-
Huyền thoại Nghiêm Tân
Huyền thoại Nghiêm Tân- Khí công hay trường sinh học?
http://i57.photobucket.com/albums/g2.../nghiemtan.jpg
Nghiêm Tân sinh trưởng ở một làng nhỏ thuộc huyện Giang Dân, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Nghiêm Tân có vóc người nhỏ nhắn, là con thứ của một gia đình có truyền thống thượng võ nên từ nhỏ đã yêu thích quyền cước. Một chuyện kỳ lạ đã đưa Nghiêm Tân đến với khí công. Vào năm bốn tuổi, một hôm, bé Nghiêm Tân đang nô đùa cùng với bọn trẻ trong rừng, bất ngờ gặp một người đàn ông tuổi trung niên. Với một thứ khinh công tột đỉnh, chỉ trong nháy mắt, ông đã biến mất, nhìn khắp bốn bề đều không thấy bóng hình, như đã bay lên trời cao hay biến vào lòng đất vậy. Thế rồi, chỉ trong thoang chốc ông lại đột ngột hiện ra, đứng trước bọn trẻ đang ngơ ngác. Bé Nghiêm Tân nhiền đến ngây người và cứ níu ông đòi dạy võ. Cuối cùng vị cao thủ võ lâm ẩn cư tu thân luyện công nơi núi rừng sâu ấy đã nhận cậu bé bốn tuổi này làm đệ tử. Ông đã cấm Nghiêm Tân tiết lộ thân thế bí ẩn của mình.
Dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, Nghiêm Tân tĩnh tâm học khí công. Ba, bốn năm trôi qua, cậu bé cảm thấy xương cốt, thần kinh và máu thịt trong người như đã thay đổi hẳn. Dòng máu trong thân thể như sôi bỏng, hai bàn tay nóng ran rát. Ngày thường luyện công trong phòng, mắt không chút nhìn xiên, nhưng thoàn thân Nghiêm Tân như đã bay ra khỏi, ra tới cánh đồng quang đãng. Khi nhắm mắt ngưng thần, trước mắt thấy nổi lên lớp lớp ánh sáng trắng loang loáng. ánh sáng qua đi, trong đầu hiện ra hình dáng những đồ đạc bày trong phòng như bàn, ghế, giường tủ... không bao lâu lại sinh những dải sóng óng ánh các màụ Sư phụ bảo đó là kết quả do chuyên tâm chú thần công lực và thăng hoa đã đạt được.
Năm tám tuổi, nhờ cha thân đến cầu xin, Nghiêm Tân lại được nhà khí công lừng danh là Hải Đăng pháp sư vui lòng truyền dạy bí pháp. Hải Đăng pháp sư là bậc võ lâm lão tiền bối, võ nghệ tinh sâu, công lực phi phàm và cực kỳ nghiêm khắc đối với các đệ tử của mình. Theo tông phái của Hải Đăng pháp sư, Nghiêm Tân nhập môn, nhập đạo, được học tập một cách hoàn chỉnh các môn: Vân thông khí công, Thiếu niên tinh quyền, Tỉnh lã là quyền (bao gồm đường quyền từ thứ năm đến thứ chín của phái Thiếu Lâm),
Hình ý quyền, La Hán quyền, rồi đao thương, kiếm, côn, kích, roi... đa ban
võ nghê.. Tiếp sau đó, Nghiêm Tân lần lượt luyện công học nghệ với hơn hai mươi vị sư phụ, họ hoặc là võ lâm đại sư, hoặc là những cao thủ trong người nắm những tuyệt chiêu thần kỳ của chư gia môn pháị Nghiêm Tân nghiền ngẫm, trau giồi những sở trường của từng môn phái và dần hình thành công phu đặc sắc độc đáo của bản thân.
Khi luyện công, Nghiêm Tân chọn giờ Tý và giờ Dần. Theo học thuyết
”Tý Ngọ lưu chú“ trong y học cổ truyền Trung Hoa, vào giờ Tý và giờ Dần, khí huyết trong cơ thể con người đặc biệt thịnh vượng, luyện công vào thời
khác đó sẽ có thêm tác du.ng. Nghiêm Tân thường luyện công trong rừng, trên núi, ở những vùng gần mạch nước là những nơi có địa từ mạnh, mượn ngoại lực của địa từ trường trợ lực, có thể thúc đẩy nội khí tăng trưởng.
Để đạt tới đỉnh cao trong võ công, Nghiêm Tân ghi lòng tạc dạ giáo huấn của sư phụ, giữ nghiêm ”Thất giới“ (tức là bảy điều kiêng kỵ). Ngoài kiêng rượu, sắc, tài, khí, còn kỵ ngôn (không xuất ngôn hại người), kỵ ngủ đêm
(đêm luyện công vào giờ Tý, buổi sáng lại phải dậy sớm vào giờ Dần để luyện công, rất ít ngủ). Đồng thời Nghiêm Tân quanh năm ăn chay, kiêng mỡ, kỵ tanh. Năm 11 tuổi, khi nhắm mắt phát công, những vật thể trước mắt nổi rõ trong đầu với hình khối và màu sắc hoàn toàn giống và rõ như đang mở mắt nhìn. Khi công phu đã thâm hậu, nhắm mắt phát động, Nghiêm Tân đã có thể thấu thị xuyên suốt cơ thể con người, không chỉ ”thấy được“ hình dáng bên ngoài, mà còn ”thấy được“ cả xương cốt, dây thần kinh phát sáng và dòng máu sẫm đang tuần hoàn trong huyết quản.
Năm 13 tuổi, Nghiêm Tân đã có khả năng phát ra ngoại lực để chữa bệnh cho con ngờị Năm đó, Tân trở thành học trò của lão y sư Trịnh Bá Chương, một thầy thuốc nổi thiếng trong giới Đông y Trung Quốc. Năm 1974, Nghiêm Tân thi vào Học viện Y khoa Thành Đô, học tập một cách hệ thống kiến thức lý thuyết, thực hành của Đông y và Tây ỵ Năm tháng trôi qua, Nghiêm Tân đã tập hợp được trong mình những hiểu biết y học, võ thuật, khí công và nhiều công năng đặc dị khác, rèn luyện đạt tới một bản lĩnh kì diệu, một tài năng chữa bệnh thần kỳ. Trở thành một thầy thuốc hành nghề giữa dân gian, ông làm được những kỳ tích con người khó tưởng tượng nổi, được thiên hà tôn xưng là ”Thiên phủ thần y, Hoa Đà tái thế“.
Khí công chữa bệnh mang đầy sắc thái truyền kỳ, nhưng lại là sự việc có thật trong cuộc sống hiện nay ở Trung Quốc, mà Nghiêm Tân là một sự thật sinh đô.ng. ”Huyền thoại“ về Nghiêm Tân có rất nhiều, chúng tôi xin nêu ở đây một vài câu chuyện ”người thật, việc thật“
Chữa đau bụng và giải độc
Năm 1978, tại công trường mở rộng nhà ga xe lửa Thành Đô, một người thợ trẻ đột ngột bị đau bụng dữ dội, cơn đau dồn dập làm anh ta lăn lộn giãy giụa dưới bùn đất, mồ hôi lạnh vã và nhễ nhạị Vừa lúc ấy, Nghiêm Tân đi qua, tình cờ nhìn thấy liền bảo học trò là Trần Bang Vinh lầy một cốc nước,tự tay Nghiêm Tân đưa cho người thợ trẻ. Uống hết cốc nước, anh dứt hẳn cơn đau và đứng ngay dậy xúc động lẩm bẩm: ”Hôm nay được gặp tiên rồi“.
Thật ra, đối với Nghiêm Tân đó là một chuyện bình thường, nước thường hoặc rượu bia, Nghiêm Tân đều có thể dùng để chữa bê.nh.
Một ngày năm 1983, một phụ nữ ở Cẩm Dương gặp bức bối trong việc gia đình, suy nghĩ bế tắc, uống thuốc trừ sâu tự tử, lúc được phát hiện thì đã
ở trong tình huốn nguy ki.ch. Người nhà cuống quýt vội đưa chị đi bệnh viện, trên đường vừa may gặp Nghiêm Tân. Ông liền điểm huyệt và vận khí phát công cấp cứu, chỉ trong phút chốc, người đàn bà ấy nôn thốc nôn tháo,rồi hồi tỉnh dần. Nghiêm Tân nhổ mấy nhánh cỏ xanh ven đường, dùng tay vò qua rồi bảo người phụ nữ nhai nuốt, chỉ với chừng ấy thôi, đã cứu sống được một mạng ngườị
Chữa gãy xương
Nghiêm Tân còn có thể làm cho xương cốt bị gãy vụn trở lại lành lặn như xưạ Vào khoảng 10h sáng ngày 27-4-1984, một công nhân trẻ của nhà máy thép Trùng Khánh tên là Túc Bình bị tai nạn giao thông. Bệnh viện chụp X Quang, cho biết: hai xương bả vai bị gãy rời, vỡ vụn, khớp vai phải thoát vi.. Điều trị một tháng,vai anh ta vẫn không động đậy được, qua hội chẩn, bệnh viện bó tạ Túc Bình được chuyển tới Viện Nghiên cứu đông y Trùng Khánh, xin Nghiêm Tân chữa tri.. Nghiêm Tân lặng lẽ ngồi trước nạn nhan, hai tai duỗi ngửa từ từ nhập ti.nh. Sau mấy nhịp thở sâu, ông mở miệng: ”Hai xương bả vai gãy rời vụn. Chỗ ghép nối ở điểm bên phải xương bả vai khoảng chừng ba phân bị trệch“. Những điều chẩn đoán bằng phát công thấu
thị của Nghiêm Tân hoàn toàn khớp với kết quả chụp X quang sau đó. Tiếp
đó, những dải băng chằng chịt quấn chặt lấy thân thể Túc Bình được cởi bỏ
hết. Nạn nhân được dìu nằm sấp lên giường. Nghiêm Tân huy động cả hai
tay băm, đấm, xoa, bóp mạnh mẽ trên lưng Túc Bình. làm anh có cảm giác buồn buồn, tê tệ Cả một vùng sau lưng mát la.nh. 20 phts sau, Nghiêm Tân thu hồi công lực, đi thăm bệnh ở các phòng khác. Khoảng nửa giờ sau, ông quay lại nói với Túc Bình lúc này vẫn ngoan ngoãn nằm im trên giường:
”Xoay ngửa người lại“. Anh ta sửng sốt nhìn Nghiêm Tân, nghĩ tai mình nghe nhầm. Nghiêm Tân hiểu ý, nói thêm: ”Đừng sợ, cứ làm như chưa từng bị làm sao ấy“. Túc Bình lấy sức xoay mình và nằm ngửa ra một cách dễ dàng. ”Bây giờ anh hãy làm mấy động tác giã giò co tay trên giường!“. Như huần luyện viên đang ra lệnh cho vận động viên của mình, Nghiêm Tân nói:
”Sợ gì nào, anh khỏi hẳn rồi mà!“. Túc Bình xúc động quay sấp mình, làm liền năm động tác co tay giã giò. Sau đó theo lệnh của Nghiêm Tân, anh ta xuống giường, bước ra bên cửa, nắm lấy khung cửa làm một mạch 30 lần động tác co tay trên xà, còn dùng một tay nhấc lên vật nặng trên 20kg.
Ngày 10-2-1985, hai bác sĩ Lý Du Và Từ Mãn ở Quân y viện Tây Nam
đã khám lại cho Túc Bình. Kiểm tra X quan và chụp phim chứng thực vết thương đã lành hẳn, nay những chỗ xương bị gãy vụn trước kia cũng không
còn để lại dấu vết gì. Từ đó trở đi, công năng hai vai của Túc Bình đã hồi phục hoàn toàn; trở về nhà máy, những phối kiện thép nặng hàng tạ anh lại có thể đẩy dễ dàng. Anh có thể dùng vai để nâng vật nặng cả tạ mà vẫn bình thường.
Gặp những ca gãy xương, Nghiêm Tân thường dùng ngoại khí để trị liệụ Hình thức phát công này rất đa da.ng. Có lúc phát công ở sát gần, cũng có khi phải phát công ở cự ly xa, hoặc cách vật cản như bức tường, cây cối... cũng có khi lại trực tiếp tiếp xúc với bộ phận bị thương tổn của bệnh nhân.
Cháu Dư Lập Độ chín tuổi, là con ông Trần Xương Cung ở nhà máy hoá chất Tứ Xuyên bị gãy dập ngón tay cái hồi tháng 4-1984. Nghiêm Tân dùng hai bàn tay mình kẹp chặt lấy ngón tay gãy của cháu rồi phát khí, cháu nói là cảm thấy nóng bỏng từng đợt ở ngón taỵ Nửa giờ sau, ngón tay cháu khỏi hẳn, xương ngón tay trở lại lành lặn như nguyên. Ngày 6-7-1985, anh Dương Diệu Tổ ở Liên hiệp công đoàn thành phố Trùng Khánh bị gãy xương bàn tay phải, mu bàn tay sưng to như một chiếc bánh bao, năm ngón tay cứng đờ. Nghiêm Tân được mời đến. Trước tiên, ông diểm mấy huyệt trên người Dương Diệu Tổ. Diệu Tổ cảm thấy như có dòng điện chạy qua khắp người mình. Sau đó, Nghiêm Tân bước ra phòng ngoài, cách bức tường để phát công vào bệnh nhân, bệnh nhân cảm thấy toàn thân mình như trôi nổi lên, chỗ bị thương thấy giật giật lên một lúc, rồi không còn thấy đau đớn nữa. Hai giờ sau, vết thương khỏi hẳn, tay hết sưng và công năng phục hồị
Chữa điếc
Em Lưu Hiểu Dung, mười bốn tuổi, bị mất hẳn thính giác, do hồi nhỏ bị ngã xuống sông. Tiếng trống, tiếng pháo, tiếng sấm, tiếng nổ, em đều không nghe biết gì. Tết, năm 1984, gia đình em nhờ Nghiêm Tân chữa trị, ông lấy hai cục bông nhỏ nhét vào tai em, rồi phát công. Ngay sau năm phút, Nghiêm Tân thu hồi công lực, nhẹ nhàng lấy hai cục bông trong tai em rạ Em Dung lập tức sung sướng mở to đôi mắt thông minh, cảm thấy trong màng nhĩ có thiếng vo vo, vui mừng nói: ”Cháu nghe được rồi“. Nghiêm Tân để chiếc đồng hồ đeo tay bên tai Hiểu Dung, em lập tức nghe rõ tiếng tích tắc.
Chữa teo cơ
Năm 1984, chị Chu Quế Trân, giáo viên trường tiểu học số hai huyện Mật Văn, ngoại thành Bắc Kinh, bị phong thấp, đau thắt lưng và nhức đầụ Đùi trái bị teo cơ, hai chân dưới gần như liệt. Nhiều thầy thuốc Đông, Tây y nổi tiếng đã bó taỵ Trong cơn tuyệt vọng chị viết thư cầu xứu Nghiêm Tân. Sáng 24-5-1986, Nghiêm Tân đến nhà, vừa hỏi chuyện Quế Tân, vừa ngầm vận khí công chữa bệnh cho chi.. Chu Quế Trân kể lại: ”Đang ngồi nói chuyện, tôi cảm thấy hai vai như có luồng gió thổi qua, rất la.nh. Tôi gọi người nhà lấy thêm áo mặc, song bác sĩ Tân bảo: ”Đừng sợ, tôi đang dùng khí công loại bỏ khí thấp trên người chị“. Một lúc sau, chồng tôi thấy cánh tay trái bác sĩ ướt đầm đìa,còn cánh tay phải hoàn toàn khô ráo, đó là phép ”dẫn đạo khí công“. Sau đó, Nghiêm Tân bảo tôi vào nằm nghỉ trong gian phòng nhỏ. Mấy phút qua đi, tôi thấy một cảm giác kỳ lạ, như có luồng diện chạy qua toàn thân, các đốt sống cũng động đậy. Cảm giác đau lưng mất dần. Tôi ngủ thiếp đi, lúc mở mắt, nhỏm dậy, lưng không đaụ Xuống giường vặn thử người, đá chân, hoạt động thoải mái. Ông Nghiêm Tân đã phát công chữa bệnh cho tôi qua bức tường ngăn suốt năm giờ liền, từ một giờ trưa đến sáu giờ chiều. Bệnh của tôi khỏi hẳn“.
Chữa hoại tử
Một cán bộ xưởng máy kéo Bắc Kinh bị hoại từ xương mắt cá chân,nhiều năm không đứng, không ngồi được, bệnh viện nói phải tháo khớp. Anh tìm đến Nghiêm Tân. Ông bảo bệnh nhân ngâm chân vào một chậu nước, còn mình ra chỗ vắng, vận khí công điều tri.. Người bệnh ngồi im lìm như đang ngủ, gần ba giờ sau Nghêm Tân quay lại gọi dậỵ Người bệnh trước đây không ngồi nổi mười phút, nay đã ngồi gần ba giờ, sau đó lại đi ra phố chơi trong gần một giờ đồng hồ.
Rắn như thép
Cuối năm 1986, Nghiêm Tân sang thăm Nhật Bản cùng với đoàn đại biểu Hội Nghiên cứu khoa học khí công Trung Quốc. Vô tình, ông đã tiếp một cuộc thách thức của một đồng nghiệp Nhật Bản, phải đọ khí hết pháp và giành được thắng lợi, làm thành một giai thoại thời ấỵ
Buổi tối ngày 17-11-1986, tại khác sạn Đại Tân Cốc Tokyo, giới đồng nghiệp Nhật mở tiệc chiêu đãI các bạn Trung Quốc. Giữa tiệc, ông Kusudu, Chủ tịch Hội nghiên cứu khoa hoạc khí công của Nhật Bản phàn nàn với trưởng đoàn Trung Quốc Trương Chấn Hoàn về căn bệnh đau khớp khuỷu tay đã nhiều nam chữa trị nhưng vô hiệu và ngỏ ý muốn nhờ một nhà khí công nào trong đoàn Trung Quốc chữa trị giúp. Trương Chấn Hoàn giao nhiệm vụ này cho Nghiêm Tân và đề nghị Nghiêm Tân sẽ dâng năm ly rượu lên Kusudu, khi dâng rượu sẽ phát công chữa bê.nh. Phương án trị liệu giàu kịch tính này làm cho người bạn Nhật Bản rất khoáị Kusudu vốn là bậc lão thành trong giới khí công Nhật, công lực không phải loại thường. Hơn nữa, ông ta tửu lượng hơn người, từng uống liền mười tám chai rượu mạnh mà không say, có biệt hiệu ”Hũ rượu đại“. Nhận nhiệm vu.. Nghiêm Tân ngầm phát công lực thăm dò và biết rằng dây chằng khoắp của Kusudu bị tổn thương ở dạng mãn tính (trần cựu). Ông rót một ly nhỏ rượu Mao Đài, dùng hai tay dâng cho Kusudu, Kusudu đứng lên nhận lấy, rồi uống một hơi cạn sa.ch. Lúc Nghiêm Tân định dâng tiếp ly thứ hai thì đâu ngờ ”hũ rượu đai“
đã có vẻ chếnh choáng, nói: ”Thôi, uống bia“, rồi lại đòi hai cốc bia có nồng độ thấp hơn hẳn rượu này thành 4 lần uống, gọi là cho đủ năm lỵ Sau khi Kusudu nhăn nhó uống hết chỗ bia cuối cùng thì chuyện là lập tức xuất hiện:
với bộ mặt đỏ gay, Kusudu giơ cao cánh tay đau của mình, co duỗi một lúc
rồi vui sướng nói: ”Hết đau rồi, không còn chút đau nào nữa! Công phu củaNghiêm tiên sinh quả thật dao siêu!“. Kusudu là người trong nghề, ông hiểu rằng chỗ rượu ấy đã được Nghiêm Tân xử lý bằng công lực, chỗ đau nơi khuỷu tay mình cũng đã được Nghiêm Tân phát khí chữa tri..
Trong giới khí công của Nhật Bản cũng không thiếu những người không
tin phục. Một hôm, các đồng nghiệp hai nước Trung-Nhật đang toạ đàm, thì một nhà khí công Nhật Bản tên là Sukitari, thông qua phiên dịch, đề nghị được đấu ”khí lực“ để phân thắng bại với Nghiêm Tân. Không hiểu là do không nghe rõ ý của Sukitari hay do không hiểu sâu tính cách võ sĩ đạo của một số cao thủ trong giới khí công Ngật Bản, mà người phiên dịch sợ khi
chuyển ngữ quá thẳng thì sẽ làm tổn thương đến tình hữu hảo giữa đôi bên, nên đã dịch cho Nghiêm Tân là ”học hỏi lẫn nhau“.
Nghiêm Tân vui vẻ nhận lời, nhưng khi nhìn sang Sukitari, ông biết đó là một người đã luyện công, tập võ nhiều năm, lại có trong người những công năng đặc dị thần kỳ. Nghiêm Tân nhận ra ngay ”học hỏi lẫn nhau“ ở đây bao hàm ý nghĩa gì. Sang Nhật lần này là một cuộc viếng thăm hữu nghị, Nghiêm Tân không hề chuẩn bị thi thố, đọ sức với bạn, nay họ đã chiếu thư, mà xem ra không phải do ngẫu hứng nhất thờị Vừa rồi, mình đã nhận lời, nếu làm thật Nghiêm Tân tự hiểu công lực của mình có thể làm thương tổn đến đối phương, thậm chí có thể huỷ cả lục phủ ngũ tạng, như vậy không phù hợp với đạo đức trong võ lâm, bất lợi cho tình hữu nghị giữa hai nước. Nhìn lại đối phương, rõ ràng không phải cỡ tầm thường, nếu có sơ suất, hậu quả sẽ khôn lường. Nghiên Tân có vẻ trấn tĩnh khác thường, nhưng trong đầu đã suy tính nhanh chóng, Sukitari không chút nể nang, lấy thể vận khí, phát công lực mạnh nhằm thẳng voà mặt Nghiêm Tân. Mọi người đều biết đó là một nhà khí công có hạng của nước Nhật, châm cứu, điển huyệt đều vào lợi thượng thă.ng. Khi Sukitari vận đủ đan điền cho khí phát mạnh vào Nghiêm Tân, thần lực đó hết sức lợi hại, nhưng Nghiêm Tân không hề cảm nhận chút nào, vẫn nói cười bình thường với mọi người, thản nhiên như không.
Thấy luồng khí phủ đầu không có tác dụng gì, Sukitari liên tục tăng lực phát công, mồ hôi trán vã ra nhưng Nghiêm Tân vẫn ngồi vững chãi, Thấy không ổn, Sukitari dùng khí thu công để nghị được thay đổi phương hướng phát khí từ phía lưng Nghiêm Tân, Nghiêm Tân ưng thuận ngaỵ
Sukitari lại lấy thế, liên hồi vận khí nhằm đúng lưng Nghiêm Tân phát công dữ dội, nhưng vẫn vô hiệụ Ông ta ướt đẫm mồ hôi, trong làm cảm thấy lạ lắm. Chính diện tấn công không thấy nhúc nhích, phát công từ phí sau lưng cũng không thấy suy chuyển, hay là do cự ly quá xả Sukitari liền đến sát bên Nghiêm Tân, áp bàn tay vào lưng Nghiêm Tân, vận tận lực pahts khí, dùng cả cánh tay đẩy mạnh, Không ngờ cứ như bị va phải một hòn đá to, Sukitari mệt mỏi thở gấp, mồ hôi vã như tắm, mặt đỏ gaỵ Nghiêm Tân vẫn ngồi như không có việc gì xảy rạ Sukitari hiểu ràng hôm nay đã gặp cao thủ. Nếu như chỉ dựa vào phát lực khí công và cậy sức húc bừa thì chỉ có thất bại thảm ha.i.Ông ta giơ tay điểm xuống huyệt Bắc Hội trên đỉnh đầu Nghiêm Tân. Đây không phải là trò đùa, nếu huyệt này bị cao thủ điểm trúng thì chí ít cũng bị ngay ra như gỗ. Nhưng Nghiêm Tân vẫn vững như Thái Sơn, an toạ bất động, không hề cảm thấy có gì khác thường. Lúc này, Sukitari mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển, trợn tròn hai mắt, bất ngờ vung ra đòn cuối cùng: giơ hai tay tóm mạnh vào động mạch cổ của Nghiêm Tân. Tóm mạnh vào động mạch cổ là ngón đòn hiểm độc nhất, Người bị trúng nếu không chết ngay thì cũng bị trọng thương. Tuy vẫn ngồi yên thản nhiên, nhưng Nghiêm Tân hiểu rất rõ tính chất leo thang trong các động tác mà đối phương tung rạ Nhan như cắt, khi tay của đối phương vung tới, Nghiêm tân không né tránh, cũng không tả đòn mà ông quay hẳn đầu lại để cho Sukitari tóm bắt ”ngon lành“. Kết quả là Nghiêm Tân vẫn bình an. Đến nước này, nguyên khí trong người Sukitari mất sạch, chây tay bủn rủn, toàn thân rã rời, Sukitarimowiws biết vị khí công danh sư trước mặt mình này quả là ”danh bất hư truyền“.
Ông ta cúi mình nhận thua tại chỗ và nói thành khẩn: ”Công phu của ngài quả là lợi hại, cao siêu! Xin bái phục“. Rồi gọi người con trai đến, hai cha con cùng khẩn cầu bái Nghiêm Tân là sư phu.. Cuộc đọ võ hấp dẫn này làm cho người Nhật Bản vô cùng thán phục tài nghệ của Nghiêm Tân. Theo kế hoạch, sẽ có một cuộc đọ quyền giữa một quyền sư Nhật Bản với Nghiêm Tân, và một nhà kiếm thuật đọ kiếm với Nghiêm Tân nhưng đối phương chủ động xin rút bỏ.
"Tác dụng xúc tác" của ngoại khí đối với các phản ứng hoá học
Ngày 12-12-1986, Tổ chức nghiên cứu kho học khí công Đại học Thanh Hoa hợp tác với Nghiêm Tân tiến hành một thí nghiệm về tác động của khí công đối với các phản ứng hoá học. Trên bàn thực nghiệm bằng đá, đặt một bình thuỷ tinh thạch anh, trong chứa đầy hỗn hợp gồm khí hydro và oxyt cacbon (CO). Trong công nghiệp, muốn giữa hỗn hợp này có phản ứng với nhau, cần có áp suất vài chục at-mot-phe, cũng không có chất xúc tác, nhiệt độ trong phòng là 130C. Sau khi Nghiêm Tân phát cường công, một vị giáo sư đem bình đến đo ở máy quan phổ hông ngoạị Qua máy tính xử lý, phổ đồ
hiện trên màn hình cho thấy trong bình đã xuất hiện hoá chất mới, phản ứng hoá học đã xảy ra dưới tác dụng của ngoại khí khí công. Mờy vị giáo sư, chuyên gia có mặt trong phòng đều công nhận thí nghiệm thành công.
Ngày 17-12-1986, thí nghiệm trên được lặp lại, chỉ khác là Nghiêm Tân phát công từ một nơi cách phòng thí nghiện 7km. Địa điểm thí nghiệm cũng khác nhau, một máy laser đặt trong phòng thí nghiệm laser, một hỗn hợp nước và khí đặt trong một buồng tốị Kết quả chứng tỏ Nghiêm Tân phát công điều khiển từ xa không những có thể lặp lại kết quả thí nghiệm lần đầu mà hiêụ quả còn tốt hơn.
Làm thay đổi cấu tạo phân tử tế bào
Nghiêm Tân còn phát công ở những khoảng cách khác nhau, vào một loạt vật chất có hiệu ứng sinh lý như nước, muối sinh lý, dung dịch glucô, khoảng cách thực nghiệm từ vài mét tới vài cục mét, từ vài km tới 200km. Trong không đầy một tháng đã thiến hành 10 cuộc thí nghiệm với bảy, tám loại vật chất khác nhaụ Lần thí nghiệm lớn nhất có gần hai mươi vị giáo sư, giảng sư, nghiên cứu sinh tham gia, huy động bảy máy phân tích cỡ lớn. Một loạt thí nghiệm đó chứng tỏ ”ngoại khí“ do nhà khí công phát ra đã làm thay đổi rõ rệt kết cấu phân tử của axit nucleic, có thể tác động tới nhiều loại phân tử vật chất tạo nên tế bàọ Đó là một trong những nguyên nhân khiến khí công chữa khỏi bê.nh.
Hơn ba mươi năm tu thân luyện công, hơn hai mươi năm chữa bệnh, với
y thuật thần kỳ và y hiệu như thần thoại của mình, Nghiêm Tân đã để lại nhiều ”câu đố“ không thể giải thích nổị
Tuy có công lực thâm hậu, thần diệu, nhưng Nghiêm Tân không phải tần tiên, không thể chữa trị được bách bê.nh. Ông đã nhiều lần nói, những cao thủ có bản lĩnh tuyệt đỉnh không thiểu gì trong dân gian. Ông vẫn phải tiếp tục tầm sư học đạo, tinh luyện công lực. Đồng thời Nghiêm Tân cho rằng khí công cao cấp và những công năng đặc dị không phải là thứ gì thần bí siêu hình. Con người có chừng 14 tỉ tế bào đại não, thông thường mới chỉ sử dụng độ hơn một triệu tế bào, còn tuyệt đại đa số các tế bào não được tồn chứa một cách lặng lẽ, vô du.ng. Ông mới luyện công được mấy chục năm, cùng lắm cũng chỉ mới khai thác thêm được một phần nhỏ nữa trong sự tàng trữ khổng lồ ấỵ Luyện công lực như vậy còn rất xa mới tới được đáy sâu của
công phu, suốt đời cũng không tới nổi sự tận cùng của tiềm năng con ngườị
Các dạng năng lượng đặc biệt khách thương (hay gọi là công năng đặc biệt khác thường) mà Nghiêm Tân có thể bức xạ mỗi khi ”phát công“ còn là một thế giới đầy bí ẩn đối với mỗi chúng tạ ở đây các dạng bức xạ năng lượng của khí công và trường sinh học (hào quang sinh học, chất plasma học) có mối liên quan chăng? Phải chăng luyện tập khí công có thể khai thác được những năng lượng sinh học tiềm ẩn trong mỗi con người - năng lượng trường sinh học?
Giải đáp được vấn đề này thật không dễ dàng. Chúng ta tin rằng, rồi đây một ngành khoa học mới sẽ ra đời, ngành khoa học của thế kỷ 21 sẽ giúp ta hiểu sâu hơn về những khả năng của chính bản thân mình.
Hằng Nga (Thế giới mới - 241, 242, 243)
-
Hoa Hạ Thần Công (Nghiêm Tân - Cao Đồ Của Hải Đăng Pháp Sư Luận Về Khí Công)
http://www.minhkhai.com.vn/hinhlon/136333.jpg
"Hoa Hạ" là tên gọi xưa kia của Trung Quốc - nơi có rất nhiều bí mật kỳ lạ. Trong thập kỷ 90, Nghiêm Tân nổi lên như một hiện tượng kỳ lạ về khí công. Những câu chuyện kể về Nghiêm Tân và Hải Đăng pháp sư - sư phụ của ông thật thần kỳ khó tin, nhưng rất nhiều người đã được may mắn chứng kiến! Nhiều kỳ tích do công phu cao cấp gây ra đã xuất hiện trong những cuộc nói chuyện của Nghiêm Tân trước đại chúng, vì thế tiêu đề của cuốn sách này có tên là "Hoa Hạ Thần Công".
Những câu chuyện trong cuốn sách do chính Nghiêm Tân kể lại sẽ mang tín hiệu có thể khiến mọi người dễ thâm nhập vào trạng thái khí công... Cuốn sách được biên soạn trên cơ sở các bài giảng của khí công sư Nghiêm Tân và các tư liệu liên quan.
Xin trân trọng giới thiệu bạn tìm hiểu.
HOÀNG THÁI(Biên soạn)
NXB: Thể dục - Thể thao
Giá: 40,000
http://www.minhkhai.com.vn/BookInfo.aspx?isbn=136333
-
Nghiêm Tân Khí Công
CÔNG PHÁP CƠ BẢN KHI NHẬP MÔN TĨNH TOẠ
Có rất nhiều phương pháp rèn luyện khí công. Theo lời giới thiệu của các sư phụ và theo những hiểu biết của bản thân, tôi xin giới thiệu với bạn đọc một số phương pháp luyện công và những điều cần chú ý. Trong các công phu thì tĩnh toạ công vừa là công phu nhập môn then chốt của nhiều phương pháp luyện công, vừa là cách luyện tiện lợi, nên nhiều người luyện công đều bắt đầu từ tĩnh toạ.
I/ TƯ THẾ VÀ YẾU LĨNH
1. Tư thế cơ bản
Tư thế nhập môn tĩnh toạ có thể chia làm ba loại
a. Tọa thức
Ngồi tự nhiên trên ghế. Cổ , đầu ngay thẳng, thả lỏng, hàm dưới thu vào, thả lỏng vai, hàm hung ( hơi thu ngực ), hai tay đặt bằng ở trước bụng, vùng eo để thẳng tự nhiên, hai chân mở rộng ngang vai, cẳng chân với đùi tạo thành góc 90° , hai chân đặt phẳng tren mặt đất. Người mạnh khoẻ thì ngồi lui về mặt trước ghế 1/3 ( H.1 ) . Người yếu thì ngồi lui sâu vào mặt ghế hơn, nhưng lưng không chạm vào chỗ tựa của ghế ( H.2 )
http://nhatnam.com/images/nghiemtan16a.gif
Trong luyện công, tại sao lại phải thẳng lưng, không được tựa lưng ? Đó là vì thẳng lưng có lợi cho việc thả lỏng xương sống và eo. Đầu hơi cúi một chút, như vậy có lựi cho việc thả lỏng xương sống cổ. Điều chỉnh hai bộ phận này có tác dụng tạo điều kiện làm thông suốt “ tiểu chu thiên “ H.3 ), như vậy đai não và thần kinh sống lưng sẽ đỡ mệt mỏi. Nhâm mạch chạy từ huyệt Bách hội trên đỉnh đầu, chạy xuống Thượng , Trung, Hạ Đan điền đến huyệt hội âm ( H.4 ) ; Đốc mạch từ huyệt Bách hội chạy dọc xương sống xuống dưới qua tam quan là Ngọc chẩm , Hiệp tích ( có tài liệu dịch là Giáp tích ), Vĩ lư đến huyệt Hội âm ( H.5 ). Khi hai mạch Nhâm Đốc thông nhau, khí thông suốt trong 2 mạch này thì gọi là thông tiểu chu thiên. Xương sống eo và xương sống cổ có thẳng , thì khí mới dễ thông qua “ Tam quan “ trên Đốc mạch. Khi khí vận hành trong tiểu chu thiên, nơi khó thông qua nhất là Đốc mạch ở sau lưng. Đốc mạch là mạch chủ quản dương khí của toàn thân, nên việc tinh thần có khoẻ hay không, có sợ lạnh hay không ... đều liên quan đến việc Đốc mạch đã thông suốt hay chưa. Đốc mạch thông suốt thì dương khí sung túc, công năng của nội tạng được tăng cường, tinh thần của toàn thân sẽ có chuyển biến tốt.
http://nhatnam.com/images/nghiemtan15a.gif
b. Bàn toạ thức
Là cách ngồi hai chân khoanh lại trên đất bằng hoặc trên giường. Bàn toạ thức có 3 hình thức .
Song bàn: còn gọi là “ Kim bàn “ . Nghĩa là hai chân khoanh lại, ngửa bàn chân lên ( H.6 ). Người đã có một chút cơ bản khí công có thể dùng tư thế này.
Đơn bàn: cũng gọi là “Ngân bàn “ . Tức là hai chân khoanh vào nhau, một bàn chân ngửa lên, bàn chân kia đặt dưới mông ( H.7 ).
http://nhatnam.com/images/nghiemtan15b.gif
Tản bàn: còn gọi là “ Tự nhiên bàn toạ “. Là cách ngồi đùi khoanh lại, hai bàn chân không cần để ngửa ( H.8 )
c. Trạm lập thức
Hai bàn chân mở ngang, rộng bằng vai, hai đầu gối hơi chùng, đứng tự nhiên. Đầu ngay thẳng , hai mắt nhìn ngang bằng, hàm hung bạt bối ( thu ngực duỗi lưng ), vai xuôi. Luyện công ở tư thế này cần thu bụng ( H.9 ).
http://nhatnam.com/images/nghiemtan14a.gif
2. NHỮNG ĐIÈU CẦN CHÚ Ý KHI LUYỆN CÔNG
1. Tư thế và yếu lĩnh của tay
a. Hai bàn tay đặt chồng lên nhau, bàn tay ngửa. Nam thì tay trái để trên, nữ thì tay phải để trên. Ngón cái của 2 tay chạm nhau. Năm ngó tay hơi xoè, tay để dưới rốn một chút, tức là để tay ở Hạ Đan điền ( H.10 – 1,2.3 )
http://nhatnam.com/images/nghiemtan14b.gif
Đối với người trẻ, khoẻ, hai bàn tay chồng lên nhau có thể cách nhau khoảng 1 thống, bàn tay vẫn ngửa. Hai ngón tay chạm nhẹ vào nhau (H.11 )
Hoặc hai bàn tay như ôm một quả bóng nhỏ, treo khuỷu tay, bàn tay để ở trước ngực hoặc trước bụng. Xoè 10 ngón tay, các đầu ngón của 2 bàn tay chạm nhẹ vào nhau ( H.12 )
http://nhatnam.com/images/nghiemtan14c.gif
b. Đối với người sợ rét, thân thể suy nhược , huyết áp thấp, người mắc bệnh tim khá nặng thì để hổ khẩu giao nhau, nam giới thì tay trái nắm lấy tay phải, nữ giới thifdungf tay phải nắm lấy tay trái , tay nắm nửa quyền, hơi dùng lực, quyền tâm hướng vào bụng, vị trí Đan điền ( H.13-1,2,3 ).
ht[img]tp://nhatnam.com/images/nghiemtan14d.gif[/img]
Các tư thế kể trên, có thể chọn lấy một tư thế để tập, không cần thay phiên tập các tư thế đó.
Trong luyện công, vì sao phải để hai bàn tay giao nhau ? Đó là vì người có điện sinh vật, từ sinh vật, trường sinh vật. Cơ thể vật chất của con người cũng như một nam châm có cực nam, cực bắc. Có người coi tay trái, tay phải là hai cực đó, cũng có người coi đầu và chân là cực nam, cực bắc của cơ thể. Nếu đặt hai bàn tay ở vị trí gần hoặc dựa vào nhau, chúng sẽ hấp dẫn lẫn nhau và có thể sản sinh ra hiệu ứng từ trường rõ rệt, làm tăng thêm từ trường của bản thân. Đứng trên góc độ khí công mà nói, điều đó có lợi cho việc bảo vệ chân khí vận hành trong cơ thể, làm khí không bị bớt hoặc hao tán.
2. Điều chỉnh vị trí của lưỡi và yếu lĩnh
a. Thông thường, lúc luyện công, lưỡi hơi cong lên, đầu lưỡi cham vào vòm hàm trên. Giới khí công gọi là “Đáp cầu kiều “ ( H.14 )
b. Với người mắc bệnh tim, lưỡi hơi thẳng , không cong lên , đầu lưỡi chạm chân răng hàm dưới ( H.15 )
c. Người béo, muốn giảm trọng lượng cơ thể mà không bị hạ huyết áp, xin hãy để lưỡi ở giữa miệng, mặt lưỡi và đáy lưỡi không tỳ vào khoang miệng và hàm dưới ( H.16 ).
d. Đối với người có bệnh tâm thần phân liệt, có bệnh về thần kinh chức năng hoặc vướng mắc nặng về tư tưởng, hay cáu , tính tình nóng nảy ( lưu ý trong quá trình luyện công không được nóng nảy ), thì nên đưa lưỡi cuộn xuống dưới, cuộn về đằng sau. Đầu lưỡi đặt vào dây chằng lưỡi, không được chạm vào khoang miệng ( H.17 ).
http://nhatnam.com/images/nghiemtan13a.gif
Có thể căn cứ vào tình hình cụ thể của bản thân mà chọn lấy một trong 4 yếu lĩnh điều chỉnh đó.
Trong quá trình luyện công, nếu thấy miệng tiết một chút nước bọt, thì khí công gọi là “ Kim tân ngọc dịch “ . Đừng nhổ nước bọt đi, chờ đến khi nước bọt nhiều thì dùng ngay nước bọt đó xúc miệng, sau đó, từ từ nuốt hết số nước bọt đó.
Lúc luyện công, vị trí lưỡi phải điều chỉnh cho ổn thoả, vì lưỡi có quan hệ mật thiết với tim, lưỡi là mầm của tim. Đối với một số bệnh biến của tim, có thể dùng cách điều chỉnh vị trí của lưỡi để giải quyết. Dùng cách rèn luyện lưỡi để điều chỉnh, sau đó điều chỉnh vị trí của lưỡi, có lợi cho việc điều chỉnh sự chú ý, giúp người luyện công nhập tĩnh tốt hơn, đông thời cũng có lợi cho việc tiết nước bọt. Nước bọt tiết ra khi luyện công có các vị khác nhau, và rất nhiều vật chất dinh dưỡng, phải nuốt dần xuống, không được nhỏ đi.
3. Điều chỉnh mắt nhìn và yếu lĩnh
Mắt lim dim, nhìn xuống chóp mũi, chỉ để lọt một chút ánh sáng vào mắt. Đối với người trẻ khoẻ có thể nhắm mắt, nhìn xuống chóp mũi bằng ý niệm. Nhắm mắt làm xuất hiện hiệu ứng trạng thái khí công lớn hơn.
Tại sao phải điều chỉnh cả mắt ? Vì mắt là khí quan dễ quan sát những biến hoá của sự vật bên ngoài, đặc biệt là những kích thích của ánh sáng, nên trạng thái cảu mắt có ảnh hưởng đến việc nhập tĩnh. Khi chỉ để một chút ánh sáng lọt vào mắt sẽ dễ dàng nhập tĩnh hơn.
Vì sao phải nhìn vào chóp mũi ? Khí công rất chú ý đến thao tác “đáp tước kiều “ (đầu lưỡi đặt lên chỗ hõm vào hàm trên ), vì khi đến vị trí giữa khoang mũi và khoang miệng, khí gặp phải một trở ngại là khoảng trống không khí. Để vượt qua chướng ngại này phải bắc cầu bằng lưỡi nên khí công gọi là “Đáp tước kiều “. Khi nhìn vào chóp mũi, sẽ tập chung được sự chú ý vào xung quanh “ tước kiều “ ( cầu chim sẻ ) tạo điều kiện thuận lợi cho khí thông qua sống mũi, khoang miệng và họng xuống Đan điền, đến Hội âm. Như vậy khí sẽ thông qua Nhâm mạch một cách dễ dàng, có lợi cho việc đả thông tiểu chu thiên.
-
CÔNG PHÁP CỬU BỘ NỘI CÔNG
1/ TƯ THẾ
Tư thế cơ bản của “ Cửu bộ nội công “ giống công pháp nhập môn Tĩnh toạ. Toàn thân thả lỏng, eo thẳng, xương sống cổ phải thẳng. Hai bàn tay đặt chồng lên nhau, lòng bàn tay ngửa lên , để ở trước bụng.
2/ Ý NIỆM
Ý niệm đặt ở bụng dưới. Nghĩ ở bụng dưới của mình có một bông sen đang nở. Hoa sen là biểu trưng cho sự thuần khiết, tốt đẹp, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Yêu cầu người tập nghĩ về hoa sen, để giúp người luyện công không bị ngoại cảnh quấy nhiễu, khiến họ rơi vào trạng thái tâm hồn đẹp như hoa sen . Vì vậy mà Hải Đăng pháp sư thường nói: “ Phẩm chất thanh liêm tâm như ngọc “ . Hãy dồn hết tâm tưởng vào hình ảnh bông sen ngẫm nghĩ dần dần, khiến tâm linh của bản thân sẽ phát triển theo hướng tốt lành. Toàn bộ hình ảnh đó là một ý niệm , người luyện công dùng một ý niệm này thay thế cho muôn vàn ý niệm khác. Có thể nghĩ về bông sen có cánh đang nở, hoặc cánh đang khép.
Bước một.
Khi thở ra nghĩ bông sen đang nở. Khi hít vào nghĩ bông sen đang khép lại. Đếm số lần hô hấp của bản thân, thở hít vào gọi là hai lần thở, đếm đủ số lần thở bằng số tuổi của mình. Luyện cho đến khi có phản ứng thì chuyển sang luyện bước thứ hai.
Bước hai
Nghĩ ánh sáng phát từ bông hoa sen chiếu vào lục phủ ngũ tạng, quan sát nội tạng, đặc biệt là ánh sáng chiếu vào phủ tạng rõ mồn một, có nhiều mầu sắc chiếu vào tim, nghĩ tim đang co bóp. Cần phải quan sát trái tim bằng ý niệm. Tiếp đó hô hấp khí, lúc thở ra nghĩ hoa sen đang nở, tim đang co lại. Khi hít vào nghĩ hoa sen đang kép cánh, tim đang nở ra, cứ quan sat bằng ý niệm như vậy, đếm số lần hô hấp bằng với số tuổi của bản thân. Cũng luyện cho đến khi có phản ứng mới chuyển sang luyện bước thứ ba.
Bước ba
Tiếp đó nghĩ về bố hoặc mẹ của mình, nam giới nghĩ về hình ảnh người mẹ, nữ giới nghĩ về hình ảnh người cha. Hiếu thảo với cha mẹ thì tín hiệu di truyền tiếp nối thông suốt sẽ có lợi cho việc khai phát trí tuệ. Nam giới nghĩ về hình ảnh người mẹ lúc khoẻ, nữ giới nghĩ về người cha lúc khoẻ ; nghĩ cha mẹ đang ngồi trước mặt, cách bản thân 7 bước, đang ngồi luyện công đúng như tư thế của bản thân đang luyện công. Tư thế của bản thân ra sao thì tư thế của cha mẹ đúng như vậy. Sau đó lặp lại quá trình như đã mô tả ở trên một lần nữa, đếm số lần hô hấp bằng số tuổi của cha mẹ , nếu cha mẹ không còn nữa thì đếm số tuổi của cha mẹ đến hôm nay, hoặc đếm số lần hô hấp bằng số tuổi của mình. Đây là bước luyện tập thứ ba
-
CÔNG PHÁP “ CỬU THỦ CÔNG “
“ Cửu thủ công “ là một trong những công pháp truyền thống của Trung quốc. Dưới đây xin giới thiệu công pháp cơ bản của “ Cửu thủ công “.
I / CHUẨN BỊ LUYỆN CÔNG
Thả lỏng toàn thân, giữ nguyên tư thế tĩnh toạ công. Trước tiên hãy nghĩ về hình ảnh cha mẹ, sau đó nghĩ về bản thân lúc còn nhỏ. Nam giới tưởng tượng lúc mình bảy tuổi, nữ giới tưởng tượng lúc mình 6 tuổi. Khi luyện công nghĩ về hình ảnh bản thân lúc nhỏ sẽ dễ dàng khơi dậy những tín hiệu và trạng thái tâ lý tốt đẹp lúc còn thơ ấu.
II / CÔNG PHÁP “ CỬU THỦ CÔNG "
Thứ nhất: Thủ hoà
1. Ý thủ Hạ Đan điền, nghĩ bụng dưới có một ngọn lửa toả sáng, chiếu vào lục phủ ngũ tạng.
2. Ý niệm rằng bên ngoài có gió đang thổi vào mình, gió như từ khắp toàn thân thổi vào bụng dưới, để phong hoả giúp nhau.
3. Thở ra 15 lần, ý niệm rằng làn da khắp cơ thể đang thở ra, không cần chú ý đến lúc hít vào.
4. Hít vào 28 lần, tưởng tượng khí như sương mù, như sáng sớm đang đứng ở nơi sương mù dày đặc, sương mù thông qua da lông của bản thân đi vào trong cơ thể. Tưởng tượng như có lửa đang đốt dưới nước, ý niệm rằng lửa trong nước đang cháy
5. Gõ răng, nâng hậu môn 49 lần.
Cái lí của con số 49 là phụ nữ bước vào tuổi 49 là tuổi biến đổi. Nam giới cũng có tuổi biến đổi, chỉ khác về số tuổi mà thôi. Ở trên bước thứ 3 có yêu cầu thở ra 15 lần, vì mặt trăng đến ngày 15 là thay đổi theo âm lịch cứ 15 ngày là một tiết, nên làm như vậy là có lý. Hít vào 28 lần cũng có lý của nó, phụ nữ khoảng 28 ngày là 1 chu kỳ kinh nguyệt, có quan hệ với chu kỳ mặt trăng.
Khí công rất chú trọng các mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, nên mới có các quy tắc ở khâu thứ ba khi thở ra 15 lần, phải ngĩ khí bệnh tật từ khắp mọi nơi trong cơ thể đầu thải ra ngoài ; khâu thứ tư hít “ sương mù “ 28 lần để bổ khí ; khâu thứ năm gõ răng, nâng hậu môn 49 lần điều tiết để ứng với thời kỳ biến đổi của con người.
6. Xúc miệng cho ra nước bọt và nuốt nước bọt 64 lần. Khi nuốt nước bọt phải có ý làm động tác nuốt dần nước bọt, nuốt làm 64 lần. Các công trình nghiên cứu về cơ thể con người đã phát hiện phân tử DNA có 64 vật chất thông tin di chuyền . Trong lý luận khí công cũng dùng 64 quẻ để nghiên cứu. Cho nên, côn số 64 có lý của nó !
7. Hô hấp sâu. Nghĩ khí quán thông trong ngoài, chú ý số lần hô háp của bản thân, đếm đủ số lần hô hấp bằng với số tuổi của mình, cứ thở ra hít vào tính một lần. Nghĩ khí thông qua toàn thân đi vào nội tạng, lại thông qua da toàn thân thải ra ngoài.
8. Nghĩ về sự thay đổi ở trên thân thể và ở dưới thân thể. Nghĩ rằng trên đầu là trời, dưới chân là đất không ngừng đổi thay. Phối hợp với hô hấp, khi hít vào, trời ở trên, đất ở dưới hình như đang dần dần xích lại gần nhau, thấy bản thân như đang đội trời đạp đất. Khi thở ra, trời cao lên, đất lùi xuống dưới, trời mỗi lúc một cao lên, đất mỗi lúc một thấp xuống, thấy bản thân như treo ở giữa không trung. Đây là phương pháp thái khí ( lấy khí ) của trời đất.
9. Nghĩ về thế hệ trước và thế hệ sau của mình để lấy khí tiên thiên và lấy khí hậu thiên. Khi nghĩ về thế hệ trước, chỉ nghĩ một chút rồi thôi không nghĩ nữa. Khi nghĩ về thế hệ sau, là nghĩ đến con cái của mình, nếu không có con cái thì nghĩ về con cái của anh, chị, em . Nếu anh chị em cũng không con cái thì nghĩ về con cái của anh chị em họ ; nếu không nữa thì nghĩ về con của một người quen nào đó cũng được. Nghĩ rằng họ đang ở cách ta 7 bước, đang cùng ta luyện công. Ở trên là toàn bộ bước một phương pháp luyện công Thủ hoà.
Thứ hai: Thủ nguyên ( còn gọi là thủ thần )
Thủ nguyên tức là thủ nguyên khí, thủ tinh thần. Sau khi luyện công pháp thủ hoà, luyện đến khi phản ứng rõ rệt thì luyện tiếp công thủ nguyên: Tốt nhất là luyện công thủ hoà từ 1 đến 7 tuần hoặc lâu hơn nữa rồi mới luyện công bước hai. Khi luyện công thủ nguyên, ý thủ ở thượng Đan điền và trên trán, nghĩ về điểm giữa hai lông mày, nghĩ Thượng Đan điền đang phát quang đồng thời phối hợp với hô hấp sâu. Luyện được đủ thời gian thì chuyển sang luyện bước ba: Thủ khí.
Thứ ba: Thủ khí
Ý thủ ở Trung Đan điền, ý niệm đặt ở chính giữa ngực, tại huyệt Đản trung giữa hai đầu vú. Nghĩ giữa ngực đang phát quang, có ánh lửa đang nhấp nháy, làm như vậy là thủ khí. Luyện một thời gian (“ một thời gian sau “) trong luyện công nghĩa là luyện đến khi có khí cảm rõ rệt ) lại luyện tiếp bước sau.
Thứ tư: Thủ nhân
Trong Thủ nhân đặt ý niệm ở huyệt Lao cung ( H.34 ), nghĩ hai lòng bàn tay như có hai ngọn lửa rực cháy. Nghĩ một lúc rồi kết hợp với hô hấp sâu, luyện từ 1 đến 7 lần, khi có khí cảm rõ ràng thì luyện tiếp bước sau.
http://nhatnam.com/images/nghiemtan7a.gif