là chi
Chúng con nào có biết gì
Mà tâu mà bẩm chuyện gì với Vua,
Sư cụ là chủ trong chùa
Mà chùa không biển sợ Vua quở rầy.
Vạn Xuân nghe hỏi chuyện này
Liền ôm Hoằng Trí gọi này con ơi
Trước khi thầy lánh cõi đời
Trước khi nguyện với đất trời xuất gia
Thời thầy giữa giấc nam kha
Thấy thầy xuất thế có mà lục thông
Lập ra Phật tự Tôn tông
Thì có Hoàng đế ngự trong chùa vàng
Người ban tấm biển rõ ràng
Đó là trong giấc mơ màng chiêm bao,
Khi thầy xuất thế đạo cao
Lập chùa sư sãi cùng vào niệm kinh
Thầy mơ giấc mộng hiển linh
Đợi Vua ban biển chùa mình đó con!
Hoằng Trí nghe nói cười dòn:
Con tuy bé nhỏ tuổi còn lên ba
Xin thầy mở lượng thứ tha
Con thay mặt Chúa đặt ra hiệu nầy
Vạn Xuân tên của thầy đây
Đặt chùa Vạn Pháp hiệu này rất hay,
Thầy đà tuổi trượng cao thay
Chờ Vua ban điển chắc ngày qui Tiên.
Vạn Xuân Hòa thượng cười liền
Trai phòng trở lại ngồi biên hiệu chùa
Hoằng Trí chắc chắn là Vua
Nếu kẻ quê mùa dầu tuổi đôi mươi
Tên chùa Vạn Pháp vẹn mười
Mới lên ba tuổi mở lời rất thanh,
Các sãi thì lại xúm quanh
Kẻ dành đút cháo người dành ẵm chơi
Chúng ta lạy Phật cả đời
Không bằng bồng bế con trời đản sanh
Thật là cái thế liệt oanh
Mới lên ba tuổi lại rành nói năng
Biển chùa là kẻ rành văn
Hội nhau suy nghĩ lòng bằng đề ra
Đàng này tuổi mới lên ba
Nói ra chải chuốt như là Đế vương.
-
Hoằng Trí thọ giáo Sư Vạn Hạnh tại chùa Cổ Bi
Thầy cùng các sãi niệm hương
Hoằng Trí quỳ trước Phật đường chắp tay
Vạn Xuân khen giỏi khen hay
Có sư Vạn Hạnh chùa rày Cổ Bi
Gặp cơn buồn bực mệt thì
Thăm anh con bác trụ trì Vạn Xuân
Anh em gặp ở vui mừng
Vạn Hạnh mới hỏi Vạn Xuân điều nầy:
Chùa anh vườn ruộng đủ đầy
Cái của hương hỏa mùa nầy ra sao?
Vạn Xuân mới trả lời mau:
Đã lâu Đạo đệ không vào nơi đây
Đã luôn ba bốn năm chầy
Dân chúng xứ nầy hạn bão lung tung
Thời trời rất đỗi lạ lùng
Hạn thì chang chác khắp vùng khô khan
Đến khi gặp tiết mưa sang
Đá lăn cây ngã nước tràn mênh mông
Hạn thì khô cháy ruộng đồng
Mưa thì lụt lội mênh mông triều cường
Còn đâu ruộng đất cây vườn
Ruộng dân thất bát thì nương ruộng chùa
Ruộng chùa cũng bị mất mùa
Sư sãi ở chùa bữa đói bữa no,
Đạo huynh luôn mãi ngại lo
Điều nầy mật nhiệm nói cho em tường
Ba năm mưa nắng khác thuờng
Tức thì đã có Đế vương ra đời
Nay đà đã sáu năm trời
Chúa Thánh ra đời tại cổng tam quan
Canh ba giờ tý rõ ràng
Nhằm tiết Đoan ngọ người đang vui cười
Năm Thìn rất thật tốt tươi
Ngày Dần Chúa Thánh là người đản sanh,
Ba năm nuôi dưỡng dỗ dành
Các sư các vãi chùa anh nhọc nhằn
Trải qua cực khổ khó khăn
Người lên ba tuổi tài năng cao kỳ
Tướng đi hổ bộ long phi
Mở lời ra nói cái gì cũng hay
Chùa anh từ bấy lâu nay
Vốn chưa để biển đề rày hiệu chi
Nay người thỏ thẻ bảo thì
Gọi Vạn Pháp tự cao kỳ làm sao!
Đạo đệ xem kỹ tự nào
Con ai ba tuổi nói cao thế nầy
Tuy anh Pháp, Huệ đủ đầy
Võ văn anh chẳng làm thầy được ai,
Em thì chữ nghĩa rất hay
Mà đứa nhỏ này anh quý làm sao
Các sư các vãi thì thào
Không có kẻ nào biết võ biết văn
Chùa anh kinh sám đạo hằng
Em làm Hòa thượng mà văn em tài
Nếu em bác ái lành thay
Hãy đem Hoằng Trí về rày Cổ Bi
Dạy cho chữ nghĩa thông tri
Phòng sau có giúp ích gì cho dân.
Hoằng Trí mặt tợ thiên thần
Vạn Hạnh nghe nói mười phần hân hoan
Thiền trù liền đến vội vàng
Đặng coi Hoằng Trí hiện đang làm gì
Các vãi xem thấy liền quỳ
Mừng sư Hòa thượng Cổ Bi mới vào
Hoằng Trí vui vẻ đón chào
Dám bạch: sư cụ mới vào đây chơi
Chẳng hay sư cụ chán đời
Cụ tu biết nẻo lên trời hay chưa?
Thông huyền cụ biết nắng mưa!
Biết đường sanh tử trời đưa người nào?
Hoằng Trí lời nói thanh thao
Nên sư Vạn Hạnh nghe vào mà thương:
Con người sanh trưởng Phật đường
Chẳng hay muốn học văn chương cùng thầy
Hoặc là con muốn ở đây
Trì chay giữ giới theo thầy Vạn Xuân?
Hoằng Trí nghe nói lòng mừng:
Mấy câu kinh kệ Vạn Xuân có truyền
Dạy qua con đã thuộc liền
Sư cụ dạy hiền con cũng hiền theo
Nhưng mà chữ nghĩa vắng teo
Bỏ thầy tế độ mà theo thầy ngoài
Thì là vô nghĩa lắm thay
Học thì con học không rày đi xa
Cụ thương thì ở đây mà
Dạy cho con học mới là tiện hơn
Con đi chẳng lẽ phụ ơn
Công thầy công vãi nghĩa ơn cao dầy
Theo thầy mà lại phụ thầy
Thì là chúng bạn sau này cười chê.
Vạn Xuân nghe nói cười hề:
Con cùng hai vãi theo về Cổ Bi
Vạn Hạnh sư cụ trụ trì
Với thầy ruột thịt chẳng thì phải xa
Đó là người ở một nhà
Cách làng nhưng cũng ruột rà tay chân
Tuy xa tình nghĩa quá gần
Con cùng hai vãi mau chân lên đường.
Vạn Hạnh ông mới phân tường:
Nơi Cổ Bi tự khách thường vãng lai
Bá gia bá tánh đông thay
Chiều chiều trẻ nhỏ chơi ngoài chật sân
Đạo huynh hãy khá mau chân
Sang chùa Đạo đệ một lần giải khuây
Cùng nhau trỗi bước hiệp vầy
Hai sư hai vãi một thầy tiểu nhi
Cùng nhau về đến Cổ Bi
Vạn Xuân, Vạn Hạnh mới thì vào trong
Cấp cho hai vãi một phòng
Để nuôi Hoằng Trí thong dong ngày ngày,
Vạn Hạnh vui vẻ cười dày
Dạy cho Hoằng Trí mỗi ngày thi văn.
Vạn Xuân ông mới nói rằng:
Hoằng Trí là kẻ siêng năng nhất đời
Đạo đệ ông phải nhớ lời
Vì ta vì đạo vì đời lưu tâm
Xin đừng lộ mối cơ thâm
Dân chúng thì thầm kẻ lại người qua
Nên dấu Hoằng Trí thuyền trà cửa im
Sợ e nhiều khách nhìn xem
Hình dung Hoằng Trí người đem thì thào
Gần xa người đến xem vào
Rủi có bề nào ta hết cậy trông.
Vạn Hạnh rằng: hãy an lòng
Đạo huynh chớ khá lo phòng làm chi
Đạo huynh thấu hiểu huyền vi
Đạo đệ đây cũng một vì cao tăng
Lẽ nào để kẻ làm xằng
Hại cho Hoằng Trí mạng căn chẳng còn
Em thương như chính là con
Lắm khi tưng trọng lại còn quý hơn!
Vạn Xuân từ giã lui chân
Vạn Hạnh truyền dạy thiệt hơn với trò
Đây là Khổng Mạnh sách nho
Thầy dạy cho trò Hoằng Trí trò ơi
Hoằng Trí dạ dạ vâng lời
Lần hồi thấm thoắt được thời ba năm.
-
Hoằng Trí tạo phước cho các bạn cùng được học hành
Hoằng Trí ngủ mộng đọc thơ than thở
Hai vãi đạo đức cao thâm
Chuẩn Đề đến rước nên tầm Liên Hoa
Hoằng Trí than thở khóc bà:
Bấy lâu nhờ có hai bà nuôi con
Nay hai bà chết không còn
Đêm đêm hiu quạnh một con tủi lòng.
Hoằng Trí nước mắt ròng ròng
Vạn Hạnh lại bồng nhỏ nhẹ nhủ khuyên:
Chẳng qua người hết nghiệp duyên
Xác trần phủi bỏ, hồn tiên về Trời
Chẳng qua xác tục người đời
Con đừng bi lụy lắm lời thở than
Hồn vãi về ngự Phật đàn
Nên người bỏ xác lẹ làng lắm thay.
Từ khi hai vãi chết rày
Vạn Hạnh dạy sách hằng ngày gắt gao
Mỗi ngày mười chữ quá cao
Hoằng Trí sáu tuổi học rày biết ngay
Hôm nào cũng phải trả bài
Cả chữ lẫn nghĩa bày khai cùng thầy
Xóm Đông thiên hạ vầy vầy
Trẻ nhỏ xóm này thường đến Cổ Bi
Nhìn xem Hoằng Trí nhu mì
Đứa này thì lại thầm thì đứa kia
Có ông Đạo nhỏ mới về
Đầu chừa ba vá xem kia đẹp hình
Rủ nhau chúng nó lại nhìn
Rồi đem bánh trái khìn khìn mà cho
Đạo nhỏ cứ việc ăn no
Ngày nào lũ nhỏ cũng cho đủ đầy,
Hoằng Trí gặp lúc vui vầy
Trẻ con lũ nhỏ bạn bầy thiếu chi
Ba hôm không học chữ gì
Vạn Hạnh giảng sách Trí thì láo lơ
Trả lời thầy hỏi ỡm ờ
Vạn Hạnh lưu ý nghi ngờ nhìn xem
Rõ ràng thấy lũ trẻ đem
Lớp bánh lớp trái thầy xem dẫy đầy
Mải vui nên chẳng nhìn thầy
Vạn Hạnh mắng quở la rầy đòn roi:
Vở bài không học không coi
Để theo lũ nhỏ học đòi uống ăn
Làm sao thông đoạt thi văn
Mải lo cái uống cái ăn bên mình
Quên thầy quên sách quên kinh
Lần nầy thầy bỏ tội tình của con
Nếu như thói cũ mà còn
Thì là thầy phạt roi đòn gấp đôi.
Hoằng Trí quỳ bạch thầy ôi:
Xin thầy nghe trẻ khúc nôi tỏ bày
Thầy đây có sẵn thiên tài
Bạn con lũ nhỏ hiền thay thầy à
Một con thầy cũng dạy mà
Nhiều trò thầy cũng dạy qua một lần
Xin thầy bố đức thi ân
Dạy hết lũ trẻ ân cần văn chương
Xin thầy mở rộng lòng thương
Mở cửa Phật đường dạy trẻ nghề văn
Thì là con mới siêng năng
Con thương bạn nhỏ võ văn chẳng rành
Một con ôm sách học hành
Còn bao nhiêu bạn nó đành bất thông.
Vạn Hạnh rằng: chẳng có xong
Con muốn như vậy thầy không có chiều
Con là đạo nhỏ đáng yêu
Vạn Xuân gửi gắm lắm điều dặn ta
Nên ta chẳng ngại tuổi già
Dạy con chữ nghĩa ấy là vì dân
Cửa Phật đâu phép rộ rần
Vào ra nhiều trẻ bước chân dập dìu!
Hoằng Trí nghe rõ buồn hiu
Từ sáng đến chiều chẳng học chữ chi
Vạn Hạnh đánh quở li bì
Trói Hoằng Trí chẳng cho đi ra ngoài
Hoằng Trí bị trói chân tay
Nằm co mà ngủ miệng rày ngâm thi
Sư nghe bước lại xem thì
Thời nghe Hoằng Trí ngâm thi như hà
Dám nào ngay cẳng thẳng ra
Vì lo xã tắc sơn hà chinh nghiêng
Sư nghe lại mở trói liền
Hoằng Trí thì lại nằm yên ngủ khì
Sư nhìn bụng lại nghĩ suy
Đế Vương ngẫu hứng cao kỳ lắm thay
Một mình thân chịu lạc loài
Minh Vương xuất thế đọa đày tấm thân
Thương người lăn lóc phong trần
Cháo rau đạm bạc nương thân cửa chùa
Rõ ràng chân mạng nhà Vua
Ba sãi ở chùa biết thế khó phân
Đợi cho máy tạo xoay vần
Minh Vương phủi sạch phong trần nắng mưa
Nghĩ đời thượng cổ khi xưa
Phật Tiên Thần Thánh chọn lừa (lựa) Hiền nhân
Mỗi khi Chúa Thánh xuất thân
Mưa nắng cõi trần lắm lúc đổi thay
Ta nên rộng đức nới tay
Để mặc Hoằng Trí vui say nô đùa
Giữ nghiêm theo luật nhà chùa
Thời là tội nghiệp nhà Vua hội nầy
Nên sư không quở không rầy
Mặc cho Hoằng Trí bạn bầy cười vui
Xóm chùa trẻ nhỏ tới lui
Càng ngày trẻ nít càng vui cảnh thiền
Mẹ cha lũ nhỏ tâm hiền
Đồng đưa lũ trẻ cảnh thiền quy y
Được năm mươi đứa một thì
Đưa vào cửa Phật quy y cùng thầy.
Chúng tôi đưa trẻ đến đây
Học đạo với thầy thầy dạy chúng tu
Chúng tôi sằng dã nông phu
Sẽ đem lúa gạo đến bù thiền môn
Miễn con tôi đặng hiền khôn
Quy y Phật Pháp thiền môn của thầy!
Vạn Hạnh mới nói lời nầy:
Quy y với thầy thầy thí pháp cho
Từ rày lũ trẻ cần lo
Thầy truyền kinh kệ học cho thấm nhuần
Mẹ cha lũ trẻ vui mừng
Con mình theo đạo thấm nhuần đèn nhang
Chúng ta đây phải lo toan
Dầu hương mang đến Phật đàng giúp con
Miễn con học đạo vuông tròn
Ta lo đầy đủ cho con mọi bề
Các trò đạo nhỏ say mê
Nào kinh nào kệ theo kề bên nhau.
-
Hoằng Trí bày trò chơi quân lính Đế Vương
Hộ Pháp thường xuyên trông coi Chùa
Hoằng Trí liền mới thì thào:
Chúng ta học đạo đã cao lắm rồi
Tịnh phòng ta cũng có ngồi
Trường chay giữ giới vẹn rồi từ bi
Một ngày hai buổi A Di
Kinh nào cũng thuộc chẳng thì sai ngoa
Có điều bực bội thay là
Vậy thì chúng bạn theo ta ra vườn
Làm trò quân lính Đế Vương
Ta ngồi nơi vườn các bạn tung hô
Vui hơn mình niệm nam mô
Rồi lập trận đồ đánh đá mà chơi.
Đạo nhỏ thích chí nghe lời
Đủ năm mươi đứa ra chơi sau vườn
Hoằng Trí ngồi tựa Đế Vương
Đạo nhỏ ra vườn vạn tuế rền vang
Chia nhau phân chứng hai hàng
Hai bên võ bá văn ban chỉnh tề.
Vạn Hạnh đang lúc ngủ mê
Nghe tiếng la ó bước rề ra sau
Mắt nhìn thôi quá ngạt ngào
Hoằng Trí ngồi tuốt trên cao chỉnh tề
Hai hàng đạo nhỏ đứng kề
Lá cây làm mão xum xuê đàng hoàng
Nào là võ bá văn ban
Nào quân trực điện, nào hàng lính canh
Thật là sắp đặt quá rành
Trời xui lũ trẻ sẵn đành rồi đây
Cứ luôn bài trí thế này
Binh trào hay được thì thây chẳng còn
Hiện giờ khắp cả nước non
Tù trưởng động chủ thì còn quá đông
Trò chơi này chẳng có xong
Thấu tai Đinh Chúa mạng không có còn,
Nhưng mà các đạo trẻ con
Ta là thầy cả hỏi còn tại ai
Nếu quân tuần phủ vãng lai
Việc nầy mà thấy bắt ngay tức thì
Muốn cho tránh chuyện nan nghi
Ta nên mắng quở e khi tan dần.
Nghĩ rồi Hòa thượng liền phân:
Việc này các đạo rần rần ó la
Các con học đạo cửa dà
Tâm không yên tịnh ó la vang dầy
Làm cho động cả tai thầy
Từ rày sắp tới việc này hãy thôi
Không lo kinh kệ trau dồi
Nô đùa cười giỡn phải thôi tức thì,
Nếu còn bày biện thế ni
Thì là thầy phạt phải quỳ nguyện hương
Tam quy ngũ giới thường thường
Các đạo nhỏ phải nhìn tường pháp môn
Nắng mai cho tới hoàng hôn
Luôn luôn niệm tưởng pháp môn Di Đà
Có đâu trửng giỡn ó la
Trái luật cửa dà bá tánh mỉa mai
Các con học đạo ngày ngày
Không dồi đạo hạnh lại bày bộ binh
Từ rày chuông mõ kệ kinh
Cấm không cho việc bày binh thế nầy
Nếu không nghe thửa lời thầy
Thì đi cho khỏi chùa nầy mau mau
Chớ đừng la ó ồn ào
Rầy tai mà chẳng lợi nào cho ta!
Đạo nhỏ nghe tiếng thầy la
Rủ hết về nhà thuật lại mẹ hay:
Chúng con thiệt tức lắm thay
Từ nay con chẳng vào nay Phật tuyền
Con vào cửa Phật tu hiền
Vì thấy Hoằng Trí hữu duyên vui hòa
Nó không có mẹ có cha
Mẹ nó mới đẻ nó ra chết liền
Phong trần mình nó truân chuyên
Nó thật là hiền lại rất thông minh
Mày tằm mắt phụng đẹp xinh
Lão thông chữ nghĩa kệ kinh mẹ à
Cũng vì không mẹ không cha
Nếu sống cửa dà quyền của sư ông
Chúng con ăn mặc nâu sồng
Là theo Hoằng Trí cho lòng hân hoan
Chúng con trở lại gia đàng
Thuật cho cha mẹ hãng toàn nguyên nhân,
Sư ông khó tánh vô ngần
Nghĩ thương Hoằng Trí lắm phần khổ đau
Thầy rầy vội vã đi vào
Chúng con nhìn thấy buồn teo
Con theo Hoằng Trí chẳng theo sư già
Nay sư giận dữ quở la
Chạy hết về nhà chẳng ở lại chi
Lão sư Vạn Hạnh lạ kỳ
Ngồi nằm cũng quở, đứng đi cũng rầy
Mẹ cha vào hỏi ý thầy
Mỗi chút mỗi rầy ai chịu cho kham
Đã là người giữ dà lam
Sao còn quở tứ rầy tam rền trời.
Mẹ cha lũ nhỏ nói thời:
Hòa thượng trí tuệ tuyệt vời xưa nay
Tánh ông hiền dịu lắm thay
Chùa Cổ Bi tự ai ai cũng nhường
Các con đừng có xem thường
Cha mẹ cúng dường thầy biết bao nhiêu
Thầy tu công đức rất nhiều
Nơi nầy xưa lắm quỷ yêu lộng hành
Xảy ra nhiều chuyện thất thanh
Từ ngày sư đến tu hành nơi đây
Bá gia bá tánh làng nầy
Thẩy đều khỏe mạnh đủ đầy lúa khoai
Xưa thì nhiều việc thảm thay
Trẻ con đâu có biết hay việc gì,
Nãy giờ con nói thế ni
Thật là phạm thượng lỗi thì lắm đa
Hãy mau vào chốn cửa dà
Mẹ cha tạ tội với mà sư ông
Đã đành ăn mặc nâu sồng
Sao còn nê cố cai lồng sân si
Con vào cửa Phật quy y
Những lời thầy dạy dạy gì cũng nghe
Có đâu thầy mới răn đe
Rủ nhau cả lũ đi te về nhà
Chúng ta là hạng mẹ cha
Trọng Phật cửa dà chẳng trọng chúng bây
Thật là đồ ngốc đồ ngây
Thọ giáo với thầy học Phật tu nhân
Sư ông là kẻ thoát trần
Lòng ông lòng Phật lòng Thần Thánh Tiên
Con vào cửa Phật tu hiền
Mẹ cha mong để phước duyên sau nầy,
Chùa thầy con chẳng theo thầy
Con theo Hoằng Trí kẻ nầy là ai
Những điều chướng mắt trái tai
Sư ông mới quở mới rầy mới la,
Con ngồi niệm Phật Di Đà
Quét chùa chẻ củi thầy la làm gì
Các con bài bác cái chi
Sư ông đánh quở là vì thương con
Muốn con đạo pháp vẹn tròn
Nhà chùa nghiêm luật các con đừng buồn,
Bá gia bá tánh dư muôn
Soi cội soi nguồn của kẻ xuất gia
Thiệt tu người mới phục a
Thân ở cửa dà lòng chẳng có tu
Thì sanh ghen ghét hiềm thù
Người tu không giữ hạnh tu thắm nhuần
Luật tu trộm cắp cũng đừng
Không được vui mừng, không được khóc than
Mẹ cha lũ trẻ vội vàng
Đến chùa bạch hết rõ ràng thầy hay.
Vạn Hạnh ông mới luận bày:
Nam nữ thí chủ đừng ai phiền hà
Số là câu chuyện vừa qua
Năm mươi đạo nhỏ làm mà trò vui
Lòng ta thì lại sụt sùi
Ngại điều bất trắc đổ nùi thiền môn
Năm mươi đạo nhỏ cũng khôn
Hiệp với Hoằng Trí đồng môn một chùa
Trí thời làm Chúa làm Vua
Đạo nhỏ trong chùa làm tướng làm quan
Tung hô vạn tuế rền vang
Thấu tai phủ huyện bản làng tuần tra
Khó khăn cho cửa vô dà
Vua quan đâu phải đem ra nô đùa
Đây là Hoằng Trí con chùa
Chùa nuôi Hoằng Trí bốn mùa xuân qua
Ta noi gương Phật Thích Ca
Không chi dấu diếm đàn na người nào
Thầy bày hết rõ trước sau
Thí chủ má đào mặt thỏ mõ vơi
Nàng thì nhanh miệng lẹ thời:
Bạch thầy tôi có đi chơi huyện đường
Thấy điều lạ mắt khác thường
Ở tại huyện đường có bọn tuần tra
Bảo rằng độ nhật trưa qua
Lính tuần có đến của dà Cổ Bi
Chưa vào chánh điện bái quỳ
Mới vào tới cổng tức thì ngã ngang
Như ai đánh lén lẹ làng
Thây còn quàn tại huyện đàng chưa chôn,
Quan tuần quan huyện hết hồn
Nghi cho thầy cả thiền môn cao tài
Gia đình con tự xưa nay
Ông bà cha mẹ với rày con đây
Đều quy y Phật với thầy
Tu bổ chùa này công đức chừ bao
Nếu con nghe được chuyện nào
Hại thầy hại đạo con mau phô bày.
Vạn Hạnh ông mới nói rày:
Long thần hộ pháp mách rày với ta
Bảo rằng chánh ngọ trưa qua
Có quan tuần phủ vào ra dòm hành
Long thần hộ pháp cao thanh
Bảo rằng Hoàng Đế đang thanh thiết triều
Mà quân tuần phủ dám liều
Giữa buổi lâm triều của Đức Minh Vương
Dòm hành là chuyện bất thường
Long thần bảo vệ Minh Vương ngự trào
Cho nên bất cứ kẻ nào
Hoàng Đế ngự trào đến chẳng lý do
Long thần người đã theo phò
Ai đến vô phép người cho qua đời,
Rõ ràng Hoằng Trí con Trời
Cho nên bày chuyện trò chơi lạ thường
Nên quân tuần phủ tai ương
Long Thần Hộ Pháp không nhường một ai.
-
Hoằng Trí ăn bánh cúng, bị phát hiện
Hộ Pháp bị lưu đày ba ngàn dặm
Thiện nam tín nữ vui thay
Hội đây thầy cũng phải bày lễ nghi
Bày ra cúng kiếng chi chi
Kẻo quân tuần phủ nó đi rình mò
Khiến nên quan huyện nặng lo
Cũng nhờ tín nữ mách cho thầy tường,
Thiện nam vào tự dâng hương
Ngự thiền tín nữ lo phương cúng chùa
Phần nhiều là gái quê mùa
Nên giúp nhà chùa làm bánh bao chay
Nhiều cô nữ giới lẹ tay
Làm xong năm bánh trình ngay với thầy.
Vạn Hạnh ông mới nói vầy:
Hoằng Trí hỡi này vào lấy bánh bao
Cúng Thần Hộ Pháp công lao bấy chầy!
Hoằng Trí vâng dạ lịnh thầy
Thiền trù lựa đĩa bánh đầy bưng ra
Trên bàn Hộ Pháp kính a
Mở nhân ăn hết rồi ra đi liền.
Thiện nam tín nữ tu hiền
Hương đăng nguyện vái chứng minh hộ trì
Nam mô mô Phật A Di
Độ sư độ sãi từ bi mạnh lành
Độ dân vườn ruộng thạnh hành
Độ kẻ lòng thành nối chí Thích Ca.
Cúng xong Vạn Hạnh truyền ra
Cơm nước bánh trà tín nữ cùng xơi
Thiện nam cũng ở lại chơi
Kẻ đi nhổ cỏ người thời trồng cây,
Phụ làm công quả giúp thầy
Vạn Xuân vì tuổi đã đầy tám lăm
Nên vào tịnh thất mà nằm
Long Thần vội đến thì thầm với ông:
Bánh bao còn có bột không
Hoàng Đế ăn hết nhân trong đã rồi!
Huỳnh tương định giấc một hồi
Vạn Xuân Hòa thượng mới ngồi thở ra
Liền kêu Hoằng Trí quở la:
Sao ăn nhân bánh lỗi đà quá to
Đánh ba roi đáng tội cho
Long Thần là vị hộ phò chùa ta
Con nên kính trọng mới là
Có đâu cúng bánh con mà ăn nhân,
Nếu Thầy không dạy không trừng
Con luôn cúng bánh ăn nhân ngày hằng
Đã quy y Phật y Tăng
Cớ sao ham uống ham ăn thế nầy!
Hoằng Trí bị đánh bị rầy
Không dám giận Thầy mà giận tượng kia:
Ta ăn nhân bánh kia kìa
Thầy biết vì bởi tượng kia mách thầy
Cả gan cho cái tượng nầy
Mỗi chút mỗi méc cho Thầy đánh ta!
Liền cầm cục lọ đi ra
“Lưu tam thiên lý” đề mà tượng ông
Đề rồi Trí bỏ đi rong
Long Thần Hộ Pháp vào trong tịnh thiền
Mách cho Vạn Hạnh hay liền:
Từ nay trong chốn cửa thiền vắng tôi
Bởi vì Hoàng đế đày rồi
Dầy ba ngàn dặm nên tôi đi liền,
Tại ông mỗi chút mỗi phiền
Hoàng đế giận đuổi tôi liền phải đi.
Vạn Hạnh ông mới nói thì:
Tôi nhờ Hộ Pháp hộ trì từ lâu
Nay ông mà bỏ đi đâu
Vắng ông cửa Phật u sầu lắm đa.
Long Thần liền mới nói ra:
Hoàng đế lệnh đuổi tôi mà phải đi
Thương tôi ông phải năn nì
Với lệnh Hoàng đế xá thì cho tôi.
Vạn Hạnh tỉnh giấc một hồi
Đi ra chánh điện ông ngồi xem qua
Khói hương nghi ngút tỏa ra
Bức tượng Hộ pháp đổ mà mồ hôi
Nhìn quanh bức tượng một hồi
Lấy tay ông vuốt mồ hôi Long thần,
Ông nhìn khắp cả châu thân
Bụng tượng Long thần bốn chữ mới biên
“Lưu tam thiên lý” y nguyên
Chữ lọ Hoằng Trí mới biên rõ ràng,
Ông liền bảo sãi đèn nhang
Đem nước rửa chữ kẻo mang tội trời
Sãi nghe vội vã vâng lời
Đem nước rửa mãi chữ thời không phai
Vạn Hạnh xem thấy châu mày
Mới kêu Hoằng Trí rỉ tai năn nì:
Con kêu Hộ pháp đừng đi
Ở đây Ngài sẽ độ thì chùa ta
Nếu con mà đuổi người ra
Chùa Thầy đây biết cậy mà vào ai.
Hoằng Trí vội vã nói rày:
Long thần ông hãy ở rày lại chơi
Nói rồi bôi chữ tức thời
Long thần hãy ở lại chơi cùng thầy
Vạn Hạnh lòng chẳng có khuây
Chuyện kia chưa hết chuyện này xảy ra.
-
Sư ông Lý Khánh Vân kết cha con đặt tên là Lý Công Uẩn
Giết mãng xà vương Lý Công Uẩn uy danh
Sư chùa Cổ Pháp sang qua
Cùng sư Vạn Hạnh vốn là bạn thân
Sư này tên Lý Khánh Vân
Vào chùa Vạn Hạnh ân cần mời khuyên:
Sư huynh đến Cổ Bi thiền
Có chi quý quá dạy truyền hay chăng?
Khánh Vân ông mới nói rằng:
Bên chùa Cổ Pháp sãi tăng đều già
Nên tôi mới có sang qua
Mượn một đạo nhỏ pha trà dâng hương
Bên chùa Cổ Pháp Phật đường
Không người quét dọn dầu hương hằng ngày.
Vạn Hạnh nghe nói cười dày:
Tôi có đệ tử thiệt tài lắm đa
Mới lên bảy tuổi thôi mà
Mà tâm với trí như già sáu mươi,
Sư huynh Cổ Pháp thiếu người
Đệ tử tôi thiệt vẹn mười dầu hương.
Liền kêu Hoằng Trí phân tường:
Bên chùa Cổ Pháp dầu hương thiếu người
Con thì chu tất vẹn mười
Về chùa Cổ Pháp giúp người công phu
Tu đâu con cũng người tu
Con về Cổ Pháp công phu cũng là
Nay sư Cổ Pháp sang qua
Bát ban võ nghệ ông mà rõ thông
Nếu mà con được theo ông
Thì học võ nghệ gánh gồng nước non,
Thầy đà rõ hết bụng con
Con ham học võ nhưng còn để tâm
Bên trong con cứ ngấm ngầm
Binh thơ đồ trận luôn tâm nghĩ bàn.
Khánh Vân xem tướng rõ ràng
Nên lòng hớn hở hân hoan nói vầy:
Chúng ta tình bạn đủ đầy
Chú đạo nhỏ nầy hổ bộ long phi
Tôi anh hồi tưởng trước khi
Cũng quan cũng chức đơn trì Đinh Vương,
Tôi thì ngán việc chiến trường
Lui về ẩn dật tầm phương tu hành,
Vạn huynh thì ngán công khanh
Để bước tu hành chẳng khác chi tôi,
Huynh đường hương quả có rồi
Lửa hương nối dõi phận tôi tuyệt đường,
Nay nhìn đạo nhỏ lòng thương
Dùng làm nghĩa tử náu nương tuổi già.
Vạn Hạnh liền nói hay a
Mới kêu Hoằng Trí lạy cha tức thì.
Khánh Vân bày tỏ vân vi:
Tôi vốn họ Lý tên thì Khánh Vân
Muốn cho vẹn cả hai phần
Con tôi thì phải ân cần họ tôi,
Sau này di tích nhiều hồi
Con tôi mang lấy họ tôi mới là
Đặt tên mới gọi là cha
Tên Lý Công Uẩn có mà được chăng!
Hoằng Trí hớn hở lòng bằng
Cha đặt Công Uẩn thành văn phẩm đề.
Vạn Hạnh kể rõ mọi bề:
Huynh đem Hoằng Trí dạy nghề Bát ban
Phải cho chu tất chu toàn
Công Uẩn học được Bát ban côn quyền,
Vạn Hạnh kể rõ sạ duyên
Về chùa Cổ Pháp huynh truyền võ văn
Phải ngừa miệng môi lưỡi lằng
Vì Lý Công Uẩn khác hằng người ta.
Khánh Vân nghe rõ do hà
Giã từ Vạn Hạnh kiếu ra đi liền
Dắt tay Công Uẩn con hiền
Công Uẩn từ giã cảnh thiền Cổ Bi,
Lạy thầy Vạn Hạnh trước khi
Khánh Vân lại nắm tay đi ra đàng
Cha hiền lại gặp con ngoan
Về chùa Cổ Pháp lo toan trong ngoài,
Quanh chùa cây cỏ gốc gai
Công Uẩn quét dọn trong ngoài sạch trong
Rảnh rang Công Uẩn đi trồng
Lúa mì lúa miến vun trồng mì lang,
Áo quần khâu vá vẻ vang
Khánh Vân xem thấy lòng càng mến thương,
Mới đem Công Uẩn ra vườn
Truyền dạy võ nghệ đủ đường cho con
Binh thơ đồ trận cũng còn
Học đây mở trí cho con nhiều ngày,
Cha xưa trong tuổi còn trai
Theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp dày sứ quân
Cha đây chinh chiến đã từng
Đương đầu địch với sứ quân đã nhiều,
Chùa này sau trước quạnh hiu
Cha người hưu trí muốn nhiều tịnh tâm
Bá gia bá tánh quanh năm
Tam ngươn cung hỉ thiệt tâm cúng dường,
Còn điều cơm gạo dầu hương
Quan phủ quan huyện cúng dường mà thôi
Ngày nào cha tịch diệt rồi
Thì điều cúng cấp người thôi dâng vào,
Cha e đổi Đế thay Trào
Chùa này không khách dám vào đâu con
Cha già sức đã mỏi mòn
Nay cha sở cậy có con giúp vào
Quanh chùa đất rộng biết bao
Ven bờ mở rộng đào ao lập vườn
Để dùng huê lợi dầu hương
Không cần dùng của thập phương dâng vào,
Tu mà ăn của đồng bào
Mình tu cho họ chớ nào cho ta.
Công Uẩn nghe lệnh của cha
Đi trồng rau cải đậu cà bắp khoai
Thức ăn nuôi sống hằng ngày
Thì Lý Công Uẩn siêng tay chuyên cần,
Ngày nào người cũng lo mần
Thảm thương sư cả Khánh Vân tuổi già,
Bốn ông giáo thọ yết na
Ông nào thì cũng tuổi đà chín lăm
Ngày lo kinh kệ ngồi nằm
Tu thì tu trót thiệt tâm Di Đà
Bốn ông vì tuổi đã già
Đi chung định luật hồn đà lìa thân
Rủ nhau hỉ lượt chết lần
Khánh Vân Công Uẩn lo phần tống chung,
Nhằm cơn mưa gió bão bùng
Khánh Vân nhắc lại thủy chung sự đời:
Nầy nầy Công Uẩn con ơi
Chẳng hiểu máy trời con tạo vần xoay
Con vừa để bước tới đây
Bốn sãi chùa này cưỡi hạc quy Tiên,
Con là mạng tướng chánh quyền
Hay là Hoàng Đế cơ thiên đã dành
Khi con vừa mới đản sanh
Thì người mẹ đẻ hồn đành lìa thân,
Mình con lưu lạc phong trần
Truân chuyên cực khổ lắm phần gian nan
Vạn Xuân Vạn Hạnh đạo tràng
Ra thân bảo bọc cưu mang con rày,
Con còn sống đặng ngày nay
Nhờ ơn công đức sư rày Vạn Xuân
Sau nhờ Vạn Hạnh vui mừng
Con ngoan khôn lớn nhờ chưng nhiều người,
Nay con tuổi đã hơn mười
Binh thơ chiến trận cha thời dạy cho
Vậy thì con phải cần lo
Vừa lo thân sống vừa lo Đạo Thầy,
Dân làng Cổ Pháp nơi này
Đến chùa Cổ Pháp trọng thầy trọng tăng
Phần nhiều lắm kẻ hung hăng
Cha đây vốn thiệt hà tăng đương trào
Cho nên mấy kẻ hỗn hào
Nó chẳng dám vào phá hại chùa cha,
Nếu cha hầu Phật Thích Ca
Cảnh chùa này chẳng biết mà đến đâu.
Công Uẩn nghe nói cúi đầu:
Cha đừng nghĩ ngợi lo âu thảm phiền
Người sanh trong cõi hạ miền
Sanh mạng tử mạng do Thiên cha à
Bần hàn no đói phú gia
Đều có căn số Trời Cha định rồi
Như con là kẻ cút côi
Biết thầy biết đạo mà thôi đã đành
Con nào biết kẻ sanh thành
Chỉ biết đạo đức sống sanh nhờ Thầy,
Nay con nhổ cỏ trồng cây
Tạo ra huê lợi chùa nầy cho cha
Còn e đổi chữ sơn hà
Thì công của trẻ ắt là trôi sông
Xin cha đừng có buồn lòng
Con xin gắng chí ra công lập vườn
Đặng cho bá tánh thập phương
Vào chùa có sẵn của vườn chùa ta
Biếu cho thí chủ đàn na
Mỗi người một ít gọi là của chung,
Dầu cho gặp kẻ dữ hung
Thường ngày thọ lãnh của chung nhà thiền
Con luôn giữ một tánh hiền
Bá tánh mọi miền đất nước tới lui
Lúc nào con cũng tươi vui
Gặp điều rắc rối cũng xuôi cha à,
Cha nhìn cây kiểng bông hoa
Con đây vun vén nay đà tốt tươi
Con đà tính vẹn cả mười
Sau vườn cây trái tốt tươi đủ dùng
Ruộng chùa con lại làm chung
Con rủ trẻ sớm hiệp cùng làm ra,
Đứa nghèo lấy lúa về nhà
Đứa giàu cung hỉ đem qua để chùa
Con mần đã được hai mùa
Đứa nghèo lấy lúa bán mua áo quần.
Khánh Vân nghe nói vui mừng
Vừa thương con dại vừa cưng trí tài.
Công Uẩn thong thả ra ngoài
Hiệp cùng lũ trẻ mới bày việc binh
Binh thơ thầy dạy cho mình
Nay ta thử sách dượt binh xem nào
Trẻ làng đông biết là bao
Hơn ba mươi đứa rủ nhau đồng tình,
Công Uẩn mới sắp bộ binh
Nói cùng bọn trẻ để mình chủ trương
Các anh là kẻ hiền lương
Theo cha làm ruộng lập vườn mà thôi
Làm sao bì đặng với tôi
Từ bé tới lớn trao dồi binh thơ.
Lũ trẻ mới nói ờ ờ
Mày xưng có trí cầm cờ dượt quân
Chúng tao lớn bé đều ưng
Để mày làm chủ điểm quân phân hàng,
Công Uẩn phân định rõ ràng
Các anh tuổi lớn phân hàng hai mươi
Phần em tuổi nhỏ chín mười
Chia phần tuổi nhỏ mười người mà thôi,
Cầm đầu chỉ có một tôi
Hai mươi anh lớn đứng rồi đàng kia
Phất cờ sáp trận tôi chia
Nhỏ ít đánh lớn nhiều kia mới tài,
Nô đùa sáp trận vui thay
Mười đứa tuổi nhỏ thắng rày hai mươi
Nhỏ mừng thì vỗ tay cười
Lớn thì tức giận hổ ngươi nói vầy:
Chúng tao phục cái tài mầy
Cũng là anh dũng đủ đầy rồi đa
Nếu mầy anh dũng gồm ba
Bọn tao chịu lụy gọi là đại huynh,
Tài mày thì giỏi cầm binh
Gan mày tao chẳng được nhìn kỷ cương
Gần đây có mãng xà vương
Có con rắn lớn đón đường hại dân
Rắn này người gọi rắn thần
Nó thường nhiễu hại con dân làng nầy
Nếu mày gan mật đủ đầy
Nếu mày giết rắn tao đây lòng bằng
Hằng ngày đem bánh cho ăn
Chẳng kêu bằng thằng mà gọi đại huynh.
Công Uẩn chúm chím cười xinh
Các anh trở lại gia đình cho mau
Lấy cho tôi mượn gươm đao
Hay là cái mác cái dao cũng tùy
Các anh hãy dẫn tôi đi
Tôi không có biết mãng thì xà vương,
Bọn nhỏ nghe nói chạy bươn
Đứa chịu dẫn đường đứa chịu mượn dao
Công Uẩn lũ trẻ đi mau
Đến nơi thấy một gò cao như đồi
Xum xuê cây cối ối thôi
Bọn nhỏ mới kể khúc nôi rõ ràng,
Mày lo chuông mõ đèn nhang
Mày nào có biết thế gian chuyện gì
Chốn này cây cối rậm ri
Có con rắn lớn ăn thì người ta
Cho nên bá tánh gần xa
Tôn rắn mãng xà đến chức đại vương,
Tướng mày đây quá là thường
Mãng xà nó nuốt không nhường mày đâu
Tướng mầy từ cẳng chí đầu
Mãng xà nuốt trọng nó hầu khỏi nhai
Giỏi thì mày cứ đi ngay
Mầy vào nỗng rắn mày bay về trời
Chúng tao đứng lại đây chơi
Để coi rắn độc nó xơi thịt mầy.
Công Uẩn mới nói như vầy:
Các anh nên đứng lại đây đợi về
Lũ nhỏ nghe nói cười hề
Tao đợi mầy chết rồi về bạch sư.
Công Uẩn là kẻ hiền từ
Thẳng chân vào nỗng nói cười tự nhiên
Ta đây là kẻ tu hiền
Nên giết rắn dữ cứu yên dân làng
Cây cao bóng mát rậm tàn
Nào đâu có thấy xà lang là gì
Dân làng nhút nhát thế ni
Rắn đâu mà rắn lại đi đồn rùm,
Gò cao cây cối xanh um
Thiên hạ đồn rùm là nỗng xà vương
Thoáng nghe là lạ mùi hương
Vừa tanh vừa khét lạ thường dữ a
Phút đâu con mãng xà hoa
Công Uẩn xem thấy lòng mà hân hoan
Mầy là kẻ hại dân làng
Gặp tao mầy phải tầm đàng âm ty
Mãng xà phóng lại tức thì
Công Uẩn vội vã tránh đi bên đàng
Một mình cự với xà lang
Cũng nhờ có thập bát ban thầy truyền
Công Uẩn chém được rắn liền
Rắn đà thiệt chết nằm yên trên gò
Công Uẩn rằng thiệt hay cho
Bấy lâu mầy đã ăn no nhiều người
Vừa đi Công Uẩn vừa cười
Từ rày bá tánh hết thời lo toan,
Bạn nhỏ xem thấy rõ ràng
Mới khen Công Uẩn thiệt gan anh hùng
Bấy lâu rắn dữ hành hung
Nay có anh hùng giết rắn rồi đa
Xúm khiêng thây rắn về nhà
Chúng khoe với mẹ với cha đủ đầy
Dân làng tụ lại đông dầy
Mới đem xác rắn bạch thầy Khánh Vân,
Cùng nhau làng xóm khen rằng
Huyện quan nghe nói ân cần hỏi han
Đua nhau cô bác chị em
Đến chùa Cổ Pháp mà xem rắn thần
Rắn này nhiễu hại lương dân
Bấy lâu bá tánh thiệt thân quá nhiều
Trâu bò gà vịt cũng tiêu
Rắn thần nó đã ăn nhiều người ta
Nay đem mần thịt chia ra
Mỗi người một miếng ăn mà mát gan.
-
Khánh Vân – Công Uẩn quá bộ Sơn La
Dạy con Quan Tuần bài học nhớ đời
Tri huyện vào tận Phật đàn
Khánh Vân Công Uẩn vội vàng tiếp nghinh
Quan rằng: Công Uẩn tài tình
Tôi đem về huyện việc binh cần dùng
Ban cho danh tiểu anh hùng,
Khánh Vân nhỏ nhẹ khiêm cung nói vầy:
Tôi đây tuổi tác chừng này
Có con hôm sớm giải khuây thân già
Quan đem nó lại môn nha
Tội nghiệp cho già Phật tự không an,
Lão đây cám đội ơn ngài
Nhưng con của lão tuổi đây hơn mười
Lão già sau trước không người
Có con cơm nước nói cười bên nhau.
Huyện quan cung kính nói chào:
Tôi thấy Công Uẩn anh hào thiếu niên
Nếu luôn mai một cửa thiền
Đầu chừa ba giá tu hiền khá thương
Muốn đem về chốn huyện đường
Để nung chí cả quật cường núi sông
Làm nên danh tiếng sư ông
Riêng tôi lóng chẳng có mong điều tà
Nói rồi vui vẻ đi ra
Kiếu anh hùng nhỏ môn nha tải về.
Khánh Vân vui vẻ cười hề
Có quan tri phủ gần về nghỉ hưu
Hữu bằng Phật tự giao lưu
Khánh Vân hằng bữa lo ưu đủ bề,
Có quân đem bức thư về
Nói rằng quan phủ luận bề giang san
Hôm nay gặp buổi thừa nhàn
Vào đón Hòa thượng sang quan tôi mời,
Kính trình Hòa thượng sang chơi
Khánh Vân ông mới thuận lời thiện duyên:
Bạn cha là Võ Hà Niên
Đang làm tri phủ trấn miền Sơn La
Vậy thì con phải theo cha
Đến dinh Tri phủ bàn qua đạo đời.
Khánh Vân Công Uẩn tới nơi
Hà Niên Tri phủ đón mời vào trong
Lâu ngày gặp bạn đồng song
Kẻ mặc nâu sòng người mặc triều y
Nhưng mà đôi bạn cố tri
Cái tâm tôn kính uy nghi một màu
Khánh Vân Công Uẩn đi vào
Hà Niên vui vẻ thì thào nhỏ to:
Ngài theo đạo Phật cần lo
Xã tắc tôi phò lòng mãi hoàng nghi.
Khánh Vân ông mới nói thì:
Tuy tôi tu trì ái quốc ưu quân
Mấy mươi năm đã trải từng
Vì giang san phải xua quân chiến trường,
Nay hầu bồ tát giới hương
Vẫn lo dân chúng bốn phương khổ nàn.
Hà Niên nhỏ nhẹ luận bàn:
Có Quan Tuần phủ ác gian độc tài
Quan này chẳng có thương ai
Chỉ biết tối ngày rượu thịt say xưa
Mà còn gian xảo lọc lừa
Tội Quan Tuần phủ đã thừa ngàn cân,
Là người bán nước buôn dân
Thật là tội ác muôn phần lắm đa
Vua sai tuần kiểm phủ ta
Nghe tin tôi thỉnh ngài qua chuyện trò,
Xưa ngài việc nước cần lo
Cùng tôi ngài có hẹn hò kết giao
Nếu như hữu sự về sau
Ngài hứa giúp vào tôi mới hỏi han.
Khánh Vân rằng: chẳng có can
Nếu Quan Tuần phủ đi ngang phủ nầy
Như người mà có vào đây
Cố tình vơ vét cho đầy túi tham
Ngài đem châu báu bạc vàng
Ít mâm xôi thịt tặng quan đi đường.
Hà Niên liền mới phân tường:
Tôi vào trấn nhậm phủ đường mấy năm
Cái câu liêm chính giữ tâm
Bạc vàng đâu có mà cầm dâng ra
Nhiều năm nắng hạn khổ a
Tôi đem công khố cho mà chúng dân
Ngài coi dân chúng xa gần
Nam giới mình trần, nữ áo te tua
Nắng luôn khô hạn mất mùa
Vạn dân bá tánh mà mua lấy sầu,
Tôi thì liêm chính giữ câu
Không ăn của hối lấy đâu có vàng.
Khánh Vân rằng: chẳng có can
Tới đâu hay đó lo toan mệt lòng
Tôi ngài vì nghĩa đồng song
Giúp ngài tôi chẳng kể công cán gì.
Hà Niên ông mới nói thì:
Mời ngài ở lại qua kỳ tuần tra
Đêm thì thưởng nguyệt xem hoa
Ngày ôn binh pháp kẻo mà luống tay
Phủ tôi mà được có ngài
Đã nhuần kinh kệ lại hay trận đồ.
Lính hầu vội vã bước vô
Nay quan tuần kiểm lộ đồ đến đây
Cổng ngoài xe ngựa dẫy đầy
Lính hầu thôi đã đông vầy khắp nơi:
Quan Tuần muốn đến phủ chơi
Chẳng hay quan phủ có mời hay không!
Hà Niên nghe bẩm buồn lòng
Thăng đường tiếp khách phập phồng lo riêng,
Khánh Vân Công Uẩn theo liền
Quan Tuần vừa đến Hà Niên mời vào
Bùi Ân tuần kiểm quan cao
Con là Thiết Hổ hỗn hào dễ ngươi
Mắt xem bốn biển không người
Tiếng nói giọng cười hách dịch ác gian
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Khánh Vân Quan phủ ngồi ngang đón mời:
Nay Quan Tuần kiểm đến chơi
Hay là có lệnh ngôi trời vào đây.
Bùi Ân mới nói như vầy:
Nói thật phủ này chẳng có tuần tra
Cha con tôi lại sang qua
Vào thăm Tri phủ gọi là cố tri
Chứ không phụng mạng Đơn trì
Vào đây tra hỏi điều gì hết đa,
Người mang chuỗi hạt áo dà
Chẳng hay cốt nhục hay là bà con
Phủ đường công lệnh ấn son
Nguyên do nào có đầu tròn vai vuông?
Hà Niên sợ Khánh Vân buồn
Bẩm Quan Tuần phủ cho suôn mọi bề
Anh tôi là kẻ đạo đề
Từ bé đến lớn vẫn kề thiền môn
Từ đường định chữ nghinh hôn
Anh tôi không chịu thiền môn liền vào,
Nay đà đạo đức đã cao
Mấy mươi năm lẻ mới vào nơi đây
Duyên may mới gặp ngày này
Được Quan Tuần phủ đến đây chuyện trò.
Thiết Hổ rằng thật hay cho
Nhà tu mà cũng lần dò phủ quan
Sao không ra chốn hậu đàng
Để cha ta với phủ quan tâm tình.
Công Uẩn nghe nói bất bình
Trố mắt liếc nhìn Thiết Hổ trân trân.
Hổ rằng mầy đứa tiện nhân
Đầu chừa ba giá khoác thân áo dà
Mầy đừng nhìn thẳng mặt tao
Kẻo tao móc mắt chết cha của mày.
Hà Niên nhỏ nhẹ nói vầy:
Công Uẩn là cháu tôi đây thưa ngài
Cũng vì số kiếp không may
Nó luôn đau ốm nhiều ngày rồi đa
Tôi cho về chốn cửa dà
Ăn chay niệm Phật khỏi mà ốm đau,
Nay ngài mặc áo tốt màu
Nó ham nên mới nhìn vào đó thôi
Xin ngài đoái nghĩ tình tôi
Bỏ qua lỗi nó cho rồi nói chi.
Bùi Ân ông mới nói thì:
Cái đồ mất dạy mau đi ra ngoài
Thật là con cháu nhà ai
Thấy quan chói mắt nhìn hoài mặt quan
Con ai mất dạy rõ ràng,
Công Uẩn nghe quở thưa quan lời này:
Bẩm quan con đứng dưới đây
Khoanh tay thủ lễ đủ đầy thế a
Đứng đây hầu bác hầu cha
Bác là Tri phủ cha là Khánh Vân
Quan đi quân lính rộ rần
Con quan chẳng biết trào thần chức chi
Ghế trên nhảy tót ngồi ỳ
Chẳng hay gia giáo quan thì ra sao,
Con quan ngồi tột ghế cao
Quan ngồi ghế dưới sách nào vậy đa
Hay là lễ giáo truyền gia
Của quan lệnh dạy con nhà thế ni,
Luận điều lễ nghĩa mà suy
Thì đại công tử phải gì hay sao
Con quan hách dịch ỷ cao
Còn tôi con sãi dám nào dễ ngươi,
Cũng đồng là một con người
Gia giáo vẹn mười còn bị quở la
Chữ rằng tiên trị kỳ gia
Cái lỗi công tử quan mà nghĩ sao?
Bùi Ân liền mới nói mau:
Mày đồ con nít hỗn hào dữ a
Thiết Hổ giết nó cho cha
Con dân nghịch mạng để mà làm chi!
Thiết Hổ được lệnh tức thì
Đến đánh Công Uẩn, Uẩn thì đá ngang.
Uẩn rằng đây trước mặt quan
Tôi đâu có dám làm đàng dễ ngươi
Tôi luôn kính trọng những người
Kính lão đắc thọ là lời thánh nhân,
Tôi mời công tử ra sân
Công tử muốn giết muốn dần muốn thoi
Cho Quan Tuần phủ ông coi
Phận hèn tôi chẳng học đòi nghênh ngang
Nơi đây là chốn công đàng
Đánh nhau phạm tôi với quan phủ này.
Bùi Ân mới nói như vầy:
Trẻ con mất dạy nói rầy cửa tai
Thiết Hổ lôi cổ nó ngay
Ra sân chém nó thị oai coi là!
Hà Niên, Hòa Thượng đồng ra
Khánh Vân nhỏ nhẹ thưa qua lời này:
Công Uẩn con của tôi đây
Tại vì dại dột mới gây nên phiền
Xin ngài vì mặt Hà Niên
Tha cho sãi nhỏ được yên thân hình,
Hai tôi cúi lạy cầu xin
Mong Quan Tuần kiểm niệm tình thứ tha.
Bùi Ân liền mới nói ra:
Con sãi không biết trọng ta là gì
Để ta giết nó chết đi
Ở chùa không biết tôn ty quan làng
Con sãi phải quý con quan
Con sãi mà lại nghênh ngang lẫy lừng
Không ra oai võ trị trừng
Thì dân có trọng mạng quân bao giờ.
Khánh Vân Quan phủ ngẩn ngơ
Nỉ năn không được bây giờ làm sao.
Công Uẩn quỳ xuống thưa mau:
Thưa cha thưa bác con nào sợ chi
Con là nam tử tu mi
Trừ gian diệt nịnh phải đi hàng đầu
Mạng con chẳng có sao đâu!
Thiết Hổ bước lại lôi đầu Uẩn ra
Cậu nhỏ thì mặc áo dà
Công tử thì mặc áo mà nhà quan
Quân tuần, nha dịch hai hàng
Hai phe chực sẵn chiến tràng đảm đương
Thiết Hổ thì lại oai cường
Công Uẩn chẳng ngán đao thương loại nào,
Nha dịch trong phủ thì thào:
Con Quan Tuần kiểm lớn cao dềnh dàng
Người là con của thượng quan
Lại đi đánh hiếp dân làng ấu nhi
Thắng không danh giá chi chi
Bằng thua cúi mặt hổ thì biết bao,
Quân tuần nó cũng xì xào:
Mình theo hộ vệ quan cao thế nầy
Đến đây mua vạ người đây
Đến đây rồi lại gổ gây hành hình,
Dân dù thất giáo vô tình
Quan nên bủa đức bất bình bỏ qua
Thế sao công tử nhà ta
Đánh cùng trẻ nít thật là kỳ thay
Mắt nhìn ta mắc hổ mày
Vì không phải việc thị oai với đời,
Quân tuần xúm lại luận lời
Bấy lâu ta chẳng biết thời quan ta
Nay vâng lịnh Chúa đi xa
Mới hay mới biết quan ta độc tàn
Hầu quan chưa biết tánh quan
Ngày nay biết được hai hàng lệ sa
Chúng ta là phận quân gia
Hầu người đức rộng thì là thung dung
Hầu nhầm quan ác quan hung
Cái tội cái phước hưởng chung số phần,
Thật là một chuyện vô nhân
Con quan mà hiếp con dân bần hàn
Thắng thì chẳng có ai khen
Bùn sình nó lấm ố hoen áo quần
Thua thì thẹn với chúng dân
Dân coi đại thần chẳng thể thống chi,
Nha dịch nó cũng xầm xì:
Thương cho Công Uẩn ấu nhi dại khờ
Nào hay chiến sách binh thơ
Tuy tuổi còn khờ chân mạng Đế Vương
Xem thường nhưng chẳng có thường
Long thần Hộ pháp vẫn nương theo phò
Võ thì dưỡng phụ dạy cho
Bát ban võ nghệ siêng lo đường quyền.
Khánh Vân với Võ Hà Niên
Thấy Lý Công Uẩn đánh quyền rất hay
Thiết Hổ võ nghệ rất tài
Bát ban võ nghệ là tay thật già.
Bùi Ân hớn hở cười xòa:
Thiết Hổ giết nó cho ta tức thì
Cớ sao còn ngại nỗi chi
Lôi thôi đánh đỡ mất đi thì giờ!
Thiết Hổ mệt đã ngẩn ngơ
Quyết lòng giết gấp chẳng chờ trở tay,
Công Uẩn sức nhỏ mà tài
Đánh té Thiết Hổ nằm dài êm re
Nhảy lên trên ngực mà đè:
Nầy nầy công tử phải nghe lời lành
Con quan cho phải cao thanh
Đi đâu cũng xuống đức lành với dân
Như tôi là kẻ cơ bần
Công tử tỏ vẻ ra phần mến thương
Nắm tay cười nói hiền lương
Dân ngu thì tánh thường thường sợ quan,
Quan nên từ tốn đoan trang
Cảm phục dân làng bố đức thi ân
Sau dù trăm họa vương thân
Quan vào trong xóm có dân hộ rày,
Làm quan mãi thị võ hoài
Con dân ngu dại nào ai dám gần
Luôn luôn mục thị vô nhân
Làm quan như vậy chúng dân khinh lờn,
Đương thời thì quý thì hơn
Hết thời thua kẻ phong đơn đi đàng
Làm quan cho đáng mặt quan
Có đánh đánh với chư bang nước giàu
Luôn luôn kính trọng đồng bào
Đối cùng dân Việt một màu mến yêu,
Nói phô nhỏ nhẹ phải điều
Răn đe cũng phải lựa chiều răn đe
Mở lời đừng có hăm he
Nhà quan như thế tôi e thối mồm,
Người khôn để mắt ngó dòm
Thấy quan như thế chúng nhòm gớm ghê
Nếu đi tuần kiểm dân quê
Thương dân đói khổ vỗ về mới ngoan
Trước khi thọ mạng Vua ban
Vua cấp lương phạn sẵn sàng chi tiêu
Sao còn làm quỷ làm yêu
Đến châu đến huyện thâu nhiều kim ngân,
Huyện thì thâu góp của dân
Để đem cung kính dâng phần cho quan
Từ nay nề nếp vững vàng
Cho ra phong cánh con quan đương triều
Gia phong lễ giáo đủ điều
Quốc lễ quan lễ phải nêu đứng đầu,
Đừng khi dân ở ruộng sâu
Mà không biết cách đối đầu lễ nghi
Công tử nên nhớ trước khi
Đinh Hoàng Tiên Đế cũng thì chăn trâu
Hiện giờ mối nước gồm thâu
Cũng người cầy cấy ruộng sâu xuất hình
Đừng điều miệt thị khi khinh
Thần dân sinh dạ bất bình khó khăn.
Công Uẩn nói nói rằng rằng
Thiết Hổ thì lại mặt nhăn nằm rầy.
Khánh Vân lại đỡ liền tay
Xin lỗi công tử nới tay một lần
Con tôi là đứa ngu đần
Lỗi lầm xúc phạm cao nhân niệm tình.
Bùi Ân kiếm chước chữa mình
Con thương Công Uẩn nhỏ mình trèo cao
Cũng là đủ đức anh hào
Hòa Thượng đây cũng niên cao con à
Bác Niên là bạn với cha
Xem như thủ túc một nhà tay chân
Thôi thì con hãy rộng ân
Tha cho em nó một lần ngu si.
Thiết Hổ liền mới nói thì:
Quân đâu lại ẵm tao thì lên ngay!
Quân hầu đã trốn hết rày
Thiết Hổ kêu hoài chẳng có một tên,
Bùi Ân Thiết Hổ nhìn lên
Toàn là nha dịch người bên phủ đàng
Bùi Ân Thiết Hổ ngỡ ngàng
Vội vàng lên ngựa thẳng đàng bôn phi,
Hà Niên xem thấy cười khì
Nha dịch ẵm Uẩn đem đi xuống hồ
Nầy nầy cậu nhỏ nam mô
Đi tắm thay đồ cho khỏe mà chơi.
-
Tuổi nhỏ trí cao Công Uẩn luận bàn việc nước
Sư giả gạt tiền Công Uẩn giáo khuyên
Khánh Vân ông mới luận lời
Niên huynh phải khá thức thời cho mau
Bỏ đi áo rộng mũ cao
Lên non ẩn dật dồi trao đức lành
Những điều quan chức công khanh
Thế nhân lắm kẻ tranh dành khó khăn,
Quan văn không rõ việc văn
Quan võ thì lại thua thằng giữ trâu
Thế mà áo mão công hầu
Tôi ngài vừa yếu tuổi đầu quá cao
Phải nên ẩn dật mau mau
Soi tâm yên lặng giồi trao tánh thiền.
Công Uẩn bước tới thưa liền:
Trừ gian diệt nịnh cho yên nước nhà
Để chi đoàn bảy lũ ba
Sâu dân mọt nước hại nhà nam bang
Cha cùng với bác đảm đang
Dưng biểu tâu với Thánh Hoàng lịnh ra
Lập Trường Tỷ Võ mới là
Ai dành việc võ cho mà cầm binh,
Còn văn mở hội thi đình
Nếu ai văn giỏi thông minh trên vời,
Làm quan giúp ích ngôi Trời
Thời là mối nước rạng ngời về sau
Những người ngoài miệng hô hào
Bên trong ngu ngốc tham giàu tham sang
Những người độc địa nghinh ngang
Giam lao thiên lý cho an việc nhà
Lợi cho xã tắc sơn hà,
Nếu tính như bác như cha qui điền
Chuyện nhơ nhuốc thể để yên
Để kẻ lạm quyền sát hại dân ta
Làm sao yên nước lợi nhà
Lo thân an lạc chẳng mà lo dân
Thương dân đói khổ cơ bần
Cha cùng với bác lo thân nhẹ nhàng
Bỏ đi dân chúng lầm than
Nhìn dân thảm thiết muôn vàn khổ lao
Chen vai chia sớt phần nào
Đặng cho xã hội đồng bào cậy trông
Nếu mà gặp cảnh bất đồng
Bỏ đi ẩn dật thiệt lòng cho dân.
Hà Niên ông mới liền phân
Cha con với bác thì thân đã già
Làm sao gánh nổi sơn hà
Nước non thì lại bao la dặm dày
Những người gian trá nhiều thay
Những người độc ác cũng rày quá đông
Còn người văn võ đều không
Số này tính lại mênh mông quá thừa
Dù cho thi tuyển lọc lừa
Chọn không đủ mặt người thừa đảm đang,
Còn điều việc của Vua quan
Thì nhiều công việc tính toan đủ đầy
Công Bộ, Lễ Bộ dựng xây
Hình Bộ, Binh Bộ việc đây quá nhiều
Lại Bộ cũng ở trong triều
Nội trong Lục Bộ rất nhiều việc riêng,
Còn thêm ải trấn giang biên
Thượng tướng Phó tướng, Trạng nguyên Xuyên hầu
Khi Vua ngự giá lâm chầu
Ngự lâm trực điện đứng đầu thị uy
Thái phó Thái úy oai nghi
Quốc công Đề đốc hai vì phán quan
Tả hữu Thừa tướng hai hàng
Đại phu thượng hạ rõ ràng chẳng sai
Thừa tài hoặc chẳng đủ tài
Phải đành dùng đỡ cho rày đủ ngôi
Cho nên lắm việc lôi thôi
Lọc thiệt kỹ rồi thì chẳng còn ai,
Cha con với bác đủ tài
Hai người thời có bốn tay thế nầy
Hàng muôn ngàn chuyện bao vây
Nên phải làm thầy khoác áo cà sa
Ước chi nhiều kẻ theo ta
Thì non nước Việt sơn hà vĩnh miên,
Giang san một gánh để yên
Đành đi ẩn dật định thiền mà thôi
Nước non đã mấy đôi hồi
Bĩ cực qua rồi thì đến thới lai
Nhiều phen nô lệ nước ngoài
Lắm khi vùng vẫy đứng rày thẳng lên
Những người anh dũng gan bền
Quá tuần mạng tuyệt đề tên bảng vàng
Phủi rồi một kiếp đảm đang
Cháu con đẩy lối xa đàng đôi nơi,
Về phần giòng dõi con Trời
Đồ Vương tranh bá cũng thời giết nhau
Càng già càng thấy ngán ngao
Còn có anh hào khi lớn sẽ hay
Bác xem con cũng có tài
Ắt có một ngày vùng vẫy liệt oanh
Mong sao con đặng đoạt thành
Cha cùng với bác thơm danh phần nào.
Cả nhà trò chuyện cùng nhau
Ba thầy phú quyến mới vào môn nha
Quân hầu vào bẩm quan bà:
Có thầy phú quyến vào mà nơi đây
Chẳng hay bà đến tiếp thầy
Hay là để bẩm chuyện nầy với ông.
Phu nhân nghe bẩm buồn lòng:
Phủ đường mới đón một ông thầy về
Thì Quan Tuần kiểm đến kề
Sanh ra tranh chấp đủ bề nói đon
Nay thêm ba gã đầu tròn
Long xa Vua đến lại còn lớn hơn,
Bây ra bảo với đạo nhơn
Muốn đi phú quyến dời chơn ra ngoài.
Lính hầu lời thật nói ngay
Chạy thẳng ra ngoài nói với ba sư:
Vợ chồng quan phủ hiền từ
Tu kiều bồi lộ phước người quá cao
Các thầy phú quyến có vào
Phu nhơn hỷ cúng từ nào tới nay
Hiện giờ có việc không may
Sư chùa Cổ Pháp mới rày sang chơi
Thì Quan Tuần kiểm tới nơi
Thị oai người muốn giết chơi con chùa,
Phước lành khó kiếm khó mua
Nếu ba thầy đến chắc Vua tới nhà
Chúng tôi phục lịnh qua bà
Thầy đi nơi khác để mà giáo khuyên.
Ba ông Hoà thượng nói liền:
Lính hầu ngươi khá chịu phiền vô trong
Vô mà bẩm với quan ông
Rằng ta đây thật có lòng giáo khuyên
Mong người cung hỷ số tiền
Để xây Pháp Bửu lưu truyền mai sau.
Lính hầu nghe nói trở vào
Vô mà kể rõ trước sau quan tường,
Hà Niên nghe bẩm xót thương
Mời thầy phú quyến công đường nghỉ ngơi.
Ba thầy vô đã tận nơi
Khánh Vân, Quan Phủ đón mời trà chuyên:
Nay ba thầy đến giáo khuyên
Chẳng hay xây Pháp Phật tiền nơi nao?
Ba ông Hòa thượng nói mau:
Nam mô mô Phật tôi nào dấu chi
Bần tăng đâu có ngại gì
Quyết làm việc Phật nên đi xa vời
Bần tăng đi đã nhiều nơi
Dốc lòng khuyên giáo tạo đời phước duyên
Nam mô mô Phật chứng miên
Nay chùa Cổ Pháp sư hiền Khánh Vân
Niết bàn hồn đã nương thân
Xác đang hỏa táng linh phần chưa xong
Bần đạo vì trọng đức ông
Định xây Bửu Tháp ra công phụng thờ.
Hà Niên nghe nói ngẩn ngơ
Khánh Vân thì lại giả vờ hỏi han:
Ba Thầy người ở hà phan
Ẩn thân nơi chốn Phật đàng lâu mau
Ba thầy tu ở chùa nào
Hay chùa Cổ Pháp mới vào nơi đây?
Ba ông Hòa thượng nói vầy:
Bần đạo tu ở chùa nầy đã lâu
Gọi chùa Cổ Pháp đứng đầu
Nay đại Hòa thượng về chầu Thích Ca
Bần đạo khuyên giáo gần xa
Về xây Bửu Tháp để thờ Khánh Vân.
Công Uẩn nghe nói nhìn trân:
Cha tôi vốn thiệt Khánh Vân đây nầy
Tôi xin mượn mão ba thầy
Thử xem có tóc hay đây trọc đầu
Nói năng sao chẳng trúng câu
Nếu kẻ trọc đầu giữ giới xảo ngôn,
Phải người đồng đạo đồng môn
Tham si cũng bỏ xảo ngôn cũng chừa
Ngôi chùa Cổ Pháp từ xưa
Cha con tôi ở nắng mưa mấy mùa
Hai ngôi cổ tháp trước chùa
Sẵn dành phương trượng giữ vùa hương thơm,
Chùa dư hương hỏa áo cơm
Lúc nào chùa cũng giữ thơm đạo nhà
Chùa không phú quyến gần xa
Chùa có lộc nước Vua cha sẵn dành,
Ba thầy có vẻ bất lành
Tôi xin hạ mũ xem dành mặt ai.
Miệng nói chân bước lẹ tay
Lột mũ Hòa thượng xuống ngay coi liền
Rõ ràng thật kẻ nhà thiền
Cớ sao ăn nói quàng xiên thế này
Cha tôi còn sống ngồi đây
Lại dám nói chết lỗi này do đâu
Nam mô mô Phật giữ câu
Ba thầy khuyên giáo để cầu cho ai,
Tu hành lời nói thật ngay
Có câu nói dối làm sai cửa thiền
Rõ ràng không phải kẻ hiền
Đi mượn màu thiền gạt kẻ từ tâm
Đã đi khuyên giáo nhiều năm
Làm điều tà dại lương tâm thể nào,
Nếu như thiệt kẻ đạo cao
Tam quy ngũ giới tại sao không gìn
Hằng ngày tụng niệm kệ kinh
Ngoa ngôn xảo ngụy bất bình nhân gian
Ba thầy này quá ngược ngang
Kẻ sống nói chết lại càng lỗi to,
Thưa cha cha định dùm cho
Thầy tu sao chẳng kiêng lo phụng thờ
Lại đi phỉnh gạt kẻ khờ
Bảo rằng xây tháp mà thờ Khánh Vân
Thành ra gạt lấy của trần
Mượn đạo đặng có lập thân béo phì,
Thưa bác bác phải nói đi
Tôn sư trọng đạo là vì Thích Ca
Còn người chuỗi hột áo dà
Mặc dù là kẻ xuất gia đạo tràng
Còn nằm trong luật Vua quan
Mượn đạo mà lại dối gian gạt người
Bác nên nghiêm trị tức thời
Nửa giúp ích đời nửa giúp Thích Ca
Kẻo người gian dối tinh ma
Chuỗi hột áo dà gian dối gạt dân
Trọng đạo bác phải ân cần
Ngăn ngừa những kẻ gạt dân dối đời.
Hà Niên ông mới nói thời:
Khánh Vân này hỡi bạn tôi có tường
Cháu nhà tính khí đảm đương
Còn thêm võ nghệ văn chương gồm tài
Lắng nghe lời nói đều hay
Khác nào lịnh phán long ngai chỉ truyền.
Khánh Vân ông mới nói liền:
Gương mặt nó hiền tánh nó hùng anh
Huyện làng Cổ Pháp ban danh
Dân làng Cổ Pháp lòng đành mến thương
Nó gan dám giết xà vương
Cứu dân Cổ Pháp khỏi đường rắn tha
Dân làng Cổ Pháp quý a
Trẻ thơ cho chí cụ già đều khen,
Tôi e mạng bạc thời đen
Các sư hòa thượng lắm phen dấu hình
Nếu ai càng ngắm càng nhìn
Thì càng thấy nó khác hình chúng sanh
Vạn Xuân, Vạn Hạnh dấu quanh
Đến tôi tôi cũng phải đành đậy che
Giữ dùm nào dám đem khoe
Bạn lành nên nói bạn nghe đủ đường,
Nó là chân mạng Đế Vương
Long thần Hộ pháp kính nhường khâm tuân
Tôi đây dạ cũng riêng mừng
Ngặt tôi tuổi đã thất tuần quá cao
Ước mong cho đến ngày sau
Thủ xem Công Uẩn thể nào cho hay.
Hà Niên nghe nói thở dài
Tôi đây thì cũng tuổi ngoài sáu mươi
Thế mà hậu duệ không người
Phải chi tôi có một người lửa hương
Cho tôi làm kẻ bạn đường
Giúp Lý Công Uẩn đến đường hưng long
Đàng này hậu duệ vắng không
Nghe mừng mà lại tủi lòng tương lai.
Ba ông hòa thượng nói rày:
Nam mô mô Phật kiếu ngài tôi đi.
Công Uẩn nắm lại nói thì:
Từ rày sắp tới tam quy giữ lòng
Tu hành phải lắng lòng trong
Để cho vạn pháp thảy đồng quy chơn,
Tu không tính kém tính hơn
Không giận không hờn ó ré rầy la
Nam mô mô Phật Di Đà
Thầy còn đừng có làm ma khóc thầy,
Tu cho pháp huệ đủ đầy
Vô cố vô ngã lòng này chớ quên
Định thiền trí huệ cho bền
Không nên chấp ngã không nên hô hào,
Tu cao phải lập hạnh cao
Tu cao nết hạnh giồi trao lương thuần
Ba thầy phải khá coi chừng
Giới hương nhập định nhớ đừng sai ngoa
Nam mô Bồ tát Ma ha
Vô cố vô ngã Mật đa tu trì
Mắt không biết ngó cái chi
Tâm không ham muốn cái gì cuốn lôi
Huệ tâm huệ trí trao giồi
Huệ nhĩ huệ nhãn phải nhồi tâm hương,
Nói lời chắc thiệt hiền lương
Năm non đi tắt một đường được đâu
Ma ni la hán giữ câu
Thất tịnh yết đế cao sâu để lòng,
Xem màu ăn mặc nâu sồng
Tính như đội giác mang lông quá kỳ
Ngồi nhà mà niệm A Di
Còn hơn cực khổ mà đi đặt điều
Bày chi lời nói quỷ yêu
Gây tội ra nhiều tác quái tác ma,
Ta gìn giữ chánh tâm ta
Trái ớt quả cà không trộm của ai
Lương tâm cứ nghĩ điều hay
Mâu ni xá lợi có ngày hiện thân
Đừng bày điều gạt người trần
Không tín thế thần dùng bữa tương rau,
Cha ta là kẻ đạo cao
Chẳng có lúc nào tính chuyện bá vơ.
Ba ông hòa thượng ngẩn ngơ
Đạo nhỏ thuyết pháp bởi giờ hữu duyên
Tu hành phải định tánh thiền
Ta không định tánh hại phiền lòng ta.
Công Uẩn luôn miệng nói ra:
Lục căn bên cạnh lòng tà nẩy sanh
Các ông tu chẳng có hành
Lục tặc tam bành luôn xúi chuyện hư,
Đã là mặc áo nhà sư
Cớ sao lục tặc không từ nó ra
Tâm mê luôn nghĩ điều tà
Đó là tâm quỷ tâm ma lộ hình
Ý luôn muốn đẹp muốn xinh
Đó là ý quỷ muốn mình hư thân
Mắt ham áo mão đai cân
Đó là mắt quỷ hại thân bồ đề
Mũi ưa nồng nặc hương quê
Đó là mũi quỷ dẹp về một bên
Thật tu mạnh dạn đứng lên
Lưỡi ưa rượu thịt không nên đâu là
Thân ưa sung sướng nhởn nha
Tam bành lục tặc hại ta ngỡ ngàng
Tai nghe tiếng hát giọng đàn
Miệng hay nói dối nói gian đủ lời
Thiệt tu niệm Phật niệm Trời
Không ham chè chén không chơi bạc bài.
Ba ông hòa thượng lạy dài
Nam mô mô Phật tôi rày xin nghe.
Khánh Vân ông mới nói nè nè:
Ba ông hòa thượng muốn nghe tu trì
Nếu không chùa tháp chi chi
Nên về Cổ Pháp tu trì với tôi
Chớ tôi tuổi đã già rồi
Niết bàn nhập tịch biết thôi ngày nào.
Ba thầy nghe nói lệ trào
Tôi xin nối bước theo sau tu hành
Quyết lòng học đạo cao thanh
Theo sư Cổ Pháp cho thành tỳ kheo.
Hà Niên xem thấy ngặt nghèo:
Thầy kia sao lại còn theo thầy nầy
Khánh Vân từ giã nói vầy
Mấy tuần trăng ở Phủ nấy đã lâu
Chuyện trò cũng đã nhiều câu
Xem hoa thưởng nguyệt cũng lâu ngày rồi
Kiếu ngài tôi sẽ lai hồi
Về chùa Cổ Pháp để nhồi tâm hương.
Hà Niên đưa tiễn ra đường
Bốn thầy một trẻ đi bươn về chùa.
-
Lý Công Uẩn đi ta bà,
Gặp chuyện bất bình Công Uẩn thu phục trùm băng đảng
Không ngờ lắm chuyện chạm khua
Tới nơi thì thấy cổng chùa tan hoang
Khánh Vân mới hỏi dân làng
Cớ sao Phật tự nát tan như vầy?
Nữ nam tựu lại đủ đầy
Đón tiếp mừng thầy trở lại chùa xưa
Quan huyện bước đến trình thưa
Bùi Ân Tuần kiểm người vừa đến đây
Truyền quân đập bỏ chùa nầy
Tiểu anh hùng với cụ thầy đi đâu
Tôi ra ngăn cản đủ câu
Mà Quan Tuần kiểm có đâu nghe lời,
Long thần Hộ pháp đi chơi
Để Quan Tuần kiểm phá thời chùa sư
Dân làng Cổ Pháp hiền từ
Khóc thương cho cảnh chùa sư tiêu tàn
Chùa nầy vốn của Đinh Hoàng
Bùi Ân nó dám phá tan chùa chiền.
Khánh Vân ông mới nói liền
Huyện quan dân chúng chớ phiền mà chi
Nay chùa Cổ Pháp phá đi
Lẽ ra ta đến đơn trì tâu Vua
Phen này đành phải nhịn thua
Dấu Vua tại vị, phò Vua thiếu thời.
Huyện quan vui vẻ vâng lời
Truyền cho thí chủ khắp nơi lòng thành
Kẻ công người của xúm dành
Xây lại Cổ Pháp cho thành như xưa
Trải qua thời tiết nắng mưa
Năm năm xây dựng mới vừa lại xong,
Ngày mừng khánh hạ thành công
Khánh Vân ngọa bệnh đầu đông thở dài
Công Uẩn lo thuốc liền tay
Cầu cho Phật độ cha rầy bình yên
Ba sư đem hết bạc tiền,
Thuốc thang mua sắm liền liền cho ông
Công Uẩn hầu cận tịnh phòng
Khánh Vân khẽ nhỏ đục trong sự đời:
Thầy đây là kẻ thức thời
Biết con thọ mạng lịnh Trời ban ra
Nên thầy tạm nhận làm cha
Để che mắt thế cho qua tháng ngày
Nay con mười sáu tuổi đầy
Long phi hổ bộ khác rày người ta
Thầy đau mà tuổi đã già
Tuần hoàn định luật khó mà từ nan
Sau khi thầy nhập Niết bàn
Một con trơ trọi thế gian dãi dầu
Một mình khó nỗi lo âu
Con cần giao hữu bạn bầu liệt oanh,
Thôn quê cho tới thị thành
Con đi chọn kẻ hiền lành làm quen
Phòng sau gặp vận thời đen
Thì là cũng có bạn quen giúp mình
Tầm người hào kiệt giao tình
Gọi là kết nghĩa đệ huynh giao đầu,
Một mình sống chẳng yên đâu
Chơi bạn lựa bạn tâm đầu nghe con
Bạn nào đức hạnh vẹn tròn
Tài ba lỗi lạc thì con đến gần
Đừng quen các bạn mê trần
Rượu chè bê bết tham sân bạc bài
Đã không học được chuyện hay
Say sưa rồi cũng có ngày hư thân,
Con người khác hẳn phàm trần
Tửu là giới cấm phải cần nghe con,
Ngày thầy tịch diệt không còn
Đạo chùa Cổ Pháp mong con giữ gìn
Ta hay ta chớ trọng mình
Hoàn cầu trái đất muôn nghìn người hay
Có tài đừng trọng chi tài
Có tài cất để khoe ngoài không nên,
Anh hùng hào kiết bốn bên
Phần nhiều người có tuổi tên con à
Luôn khen bản lĩnh người ta
Mình hay ắt hẳn người mà cũng hay
Không nên khoe trí khoe tài
Tiểu nhân nó ghét nó rày diệt tiêu,
Lời thày căn dặn bấy nhiêu
Con cần nhớ lấy quy điều nghe con
Sau dù thành lập nước non
Lời thầy ắt hẳn con còn bên tai
Nói rồi ông lại thở dài
Thiu thiu hồn điệp nhẹ bay Niết bàn.
Công Uẩn nước mắt hai hàng
Ba thầy ôm xác khóc than tủi phiền:
Thầy Cả thông đạt cơ thiên
Lục thông đã có diệu huyền cũng hay
Sao không thoát khỏi ra ngoài
Sanh lão bệnh tử sống hoài ngàn năm!
Công Uẩn nước mắt chan dầm
Lo bề tống táng mà tâm riêng buồn
Phụng thờ tuần tự luôn luôn
Ba năm thủ hiếu cội nguồn đã an.
Ba sư ngồi lại luận bàn
Uẩn rằng những việc đèn nhang chùa này
Hàng ngày hương hỏa cho thầy
Ba sư lo giúp đủ đầy vẹn xong
Chùa này giao lại ba ông
Tôi xin từ giã thẳng xông lên đường
Đi tầm hào kiệt bốn phương
Tôi đi khắp nẻo khắp đường nhân gian
Tôi đi giáp cõi giang san
Để coi trong nước Nam bang đất nầy
Được bao nhiêu kẻ tà tây
Được bao nhiêu kẻ trọng thầy tôn sư
Được bao nhiêu kẻ hiền từ
Nói rồi từ giã ba sư đi liền
Thân mang manh áo nhà thiền
Túi có ba tiền đầu chẳng nón khăn
Khát dùng nước giếng đói ăn trái rừng
Đi hoài chẳng có nghỉ chân
Bản làng đã khỏi núi rừng cũng qua.
Phúc đâu sấm sét mưa sa
Ì ầm mưa đổ nước đà dâng cao
Mắt nhìn một xóm nhà giàu
Bụng thì thầm nghĩ trước sau như hà
Bấy lâu thân tựa cửa dà
Biết bao thí chủ đàn na đến chùa
Mặc dù ngoài thế bán mua
Khi đến cảnh chùa lạy Phật kính Tăng
Chẳng hay hiền hậu hung hăng
Đến chùa lạy Phật cũng bằng như nhau
Nay ta ghé thử nhà giàu
Xem người đối xử ra sao sẽ tường.
Nghĩ rồi Công Uẩn đi bươn
Vào đến cửa ngõ còn đang ngó nhìn
Mưa to đà ướt cả mình
Còn để mắt nhìn cây cỏ bông hoa
Phúc đâu lại có mụ già
Hỏi rằng tráng sĩ ghé mà đây chi?
Công Uẩn liền nói thưa dì
Đang cơn mưa lớn trời thì hoàng hôn
Đi đàng mưa gió lạnh nôn
Trời đà vào buổi hoàng hôn đã rồi
Nhờ dì đoái cảnh thương tôi
Xin cho nghỉ tạm sáng rồi sẽ đi.
Cụ già liền mới nói thì
Mụ đây vốn thiệt là dì quản gia
Cháu theo dì đến tận nhà
Dì hỏi viên ngoại được mà hay chăng!
Cụ gìa Công Uẩn đi phăn
Viên ngoại xem thấy hỏi rằng đi đâu
Công Uẩn thì lại cúi đầu
Cụ bà lễ phép từ câu thưa rày:
Dám thưa Viên ngoại ra tay
Cháu này đang đứng cửa ngoài đục mưa
Viên ngoại phước đức có thừa
Làm ơn cho cháu nghỉ mưa với nào.
Viên ngoại là kẻ có giàu
Nghe quản gia nói gật đầu nói ngay:
Cháu này ướt át thương thay
Mụ đi xuống bếp đem rày cơm ra
Cháu ăn lấy thảo cùng ta,
Công Uẩn liếc mắt xem nhà xung quanh
Nào là trường kỷ treo tranh
Hương đăng hoa quả sẵn dành bày ra
Lén nhìn xuống bếp coi mà
Tôi trai tớ gái vào ra đông vầy
Thịt xôi trà bánh đủ đầy
Chẳng biết nhà này có cái lễ chi
Nhìn qua thấy vẻ oai nghi
Viên ngoại ngồi ỳ nước mắt chảy quanh
Rõ ràng vẻ mặt buồn tanh
Mặt buồn rười rượi nước quanh đầy tròng.
Công Uẩn liền lại thưa ông:
Ông đà giúp cháu no lòng hôm nay
Đang cơn đói lạnh bên ngoài
Ông đưa quần áo cháu thay đã rồi
Con nhìn ông được một hồi
Tuổi ông sồn sộn độ thôi ngũ tuần
Trong nhà hoa quả dọn trưng
Đây vốn tiệc mừng chẳng lễ gia tiên
Xem ông vẻ mặt ưu phiền
Ắt điều tâm sự chi riêng bên lòng
Cháu vừa mới thọ ơn ông
Nên cháu cũng muốn bỏ công giúp rày
Điều chi ông phải châu mày
Thì ông cứ nói cháu hay coi là
Liệu cháu đem sức bỏ ra
Giúp ông có được cháu mà giúp ngay.
Viên ngoại nghe nói thở dài:
Chuyện này cháu khó ra tay cháu à
Ông đây nên cửa nên nhà
Đồng chồng đồng vợ tạo ra của nầy,
Họ Trần vốn thiệt ông đây
Tấn Thân tên đặt bấy chầy nên danh
Bà nhà sớm đã trổ sanh
Đơn quế hai nhành một gái một trai,
Bạch Lan là gái xinh thay
Vân Mộng vốn thiệt là trai cháu à,
Thân ông rất thiệt khổ a
Nên Trời dũ sổ vợ nhà quy Tiên
Dù ông lắm của nhiều tiền
Con côi cha giá cũng phiền cháu ôi
Ở đời chẳng biết sao rồi
Ông luôn tạo phước trao dồi đức nhân,
Trời xui chi gánh họ Trần
Hết điều tẻ lạnh đến phần lo toan
Nhà ông có lắm bạc vàng
Tạo phước tích đức xóm làng đều thương,
Nay lo tai ách giữa đường
Vừa hay tin của Đại vương lại nhà
Ông lo sắm sửa rượu trà
Linh đình dọn cỗ vịt gà dọn chưng
Gọi là thiết cỗ tiệc mừng
Đại vương này ở dặm trường nơi xa
Hôm nay người đến đây mà
Không biết lấy hết của ta hay chừa.
Công Uẩn nhỏ nhẹ liền thưa:
Cường sang cướp đảng còn chừa làm chi
Viên ngoại đừng có lo gì
Để cháu bắt nó bái quỳ lạy ông.
Viên ngoại rằng chẳng có xong
Đại vương nầy cũng có lòng thương dân
Lắm khi xuống núi chẩn bần
Lấy của bá hộ cho dân đói nghèo
Dân làng nhiều kẻ đi theo
Nhà giàu nó ghét nhà nghèo nó thương,
Đây là hai vị Đại vương
Dân nghèo nó quý nó thương cháu à
Chuyện nầy nó chẳng đồn ra
Dân không đi cáo phủ nha nơi nào
Chỉ riêng mấy lão nhà giàu
Thì lo thì sợ thì đau vì tiền,
Đại vương thứ nhất rất hiền
Mạnh Duy tên gọi có truyền bát ban,
Thứ nhì nó mới ngược ngang
Đào Quỳ tên gọi thiệt càng hung hăng
Mỗi lần xuống núi mần ăn
Trẻ già nó cũng gọi thằng xưng ông.
Công Uẩn nghe nói nóng lòng
Phúc đâu đảng cướp ngoài sân ồn ào
Mạnh Duy đã kéo quân vào
Công Uẩn nhẹ gót ra mau sân ngoài
Mạnh Duy la hét rền tai
Tấn Thân đâu hãy ra ngay đây nầy
Hãy đem của cải ra đây
Chia ta một nửa của nầy mau lên.
Công Uẩn đà đứng một bên
Đại vương nói thế không nên đâu là
Ông tôi cực khổ làm ra
Của để đầy nhà nhưng chẳng chia ai
Các anh toàn kẻ trẻ trai
Tự làm ra của mà xài mà ăn
Có đâu tụ họp làm nhăng
Của người cực khổ lấy ăn cho đành
Nào đâu phải mặt liệt oanh
Nào đâu phải mặt hùng anh ở đời.
Mạnh Duy liện mới nói thời
Ta chẳng nhiều lời biết đánh mà thôi
Lâu la bây hãy lại lôi
Thằng nầy đâu lạ lôi thôi lắm lời
Lâu la áp lại thức thời
Công Uẩn đánh đá tơi bời văng ra,
Mạnh Duy áp lại đánh a
Công Uẩn đè xuống đánh ba thoi liền,
Mầy nghe tao nhủ tao khuyên
Mầy đây là một thanh niên ở đời
Làm trai đứng giữa đất trời
Phò Vua giúp nước nối thời chí trai
Có đâu ẩn núp cỏ cây
Phá làng phá xóm đó đây đều đều
Dù mầy làm phước rất nhiều
Cũng là ăn cướp lắm điều thị phi.
Mạnh Duy nhỏ nhẹ năn nì:
Lời anh dạy phải tôi ghi vào lòng
Từ nay lo cấy lo trồng
Không đi lấy của làng trong bản ngoài.
Công Uẩn kéo dậy nói rày:
Nếu biết chừa lỗi mới tài tu mi
Hai ta cũng bạn cố tri
Từ rày sắp tới ráng ghi vào lòng
Giữa đây thề có trời ông
Kết tình giao hữu thật lòng thương nhau
Mai sau sanh tử thế nào
Anh em đừng có bỏ nhau mới là.
Mạnh Duy liền mới nói ra
Anh dạy chí phải tôi đà xin vâng
Viên ngoại xem thấy lòng mừng
Đại vương mau khá bước chân vào nhà
Cháu đây thiệt giỏi thay là
Ngày nay làm bạn với mà Đại vương.
Công Uẩn liền mới phân tường:
Cháu không xứ sở quê hương cửa nhà
Cháu người không mẹ không cha
Họ hàng chẳng có ông bà cũng không.
Mạnh Duy nghe nói thương lòng
Tôi cũng côi cút bềnh bồng nổi trôi
Đói no chẳng biết mấy hồi
Nên lên Sơn trại mà ngồi làm Vua,
Mười năm qua bị thất mùa
Nên đành lên núi làm Vua đầu đàn
Anh như cánh nhạn xa phang
Mời anh lên núi ở an cấy trồng
Núi nầy dân chúng rất đông
Gọi Trà Sơn Lãnh lâm tòng xum xuê
Năm ngàn nam giới theo kề
Cùng tôi làm có một nghề lâu la
Những lời anh mới nói ra
Tôi liền quy chánh cải tà một khi.
Viên ngoại ông mới nói thì:
Ân nhân đừng có vội đi bỏ già
Mừng người võ dõng đến nhà
Đi liền tội nghiệp cho già lắm thay.
Công Uẩn liền mới nói rày:
Mạnh Duy về núi ít ngày tôi lên.
Duy rằng anh bạn đừng quên
Ít ngày tôi đến một bên rước về.
Viên ngoại vui vẻ cười hề
Liền đem rượu thịt vỗ về mời khuyên
Ăn xong Duy kiếu về liền
Viên ngoại xem thấy mới yên trong lòng.
Công Uẩn nhỏ nhẹ thưa ông:
Chẳng hay công tử thơ phòng xem kinh
Hay là vào cửa sân trình
Cháu đây chưa được mắt nhìn con ông.
Viên ngoại nghe hỏi vui lòng
Ông liền vào chốn thư phòng gọi con,
Nhà ta phước đức sẵn còn
Ân nhân muốn biết mặt con như hà.
Vân Mộng vội vã đi ra
Công Uẩn xem thấy mới mà hỏi han:
Công tử luôn ở hậu đàng
Nên tôi chưa biết rõ ràng ra sao.
Vân mộng liền mới nói mau:
Xóm này tuy giầu không cụ đồ nho
Cha tôi hằng bữa dạy cho
Tôi cứ lần dò học lóm mà thôi
Mặc dù kinh sử trau giồi
Không thầy không bạn chẳng rồi chi chi,
Nói rồi đem sách ra thì
Công Uẩn xem thấy cười khì nói ra:
Chữ em thì tốt chả cha
Em giải nghĩa là luôn trật minh tâm
Kề tai Công Uẩn thì thầm
Nghĩa nầy chữ nọ mới nhầm em ơi
Vân Mộng dạ dạ vâng lời
Tỏ ra hân hạnh nói cười hồn nhiên.
Viên ngoại xem thấy ngạc nhiên
Ân nhân trong vẻ thiếu niên thay là
Võ văn gồm đủ hay a
Như vầy thì phước của già quá cao
Gia đình của lão chừ bao
Tìm thầy dạy chữ rước vào nơi đây
Đã hơn mấy chục ông thầy
Ông nào chữ cũng chưa đầy lá khoai,
Con lão ham học đêm ngày
Luôn luôn kinh sử giồi mài chẳng ngơi
Vân Mộng liền mới nói thời:
Lòng tôi cương quyết một đời làm quan
Cha tôi giàu có muôn vàn
Nhà giầu đâu sánh nhà quan anh à
Làm quan trí tuệ cao xa
Lấy lý làm sự thốt ra nhiều điều
Học cho hiểu biết trăm chiều
Làm quan đặng giúp ít nhiều cho dân.
Viên ngoại nghe nói cười rân:
Cha dân con lại muốn mần quan cao
Bác đây thì sẵn có giàu
Con bác ham học thì nào cản ngăn
Thơ phòng học chữ học văn
Thính đường cướp đến trăm thằng chưa hay
Nếu không có cháu giúp tay
Bác đành đem nửa gia tài mà chia.
Vân Mộng mới nói coi kìa
Cha giàu dư để thì chia cho người
Con học chữ nghĩa vẹn mười
Được làm quan lớn tốt tươi thay là
Làm quan hưởng lộc quốc gia
Thì của công khố hằng hà cha ơi,
Cha thường nguyện với Đất Trời
Giúp người đói khổ giúp người ốm đau
Đại vương này có công lao
Lấy của nhà giàu mà bảo chia đôi
Lòng hiền cha thấy hẵng rồi
Còn ăn cướp ác cha thôi khỏi bàn
Con nghe thiên hạ đồn rang
Ăn cướp vào làng cướp của giết dân
Nhà nào bị chúng đặt chân
Áo quần lột hết nên thân trần truồng
Của dầu dư để mấy muôn
Chúng đều lấy sạch ai buồn mặc ai
Lấy xong chúng nó ra ngoài
Đốt hết nhà cửa chẳng rày xót thương,
Đằng này hai vị Đại vương
Lúc nào người cũng nghĩ thương đồng bào
Người thường lấy của người giàu
Mà cho kẻ đói đức cao ở đời
Con thường muốn đến đó chơi
Ngặt vì ham học chẳng thời đi xa
Quyết làm cho đẹp mặt cha
Lòng con đã quyết ra mà làm quan.
Công Uẩn nghe nói rõ ràng
Vỗ vai Vân Mộng luận bàn võ văn
Anh đây tâm trí ngày hằng
Muốn đem sức cả đạp bằng núi sông,
Nếu em thiết trí thiệt lòng
Anh đem văn võ anh hồng dạy cho
Sau nầy xã tắc nương phò
Anh em ta sẽ đồng lo san hà.
-
Lý Công Uẩn sánh duyên châu trần cùng Trần Bạch Lan
Viên ngoại ông mới hỏi qua
Lão đây hỏi thiệt cháu mà tên chi
Học ai văn võ cao kỳ
Nói cho bác biết bác thì chia vui
Công Uẩn nghe hỏi ngậm ngùi
Tên Lý Công Uẩn là tôi ông à
Thuở tôi mới được lên ba
Sống chùa Vạn Pháp thầy là Vạn Xuân
Lời ăn tiếng nói chưa từng
Thì sư Vạn Hạnh đón mừng rước tôi
Đó là hai vị thầy nuôi
Mẹ tôi đã chết lúc tôi chào đời
Trong cơn mưa gió đầy trời
Giữa mưa tôi lại chào đời đó ông
Trên đầu tôi có Huỳnh Long
Vạn Xuân Vạn Hạnh hai ông cưng chiều
Vạn Hạnh chữ nghĩa rất nhiều
Xưa sư Vạn Hạnh quan triều đương kim
Văn hay lắm kẻ thù hiềm
Nên sư Vạn Hạnh mới tìm đường tu
Cửa thiền dưa muối công phu
Thầy tôi vốn thiệt nhà tu ông à
Khen tôi thông sáng hay a
Dạy đâu biết đó chẳng mà có quên
Sư chùa Cổ Pháp vừa lên
Khánh Vân họ Lý tuổi tên bảng vàng
Xưa ông cùng với Đinh Hoàng
Sứ quân dẹp hết thâu an một bề
Nay người ẩn sĩ về quê
Thăm sư Vạn Hạnh trọn bề đệ huynh
Thấy tôi lễ phép đẹp hình
Xin làm nghĩa tử vẹn tình cha con
Bên ngoài không kẻ hỏi đon
Thương như ruột thịt cha con khác nào
Tên tôi ông cải lại mau
Đặt Lý Công Uẩn là vào họ ông
Cũng màu ăn mặc nâu sồng
Bát ban võ nghệ do ông dạy truyền.
Viên ngoại ông mới hỏi liền:
Phải Lý Công Uẩn danh truyền lâu nay
Cổng làng Cổ Pháp có bày
Tiểu anh hùng đã giết rày xà vương
Biển treo tại cổng huyện đường
Lão xưa có đến dâng hương một lần,
Vợ lão khi mới từ trần
Cúng dường am cốc là phần lão đây
Các nơi thiền tự sãi thầy
Cũng đều có mặt bác đây cúng dường
Cổ Pháp lão có hành hương
Tiểu anh hùng vậy một phương rạng ngời.
Công Uẩn nhỏ nhẹ thốt lời
Cha thầy tôi rất rạng ngời võ văn
Nào ai mà dám sánh bằng
Nên tôi mới được võ văn gồm tài
Cha hay con mới được hay
Thầy giỏi trò giỏi nào ai có tường
Tôi nhìn công tử mà thương
Với nhìn viên ngoại mà thương mến lòng
Mới vào đã thọ ơn ông
Nên trừ ăn cướp gọi lòng đền ơn.
Viên ngoại tỏ hết nguồn cơn
Lão đây lão cũng biết ơn cao dày
Nếu không có cháu giúp tay
Chia nửa gia tài cho bọn cường sang
Mặc dù còn bạc còn vàng
Nhưng bị mất nửa lại càng tiếc thương
Lão nay tính thật phân tường
Già đây thương cháu cháu thương lại già
Già người chân chất thật thà
Nghĩ sao nói vậy nói ra đúng lời
Lão mong cháu chớ chấp thời
Cháu phải nhận lời cho lão hân hoan,
Gái lão tên gọi Bạch Lan
Lão muốn gả nó cho chàng kết duyên
Không khoe con lão chính chuyên
Từ bé đến lớn ở riêng một phòng
Trời sanh nó tốt như bông
Nên lão quý mến trong lòng mừng thay
Có điều nó chẳng giống ai
Cầm kỳ thi họa vá may đều rành
Chẳng khen con đẹp như tranh
Nhưng lão quý tự ngọc lành Trời ban
Dù trăm núi bạc núi vàng
Lão đây không đổi Bạch Lan cháu à
Thiên tài gái lão hay a
Lão dốt con lão thật là thông minh
Mẹ nó sớm đã khuất hình
Nó có một mình lại đủ tài năng
Như cháu mà có lòng hằng
Lão cho kết nghiã xích thằng lứa đôi.
Viên ngoại ông nói một hồi
Công Uẩn thì ngồi lòng lại ước ao
Nghĩ ta từ thuở hồi nào
Không từng thấy gái má đào là chi
Lặng thinh ngồi mãi nghĩ suy
Viên ngoại ông gọi nữ tỳ lại phô
Ngươi vào trướng nội mời cô
Bảo cô ra gấp ông phô lời này.
Công Uẩn liền nói như vầy:
Ý tôi từ đó đến chầy đó ông
Quyết đi vào hội mây rồng (Long Hoa)
Nay ông định chữ giải đồng tơ duyên
Cho tôi được vợ lương hiền
Tôi đây cám nghĩa lòng riêng chẳng ngờ
Duyên may lại được tiểu thơ
Hội này chưa được xin chờ hội sau.
Công Uẩn đang nói thì thào
Bạch Lan đã đến cúi đầu thưa cha
Nữ tỳ vào gọi con ra
Chẳng hay cha gọi con mà điều chi.
Viên ngoại ông mới nói thì
Đây là Công Uẩn tu mi anh hào
Nhờ người võ dõng tài cao
Trừ bọn ăn cướp giúp vào nhà ta
Nên cha mới gọi con ra
Lạy người một lạy gọi là đền ơn.
Bạch Lan nghe rõ nguồn cơn
Nàng liền thỏ thẻ rằng ơn của người
Gia tài còn đủ vẹn mười
Cám ơn quân tử là người đức nhân.
Công Uẩn liếc mắt nhìn trân
Nàng này đẹp tựa thiên thần giáng lâm
Cùng ta nên nghĩa sắc cầm
Thật là đáng bạn trăm năm cả đời.
Công Uẩn thỏ thẻ ngâm chơi:
Mây đen vần vũ khắp trời mưa sa
Lan rằng cành trổ đầy hoa
Đất nhuần mưa gội cây mà tốt tươi.
Vân Mộng chúm chím miệng cười
Ô hay anh chị là người thi nhân
Anh Trời chị Đất đã phân
Âm Dương tương hội vẹn phần lắm đa.
Bạch Lan lui gót trướng hoa
Rất nên yểu điệu thướt tha dịu dàng,
Viên ngoại ông mới phân toàn
Chẳng hay ý cháu tính toan thế nào?
Công Uẩn liền mới thưa mau:
Ông đà thương cháu cháu nào từ nan
Cháu không châu báu bạc vàng
Nên việc sính lễ biết toan lẽ nào.
Viên ngoại ông mới nói mau:
Nếu cháu đồng ý việc nào cũng xong
Miễn là thật dạ thật lòng
Nên duyên lá thắm chỉ hồng khó chi
Ta là chủ lễ việc ni
Ta không đòi hỏi có gì mà lo
Trăm năm một nghĩa hẹn hò
Đã thương thương trót thương cho mãn đời
Ắt là ngàn dặm duyên trời
Nếu cháu thuận lời tất cả do ông.
Công Uẩn nghe nói thuận lòng
Viên ngoại truyền lệnh tôi trong tớ ngoài
Hãy mau hoa chúc tiệc bày
Nay là Hoàng đạo đúng ngày rồi đa
Tôi trai tớ gái trong nhà
Cỗ bàn bày tiệc đuốc hoa tức thì.
Mạnh Duy lại với Đào Quỳ
Đến rước Công Uẩn về thì Trà Sơn
Viên ngoại phân giải thiệt hơn
Đại vương nhị vị đình chân với nào
Lão bày tiệc lớn biết bao
Để cho trai gái cùng nhau giao tình
Công Uẩn là rể gia đình
Nhị vị ở lại gọi tình tri âm
Mạnh Duy nghe nói mừng thầm
Nay anh nên nghĩa trăm năm đá vàng
Xin thưa viên ngoại hãng toàn
Anh tôi là rể gia đàng của ông
Chúng tôi cung kính thật lòng
Muốn biết tẩu tẩu xin ông niệm tình
Phòng sau gặp gỡ thình lình
Hai tôi cung kính gọi tình chị dâu.
Viên ngoại nghe hỏi gật đầu
Em chồng ra mắt chị dâu thường lề
Nữ tỳ vào chốn phòng huê
Dẫn Bạch Lan đến đứng kề tôn ông
Bạch Lan ra mắt em chồng
Nay nghĩa thúc thúc có lòng đến đây
Mời nghĩa thúc thúc vui vầy
Chén trà giải khát ngồi đây chuyện trò,
Đào Quỳ mình nhỏ tiếng to
Nghĩ sao nói vậy nói cho rền nhà
Tẩu tẩu thiệt đẹp như hoa
Ngón tay quản bút thiết tha dịu dàng
Mày tằm mắt phụng đoan trang
Tẩu tẩu đúng bực đứng hàng mẫu nghi
Vợ Vua vợ Chúa đơn trì
Chớ đâu có phải vợ thì của dân,
Lý huynh mà kết châu trần
Sớm muộn thì cũng mất phần mà thôi
Tôi xem chẳng có xứng đôi
Cũng vì tẩu tẩu đẹp thôi quá chừng.
Mạnh Duy mới nói đừng đừng
Đào đệ nói nhảm lúc mừng tiệc hoa
Là điều chẳng có nên a
Lý huynh rộng lượng bỏ qua với nào.
Bạch Lan vội vã đi vào
Công Uẩn mới nói chẳng sao đâu là
Duyên Trời đã thưởng cho ta
Không chi đáng ngại đừng mà rầu lo
Cùng nhau vui vẻ chuyện trò
Mừng tiệc song hỷ ăn no nói cười.
Viên ngoại muốn được vẹn mười
Đại vương nhị vị hai người ở đây
Lão xin tiếp đãi đủ đầy
Đào Quỳ mới nói nầy nầy Lý huynh
Anh là một kẻ tài tình
Đầu quân giúp nước hiến mình núi sông
Nay vui lá thắm chỉ hồng
Giang san có tính gánh gồng hay chăng?
Công Uẩn chưa kịp nói năng
Viên ngoại biết ý nói rằng con a
Con nên ra mắt ông bà
Còn việc hương lửa thì là để sau
Muốn ra anh dũng anh hào
Cha đây chẳng có lời nào cản ngăn
Vân Mộng ham học võ văn
Đại vương hai vị tài năng kém phần
Tri âm đã kết tình thâm
Dẫn em lên núi dạy phần bát ban
Nơi nầy đông mặt dân làng
Sợ e thóc mách luận bàn điều chi
Cha cho nghĩa tế cùng đi
Tới Trà Sơn Lãnh với thì Đại vương
Vân Mộng cũng phải lên đường
Tế huynh con dạy văn chương cho rày.
Đào Quỳ mở miệng nói ngay
Trần huynh tướng tốt lắm thì
Không phải Quốc cựu cũng thì Công khanh
Thật là Trời sắp để dành
Xem đây tôi rất lòng đành lắm đa
Tẩu tẩu đẹp tựa Hằng Nga
Trần huynh mặt sáng như là sao giăng
Nói thì tôi nói có ngăn
Cái tướng viên ngoại Quan văn phải rồi
Con làm Hoàng hậu cao ngôi
Cha làm Quốc trượng ối thôi cao kỳ!
Mạnh Duy nghe nói cười khì
Nay làm Dị bốc tiên tri sao mà
Hãy coi tướng kỹ Đại ca
Dân Quan Vua Chúa nói ra coi nào?
Đào Quỳ mau miệng nói vào
Để tôi nhìn trước nhìn sau coi là
Nhìn rồi Đào sẽ nói ra:
Anh giống Bồ tát hay là Tỳ kheo
Lý huynh không phải người nghèo
Tướng nhìn sao giống Tỳ kheo cửa thiền
Mắt trần gương mặt vẻ hiền
Giống như Bồ tát cửa thiền mới ra.
Công Uẩn nghe nói cười xòa
Khiến nên rộn rịp cả nhà cười reo
Chồng thì giống tướng Tỳ kheo
Vợ tướng Hoàng hậu ngặt nghèo vậy đa
Đào Quỳ liền mới nói ra
Thấy sao nói vậy cả nhà nhìn đi
Dù không Dị bốc tiên tri
Cũng thấy như thế phải thì một tôi
Riêng tôi tướng rất lôi thôi
Đầu quân chắc phải bưng nồi nấu ăn
Biết gì là võ là văn
Chỉ biết la hét uống ăn no lòng,
Còn như cái tướng Tôn ông
Mặt hiền mà lại sáng trong nhu hòa
Năm chòm râu đã mọc ra
Lời nói thật thà giọng nói dễ thương
Nếu sau phước lộc hưng cường
Thì chức Quốc trượng trào đường mà thôi
Còn tướng tẩu tẩu của tôi
Mẫu nghi thiên hạ đứng ngôi Chánh hoàng
Trần huynh tướng rất đoan trang
Ắt chức Quốc cựu trào đàng được phong,
Mạnh Duy tướng cũng thong dong
Chẳng Quan Đề đốc cũng hồng Tổng binh
Còn như cái tướng Lý huynh
Tỳ kheo Bồ tát mắt nhìn chẳng sai.
Công Uẩn liền mới nói rày
Đào đệ nói thế cũng hay lắm mà
Nhiều người xem tướng của ta
Đản sanh tại cửa vô dà từ bi
Mặt mày tướng diện chung nghi
Đều do nơi cửa từ bi tạo thành
Nay Thầy Dị bốc đoán rành
Đây hai chung rượu là anh thưởng tài
Đào đệ cũng thiệt là hay
Như Thầy tướng số đoán tài người ta.
Công Uẩn làm lễ ông bà
Rồi sang làm rể nhạc gia tức thì
Lễ xong Công Uẩn năn nì
Nhạc gia cho phép con đi vào phòng
Trăm năm xiết chặt giải đồng
Con đi vào phòng từ giã hiền thê
Viên ngoại cho phép vào kề
Nữ tỳ dẫn Uẩn giao về Bạch Lan.
Uẩn rằng hiền phụ hỡi nàng
Duyên ta chưa hiệp mà tan thế này
Quyết lòng anh bước thang mây
Đầu quân xuất diện buổi nầy nàng ơi,
Bạch Lan nghe hết một hồi
Lại gần Công uẩn nàng ngồi nói ra
Cha giành định chữ nghi gia
Phận em thiếp phải nghe cha định thành
Nay đà nên nghĩa ba sanh
Thiếp mong quân tử yến anh giữ tròn
Trăm năm hẹn biển thề non
Gìn vàng giữ ngọc gió lòn đợi mây
Chàng đi thiếp ở chốn nầy
Quanh năm thui thủi nơi đây trông chồng
Dù cho kẻ Bắc người Đông
Nguyện cùng Trời Đất một lòng tùng phu
Tích nhà Nam Việt nghìn thu
Nay biên nhắc lại sĩ phu học hành
Kẻo người Nam Việt mất danh
Ngưng tay tạm nghỉ để dành cuốn sau
Hết cuốn nhất
-
SỰ TRANH CÃI CỦA LỊCH SỬ VỀ LÝ CÔNG UẨN
1. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư (Bản kỷ, quyển II, Kỷ nhà Lý, Thái Tổ hoàng đế, trang 240) ghi rằng:
Thái Tổ hoàng đế, họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 thời Đinh.
2. Sách Đại Việt Sử Ký Tiền biên (Bản kỷ, quyển II, trang 192) ghi rằng:
Theo bài Tiêu Sơn Tự Ký thì Thái hậu cảm thụ tinh con khỉ bạch mà sinh ra vua ở chùa Tiêu Sơn, được Sư Vạn Hạnh đưa về nuôi.
Theo ngoại truyện thì: lúc mẹ vua năm 20 tuổi, do nghèo túng lam lũ không có chồng, nương tựa vào vị sa môn già ở chùa Ứng Thiên cho làm việc nấu bếp, đêm đêm dậy đồ xôi. Một hôm bà ngủ quên, lửa tắt, sa môn vô tình chạm phải, giật mình tỉnh dậy thấy lòng xáo trộn rồi có thai, bị sa môn đuổi đi, bà vào chùa khác, đủ tháng thì sinh ra vua.
Vua lúc bé thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường, khi 7 tuổi Khánh Văn gởi nhờ sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ dạy cho học.
3. Sách Thần đồng xưa của nước ta - NXB Giáo Dục – 1998 ghi rằng:
Vào thế kỷ X, ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, phủ Từ Sơn, trấn Bắc Ninh, nay thuộc làng Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, có một người đàn bà goá chồng, người họ Phạm, nhà nghèo phải đến làm thuê ở chùa Cổ Pháp. Nhà sư trụ trì chùa này là Lý Khánh Vân đã đi lại với bà. Khi bà thụ thai, sư sợ bị mang tiếng, thiên hạ chê cười, bèn kiếm cớ đuổi bà.
Sau ngày sinh nở, bà bọc đứa con mới đẻ vào trong áo, đem đến bỏ trước cửa chùa. Nhà sư họ Lý thấy đứa trẻ, bèn đem về, đặt tên là Lý Công Uẩn và nhận làm bố nuôi.
4. Truyền thuyết dân gian nói rằng:
Ông thân sinh ra Lý Công Uẩn nhà nghèo đi làm ruộng thuê ở chùa Tiên Sơn (An Phong, Bắc Ninh) phải lòng một tiểu nữ và nàng có mang. Nhà chùa thấy thế đuổi đi nơi khác. Hai người dẫn nhau đi ngang khu rừng Báng, mệt mỏi, dừng lại nghỉ. Chồng khát nước đến chỗ giếng nước giữa rừng lấy nước uống, chẳng may sẩy chân chết đuối. Vợ chờ lâu không thấy, đến xem thì đất đã lấp giếng. Ngưòi phụ nữ bất hạnh than khóc một hồi, lỡ đường xin ở nhờ chùa Ứng Tâm gần đó. Một đêm, người đàn bà ấy sinh một con trai, trời nổi trận mưa to gió lớn, mẹ chú bé chết ngay sau khi sinh con và chú bé được nhà chùa nuôi nấng. Khi 8, 9 tuổi nhà sư cho chú bé theo học Sư Vạn Hạnh ở chùa Tiên Sơn, chú bé đó là Lý Công Uẩn.
5. Giả thiết của các nhà sử học:
Lý Công Uẩn có một sự nghiệp vĩ đại nhưng lại có lai lịch không rõ ràng. Tất cả các bộ sử cũ của Việt Nam đều ghi rằng Lý Công Uẩn mồ côi cha mẹ từ năm 3 tuổi nhưng lại không ghi chép hoặc không xác định được thân thế của người cha. Bởi vậy, có sử chép rằng ông là con của thần nhân, trong khi truyền thuyết dân gian cho rằng ông là con của một lão Sa Môn tại chùa, hoặc con của nhà sư Lý Khánh Văn trụ trì chùa Cổ Pháp, và thậm chí là con của Vạn Hạnh thiền sư.
Một số nhà sử học đã đưa ra giả thiết rằng Lý Công Uẩn chính là con ruột của Vạn Hạnh thiền sư, một vị cố vấn của hai vương triều Tiền Lê và triều Lý. Trong một thời gian dài, họ đã cố gắng tìm kiếm bằng chứng trong sử liệu về điều này, đặc biệt là việc thiền sư Vạn Hạnh là người giới thiệu Lý Công Uẩn cho vua Lê để đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong triều đình Tiền Lê, sau đó lại có nhiều đóng góp trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua...
QUAN ĐIỂM CỦA HỘI LỊCH SỬ VIỆT NAM
Hội Sử học Hà Nội và Hội Khoa học Lịch sử VN đã tổ chức cuộc tọa đàm Về vấn đề quê hương Nhà Lý, vào ngày 27/12/2008.
Tại hội thảo, các nhà sử học nhiều năm thực hiện công trình nghiên cứu về nhà Lý và Lý Công Uẩn đã đưa ra nhiều tài liệu, bằng chứng, cũng như báo cáo về những cuộc khảo sát thực tế tại những địa danh có liên quan.
Nhiều nhà sử học tại hội thảo đã lên tiếng phủ định về giả thiết Lý Công Uẩn là con ruột của sư Vạn Hạnh.
GS Nguyễn Quang Ngọc, Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội cho rằng:
Giả thiết này xuất phát từ cách nghĩ khá phổ biến rằng Lý Công Uẩn có quê nội tại làng Đình Bảng, cũng là quê của Vạn Hạnh thiền sư. Chúng tôi cũng đã có thời gian nghiên cứu khá kĩ tại làng Đình Bảng, và xin khẳng định rằng không hề có một thông tin nào, dù là nhỏ nhất, về sự liên hệ ấy.
GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Lịch Sử Việt Nam nhận xét:
Lý Công Uẩn và Vạn Hạnh thiền sư là 2 nhân vật lớn trong lịch sử, vì vậy cũng dễ hiểu khi dân gian muốn gán ghép hai nhân vật này với nhau, cũng như thần thánh hóa về nguồn gốc và nhân thân của Lý Công Uẩn, … , cách nhìn nhận như vậy là thiếu nghiêm túc.
Với chiều dài lịch sử hơn một ngàn năm, sự đa dạng tới mức trái ngược của các tài liệu lịch sử, việc xác định nguồn gốc, thân thế, quê hương, tuổi thơ của Lý Công Uẩn đã được Hội Thảo về vấn đề quê hương Nhà Lý đi đến kết luận là rất phức tạp và cần được nghiên cứu trong một thời gian dài trước khi có kết luận cuối cùng.
BỘ PHIM LỊCH SỬ LÝ CÔNG UẨN TẠI SAO THẤT BẠI
1. Phỏng vấn bà Nguyễn Thị Hồng Ngát, Nhà biên kịch, nguyên Cục phó Cục Điện ảnh
http://www2.vietnamnet.vn/vanhoa/tintuc/2007/07/718651/
VietNamNet: Từng là một thành viên trong Hội đồng thẩm định kịch bản dự án phim truyện kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, bà có thể cho biết về tình trạng dự án hiện nay?
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát: Dự án này đã kéo dài rất lâu và rất mệt mỏi. Khi tôi còn ở cương vị Cục phó Cục Điện ảnh, với vai trò thành viên Ban tư vấn dự án, đã làm hai việc: đầu tư chiều sâu và tổ chức thi tuyển kịch bản để đưa vào sản xuất.
Nhưng đến giai đoạn sản xuất phim, Ban tư vấn dự án được thay thế bằng những thành viên mới. Tôi không hiểu tại sao dự án trở nên trì trệ đến thế? Các nghệ sĩ gần như mất hết sự hào hứng làm việc. Bản thân những nghệ sĩ theo đuổi dự án đều là những người đầy tâm huyết.
VietNamNet: Vậy dự án hiện nay đang ở giai đoạn nào thưa bà?
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát: Ban chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long cho đưa dự án phim truyện Lý Công Uẩn về sản xuất tại Hãng phim truyện Việt Nam do anh Lê Đức Tiến làm Giám đốc.
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát: Tôi cũng chưa rõ bản thảo nào được chọn. Tôi chỉ biết đạo diễn Đỗ Minh Tuấn đã rút kịch bản không tham gia dự án. Thực ra ngay từ đầu kịch bản được giải là của tác giả Thiên Phúc.
Khi phát động cuộc thi viết về Lý Công Uẩn, theo thông lệ kịch bản giải cao nhất sẽ được chọn (Hội thề của Nguyễn Quang Thân), nhưng Ban tổ chức quyết định chọn kịch bản giải nhì của Thiên Phúc vì kịch bản viết về Lý Công Uẩn đề cập đúng đến chuyện dời đô về Thăng Long.
Tác giả Thiên Phúc đã viết tốt rồi, tôi đọc cũng thấy khá ổn. Một vài chi tiết có thể sửa chữa để sản xuất. Bây giờ thêm bao nhiêu người nhảy vào, chúng ta cứ làm mọi việc rối rắm thêm, có khả năng xóa sổ cuộc thi với bao nhiêu thời gian công sức. Chúng ta đãi cát bao nhiêu mới tìm được vàng, giờ chúng ta lại bỏ đi, làm từ đầu thì rõ ràng đã phủ nhận cái thực thi. Cứ tranh cãi mãi, cứ người sau phủ nhận người trước thì cũng chẳng biết ai là người xứng tầm thực hiện.
VietNamNet: Tóm lại, dự án dường như đã bế tắc thưa bà?
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát: Chúng ta không đi đến thống nhất được, có một Lý Công Uẩn thôi mà mỗi vẽ chân dung theo một kiểu, bây giờ biết theo ai?
Theo tôi, yêu cầu bộ phim xây dựng được không khí linh thiêng, tôn kính; từ trẻ con đến người già đều xem và cảm được; toát lên thông điệp Lý Công Uẩn là một minh vương, đã dám dời đô về Thăng Long để chúng ta có thủ đô Hà Nội hôm nay. Kịch bản lên được tinh thần như thế là đủ rồi!
Bây giờ cứ dùng sử liệu để bắt bẻ thì không thể làm được, vì bản thân những nhà sử học nghiên cứu sâu hơn cũng không thể khẳng định được Lý Công Uẩn để râu dài hay ngắn, ăn mặc ra sao nữa?!
VietNamNet: Theo bà kịch bản được rồi, bây giờ nên bắt tay làm ngay?
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát: Có nhiều kịch bản hay nhưng không được gửi tới cuộc đấu thầu, vì là “chen ngang”, không có đầu tư từ đầu cuộc thi nên bị gạt luôn. Tôi nghe nói hiện nay có thêm một số nhà biên kịch mới tham gia vào dự án này. Tôi chỉ thấy dự án càng ngày càng rối, trong khi thời gian ngày càng eo hẹp. Tôi thấy tốt nhất là chúng ta không nên làm nữa!
Tôi biết nói như vậy các hãng phim sẽ trách tôi, nhưng thực tế chỉ còn 2 năm rưỡi nữa thôi mà mọi việc vẫn lùng nhùng thế này, làm sao kịp được. Vấn đề là không ai quyết đoán, không ai dám chịu trách nhiệm về một đề tài lớn như thế, lãng phí công sức, thời gian của bao nhiêu người!
2. Phỏng vấn ông Hải Ninh, Đạo diễn, Chủ tịch Ban tư vấn, Trưởng ban giám khảo kịch bản phim 1000 năm Thăng Long:
http://www2.vietnamnet.vn/vanhoa/tintuc/2006/09/614335/
VietNamNet: Thưa ông, kịch bản phim 1000 năm Thăng Long đã được chọn cách đây hai năm nhưng kế hoạch sản xuất vẫn chưa rục rịch gì, khúc mắc lớn nhất trong việc làm phim kỷ niệm này là gì?
Đạo diễn Hải Ninh: Phim về thời kỳ phong kiến hết sức phức tạp, phải tái tạo rất nhiều thứ, khi chưa có kinh nghiệm làm phim cổ trang thì phải học về thiết kế, phục trang, hoá trang và lập ban nghiên cứu kiến trúc, phục trang các thời kỳ thế nào. Tức là phải có thời gian.
Về kịch bản, tôi thấy thất vọng vì không chọn kịch bản giải nhất đưa vào sản xuất, không chấp nhận việc sản xuất kịch bản nhì, vì nếu vậy thì cần gì Ban giám khảo? Ban chỉ đạo đã tự quyết định mà không trao đổi với tác giả cũng như Ban giám khảo. Theo tôi, một kịch bản không có chất lượng thì sửa mấy cũng không ăn thua. Người ta mất hai năm để tiến hành đấu thầu, làm những công đoạn không liên quan đến nghề nghiệp.
VietNamNet: Chưa giải quyết khâu kịch bản thì lại vướng chuyện đấu thầu đạo diễn, ông có nhận xét gì về hiện tượng này?
Đạo diễn Hải Ninh: Tôi chưa thấy ở đâu lại thi đạo diễn, trừ các Liên hoan Phim. Phải có kịch bản trước mới chọn ra được đạo diễn giỏi, chứ không phải chỉ đến nói miệng với nhau. Đây là cách làm nghiệp dư bởi người nghĩ ra cách này có thể không hiểu đầy đủ về công việc của những nhà làm phim. Trong 10 đạo diễn tới dự thi đã 7 người bỏ cuộc, chỉ còn 3 người với hai kịch bản: Đặng Nhật Minh - Lưu Trọng Ninh (kịch bản về Lý Công Uẩn không đề tựa) và Đỗ Minh Tuấn (kịch bản chữa của Thiên Phúc và một kịch bản viết riêng về Lý Công Uẩn). Thi đạo diễn cuối cùng lại thành thi kịch bản!
Theo ông, chừng nào mới có khả năng thực hiện phim Thái tổ Lý Công Uẩn trong khi mọi việc vẫn lùng nhùng như thế?
VietNamNet: Thưa ông, chúng ta không thể làm kịp bộ phim Lý Công Uẩn nhân dịp 1000 năm Thăng Long theo dự kiến?
Đạo diễn Hải Ninh: Kịch bản đã được duyệt từ năm 2004 đến giờ vẫn chưa đi đến đâu trong khi chỉ còn 3 năm nữa là đến 2010. Nếu làm lấy được thì sẽ kịp 2010, nhưng để tương xứng với lịch sử và có chất lượng về nghệ thuật thì chưa được vì chưa có gì để nhìn vào. Thêm nữa, đạo diễn chưa có, chưa thể nói đến chuyện diễn viên sẽ thế nào. Tôi nghĩ phải đủ chất lượng thì mới làm.
3. Tại sao Bộ phim bị thất bại:
Chúng ta biết rằng Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội là một đại lễ lớn của Thủ đô Hà Nội, mang ý nghĩa lịch sử, văn hóa, du lịch, tâm linh, một sự kiện dâú ấn của thế kỷ 21.
Một công trình văn hóa nghệ thuật lớn là Bộ phim Thái tổ Lý Công Uẩn, đã được UBND Hà Nội đầu tư 200 tỷ đồng VN, mong muốn tái hiện câu chuyện lịch sử về vị vua nhà Lý ra chiếu đời đô về Thăng Long, khai sinh ra Hà Nội ngày nay.
Thế nhưng qua các cuộc phỏng vấn nói trên, chúng ta được biết bộ phim nói trên đã thất bại, không thể thực hiện nhân dịp Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long như dự kiến.
Đi tìm nguyên nhân thất bại là nhiệm vụ của UBND Hà Nội, của Bộ Văn hóa Thông tin, của Cục Điện ảnh... và họ đã làm.
Tuy nhiên người viết đi tìm nguyên nhân Vô Hình: đó là bộ phim đã được xây dựng dựa trên tư liệu lịch sử hiện có, với nhiều chi tiết sai sự thật, do đó nếu bộ phim trình chiếu sẽ trái với ý Trời, trái với ý của chính Ngài Lý Công Uẩn, và chính các vị Vô Hình đã ngăn cản công việc nói trên.
-
SỰ THẬT VỀ TUỔI THƠ LÝ CÔNG UẨN
THÂN PHỤ VÀ THÂN MẪU
Từ thơ ngoại cảm Oanh Vàng, chúng ta được biết Lý Công Uẩn trải qua một tuổi thơ bất hạnh. Thân phụ là Trần Hà, thân mẫu là Phạm Thị Lâm, người làng Hưng Thịnh. Thân phụ chết vì tai nạn té xuống giếng, đất vùi lấp. Thân mẫu chết do kiệt sức ngay sau khi sanh hạ Lý Công Uẩn.
Từ lúc lọt lòng Lý Công Uẩn sống nương tựa cảnh chùa, được các sư Vạn Xuân, sư Vạn Hạnh, sư Lý Khánh Vân nuôi dạy.
Họ và tên Lý Công Uẩn do nhà sư Lý Khánh Vân đặt và nhận cha nuôi, nhưng theo dòng họ cha là Trần Hà, như vậy Lý Công Uẩn thực ra thuộc nhà Trần. Đây là một sự kiện éo le của lịch sử, dòng họ vua Lý lấy theo họ của cha nuôi, không phải họ thật.
NGÀY SINH CỦA LÝ CÔNG UẨN
Chúng ta hiểu rằng, một đứa bé mồ côi từ nhỏ, của một gia đình dân dã, lớn lên sống qua nhiều chùa, nhiều sư đỡ đầu, thì vấn đề ghi chép gia phả không có được. Nếu có chăng sẽ được sư Vạn Xuân ghi nhớ mà thôi, nếu vì lý do nào đó sư Vạn Xuân nhầm lẫn thì không ai còn tư liệu chứng minh về ngày sinh của Lý Công Uẩn.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi rằng Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 02 năm Giáp Tuất 974 âm lịch. Tra cứu theo lịch Vạn Niên sẽ là ngày 08/03/974.
Nhưng theo thơ ngoại cảm Oanh Vàng ghi rằng:
Canh ba giờ Tý rõ ràng
Nhằm tiết Đoan ngọ người đang vui cười
Năm Thìn rất thật tốt tươi
Ngày Dần chúa thánh là người đản sanh
Tra cứu theo lịch Vạn Niên, chúng ta có được các ngày sau đây có thể là ngày sinh của Lý Công Uẩn:
a. Năm Mậu Thìn 968, ngày 08 tháng 05 âm lịch, nhằm ngày 06/06/968.
b. Năm Canh Thìn 980, có hai ngày Dần:
+ Ngày 01/05 âm lịch, nhằm ngày 15/06/980
+ Ngày 13/05 âm lịch, nhằm ngày 27/06/980
Vậy trong bốn ngày dự đoán nói trên, ngày nào sẽ là ngày sinh thật sự của Lý Công Uẩn. Chúng ta có thể dựa vào việc lập Lá số Tử Vi theo bốn ngày nói trên, từ đó có thể tìm được câu trả lời. Dựa vào những sự kiện chính trong cuộc đời Lý Công Uẩn như sau:
1. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ
2. Sống và tu học ở chùa nhiều năm
3. Có thiên mệnh lớn, lên ngôi vua ở tuổi Tam thập Nhi lập
Để rộng đường tham khảo, người viết sẽ đưa các Lá số Tử vi của Lý Công Uẩn ngay sau bài viết này.
LÝ CÔNG UẨN VÀ GIAI THOẠI THĂNG LONG
Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư, kinh đô cũ của nhà Đinh và Tiền Lê chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về thành Đại La. Tháng 7, Thuận Thiên năm thứ nhất (năm 1010) thì khởi sự dời đô. Khi đến thành Đại La, ông có điềm báo mộng thấy rồng vàng bay lên trời, nên đổi tên thành Đại La sang thành Thăng Long.
Mọi người đều biết sự tích nói trên, nhưng ít người biết rằng Lý Thái Tổ chính là tuổi Rồng, do đó việc báo mộng như là một sự kiện logich, vì bản mệnh của Ngài cũng là Thiên Long.
Khi dời đô về Thăng Long là một quyết định mang tính lịch sử, hợp ý Trời, hợp lòng Người, và đã an định ngôi vua gần 20 năm. Một lần nữa định mệnh Thiên Long gắn với cuộc đời Lý Thái Tổ lần nữa, ông qua đời vào ngày 03 tháng 03 năm Mậu Thìn 1024.
-
Lá số Tử vi của Lý Công Uẩn
-
Chân thành cảm ơn mọi người góp ý kiến luận giải các Lá số Tử vi, để có thể tìm được sự thật về ngày sinh của Lý Công Uẩn.