-
11 quả báu của tâm từ
NHÂN DUYÊN ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH RẢI TÂM TỪ ( xem bên dưới)
"Trong bài kinh Mettāsutta, Ðức Phật dạy có 11 quả báu của tâm từ như sau:
- Này chư Tỳ khưu, khi hành giả niệm rải tâm từ dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới xong, đã thực hành qua thời gian lâu dài trở nên thuần thục rồi, làm cho định tâm an trú vững chắc theo tuần tự, đã tích luỹ nhiều, đã tinh tấn không ngừng, nên hành giả được 11 quả báu như sau:
1- Ngủ được an lạc.
2- Thức dậy được an lạc.
3- Không thấy các ác mộng.
4- Ðược mọi người thương yêu, quý mến.
5- Ðược các hàng phi nhân thương yêu, quý mến.
6- Ðược chư thiên hộ trì.
7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí... không thể làm hại được.
8- Tâm dễ dàng an tịnh.
9- Gương mặt sáng sủa.
10- Lúc lâm chung, tâm không mê muội (tâm sáng suốt).
11- Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi chết, bậc thiền sắc giới sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên.
- Này chư Tỳ khưu, khi hành giả niệm rải tâm từ dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới xong, đã thực hành qua thời gian lâu dài trở nên thuần thục rồi, làm cho định tâm an trú vững chắc theo tuần tự, đã tích luỹ nhiều, đã tinh tấn không ngừng, nên hành giả được 11 quả báu như vậy.
Nguyên nhân của bài kinh Tâm Từ
Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu.
Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng:
- Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có được cơ hội làm phước cúng dường bốn món vật dụng, thọ trì Tam quy, ngũ giới, nghe pháp. Kính xin quý Ngài hoan hỉ nhận lời thỉnh mời của tất cả chúng con.
Chư Tỳ khưu xét thấy chỗ ở, con người, vật thực... thích hợp cho việc tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, nên nhận lời thỉnh mời của họ. Họ vô cùng hoan hỉ làm 500 cốc nhỏ, giảng đường hội họp, có đầy đủ tiện nghi đối với chư Tỳ khưu, rồi làm lễ dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Chư Tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi, ngồi hành đạo dưới những cội cây, do oai lực giới đức trong sạch của quý Ngài, làm cho nhóm chư thiên ngự trong lâu đài của mình trên cội cây không thể ở yên ổn được, nên đành dẫn thân quyến xuống ở dưới mặt đất, bị mưa gió làm cho nhóm chư thiên này sống rất vất vả khổ cực. Nhóm chư thiên ấy biết rõ chư Tỳ khưu này sẽ ở đây suốt ba tháng mùa mưa, nên họ hội họp, bàn luận với nhau rằng: "Những vị Tỳ khưu này sẽ ở lại đây suốt ba tháng mùa mưa, chúng ta không một ai dám trở lại lâu đài của mình trên cây. Chúng ta làm cách nào để các vị ấy rời khỏi khu rừng núi này".
Rồi họ nhất trí với nhau rằng: "Chúng ta nên hoá ra những hình ảnh đáng ghê sợ, những thứ âm thanh rùng rợn, những mùi hôi khó chịu, v.v... khiến cho các vị ấy không thể nào tiếp tục ở lại nữa".
Thật vậy, chư Tỳ khưu đang tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, ban đêm nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm một số đông chư Tỳ khưu bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi. Do đó, nên thân hình gầy ốm, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, phát sanh bệnh hoạn, làm cho tâm không thể an trú trong đề mục thiền định.
Một hôm, chư Tỳ khưu Tăng hội họp, vị Ðại Ðức trưởng nhóm hỏi chư Tỳ khưu rằng:
- Này chư pháp đệ, trước khi vào trú ngụ trong khu rừng núi này ai cũng khoẻ mạnh, da dẻ hồng hào, gương mặt tươi sáng v.v... Nhưng bây giờ quý pháp đệ có thân hình gầy gò, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, bệnh hoạn, v.v... quý pháp đệ trú ngụ tại khu rừng núi này có điều gì không thuận lợi có phải không?
Chư Tỳ khưu bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, ban đêm, chúng con nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm của chúng con bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi, nên tâm của chúng con không thể an trú trong đề mục thiền định, phát sanh tình trạng như vậy, bạch Ngài.
Ngài Ðại Ðức trưởng nhóm dạy rằng:
- Này chư pháp đệ, như vậy, chỗ ở nơi này không thích hợp cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Ðức Phật cho phép Tỳ khưu an cư nhập hạ hai kỳ:
1- An cư nhập hạ đầu: Kể từ ngày 16 tháng 6 cho đến 15 tháng 9 (ÂL).
2- An cư nhập hạ sau: Kể từ ngày 16 tháng 7 cho đến 15 tháng 10 (ÂL).
Vậy, chúng ta còn có đủ thời gian trở về hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin phép Ngài an cư nhập hạ sau ở một nơi khác. Quý pháp đệ nghĩ thế nào?
Tất cả chư Tỳ khưu đều đồng tâm nhất trí nghe theo lời vị Ðại Ðức trưởng nhóm, sửa soạn lên đường trở về xứ Sāvatthi, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, Ngài truyền dạy rằng:
- Này chư Tỳ khưu, Như Lai đã chế định, ban hành đến tất cả chư Tỳ khưu: "Trong mùa mưa, chư Tỳ khưu phải an cư nhập hạ suốt ba tháng tại một nơi, không được phép đi ở nơi khác, nếu không có nguyên nhân chính đáng". Vậy, do nguyên nhân nào mà các con bỏ chỗ ở cũ.
Chư Tỳ khưu kính bạch Ðức Thế Tôn rõ những tai hoạ xảy ra do nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy, cho nên, chư Tỳ khưu không thể tiếp tục an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa. Kính xin Ðức Thế Tôn cho phép an cư nhập hạ sau tại một nơi chốn khác.
Quán xét thấy không có chỗ ở nào thuận lợi hơn nơi khu rừng núi cũ ấy, Ðức Thế Tôn khuyên dạy rằng:
- Này chư Tỳ khưu, chỗ ở khác thuận lợi hơn không có, các con nên trở lại chỗ ở cũ; lần này, Như Lai sẽ dạy các con bài kinh Mettāsutta [5] là paritta bảo vệ cho các con được an toàn, để các con làm đề mục thiền định và làm nền tảng tiến hành thiền tuệ, thích hợp đối với các con.
Ðó là nguyên nhân mà Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Mettāsutta: kinh Tâm Từ này.
Sau khi học tập bài kinh này xong, thực hành theo lời giáo huấn của Ðức Thế Tôn, chư Tỳ khưu cùng nhau trở lại khu rừng núi cũ. Khi ấy nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy cảm thấy mát mẻ, an lạc do năng lực tâm từ của chư Tỳ khưu, nên vô cùng hoan hỉ hộ độ chư Tỳ khưu sống yên ổn tiến hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới làm nền tảng, làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ. Trong mùa an cư nhập hạ ấy, toàn thể chư Tỳ khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng; đến ngày làm lễ Pavāraṇā, tất cả chư Tỳ khưu đều làm lễ Suddhipavāraṇā: lễ thỉnh mời hoàn toàn thanh tịnh của chư bậc Thánh A-ra-hán gọi là Mahapavāraṇā: đại lễ thỉnh mời thanh tịnh.
Namo Amita Buddha _()_
BÀI KINH TÂM TỪ TIẾNG PALI
(Mettāsutta)
Tuyên cáo bài kinh Tâm Từ (Uyyojana):
1- Yass’ānubhāvato yakkhā,
Neva dassenti bhīsanaṃ.
Yañhi cev’ānuyuñjanto,
Rattindivam’atandito.
2- Sukhaṃ sugati sutte ca,
Pāpaṃ kiñci na passati.
Evamādiguṇūpetaṃ,
Parittaṃ taṃ bhaṇāma he!
-----
Mettāsutta (KINH TÂM TỪ)
3- Karaṇīyam’atthakusalena,
Yanta santaṃ padaṃ abhisamecca.
Sakko ujū ca suhujū ca,
Suvaco cassa mudu anantimānī.
4- Santussako ca subharo ca,
Appakicco ca sallahukavutti.
Santindriyo ca nipako ca,
Appagabbho kulesva’nanugiddho.
Na ca khuddam’ācare kiñci,
Yena viññū pare upavadeyyuṃ.
Sukhino vā khemino hontu,
Sabbasattā bhavantu sukhitattā.
5- Ye keci pāṇabhūtatthi,
Tasā vā thāvarā va’navasesā.
Dīghā vā ye va mahantā,
Majjhimā rassakā aṇukathūlā.
6- Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā,
Ye va dūre vasanti avidūre.
Bhūtā va sambhavesī va,
Sabbasattā bhavantu sukhitattā.
7- Na paro paraṃ nikubbetha,
Nātimaññetha katthaci na kañci.
Byārosanā paṭighasaññā,
Nāññamaññassa dukkhamiccheyya.
8- Mātā yathā niyaṃ putta-
māyusā ekaputtamanurakkhe.
Evampi sabbabhūtesu,
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.
9- Mettāñca sabbalokasmi,
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.
Uddhaṃ adho ca tiriyañca,
Asambādhaṃ averam’asapattaṃ.
10- Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno va,
Sayāno yāvatā’ssa vitamiddho.
Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya,
Brahmam’etaṃ vihāram’idha māhu.
11- Diṭṭhiñca anupagamma,
Sīlavā dassanena sampanno.
Kāmesu vineyya gedhaṃ,
Na hi jātu’ggabbhāseyya puna reti.
(Mettāsuttaṃ niṭṭhitaṃ)
----
BÀI KINH TÂM TỪ TIẾNG VIỆT
(Mettāsutta)
Nghĩa tuyên cáo bài kinh Tâm Từ:
1- Thưa chư bậc Thiện trí,
Hành giả thường tinh tấn,
Tiến hành rải tâm từ,
Ngày đêm không ngưng nghỉ,
Theo kinh Tâm Từ này.
2- Ngủ nghỉ được an lạc,
Không thấy mọi ác mộng,
Thức dậy được an lạc,
Có rất nhiều quả báu,
Trong bài kinh Tâm Từ,
Chúng tôi tụng niệm đây:
----------------------
Nghĩa bài kinh Tâm Từ:
3- Bậc Thiện trí sáng suốt,
Biết cầu sự lợi ích,
Niết Bàn an tịnh lạc,
Tâm từ làm nền tảng,
Thực hành giới-định-tuệ.
Bước đầu nên thực hành,
Hành giả có đức tính:
- Có năng lực đức tin.
- Tính ngay thẳng chân thật.
- Có tính tình trung thực.
- Người dễ dạy, dễ khuyên.
- Tính nhu mì hiền lành.
- Không ngã mạn, khiêm nhường.
- Biết tri túc hài lòng.
- Người dễ nuôi, dễ sống.
- Người ít việc, ít công.
- Có đời sống nhẹ nhàng.
- Biết thu thúc lục căn.
- Có trí tuệ thông suốt.
- Thân, khẩu, ý thuần đức.
- Không quyến luyến gia đình.
- Không làm mọi điều ác.
Mười lăm pháp nền tảng,
Của pháp hành tâm từ.
4- Khi hành giả tiến hành,
Niệm rải tâm từ rằng:
Cầu mong mọi chúng sinh,
Thân thường được an lạc,
Sống bình an vô sự,
Tâm an lạc trầm tĩnh.
5- Tất cả chúng sinh nào,
Phân chia thành hai nhóm:
Còn sợ và không sợ,
Thấy được và không thấy,
Ở gần và ở xa,
Ðã sanh và còn sanh,
Cả thảy chúng sinh ấy,
Cầu mong thân và tâm,
Thường được hưởng an lạc.
6- Tất cả chúng sinh nào,
Phân chia thành ba nhóm,
Có thân hình khác nhau:
Dài, ngắn và trung bình,
To, nhỏ và trung bình,
Mập, ốm và trung bình,
Cả thảy chúng sinh ấy,
Cầu mong thân và tâm,
Thường được hưởng an lạc.
7- Hành giả rải tâm từ,
Cầu mong mọi chúng sinh,
Không làm khổ lẫn nhau,
Niệm rải tâm từ rằng:
Xin cầu mong người này,
Không lừa đảo người kia.
Xin cầu mong người này,
Không khinh thường người kia.
Cầu mong mọi chúng sinh,
Không làm khổ lẫn nhau.
8- Tâm từ, tình thương yêu,
Với tất cả chúng sinh,
Như một người từ mẫu,
Thương yêu đứa con một,
Bảo vệ đứa con mình,
Bằng sanh mạng thế nào,
Hành giả rải tâm từ,
Vô lượng đến chúng sinh,
Cũng như thế ấy vậy.
9- Hành giả rải tâm từ,
Ðến tam giới chúng sinh,
Hướng trên: cõi vô sắc,
Gồm bốn cõi phạm thiên.
Hướng dưới: cõi dục giới,
Gồm có mười một cõi,
Trời, người và ác giới.
Hướng giữa: cõi sắc giới,
Gồm có mười sáu cõi.
Với tâm từ vô lượng,
Không oan trái hận thù.
10- Hành giả đang tiến hành,
Rải tâm từ vô lượng,
Ðứng, đi hoặc ngồi, nằm,
Tinh tấn không buồn ngủ,
Tâm an trú trong thiền,
Có tâm từ vô lượng,
Ðức Phật dạy bảo rằng:
"Hành giả sống cao thượng".
11- Thiền tâm từ nền tảng,
Tiếp tiến hành thiền tuệ,
Diệt tà kiến ngũ uẩn,
Thành bậc Thánh Nhập Lưu,
Giới trong sạch thanh tịnh,
Chứng đắc bậc Bất Lai.
Diệt tham ái ngũ trần,
Chứng đắc A-ra-hán,
Khi tịch diệt Niết Bàn,
Chấm dứt khổ tái sanh.
- (Tâm từ - Sư Hộ Pháp)-
-
CHỮA PHIỀN NÃO
BẰNG PHƯƠNG PHÁP THIỀN TÂM TỪ
Tạ Lê Cẩm Tú
Lời BBT:
Phương pháp thiền tâm từ hay còn gọi là “metta meditation”, hiện đang được vị Đại đức Samahita người Đan Mạch rao giảng trên các diễn đàn và trang mạng do chính ông sáng lập: http://what-buddha-said.net/. Tỳ kheo Samahita tên thật là Jan Erik Hansen, ông là bác sĩ y khoa theo học trường Đại Học Copenhagen, sau đó ông làm việc tại Imperial College London nước Anh với chức vị Phó Giáo Sư trước khi tấn phong danh hiệu Tỳ Kheo. Ông đến Sri Lanka năm 2001, xuất gia làm Sa Di tại Trung tâm Đào tạo Tỳ Kheo Maharagama ngày 29 tháng 1 2002 bởi Đại đức Madihe Paññasiha Mahanayaka Thera và thọ giới Tỳ kheo cũng ở trung tâm này vào ngày 05 Tháng 7 năm 2003 bởi Đại đức Nana Ratana Mahanayaka Thera. Hoạt động chủ yếu của ông là dành khối lượng thời gian lớn trong việc ngồi thiền, quán chiếu tại những khu rừng xa xôi ẩn dật của Sri Lanka và truyền bá giáo lý Phật pháp trực tuyến.
Phương pháp thiền tâm từ hay còn gọi là “metta meditation”, nghĩa gốc là tập kết bạn với tất cả mọi chúng hữu hình lẫn vô hình, rèn luyện chúng ta trở thành bạn thay vì kẻ thù với tất cả mọi người, mọi vật bằng tình yêu và sự rộng lượng, điều này là điều không thể không thực hiện được!
Vài lần tôi được trao đổi với đại đức Samahita về vấn làm sao để diệt được sầu não thì đại đức đáp rằng: “ hãy xem nó xuất phát từ đâu và nó sẽ tự diệt ngay lúc xuất phát”. Tôi không hiểu ý, khi hỏi lại cho rõ ràng thì ngài không đáp nhưng khích lệ thực hành phương pháp thiền tâm từ. Đại đức chia sẻ nhiều người đến và tâm sự với ngài rằng họ rất buồn, đau khổ, phiền não vì nhiều chuyện bên trong lẫn bên ngoài như ly dị, con cái bất hiếu, chồng có vợ bé, làm ăn thất bại, công việc không xuông xẻ, cộng sự đố kỵ, mất việc, thi rớt đại học, đất nước có chiến tranh, xe cộ đông đúc, khí bụi nhiều, quan lại hách dịch…, đã nhiều người tự tử vì không tìm ra lối thoát, không vượt qua được sự thất vọng, buồn đau… vậy thì chúng ta phải nên làm gì theo quan điểm nhà Phật?.
Ngài Samahita giải thích - tất cả chúng ta đều có tấm gương phản chiếu lại bên trong tâm của chúng ta, nhưng vì ngu tối chúng ta không nhận ra điều này. Nếu chúng ta gửi ra ngoài những ý nghĩ, hành động, lời nói xấu, tấm gương này dội đập lại tất cả và làm cho tâm chúng ta rất dễ bị sầu não, bất an. Nếu chúng ta làm chuyện tốt thì tấm gương sẽ phản chiếu niềm vui và an lạc.
Trong thiền tâm từ, trước hết chúng ta phải thực hành ngừa bệnh – đó là không làm chuyện ác xấu như viết sai sổ sách lấy tiền, tham nhũng, nói dối, trộm cắp, lấy đồ công cộng, hăm dọa người khác, giết hại sinh vật, quan hệ với vợ, chồng của bạn hoặc người đã có vợ chồng, chúng ta nên gìn giữ giới luật!. Song song đó, phải năng làm từ thiện, phóng sanh và tham gia các hoạt động giúp đỡ cộng đồng xung quanh không phân biệt nam, nữ, màu da, thành phần…
Tiếp theo là cách chữa bệnh - hãy ngồi một mình nơi yên tĩnh và tưởng tượng ra 1 chiếc gương trước mặt, 1 chiếc gương sau lưng, 1 chiếc gương trên đầu, và 1 chiếc gương phía dưới và đọc nguyện trong tâm: “ tôi là bạn của tất cả mọi loài hai chân, bốn chân và không chân, tôi là bạn với tất thảy mọi cõi giới mọi loài hữu hình lẫn vô hình, tôi nguyện mọi thảy chúng sanh được hạnh phúc, phước báu tràn đầy và không bị lầm than đau khổ”. Các bạn hãy nguyện chiếu cảm xúc hạnh phúc ra tất cả mọi hướng trên dưới, trái, phải, đằng trước và sau . Sau đó, hướng tâm nguyện tốt này tới đối tượng làm bạn sầu não như đồng nghiệp, sếp, chồng con…phát tâm nguyện liên tục cầu mong cho họ được bình an, hạnh phúc và mọi việc tốt đẹp và ổn thỏa… Lập đi và lại tâm nguyện này nhiều lần! Bạn sẽ ngạc nhiên vì sao tôi nói hãy cầu nguyện những điều tốt đẹp cho những kẻ gây bực tức và đau khổ cho bạn? Hãy cứ làm đi và xem chiếc gương Ngài Samahita nói tới có hiện hữu không nhé!
Helsinki, 19/07/2014
Tham khảo
[1] How to cure depression. Bhikkhu Samahita.
BÀI ĐỌC THÊM:
-Phương Pháp Tu Tập Tâm Từ tại Trường Thiền Pa-auk Miến Điện
-Hãy Sống Với Tâm Từ, Quảng Tánh
-Nghe & Đọc: Ca Khúc Từ Bi The Chant Of Metta
-Kinh Từ Bi
(TVHS)
-
-- Tôi phải tập tâm từ bi như thế nào?
-- (Các đoạn sau đây là sự kết hợp giữa những lời dạy của Dipa Ma đã được ghi âm, với các hồi tưởng của Michelle Levey về lời Dipa Ma đã dạy. Michelle Levey đã thực tập thiền quán về tâm từ bi trong hơn hai mươi năm. Các bạn có thể chọn, hoặc dùng suốt thời thiền toạ để quán về tâm từ bi, hoặc khởi đầu hay chấm dứt thời khoá với tâm từ bi. Sau cùng, năm giai đoạn, được kể ra sau đây, có thể phối hợp tập chung trong một thời khoá; nhưng khi mới bắt đầu tập, tưởng nên mỗi lần chỉ chiếu soi kỹ vào một giai đoạn mà thôi).
a) Giai đoạn một.
Giai đoạn đầu là phải thương ngay chính mình, là bạn thân với chính mình. Bắt đầu rải tâm từ bi đến cho mình. Bạn có thể dùng các câu nguyện sau đây, hay các tâm ảnh, để soi đường cho bạn trong việc làm phát khởi và hướng dẫn tâm từ bi của bạn:
Nguyện tôi chẳng có kẻ thù.
Nguyện tôi chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện tôi chẳng âu lo
Nguyện thời thời tôi được thân an tâm lạc.
"Kẻ thù" có nghĩa là kẻ thù bên ngoài mà mình cũng làm kẻ thù cho chính mình nữa. Kẻ thù có thể thấy ở cảnh giới các cảm thọ, từ một chút bực bội cho đến sự sân hận mãnh liệt hoặc đối với mình hay đối với kẻ khác. Trong khi thầm niệm các câu trên, hãy nhìn vào trong tâm bạn thấy thật rõ ràng hình ảnh của chính bạn. Nếu chẳng thể dùng tâm nhãn như thế, thì cố nhớ lại bóng dáng bạn khi bạn soi gương. Nếu nhớ lại chẳng được hết, thì bạn cứ nhìn thẳng vào một bức ảnh còn mới của bạn cho đến khi nào bạn có thể thấy rõ bạn bằng mắt tâm.
Lập lại các câu trên theo thứ tự. Nếu tâm đi vẩn vơ và đang quên mất một câu nào, thì nhẩm đọc lại ngay từ câu đầu. Ðem tâm quay về với mỗi câu nhiều lần như thế sẽ khiến cho định lực của bạn càng thâm sâu.
Ðiều quan trọng là bạn phải bỏ rơi nghĩa chữ và cảm tưởng của bạn dính sau các chữ ấy, mà vẫn để trọn lời nguyện trong câu hướng dẫn bạn, cắm sâu bạn vào sự thực tập mà đi tới. Hãy nuôi dưỡng trong tâm trí cảm giác an lạc cùng hình ảnh của bạn và miên mật niệm các câu nguyện trong bao lâu mà thời khoá cho phép.
Khi việc thực tập đã khá sâu, khi bạn cảm thấy bạn thật tình yêu chính bạn, khi bạn có thể lưu giữ vững trong tâm bạn hình ảnh rõ ràng của chính bạn, thời bấy giờ, nếu bạn muốn, hãy chuyển sang giai đoạn thứ hai, về cách rải tâm từ bi đến cho một người bạn lành.
b) Giai đoạn hai.
Dùng các câu nguyện cũ như trước, hướng tâm từ bi đến một người bạn lành hay đến vị thầy đã tỏ ra thân ái với bạn. Cũng như khi bạn đã rải tâm từ bi đến cho chính bạn, hãy nhìn lâu thật rõ hình ảnh của người thân trong tâm bạn và rải tâm từ bi đến cho người ấy:
Nguyện cầu bạn chẳng có kẻ thù.
Nguyện cầu bạn chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu bạn chẳng âu lo.
Nguyện cầu thời thời bạn được thân an tâm lạc.
Khi bạn cảm thấy rằng bạn thương người thân ấy cũng như bạn thương chính bạn vậy, hoặc khi bạn có lưu giữ tâm ảnh của người thân nơi tâm bạn thật lâu và thật rõ cùng với những câu cầu nguyện, thời nếu bạn muốn, bạn có thể chuyển sang giai đoạn thứ ba.
c) Giai đoạn ba.
Nhóm người kế tiếp để rải tâm từ bi được gọi là những người đang đau khổ -- bất cứ ai hoặc nhóm nào đang khổ sở. Trước đây, bạn lưu giữ vững trong tâm hình ảnh của mỗi một người, thì nay bạn hãy mở rộng nhãn quan để chiếu soi đến một nhóm đông người. Bắt đầu nhìn tâm ảnh của một nhóm người đang đau khổ. Rải tâm từ bi đến các người đó như bạn đã rải cho chính bạn và cho người thân:
Nguyện cầu các bạn chẳng có kẻ thù.
Nguyện cầu các bạn chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu các bạn chẳng âu lo.
Nguyện cầu thời thời các bạn được thân an tâm lạc.
Nếu có những hình ảnh của các nhóm khác tự động khởi lên trong tâm bạn, ví dụ như những bịnh nhơn trong nhà thương, hoặc các nạn nhơn chiến tranh, thời cũng tốt vậy, bạn cứ hướng tâm từ bi đến với họ, làm như thế là thiền quán theo một đường lối linh động với một dòng các hình ảnh di động. Hãy tiếp tục niệm những câu nguyện trong khi cố gắng chú tâm càng nhiều đến các cảm giác về từ bi ẩn sau các chữ.
Từ trên căn bản biết thương chính mình, bạn nhận ra rằng sự tự mình thương yêu mình chính là căn bản và chất nhiên liệu để nới rộng tình thương đến người khác. Vừa thương mình, bạn thương luôn người thân như thương chính bạn. Rồi bạn thương đến những người đang đau khổ, như bạn đã thương người thân của bạn, và thương người nầy cũng như bạn đã thương chính bạn. Với sự tập luyện miên mật, tất cả mọi nhóm đều được hoà hợp lại thành một nhóm duy nhứt.
d) Giai đoạn bốn.
Trong giai đoạn thứ tư nầy, tâm từ bi và tâm bình đẳng được hoà chung nhau lại. Việc thực tập là lưu giữ trong tâm một ý nghĩa thật rộng rãi về mọi chúng sanh và rải tâm từ bi một cách đồng đều đến cho họ -- các bằng hữu, các người đau khổ, các người mà bạn dửng dưng, các ngưòi gây khó khăn cho bạn, và tất cả chúng sanh khắp nơi.
Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng có kẻ thù.
Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng vướng hiểm nguy.
Nguyện cầu mọi chúng sanh chẳng âu lo.
Nguyện cầu mọi chúng sanh thời thời được thân an tâm lạc
Muốn được như thế, hãy khiến tâm của bạn trở thành tâm từ bi, bằng cách chú ý và quan tâm nhứt về tình cảm của mình đối với sự từ bi. Các chữ, các câu nguyện, mà bạn dùng đã nhiều lần đến nay, chỉ là những mốc chỉ đường cho bạn hướng về các tình cảm đó. Hãy để tâm trí bạn trở nên từ bi và an trú nơi đấy với sự bình đẳng chẳng cho nghiêng riêng về một hướng nào cả.
c) Giai đoạn năm.
Giai đoạn cao điểm nhứt của sự quán chiếu tâm từ bi là phối hợp tất cả các giai đoạn lại, rồi chiếu rọi trong một lúc đến mỗi giai đoạn riêng biệt, vào suốt thời gian dành cho việc quán chiếu. Thực tập theo đường lối đó, sự quán tưởng trở nên như một buổi hoà tấu của tâm từ bi trong đó bạn khởi lên với chính bạn, rồi mở rộng ra, mở rộng thêm ra, mở rông mãi thêm ra, cho đến khi nào tâm bạn thật sự an trú trong bình đẳng tâm vô lượng và vô biên.