-
Trại giam du ký
Trại giam du ký
KTNT - Ở nơi đó, mỗi mảnh đời là một câu chuyện ly kỳ, nhưng tựu chung chỉ có nỗi buồn và những day dứt, dằn vặt vì họ đã đánh mất phần đời tươi đẹp. Hình ảnh hai bàn tay nhỏ bé ôm chấn song cố hướng cái nhìn vươn theo khi có người lạ ghé thăm, và trong những lúc tâm tình thổ lộ, họ ước thời gian quay trở lại để sửa chữa lỗi lầm ngay từ chính vũng bùn tội lỗi...
Kỳ I: Nhập trại
Trại giam Thanh Lâm (thuộc Cục V26, Bộ Công an; đứng chân tại huyện Như Xuân -Thanh Hóa) cách Hà Nội 215km. Từ Thanh Lâm, ngược lên phía Tây 70km sẽ tới thị trấn Nông trường Thống Nhất (Cẩm Thuỷ -Thanh Hoá), thủ phủ của Trại 05 (cũng thuộc Cục V26) với ba bề bốn bên chỉ có núi với rừng, quang cảnh thâm u, vắng lặng. Ngay cả các tay hảo hán, anh chị ở Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh miền Bắc từng “tam phen tứ bận” nhập trại, cứ nghe đến Thanh Lâm hay Trại 05 là mặt đã đổ chàm.
Trong nhà giam
Xe qua cổng, ai đó nói đùa: “Có phạm nhân mới nhập trại”. Quả đúng là nhập trại thật vì chúng tôi đang đứng giữa thế giới của hàng ngàn phạm nhân với đủ loại tội danh khác nhau. Đây là thế giới thu nhỏ với quan hệ trên dưới, cách thức tổ chức lao động sản xuất, sinh hoạt của tập thể và cá nhân đều theo một quy chế nhất quán, nhằm đảm bảo cho phạm nhân có môi trường lao động, sinh hoạt và cải tạo nghiêm khắc...
Sau cái bắt tay thật chặt của Ban Giám thị trại giam và cán bộ quản giáo, chúng tôi được đưa vào khu vực phòng giam phạm nhân. ở cả hai trại giam Thanh Lâm và 05, nét tương đồng dễ nhận thấy là những dãy nhà giam dài có thể chứa 80 - 100 phạm nhân. Nhà cao khoảng 4m, mái lợp phiprôximăng, ở giữa là lối đi, hai bên xây thành hai dãy giường ngủ láng xi măng cao 40cm, phía trên là 2 dãy gác lửng đóng lan can cũng dùng để ngủ, có cầu thang gỗ, hai bên tường trổ nhiều cửa sổ nhỏ, cuối phòng là nhà vệ sinh… Riêng Trại 05 có thêm vài dãy nhà 2 tầng. Tới đây, các trại giam này sẽ tiếp tục được đầu tư để xây dựng những phòng giam liên hợp 3 tầng để tiết kiệm đất. Mỗi phạm nhân được sở hữu một bộ gồm chăn, màn, chiếu, gối, đệm bông trên “ lãnh thổ” 1,2m2. Tư trang được cất trong các thùng tôn, thùng gỗ hoặc vali cũ.
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...gay%2025/9.jpg
Phân xưởng cắt, in và khâu bóng tại phân trại Hàm Rồng,
Trại giam Thanh Lâm.
Cổ nhân bảoC: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Thế nhưng, khi đứng trước cánh đồng bạt ngàn màu xanh của cây cối, chứng kiến hàng trăm phạm nhân đang làm việc hăng say, chúng tôi thấy họ chẳng khác gì người dân địa phương. Cũng gương mặt mướt mồ hôi, đôi tay cháy nắng, chân ngập trong bùn, tóc trắng bụi trên công trường khai thác đá, những mũi thêu thoăn thoắt trên từng khuôn vải… Có khác chăng chỉ là họ đang mặc những bộ quần áo sọc đen trắng. Lúc nghỉ tay, vài người chụm lại chiêu ấm nước chè, rít mồi thuốc lào... Vẻ thanh thản ẩn hiện trên những gương mặt gân guốc...
Trăm nẻo đường tù
Hiện, tại hai trại giam “có tiếng” của miền Bắc đang giam giữ, cải tạo gần 8.000 phạm nhân, trong đó có 1.000 phạm nhân nữ và 1.000 phạm nhân thụ án tù chung thân. Trong số đó, đa phần là tù hình sự với các loại tội danh như: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buôn bán ma túy, giết người, buôn bán phụ nữ, buôn tiền giả, hiếp dâm, cố ý gây thương tích... Phạm nhân thụ án tại Trại Thanh Lâm xét về tổng thể có mức án thấp hơn Trại 05. Tại đây, số phạm nhân là người dân tộc phạm các tội như buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ, hiếp dâm chiếm tỷ lệ khá lớn. Chúng tôi còn được gặp những nhân vật “đình đám” như Lã Thị Kim Oanh, người đẹp xứ Mường Lê Thị Hoa...
Nhiều câu chuyện, cảnh đời trớ trêu khiến chúng tôi không khỏi ám ảnh như trường hợp phạm nhân Hà Thị Ngọc, dân tộc Thái, thụ án 18 năm tại phân trại 4 (dành riêng cho phạm nhân nữ), Trại 05. Do kém hiểu biết, lại day dứt vì không còn trinh trước khi lấy chồng, Ngọc đã đồng lõa cùng chồng là Nguyễn Văn Trường tổ chức hãm hiếp em Thanh, 14 tuổi với mục đích “trả” trinh cho chồng. Khi tên Trường giết em Thanh, Ngọc vẫn giữ thái độ bình thản như vừa trút được gánh nợ của mình sang vai kẻ khác. Trong trại giam, Ngọc tỏ ra khá hiểu biết, suy nghĩ sâu sắc đến mức chúng tôi cảm thấy ngỡ ngàng tự hỏi cơn cớ gì khiến thị có hành động vô luân và phi nhân tính đến vậy.
Một trường hợp khác tại trại giam Thanh Lâm khiến chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa nuối tiếc là phạm nhân Nguyễn Văn Tuân, từng tốt nghiệp Đại học Luật loại giỏi, có chứng chỉ hành nghề luật sư lại dính vào ma túy và cờ bạc. Chính sự ngông cuồng, ham chơi của tuổi trẻ đã đưa y trượt dốc không phanh và chân dốc là bản án 16 năm tù. Cải tạo tại Trại giam Thanh Lâm, vị “cựu luật sư” này viết truyện, làm thơ, thậm chí có cả thơ tặng thiếu tướng - nhà văn Hữu Ước. Hiện y đang cố gắng cải tạo tốt để có thể được giảm án, ra tù làm lại từ đầu.
Trại giam Thanh Lâm có một phòng tù đặc biệt, giam giữ 87 tù nhân phạm tội khi ở tuổi vị thành niên (20 người trong số đó đã thành niên trong trại và tiếp tục thi hành án tại đây). Những cậu bé chưa đầy 16 tuổi nhưng ma mãnh và máu lạnh có thừa với các loại tội danh “tanh” chả kém gì người lớn. 14 tuổi, do cần tiền đi chơi, Hoàng Việt Thành (trú tại xã Hà Đông, Hà Trung, Thanh Hóa) đã dùng xiển (một công cụ làm nông của người miền núi) đâm liên tục 14 nhát vào một cụ ông 80 tuổi để cướp 1 đồng hồ trị giá… 25.000 đồng. Thành thuật lại từng chi tiết tội ác của mình mà không mảy may xúc động. Cùng phòng giam với Thành là Lò Văn Tùng, người Thái. 13 tuổi, Tùng được anh trai rủ đi để “biết mùi đời”. Quen mui, từ đó y đội than, đội đá thuê để có tiền “chứng minh bản lĩnh đàn ông” với các đàn chị hơn mình cả chục tuổi. Một hôm hứng tình, trong túi không còn một xu, Tùng đã đè cô bé hàng xóm mới 6 tuổi ra định thực hiện hành vi đồi bại. Người lớn kịp phát hiện, tên yêu râu xanh phải vào trại giam.
Kỳ II: Muôn nẻo “hội ngộ"
Phạm Vân Anh
-
Trại giam du ký (Kỳ II): Muôn nẻo "hội ngộ"
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...ai%20giam1.jpg
Cán bộ trại giam chuẩn bị cho phạm nhân xuất trại đi làm.
KTNT - Câu nói cửa miệng: “Kẻ tù, người tội” đã trở thành thuật ngữ vui của những cán bộ công an ở bất cứ trại giam nào. Có nằm 2 đêm với 2 cán bộ nữ của Trại 05, tôi mới biết những cán bộ quản giáo trong các trại giam đã sống, công tác trong một môi trường chẳng dễ dàng gì.
Vào trại nhận đồng hương
Cả đoàn đi gần 20 người, chia nhau vào các phòng giam và tổ đội sản xuất để hỏi chuyện. Tù nhân tại Trại giam Thanh Lâm phần lớn là người Hà Nội và Thanh Hóa. Tù nhân tại Trại 05 có vẻ như đa dạng hơn vì số lượng phạm nhân bị giam giữ ở đây lên đến 10.000 người. Theo quy định của trại giam, các phạm nhân chào chúng tôi là “quý khách”, khi trò chuyện thì gọi là “cán bộ” và xưng “tôi” rất đúng mực. Có vẻ như vào trong này, tất tật đều có chút máu văn sĩ, tô vẽ cho mình và tội trạng của mình vẻ đáng thương, đổ tất cả cho hoàn cảnh và sự lỡ dại, kiểu như “xách hộ” 8 bánh herôin giấu trong làn hoa quả mà vẫn bảo bị oan.
Trong không khí giữa những “cánh chim tự do” với “chim sau song sắt”, nhà văn Phạm Thanh Khương, Võ Bá Cường nhận đồng hương Thái Bình; nhà văn Nguyễn Nhuận Hồng Phương tìm đồng hương Vĩnh Phúc; nhà văn Trần Chiểu hỏi người quê Quảng Ninh; nhà văn Nguyễn Đình Tú và tôi, dĩ nhiên nhận những ai là người Hải Phòng. Phạm nhân gặp đồng hương chả mấy mặn mà, phần nhiều là kêu oan và nhờ nhắn người nhà vào tiếp tế…
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...ai%20giam2.jpg
Phạm nhân Lã Thị Kim Oanh với trang giấy lưu chữ ký
của các nhà văn.
Đình đám nhất trong nhóm đồng hương Hà Nội có lẽ là phạm nhân Lã Thị Kim Oanh. Báo giới đã tốn không ít giấy mực viết về nhân vật này khi bà ta còn ở ngoài đời cũng như lúc “hạ cánh” xuống “đường băng tù tội”. Bị kết án tử hình rồi được Chủ tịch nước ký lệnh tha chết, bà ta được đưa về tập trung cải tạo tại Trại 05. “Bầu trời” của Lã Thị Kim Oanh bây giờ là 2m2 chỗ nằm trong phòng giam và một chòi lá tự tay cất lấy làm nơi nghỉ trưa. Toàn bộ tài sản bị tịch thu, những đứa con lâu lâu lại tới tiếp tế cho mẹ bằng đồng tiền kiếm được từ sức lao động của chính mình. Gặp các nhà văn, như được trút nỗi niềm, Lã Thị Kim Oanh ngân ngấn nước mắt. Bà ta xin chữ ký của các nhà văn làm kỉ niệm. Cầm tờ giấy có chữ ký, hướng về phía cán bộ quản giáo, bà ta lễ phép: “Thưa ban, đây là chữ ký của các nhà văn, xin phép ban được mang vào phòng giam”.
“Kẻ tù, người tội”
Câu nói cửa miệng: “Kẻ tù, người tội” đã trở thành thuật ngữ vui của những cán bộ công an ở bất cứ trại giam nào. Có nằm 2 đêm với 2 cán bộ nữ của Trại 05, tôi mới biết những cán bộ quản giáo trong các trại giam đã sống, công tác trong một môi trường chẳng dễ dàng gì. Họ cho tôi thấy chân dung những người làm nghề quản giáo thật nhân hậu, biết dùng nhu thắng cương, biết đồng cam cộng khổ với phạm nhân để cải tạo những con người hung hãn nhất, ghê gớm nhất bằng tình thương và trách nhiệm.
Cán bộ trại giam thường thực hiện triệt để “3 cùng” với phạm nhân, ấy là cùng ăn, cùng ở, cùng làm. Đọc đến đây, chắc hẳn sẽ có người phản đối nhà báo nói quá, chứ mấy ông công an đời nào chịu “3 cùng” với tù vì khốn cùng nhất, ở dưới đáy xã hội là thằng tù chứ còn ai vào đây nữa. Khi chưa vào đây, tôi cũng từng nghĩ như vậy. Chỉ khi chính mắt nhìn thấy hai đồng chí công an Trại 05 lội ruộng hướng dẫn phạm nhân cách cày ải, cấy lúa; rồi đến 1 nữ quản giáo mới ngoài 20 tuổi ngồi giữa hàng trăm tù nhân nữ cùng thêu, sửa hàng thêu và những “ lô” phên tre, lợp lá nằm chênh vênh sát khu công trường khai thác đá dành cho quản giáo trực và bảo vệ cả ngày cùng rất nhiều cảnh tượng khác khiến chúng tôi không khỏi bật cười: “Quả đúng là kẻ tù, người tội”. Cán bộ quản giáo đội nào thì đương nhiên phải biết nghề của đội ấy để có kinh nghiệm kiểm tra sản phẩm trước khi giao cho bộ phận khác hoặc hướng dẫn phạm nhân mới nhập đội.
Do đặc thù của công việc là trực tiếp theo sát phạm nhân khi đi lao động cũng như tại phòng giam nên ngoài cảnh phục được cấp phát thường kỳ, cán bộ, chiến sỹ làm việc tại trại giam còn được cấp thêm mũ cối và dép quai hậu để có thể lội ruộng, leo núi và che nắng khi hướng dẫn phạm nhân tại hiện trường lao động. Những chiếc mũ cối chỉ chịu được mấy trận mưa xối xả là hỏng, lớp giấy nện phía trong ngấm nước nhũn nhượt, dép lội ruộng, dầm nước có dán bằng keo đặc dụng cũng chỉ vài tháng là bật tung. Theo lời đại úy Mai Trọng Tuế, phụ trách thống kê, kế hoạch của phân trại 3, tai nạn nghề nghiệp rất dễ xảy ra với anh em quản giáo vì mỗi ngày có 2 lần cho tù xuất trại đi làm và 2 lần nhập trại. Mỗi lần như vậy đều phải khám tù để tránh hiện tượng tù nhân mang giấu những vật cấm vào trại. Tỷ lệ tù nhân mắc bệnh lao rất cao, số tù nhân có HIV cũng không nhỏ trong khi các cán bộ thực hiện việc khám bằng tay trần trong vòng chưa đầy 15 phút mỗi đội. Nhiều trường hợp phạm nhân giấu kim, dao lam, dùi trong người khiến cán bộ quản giáo bị thương, phải làm xét nghiệm HIV. Tỷ lệ cán bộ quản giáo lây bệnh lao và các bệnh da liễu từ phạm nhân cũng không phải ít.
Đối mặt với vô vàn phức tạp và áp lực công việc như vậy nhưng đối với các quản giáo thì những điều đó không làm họ nản lòng và buồn chán bằng việc phạm nhân chống phá, không chịu cải tạo. Răn đe có, khuyên bảo, dỗ dành có nhưng sểnh ra một cái là phạm nhân đã manh động, hung hãn và cuồng nộ hơn bao giờ hết. Đơn cử như tháng 6/2003, do xích mích cá nhân, phạm nhân Trần Trung Dũng (thi hành án 16 năm vì tội buôn bán ma túy tại phân trại số 3t) đã dùng bơm tiêm rút 3cc máu có HIV của mình để đâm 2 mũi vào bắp tay phạm nhân Khuê. Lúc bị đâm, phạm nhân Khuê sợ tiếp tục bị trả thù nên không khai báo. Khi cán bộ phát hiện vào kiểm tra, Dũng chống trả quyết liệt, tay cầm sẵn bơm tiêm đầy máu và yêu cầu được chiếu cố xử lý. Lúc ấy, thượng tá Lê Văn Sáu, Phó giám thị phụ trách phân trại số 3 còn là Đội trưởng đội trinh sát đã tiếp cận nhằm vô hiệu hóa tay cầm bơm tiêm của Dũng. Dũng tiếp tục chạy vào buồng giam, lấy can dầu ăn đổ vào người rồi châm lửa đốt. Dầu không cháy, Dũng chạy như điên dại qua các phòng giam, toàn thân trơn trượt dầu nên không phạm nhân và cán bộ nào túm được. Sau cùng, anh Sáu ngầm ra hiệu cho hai phạm nhân khác lấy tro bếp đổ lên đầu, Dũng bị tro bếp dính vào mắt và bị đưa vào phòng kỷ luật. Hắn bị khởi tố và nhận thêm án tù 9 tháng vì tội cố ý lây truyền HIV cho người khác. Sau khi xử 1 tháng, Dũng chết.
Kỳ III: Những người gieo dó tìm trầm
Phạm Vân Anh
-
Trại giam du ký kỳ III: Những người “gieo dó tìm trầm”
Đại tá Nguyễn Xuân Phòng, giám thị Trại giam Thanh Lâm (Như Xuân - Thanh Hoá) có một suy nghĩ rất biện chứng: Do đói khổ quá mà sinh ra việc tù nhân trốn trại, o ép lẫn nhau. Cũng vì đói khổ mà có quản giáo sách nhiễu, ăn chặn của tù nhân. Nhưng đó chỉ là số nhỏ, bởi ở cái nơi heo hút này, hằng ngày vẫn có những con người lăn lộn, vất vả cùng tù nhân để mang lại màu xanh cho đất và cũng để những kẻ một thời lầm lỗi nhận ra rằng: Chỉ bằng sức lao động chân chính, cuộc sống mới thực sự có ý nghĩa.
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...ay%209/022.jpg
Cải tạo bằng lao động – giáo dục
Con đường trở thành giám thị Trại giam Thanh Lâm của đại tá Nguyễn Xuân Phòng là câu chuyện dài cả đời người. Một cuộc đời gắn với hàng ngàn tù nhân trong suốt hơn 30 năm công tác, với những hoạch định “dời non lấp bể” xây dựng phân trại mới, đưa phạm nhân đi khai phá vùng đồi hoang núi trọc, tự tạo cho mình miếng ăn ngon, nơi cải tạo dễ chịu và thấm thía sự vất vả cũng như thành quả của lao động. Vùng đất khô cằn, hoang hóa tới mức, ngay dân địa phương cũng phải bó tay, đã được tập thể cán bộ, chiến sỹ và phạm nhân Trại giam Thanh Lâm làm sống dậy thành đồi vải, chè xanh ngút mắt. Nếu không dám đối mặt với thử thách, không xuất phát từ lòng yêu lao động, muốn biến trại giam thành nông, công trường yên bình, quyết tâm cải tạo phạm nhân bằng lao động – giáo dục chứ không phải bằng đòn roi thì hơn ai hết, những cán bộ quản giáo phải là người lăn xả vào công việc, thậm chí phải gác lại cả việc gia đình, riêng tư để “3 cùng” với phạm nhân trong lao động, sản xuất.
Đời sống tù nhân được nâng lên, số vụ vi phạm kỷ luật trại giam, trốn trại vì thế cũng giảm hẳn. Đứng chân trên địa bàn huyện Như Xuân, các phân trại của đại tá Phòng dần trở thành đơn vị thí điểm trong công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây làm theo. Cả đời ông gắn với trại giam, chẳng mấy khi có mặt ở nhà. Mọi chuyện lớn nhỏ trong gia đình, một tay vợ ông, bác sỹ Hiền lo liệu. Ông vẫn nói với phạm nhân: “Ngoài xã hội, các anh tự cho mình sinh ra không phải để lao động, chỉ suy mưu tính kế cướp tài sản được gây dựng bằng mồ hôi nước mắt của người khác. Chỉ khi tự mình lao động, khó nhọc làm ra của cải vật chất, may chăng các anh mới vỡ ra được”.
Đêm đầu tiên ở Thanh Lâm, chúng tôi ngồi trò chuyện trong khuôn viên của trại, giữa sự thâm u của núi rừng và tiếng côn trùng khua rả rích như xiết từng vòng âm thanh vào bóng tối. Chao ôi là buồn. Thế mới thấm cái khổ vô hình của người làm nghề quản giáo. Mấy năm gần đây, trại mới có điện, trước thì cứ khi gà lên chuồng là côn trùng kêu não ruột, muỗi rừng cứ nhè mặt, mũi, tay của cán bộ quản giáo trực đêm mà đốt. Lúc ấy, phạm nhân đã ngủ say trong phòng giam, có màn chống muỗi, có chăn ấm; trên chốt gác, cán bộ trực ban dầm mình trong giá lạnh, mặt tấy sưng vì muỗi độc, phải căng mắt nhìn xuyên đêm tối...
Mạch chuyện đang hăng, chợt ông Phòng hỏi: “Các cậu có biết con người ta sợ gì nhất không?”. Rồi ông tự trả lời: “Sự cô đơn đấy. Nhiều phạm nhân vào đây không sợ đòn, không sợ đói khổ, chỉ sợ cô đơn. Điều quan trọng là phải biết chia sẻ sự cô đơn ấy để có thể cảm hóa họ”. Nghe điều này, tôi bất chợt liên tưởng đến hơn 2.000 cây dó bầu 10 năm tuổi đang chuẩn bị cấy trầm do chính các phạm nhân trồng và chăm sóc. Rừng dó này tới đây sẽ cho thu nhiều tỷ đồng. Số tiền đó sẽ dùng để xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất của trại, nâng cao khẩu phần ăn cho phạm nhân…
Những “bông hồng thép”
Với hơn 1.000 tù nhân nữ, phân trại 4, Trại 05 Thanh Hóa cần một lượng không nhỏ nữ cán bộ quản giáo trực tiếp tham gia quản lý và cải tạo phạm nhân. Trừ “nữ tướng” Nguyễn Thị Can, người đã có mặt tại trại từ cuối những năm 1990, hiện là Phó giám thị phụ trách phân trại 4, các nữ quản giáo khác còn khá trẻ. Giữa ngàn tù nhân nữ, họ khá giản dị trong bộ cảnh phục, tóc cặp gọn gàng sau gáy, nói năng nhẹ nhàng, dứt khoát. Chả thế mà nhiều “nữ quái” nức tiếng từng thụ án ở đây như Dung Hà, Ngọc “lé” hay nhóm “tám vía”, những tù nhân tính khí cục cằn như đàn ông, phải nể sợ.
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...ay%209/021.jpg
Những bông hồng thép vẫn tươi vui
dù công việc gặp nhiều gian khó.
Vũ Thị Yên, sinh năm 1979, đã có thâm niên 8 năm công tác ở trại, bảo: “Người ta cứ nói quản giáo đánh tù nhân và ăn chặn của tù, em nghe mà ức chảy nước mắt. Bọn em ở trong này làm ruộng chả thua nông dân. Năm vừa rồi, lũ về, cả trại từ tù nhân đến quản giáo, cảnh sát bảo vệ và cán bộ, nhân viên đều phải lao vào cứu lúa. Ai nấy chân ngập bùn, nước vây ngang lưng cúi xuống mò gặt lúa non. Chị cứ đi đến từng đội lao động sẽ biết. Khi phạm nhân lao động thì cán bộ phải ngồi canh gác, cùng hứng nắng, hít bụi chứ chẳng nhàn nhã gì. Nếu để phạm nhân trốn trại, vi phạm kỉ luật thì cán bộ cũng theo đó mà bị khiển trách hoặc kỉ luật, tùy theo tính chất nghiêm trọng của vụ việc”. Quả thực, mấy ngày ở cùng Yên, tôi tận mắt thấy cô cùng 2 phạm nhân nữ phụ trách bếp ăn của đội 3 đánh vật với những gánh củi to lấp người. Những gánh củi ấy, cô phải cùng những phạm nhân kia đi thu lượm trong rừng về để làm chất đốt. 29 tuổi, cô này vẫn “chưa cùng ai”. Có lúc nghe cô cười: “ế rồi” mà tôi thấy trĩu buồn.
Thiếu úy Trần Thị Hà là thế hệ thứ hai trong một gia đình có truyền thống gắn bó với trại giam này. Bố cô, ông Trần Đức Hiệp đã công tác tại đây 33 năm, chồng cô cũng đang làm quản giáo tại phân trại 1. Hà kể, những ngày đầu nhận công tác, cô hồi hộp vô cùng, khi phải trực đêm đã đành, những ngày không phải trực cũng đúng giờ đấy là choàng tỉnh như một phản xạ. Buổi sáng, quản giáo phải dậy từ 4 giờ 30 phút để đi làm, 5 giờ 30 phút vào phòng giam quản lý phạm nhân tập hợp đội. 6 giờ 30 phút theo phạm nhân đi làm, 10 giờ 30 phút cho phạm nhân về trại, 13 giờ 30 phút tiếp tục xuất trại đi làm buổi chiều, 16 giờ 30 phút đưa phạm nhân về nghỉ, quản lý phạm nhân chia cơm, ăn cơm… 18 giờ chiều mới được nghỉ. Con cái đành nhờ ông bà hoặc hàng xóm trông nom, đến ca trực lại bỏ con ở nhà cả đêm để lên trại.
Mùa gió Lào, nắng như đổ lửa. Vườn vầu mới hôm trước còn xanh tốt, sáng hôm sau đã bạc phếch, chỉ một mồi lửa là cháy bùng dữ dội. Nắng đến nỗi cây tre còn bạc huống chi da thịt con gái. Nữ quản giáo theo phạm nhân ra hiện trường lao động bịt khăn che mặt kín mít. áo cảnh phục ngắn tay dành cho mùa hè được can thêm hai ống tay làm từ ống quần cảnh phục cũ mới đủ dày để tránh nắng. Tôi hỏi trung tá Nguyễn Thị Can: “Công việc khó khăn, nguy hiểm như vậy, các chị có sợ không?”. Câu trả lời rất chắc chắn: “Đã có cả một hành lang pháp lý quanh mình, chỉ cần làm đúng thì không sợ bất cứ thứ gì”.
Phạm Vân Anh
-
Trại giam du ký kỳ IV: “Yêng hùng” sa chốn trần ai
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...y%2015/016.jpg
Một nữ phạm nhân đang làm tóc cho tác giả.
KTNT - Tại hai trại giam Thanh Lâm và 05 (Thanh Hoá) - nơi chúng tôi đến, có cảm giác khung cảnh giống như một công viên với đủ loại hoa, cây cảnh, cây ăn quả được chăm sóc khéo léo bởi bàn tay của những phạm nhân. Sau song sắt, hẳn ít người biết ngoài những dãy nhà giam kiên cố, còn có cả trạm xá, thư viện, nhà trẻ và... nhà dưỡng lão. Nhưng đi tù thì hẳn nhiên chả ai bảo là sướng, nếu sướng thì còn gì gọi là tù nhưng dẫu vậy họ vẫn tìm cho mình một chốn bình yên để cải tạo tốt với hy vọng sớm trở lại với cộng đồng.
Trong buổi gặp với thiếu tướng Phạm Đức Chấn, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam (V26 - Bộ Công an) tại Trại giam Thanh Lâm - nơi ông từng công tác, tôi vỡ ra nhiều điều thú vị về cái gọi là “đời tù” và những nhân vật “yêng hùng”, đình đám, “có sừng có mỏ” ngoài xã hội khi sa chốn trần ai này. Những gì khó hình dung nhất, oái oăm nhất và có cả lãng mạn nhất vẫn đã, đang và sẽ tồn tại ở đây như việc buồn tình thì chăn kiến, muốn uống trà thì đun nước bằng chai lavie hoặc túi bóng, khi đại ca phòng giam hứng tình thì tất có “lái xe” phục vụ đủ “tứ khoái” với nhiều hình thức quái chiêu. Trong chốn lao tù, những con người ấy ngoài việc tuân thủ các quy định của trại giam cũng đã tự tạo cho mình một cuộc sống trong tù khá “hách”...!
Đúng 6 giờ sáng, sân tập trung của phân trại 4 (Trại 05), gần 1.000 tù nhân nữ sẵn sàng xuất trại đi làm. Trời chưa nắng nhưng trên khoảng sân rộng lấp loá trắng do 1.000 chiếc nón lá đủ loại cũ mới. Những nữ tù đang trả án tại đây đa số đều mang án dài từ 5 năm đến chung thân. Tội danh “tanh” chả kém tù nam: Buôn bán ma tuý, mại dâm, cướp giật, ăn cắp, tổ chức hiếp dâm, giết người, bắt cóc, lừa đảo, tham ô... So với các phân trại nam, phân trại nữ tương đối sạch và gọn gàng, có thể do đó là đặc tính của phụ nữ và cũng chính vì lý do này mà số phận những nữ tù ở đây rất éo le. Có trường hợp con bị nghiện, lên cơn vật vã, người mẹ thương con đi mua heroin bị bắt và bị kết án tù; một phụ nữ người dân tộc thiểu số do kém hiểu biết, được thuê xách chiếc làn có chứa bánh “ trắng “ với giá 100.000 đồng; và cả những thanh nữ vốn đã thành đàn bà từ lúc chưa thành niên, quen với lối sống thác loạn đã tiếp tay cho bạn trai hiếp dâm tập thể…
Từng đội xếp hàng dọc đi làm, khuôn mặt tưng bừng son phấn, tóc chải, cuộn điệu đà. Vào giờ nghỉ, nhất loạt những bộ áo tù được cởi ra, thay vào đó là áo hoa, áo đủ màu xanh, đỏ và khuyên tai, đồng hồ, dây chuyền, lắc tay… Nhìn đi nhìn lại chỉ có mấy ông quản giáo thì làm đẹp cho ai ngắm nữa không biết. Nhung “chíp”, cô gái có bộ mặt non bấy nhưng bệch bạc vì “thành tích” tình trường và sử dụng thuốc tránh thai nhiều hơn thuốc cảm, bảo, dù không có người ngắm thì cũng vẫn phải tô vẽ. Phụ nữ là thế, dù chỉ để cái mắt mình nhìn cái mặt mình còn ra hồn người, còn duyên dáng thì cũng coi như tự khơi cho mình niềm vui mà sống hết những tháng ngày dằng dặc trong tù.
Có nhiều điều khó lý giải đối với tâm lý, suy nghĩ và hành vi phạm tội của các nữ tù khiến tôi chợt nghĩ, cần có một công trình nghiên cứu riêng về tâm lý tội phạm là phụ nữ, bởi đối tượng phạm tội này có diễn biến tâm lý hết sức phức tạp và đa tầng. Có điều, khi đã vào đây, họ sống khép kín và lặng lẽ cải tạo cho tốt (tất nhiên không loại trừ một số phần tử “gớm mặt” vẫn ngầm “xưng hùng” giữa đám hồng quần tù tội này). Tôi có hỏi vài người về việc chia phe cánh trong trại, chuyện trốn tù, trừ khử nhau và cả chuyện ân nghĩa nhận kỷ luật thay nhau trong giới tù nữ thì câu trả lời mà tôi nhận được là: “Không!”. Ai nấy đều tự lo thân để mong sớm được giảm án, về với gia đình, con cái nên ngại va chạm, sợ mắc lỗi sẽ bị kỷ luật tăng án hoặc không được hưởng chế độ đặc xá hàng năm. Họ đè nén mọi cảm xúc, cam cảnh chịu đựng để mau hết án.
Một phạm nhân tên Nội, 43 tuổi, cho tôi biết thêm nhiều điều. Chị ta phạm tội buôn bán tiền giả, xuất cảnh trái phép và buôn bán phụ nữ. Cộng cả ba khung hình phạt vừa chẵn 20 năm, ba đứa con gửi lại cho anh chị em nuôi giúp. Chị kể lại quãng thời gian hơn 11 năm thụ án tại đây, nét mặt dửng dưng không cảm xúc. Có đến 80% số phụ nữ khi bước chân vào tù thì cũng đồng nghĩa với việc ký vào đơn ly hôn hoặc bị bỏ rơi không lời từ giã vì hiếm có người chồng nào đủ chung tình chờ đợi vợ mãn hạn tù. Có tình nghĩa thì cũng chỉ thăm nuôi được vài ba năm rồi dần phai nhạt. Có lẽ đó cũng là một trong những lý do mà phân trại tù nữ không có “Nhà hạnh phúc”. Thứ nhất là không để xảy ra tình trạng phạm nhân mang thai khi đang thụ án, thứ hai là cũng chả có mấy ông chồng vào đây để mang “hạnh phúc” cho vợ.
Tôi hỏi: “Các chị có buồn không?”. Gương mặt chị Nội vẫn đanh đả, chỉ đôi mắt là sầm xuống: “ Có buồn chứ, sao lại không hả cán bộ. Mình có phải là sến, táu (loại gỗ đứng đầu bảng về độ cứng và chắc - NV) đâu mà không buồn. Nhiều chị em vì miếng cơm manh áo cho chồng con nên mới ra nông nỗi này. Vào tù, chồng bỏ thẳng cánh thì còn gì đau bằng. Còn anh em ruột thịt thì cũng phải thông cảm cho họ. Mình tù dài ngày, di lý khắp nơi thâm sơn cùng cốc, người thân theo mãi cũng phải mỏi chân, nản lòng chứ. Mình làm thì mình chịu, chỉ mong sớm được ra để về với con”. Lại hỏi: “Biết vậy sao khi ra tù các chị vẫn tái phạm?”, không khí có vẻ như được hâm nóng lại, họ nhìn nhau: “ừ, thế quái nào ấy. Vào trong này thì thấm lắm, hãi ở tù lắm nhưng ra đến ngoài chả hiểu sao lại quên ráo. Thấy có lợi, lại tham, lại lao… rồi lại vào đây. Nhưng lần này thì cạch hẳn cán bộ ạ, già rồi, về bế cháu cho con nó đỡ tủi, chúng nó vì mình mà khổ đủ điều”. Một phạm nữ còn trẻ ngồi gần đó đế vào: “Chị già ơi, sao đã bế cháu được, còn nuột lắm, phải lấy chồng chứ”. “Già rồi, chồng con nỗi gì nữa. Có 60 năm cuộc đời thì ở đây 20 năm có lẻ. Còn sống được mà ra đã thấy an ủi rồi”.
Tôi cũng thầm mong chị sớm có ngày ra để bù đắp cho những đứa con đã 20 năm thiếu vắng tình thương yêu của mẹ.
Phạm Vân Anh
-
Trại giam du ký (Kỳ V): Tình yêu... "muối súp"
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...2023/Tr10t.jpg
Tác giả (trái) và 2 thành viên nhóm "tám vía"
KTNT - Yêu đương trong trại giam đương nhiên là chuyện cấm. Nếu bị phát hiện có quan hệ tình cảm với nhau, trao đổi thư từ hoặc có hành vi quan hệ tình dục trái phép... sẽ bị kỷ luật rất nặng, thậm chí có thể tăng thời gian thụ án nếu việc luyến ái gây hậu quả nghiêm trọng.
Kỳ IV: “Yêng hùng” sa chốn trần ai
Chính vì vậy, đối mặt với sự tò mò của chúng tôi là thái độ lạnh băng và những câu trả lời rất đúng quy định: “Không có chuyện ấy đâu cán bộ ạ”. Chất vấn thêm một lúc thì hé lộ tý chút : “Ôi trời, chắc tại họ thấy chúng em “chơi tình cảm’’ với nhau nên đặt chuyện thế thôi”.
Trại 5 cũng từng có vài mối tình nhưng như tù nhân ở đây nói thì đó là tình yêu... “muối súp”, nghĩa là yêu hết sức thực dụng, không từng được nắm tay, may mắn lắm thì được nhìn nhau từ xa... Trước đây, họ còn viết thư cho nhau, nữ tù thì thêu khăn tặng, nam giới chạm những chiếc vòng, nhẫn bằng sừng để bày tỏ tình cảm. Tín vật tình yêu được đưa qua đưa lại nhờ tù tự giác (tù nhân cải tạo tốt được đi lại, làm việc giữa các đội).
Có đôi, sau khi ra tù thì “đường anh đường ả” phân ly, có đôi “kẻ cắp bà già gặp nhau”, ra tù tiếp tục tái phạm và cũng không loại trừ những người thành vợ chồng, cùng chăm chỉ làm ăn, sinh con đẻ cái. Thế mới biết tình yêu có thể len lỏi vào bất kỳ xó xỉnh nào, miễn là nó khiến người ta có thêm chút hy vọng để sống.
Tại cái thế giới rất nhiều chuyện “ thâm cung bí sử” này, còn tồn tại những mối tình đồng giới. Điều này có thể lý giải là do một số phạm nhân đã có biểu hiện biến đổi giới tính từ trước, số khác thì do tù dài, họ có những khao khát, thèm muốn không thể giải toả nên ngấm ngầm kết đôi, giải toả nhu cầu tâm, sinh lý.
Tại phân trại nữ, có một đội chuyên đảm nhận những việc nặng như xây dựng, đào đất, khuân vác. Nhóm này có 6 người được giám thị gọi là đội “tám vía”. Một người trong số họ vừa bị chuyển đi trại Thanh Phong do vi phạm kỷ luật. Một người vừa hết án. Trò chuyện với bốn người trong nhóm, tôi nhận thấy họ rất mạnh mẽ và gan góc. Không hiểu đó là do sự liều lĩnh bất cần đời của những người vốn không biết sợ ai hay đó là sự gồng lên để cáng đáng gia đình của những người phụ nữ không có một bờ vai đàn ông để nương tựa. Trong phân trại, họ được các chị em gọi bằng “anh”.
Biên chế của đội hiện còn : Vũ Thị Kim Thanh, 53 tuổi, thụ án 8 năm vì buôn bán ma tuý ; Bùi Thị Nội, 43 tuổi, tù 20 năm vì buôn tiền giả, buôn bán phụ nữ và xuất cảnh trái phép ; Vũ Thị Thu, 41 tuổi, thụ án 8 năm và Đinh Thu Hoà, 51 tuổi, án tù 29 năm vì buôn bán ma tuý. Họ đã từng có chồng và bị chồng bỏ, hiện con cái phải nhờ người nuôi dưỡng nên thẳng thừng thú nhận là rất ghét đàn ông.
Tỷ tê một hồi, “anh” Thanh mới bộc bạch về người bạn “chơi tình cảm” của mình trong tù là nữ tù tên Hương, đang cải tạo tại đội bếp của phân trại. Hoàn cảnh của “anh” rất éo le, khi sinh đứa con thứ ba chưa đầy 1 tháng, chồng “anh” đã đưa nhân tình về nhà. Thế là “anh” nhất định ly hôn. Khi còn ở ngoài xã hội, “anh” Thanh cũng có bạn gái mới 28 tuổi. Trước khi vào đây, “anh” kịp khuyên người ta đi lấy chồng vì biết mình phải chịu án dài ngày. Trong trại giam này, Thanh đặc biệt quý và thương Hương vì cô này không có người nhà tiếp tế, sinh hoạt rất kham khổ. “Chơi tình cảm” với nhau đã nhiều năm nay, Thanh giúp đỡ Hương rất nhiều, từ những vật dụng nhỏ của phụ nữ đến bữa ăn hàng ngày nên họ khá khăng khít. Chỉ còn 4 tháng nữa “anh” Thanh sẽ được ra tù, nhưng Thanh cho biết sẽ tiếp tục tiếp tế cho Hương, động viên cô lao động, cải tạo tốt để sớm được ra vì “đời tù khổ lắm, mà Hương còn trẻ, còn phải lấy chồng, sinh con nữa chứ”. “Anh” Thanh ngồi một lúc rồi xin phép đi tiêm. Mọi người bảo Thanh đang ốm “trả tù”. Đã thành quy luật, hầu hết tù nhân mỗi khi chuẩn bị được ra trại đều ốm một trận rất nặng. Theo lý giải của phạm nhân là do ông trời bắt phải trả lại cho trại tù một trận ốm. Đi khám không ra bệnh nhưng người lúc nào cũng mệt mỏi, lửng lơ, trước khi nhận lệnh tha khoảng đôi ba ngày, tự nhiên khoẻ lại.
Những người tù khác cho chúng tôi biết thêm, phạm nhân Thu ăn cùng với một cô em ở buồng con mọn, cô này có 2 con còn nhỏ. Phạm nhân Nội thì có bạn cùng đồng hương Nam Định. Tù nhân gọi việc kết đôi cùng ăn này là “sinh hoạt tù”. Dù đó chưa hẳn là tình yêu nhưng giữa họ cũng nảy sinh sự ích kỷ, không muốn chia sẻ tình cảm của bạn mình với người khác nên đã từng xảy ra nhiều tình huống dở khóc dở cười khi phạm nhân lao vào túm tóc nhau chỉ vì dám rủ bạn thân của thị ra ghế đá giữa sân trại ngồi tâm sự.
Nhắc đến những “mối tình” nổi tiếng tại Trại 05, không thể không nhắc đến cặp bạn tù Dũng và Hải. Dũng có hình tướng ẻo lả như phụ nữ song tính tình lại rất ngoan cố, hung bạo. Khi Hải ra tù, họ vẫn liên lạc bằng thư từ với nhau và hẹn sum họp khi Dũng hết án. Năm 2003, khi đang thụ án tại phân trại 3, Dũng đánh cắp bơm kim tiêm khi đi khám lao phổi, rút máu có HIV của mình, bơm vào người một phạm nhân cùng phòng. Sau một hồi chống trả quyết liệt, hắn bị áp chế và giam trong phòng biệt giam. Dũng tuyệt thực 7 ngày, từ chối cung khai khiến công tác thẩm tra khép kín hồ sơ không thể tiến hành. Cùng lúc đó, trong số các thư từ của thân nhân gửi phạm nhân có bức thư của Hải nên giám thị trại quyết định dùng quân bài này để thuyết phục Dũng. Quả nhiên, khi nghe giám thị nói có thư của Hải gửi vào, Dũng đang nằm xẹp như gián vội bò dậy, xin phép được rửa mặt, uống sữa. Sau khi đọc thư, hắn lấy lại bình tĩnh, đề nghị được tiến hành thẩm tra. Hành vi liều lĩnh, mất nhân tính của Dũng bị xử 9 tháng tù nhưng hắn mới thụ án chưa đầy 1 tháng thì chết. Nghe một số tù nhân kể lại, biết tin Dũng chết, Hải có trở lại trại xin phép được thắp hương trên mộ bạn rồi trở về Quảng Ninh, Hải cũng tuyệt thực rồi chết.
Kỳ VI: Vị thành niên nhập trại
Phạm Vân Anh
-
Trại giam du ký (Kỳ VI): Vị thành niên... nhập trại
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...2030/tr10t.jpg
Cán bộ trại giam thường xuyên tâm tình để cải giáo phạm nhân tuổi vị thành niên.
KTNT - Tại Trại giam Thanh Lâm có một đội tù đặc biệt dành cho trẻ vị thành niên. Đó là những thiếu niên tuy lần đầu phạm tội nhưng mức độ đặc biệt nguy hiểm nên được đưa thẳng vào đây, số khác sau khi ở trung tâm giáo dưỡng về lại tiếp tục tái phạm nên không còn cách nào để giáo dục tốt hơn là đưa vào trại cải tạo.
>>Kỳ V: Tình yêu... "muối súp"
Do còn ở tuổi vị thành niên nên những cậu bé “tội nặng hơn người” này được hưởng chế độ lao động, cải tạo nhẹ nhàng hơn tù nhân khác. Theo thống kê của quản giáo trực tiếp phụ trách, đội có 87 phạm nhân thụ án, nhưng số trẻ vị thành niên hiện chỉ còn 66, số còn lại đã hết tuổi và chuyển sang đội khác.
Vừa vào giữa sân, không hiểu sao, gần 100 con người nửa trẻ con, nửa đàn ông bỗng vỗ tay rầm rầm khiến tôi ngơ ngác không biết mình đã làm chuyện gì nực cười (?). Mấy cán bộ quản giáo còn khá trẻ bảo tôi: “Ngay chúng tôi ở đây cũng ít khi được gặp phụ nữ, tù nhân càng ít hơn nên thấy nhà báo nữ đến họ vỗ tay chào mừng, chị đừng ngại”. Hú hồn, bọn trẻ này quả đúng với biệt danh “tinh tinh” mà anh em quản giáo đã đặt.
Trò chuyện với cán bộ quản giáo, tôi được biết, trẻ vị thành niên có nhiều hành động bột phát, manh động với những mưu ma chước quỷ nghe lạnh sống lưng. Nhân cách chúng chưa phát triển ổn định nên lô-gíc hành động cũng không theo quy luật nào. Dù đã vào tù nhưng bản tính của chúng không mấy thay đổi, vừa buổi sáng tâm sự nước mắt ngắn dài với quản giáo, ngoan ngoãn và hiểu lý lẽ là thế, chiều đã đánh bạn tù thừa sống thiếu chết chỉ vì “thằng ấy nó nhìn đểu em”. Hôm trước còn gằm ghè nhau nhưng mấy hôm sau đã bắt tay chia phe cánh, đánh nhau tập thể trong phòng giam khiến toàn trại náo loạn, cảnh sát bảo vệ phải tập trung để trấn áp và vãn hồi trật tự. Cải tạo chúng vẫn là bài toán khó đối với cán bộ quản giáo.
Trong các bản án của đội phạm nhân vị thành niên, tôi thấy chủ yếu là những loại tội danh khá “tanh”: cướp của, hãm hiếp và giết người. Ấn tượng” nhất là trường hợp Hoàng Việt Thành trú tại xã Hà Đông (Hà Trung - Thanh Hóa). Y đã dùng xiển (công cụ làm nông của người miền núi) đâm một cụ ông 80 tuổi để cướp chiếc đồng hồ trị giá… 25.000 đồng. Thực hiện xong hành vi đầy thú tính, Thành thản nhiên lên đồi chơi và nướng gà ăn. Đến chiều tối, Thành mò về xóm thì thấy nhà rất đông người mới chột dạ bỏ trốn...
Bố là cán bộ cấp cao của một bộ, mẹ là nhà báo, Đặng Phước Lộc vào trại khi tròn 16 tuổi với “thành tích lẫy lừng” - tổ chức cướp xe máy. Để tách con ra khỏi nhóm bạn xấu, bố mẹ Lộc thay vì bỏ thời gian chăm sóc, quan tâm thì lại không tiếc tiền lo chuyển trường để cứu vãn đường học hành cho con. Tính cả trường giáo dục thanh thiếu niên hư, Lộc đã “kinh qua” 4 - 5 trường chứ chẳng ít. Cậu bé có khuôn mặt đẹp trai như tài tử điện ảnh chuyện trò ráo hoảnh: “Bố mẹ cho em vào trại giáo dưỡng, em chẳng dưỡng được gì nhiều mà chỉ học thêm được mánh khoé của bọn cùng trại”.
Không tin vào bất cứ thứ gì, không hoài bão, dự định, ước mơ… đó là điều tôi nhận thấy trên những khuôn mặt còn rất trẻ ngồi sau song sắt. Và tôi còn nhớ chỉ duy nhất một trong những cậu bé ấy hỏi tôi: “Khi ra tù, liệu em có được vào làm trong công ty nhà nước không?”. Hơi bất ngờ và lúng túng, tôi trả lời một cách rất “mô phạm”: “Tất cả tuỳ thuộc vào sự hối cải của em, xã hội luôn mở rộng vòng tay đón những người muốn cải tà quy chính”.
Rời khu trại, tôi vẫn nhớ lời thiếu tướng Phạm Đức Chấn, Cục trưởng Cục V26 (Bộ Công an): “Điều đau lòng là tỷ lệ tội phạm ở lứa tuổi thanh - thiếu niên quá lớn, một phần vì dân số nước ta trẻ, phần nữa là xã hội ta có truyền thống gắn kết, giáo dục con cái từ gia đình nhưng gần đây, vai trò của gia đình bị vòng xoáy cuộc sống làm cho lơi lỏng...”. Biết quy trách nhiệm cho gia đình, nhà trường, xã hội hay những “tinh tinh” đang thụ án kia? Chỉ biết rằng, tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội đang gia tăng dưới nhiều cấp độ đáng báo động không chỉ ở các thành phố lớn mà tại cả các vùng quê vốn yên bình, tĩnh lặng.
Kỳ VII: 1001 kiểu trốn trại
Phạm Vân Anh
-
Trại giam du ký (Kỳ VII): 1001... kiểu trốn trại
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...2006/tr10t.jpg
Phạm nhân Nguyễn Văn Duệ sau lần trốn trại.
KTNT - Vào tù, không phải phạm nhân nào cũng dễ dàng chấp nhận lao động cải tạo chờ tới ngày hết án. Hơn nữa, tâm lý của tù nhân hết sức manh động, đôi khi chỉ vì những lý do như nghe tin vợ ở nhà ngoại tình, bố mẹ mất hoặc không chịu được kham khổ, kỷ luật trong tù... là ngầm lên kế hoạch trốn trại hết sức tinh vi và liều lĩnh.
Kỳ VI: Vị thành niên... nhập trại
Giáp Tết Nguyên đán 2008, suýt nữa thì Trại 05 mất Tết vì tù nhân Lê Văn Tùng bỏ trốn khi xuất trại đi mua thực phẩm. Khi có tù trốn trại, lập tức các phân trại nhận được hiệu lệnh sẵn sàng chiến đấu. Chỉ riêng việc bắt giữ tù nhân Tùng khi hắn trốn về quê tại Hoà Bình, Trại 05 đã phải chi phí hơn 60 triệu đồng và không biết bao ngày dầm mưa dãi nắng để mật phục đối tượng. Đối với cán bộ quản giáo, khổ nhất là để tù “sổng”.
Trong nhiều vụ tù trốn trại ở Trại 05, vụ trốn trại của tù nhân Lê Trọng Thống được “truyền tụng” bởi sự tinh vi và ma mãnh. Từng là cán bộ trong ngành công an, do tha hoá biến chất, Thống chuyển ngành và tham gia vào đường dây buôn bán herôin liên tỉnh Quảng Ninh – Hà Tây (nay là Hà Nội) – Hoà Bình – Lào của trùm ma tuý Nguyễn Ngọc Phụ, tức “Hà tí tồ”. Thống được đưa vào cải tạo tại Trại 05 với án tù chung thân. Trong thời gian cải tạo, mỗi lần được ra ngoài, Thống luôn để ý lấy những mẩu tre cật dài chừng gang tay rồi tìm cách đem về trại, cất trong hòm đồ ở phòng của Ban thi đua. Chiếm được lòng tin của cán bộ quản giáo, Thống và một số phạm nhân được lựa chọn đi chúc Tết, phát quà của Ban giám thị trại và cấp nước sôi cho phạm nhân pha trà đón giao thừa trong buồng giam và ngủ lại tại phòng thi đua. Không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một, chờ những người khác ngủ say, Thống lấy các mẩu tre và dây thừng bện thành một chiếc thang dây. Chiếc thang tự tạo đó đã giúp hắn trốn thoát dễ dàng. Ra ngoài, Thống trút bỏ bộ quần áo tù, mặc bộ dân phục đã chuẩn bị từ trước rồi chạy bán sống bán chết. Hắn nói dối những người gặp trên đường là đang đi chúc Tết thì bị hỏng xe, rồi xin đi nhờ. Về tới Nông trường Lam Sơn (Ngọc Lặc – Thanh Hoá), Thống ăn trộm một chiếc xe đạp rồi đi về hướng Đông Nam. Đến huyện Triệu Sơn, hắn bán xe lấy tiền mua vé lên tàu dông thẳng vào Nam.
Thống trốn ra ngoài chưa đầy 3 giờ thì kẻng báo động chát chúa vang lên. Coi như trại giam mất Tết. Chốt kiểm soát được thiết lập trên khắp các nẻo đường, bìa rừng; cơm nước thì chờ anh em trong trại tiếp tế, tắm giặt đành “nhịn”, vậy mà tung tích kẻ đào tẩu vẫn bóng chim tăm cá. Các chốt được lệnh rút về, cán bộ trinh sát lại tiếp tục lên phương án đánh án với quyết tâm bằng mọi giá phải bắt được Thống. Sau nhiều ngày theo dõi, bám theo vợ Thống trên hành trình vào Nam thăm chồng, các cán bộ, chiến sỹ của Trại 05 đã tóm gọn hắn trên sân ga Sài Gòn. Tên cáo già cúi đầu chịu tội, ngoan ngoãn đưa tay vào còng.
Một câu chuyện khôi hài khác trong cả trăm cách trốn trại là vụ đào tẩu của tù nhân Nguyễn Văn Duệ, sinh năm 1962. Duệ vào tù với án phạt 4 năm do tội danh chống đối người thi hành công vụ. Duệ là tù nhân khá khéo tay, tuy bị giam ở phân trại dành cho nam giới nhưng hắn để ý thấy chị Can, Phó giám thị phụ trách Phân trại 4 dành cho nữ tù thường xuyên qua lại các phân trại. Chị Can hay mặc thường phục, đội nón lá giản dị nên Duệ rắp tâm trốn trại bằng cách đóng giả nữ cán bộ này. Khi gặp Duệ tại Phân trại số 5, chúng tôi rất ngạc nhiên vì dù đã già và thay đổi khá nhiều nhưng tên Duệ vẫn giống chị Can một cách bất ngờ. Duệ kể lại quá trình trốn trại cách đây nhiều năm khá chi tiết. Hắn lên kế hoạch trốn trại khá tỉ mỉ và nhờ người quen mua quần áo phụ nữ giấu ở “hố đen” – cách các tù nhân gọi nơi cất giấu đồ đạc trái phép không được mang vào trại – quấn gọn ghẽ rồi nhét dưới đáy xô mang vào trại, nón lá thì dễ kiếm vì tù nữ đi làm ai cũng đội nón. Gần trưa, khi cán bộ quản giáo và tù nhân đã nghỉ, sân trại vắng lặng thì “chị Can” quần áo chỉnh tề, nón lá nghiêm ngắn đi ra. Tới trạm cảnh giới, “chị” bị phát hiện bởi vết xăm lấp ló dưới cổ áo. Biết bị lộ tẩy, tên Duệ vội ném nón, vơ lấy thanh sắt uy hiếp cán bộ quản giáo và cướp súng nhằm thoát thân. Ngay lúc ấy, cán bộ công an thuộc đội cảnh sát bảo vệ đã trấn áp được hành vi côn đồ hung hãn của Duệ. Hắn đã phải trả giá cho lần vượt ngục bất thành của mình bằng 20 năm tù; cán bộ, chiến sỹ của Trại 05 cũng có thêm bài học về thủ đoạn của tù nhân khi tìm đường trốn chạy khỏi sự trừng phạt của pháp luật.
Kỳ VIII: Dịch vụ nơi lao cải
Phạm Vân Anh
-
Trại giam du ký (Kỳ VIII): Dịch vụ nơi lao cải
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...trong%20tu.jpg
Dịch vụ cắt tóc nữ.
KTNT - Vào tù, tất nhiên không thể muốn gì có nấy. Nhưng với chính sách nhân đạo của Nhà nước và chủ trương tạo điều kiện tốt nhất có thể để cuộc sống của tù nhân dễ chịu hơn, những năm gần đây, tại một số trại giam đã hình thành các tổ đội dịch vụ như cắt tóc nam, nữ hay căng -tin bán thức ăn, quầy tạp phẩm. Các loại hình này được tổ chức và hoạt động dưới sự giám sát của cán bộ trại giam để đảm bảo tính công bằng, đúng quy định.
Kỳ VII: 1001... kiểu trốn trại
Người bán, kẻ mua đều là “công dân áo sọc”. Tiền để trao đổi hàng hoá là cuốn sổ ghi khoản tiền ký quỹ do người nhà gửi hoặc tiền thưởng công lao động của phạm nhân sau khi đã trừ phần phải nộp cho trại. Khi mua thứ gì, khoản tiền phải trả được trừ ngay vào sổ. Phạm nhân phụ trách tổ dịch vụ được giám thị chấm công như những tù lao động khác. Giữa trưa, không khí mua bán tại căng-tin của phân trại số 3 và số 4 sôi nổi hơn bất cứ quán cơm bình dân nào ở Hà Nội. Nhiều phạm nhân cho rằng, dịch vụ trên đã mang lại nhiều tiện ích như thức ăn hợp vệ sinh, phong phú. Tuy vậy, để được thường xuyên mua tại đây không phải ai cũng có khả năng. Trước đây, những phạm nhân không có người nhà tiếp tế, khi đi làm họ nhặt rau dại, tép đồng về tự nấu ăn thêm. Từ khi có lệnh cấm tù nhân nấu ăn trong trại, một lượng không nhỏ phạm nhân đành ăn theo định mức 15kg gạo, 3 lạng thịt và các loại rau theo mùa, chẳng mấy khi có cơ hội được cải thiện.
Bước vào gian phòng rộng chừng 8m2 tại phân trại 4, tôi rất ngạc nhiên khi thấy ở đây có tất cả những vật dụng cần thiết cho một cửa hiệu làm đầu như lồng hấp, máy sấy, ép và các loại dầu gội, thuốc uốn nhuộm từ bình dân đến đắt tiền. Một nữ tù có dáng người cao ráo, phụ trách “cửa hiệu” đặc biệt này cho biết, toàn bộ trang thiết bị đều do trại đầu tư, cô có tay nghề nên đảm nhận công việc này. Cửa hiệu thường đông khách vào ngày cuối tuần hoặc dịp lễ, tết. Các tù nhân làm đẹp để đi chơi lòng vòng trong sân trại, tự ngắm lẫn nhau và tham gia tập luyện, biểu diễn văn nghệ.
Đó mới là thị trường “nổi”, thị trường “chìm” ở chốn này cũng sôi động không kém. Một số phạm nhân do gia đình có điều kiện nên họ nhờ mua những thứ mỹ phẩm thông dụng để gửi vào trại và bán lại cho các nữ phạm khác với giá cao gấp đôi, thậm chí gấp ba để đổi lại quyền sử dụng số tiền tương ứng trong sổ lưu ký. Số khác không được gia đình tiếp tế thì phải chấp nhận làm việc lặt vặt cho các phạm nhân có điều kiện kinh tế để có tiền chi tiêu tối thiểu. Tất nhiên loại dịch vụ này không thuộc sự quản lý của trại. Nó xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hoá và thỏa thuận ngầm giữa các cá nhân với nhau. Dịp Tết, ai nấy cũng phấn son rạng rỡ, diện những bộ thường phục đẹp nhất để chúc Tết và thăm “nhà” nhau.
So với trại tù nữ, dịch vụ “kín” của trại tù nam oái oăm và phức tạp hơn nhiều. Nhu cầu làm đẹp của tù nam không đơn giản chỉ là gội đầu, cắt tóc. Vốn thừa liều lĩnh và máu giang hồ, với họ, để chứng tỏ bản lĩnh đàn ông thì phải có những hình xăm độc đáo, hạ bộ phải gắn “bi”, luồn “gươm” nên loại dịch vụ này khá được ưa chuộng dù án kỷ luật khi bị bắt quả tang không hề nhẹ. “Bi” là những viên thuỷ tinh hoặc sỏi được mài tròn có kích cỡ bằng hạt cườm, rạch một đường nhỏ trên dương vật đủ để nhét viên thuỷ tinh vào. Phạm nhân L. tại Trại Thanh Lâm nhìn trước ngó sau rồi khoe với tôi, cậu ta có thể được đặc xá ra tù vào dịp 2 – 9 năm nay nên đã nghiến răng chịu đau cả tháng trời, nhờ “chiến hữu” làm luôn cho một “băng”, chi phí mất gần “5 lít” (500.000 đồng). Sau lời hứa chắc chắn không đưa tên và ảnh lên báo, L. mách cho tôi một vài nhân vật khác cũng mang “gươm” và “chổi” trên người. Vốn đã có kinh nghiệm, L. bảo chỉ cần nhìn dáng đi khạng nạng và vẻ mặt đau đớn của bạn tù là biết ngay anh ta vừa làm “tiểu phẫu”.
Dụng cụ dùng để xăm mình gồm có kim nhọn, thuốc làm màu thích hợp là mực Tàu, còn không thì dùng bột chì chứa trong quả pin cũ và vài viên kháng sinh chống viêm nhiễm tại vùng da bị xăm. Điệu nghệ và tài tình ở chỗ, từ trục xoay của chiếc phone cũ, những “hoạ sỹ” trại giam có thể chế tạo thành chiếc máy xăm tiện ích. Vùng da định xăm được lau sạch, vẽ rồng, vẽ hổ tuỳ thích rồi chạy máy xăm, mực Tàu hoặc bột chì theo đó ngấm vào da và ăn màu. Giá mỗi hình xăm tuỳ kích thước lớn nhỏ, quan hệ thân sơ giữa hai bên mà định đoạt. Các quản giáo của Trại Thanh Lâm và Trại 05 thường xuyên thu giữ các hoạ phẩm lạ lùng này. Đương nhiên, người cất giấu chúng sẽ phải nhận mức kỷ luật theo quy định.
Kỳ IX: Theo mẹ đến nhà pha
Phạm Vân Anh
-
Trại giam du ký (Kỳ IX): Theo mẹ đến nhà pha
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl.../van-anh-2.jpg
Lớp mầm non trong trại giam.
KTNT - Chuyện này nghe có vẻ lạ nhưng tôi cam đoan có thật 100%. Thật như tôi đang đứng trước những đứa trẻ được sinh ra trong trại giam này vậy. Một số phạm nhân nữ lạm dụng chính sách khoan hồng của Nhà nước được tại ngoại khi có thai hoặc nuôi con nhỏ đã không hối cải mà tiếp tục tái phạm. Không còn cách nào khác, họ bị bắt giam và phải thi hành án.
Kỳ VIII: Dịch vụ nơi lao cải
Khi tù nhân đi đẻ
Thượng tá Nguyễn Văn Vân, Phó giám thị phụ trách giáo dục Trại 05 kêu trời: “Các trại tạm giam cứ thấy tù nhân mang thai là “kính chuyển” cho chúng tôi. Bao nhiêu tội chúng tôi lĩnh đủ”. Hỏi ra mới biết, đối với quản giáo và ban giám thị, cái sự “khai hoa mãn nguyệt” của nữ tù nhân ở đây nhiều phen khiến họ lao đao.
Đẻ trong tù có nhiều rắc rối vì các cơ sở y tế, khoa sản tuyến huyện không nhận những sản phụ này do điều kiện xét nghiệm HIV còn hạn chế. Lại “kính chuyển” lên tuyến trên. Vậy là phải bố trí xe đưa phạm nhân đi đẻ. Mỗi chuyến đi như vậy, cần ít nhất 5 người gồm: quản giáo, cảnh sát bảo vệ, cán bộ y tế, lái xe và 1 nữ tù khác. Bằng ấy con người tất bật, chạy ngược xuôi cho tới khi mẹ tròn con vuông. Ngay dịp Tết Nguyên đán vừa rồi, một phạm nhân lên Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hoá mấy ngày mà không thấy đẻ. Phạm nhân được nằm giường bệnh, còn quản giáo, cảnh sát bảo vệ và người phục vụ thì chỉ còn nước trải chiếu nằm ngoài hành lang. Đúng chiều 30 Tết thì được chỉ định mổ, nữ quản giáo Thu mếu máo gọi điện về: “Chú Vân ơi, chú cử người khác lên thay cháu với. Tết nhất đến nơi rồi mà cháu chưa chuẩn bị được gì cho gia đình cả”. ấm ức thì nói vậy, chứ quản giáo Thu chỉ còn biết sụt sịt khóc và đón giao thừa trong bệnh viện cùng hai mẹ con phạm nhân.
“Cháu ở ngoài xã hội”“
Là trại giam có số lượng tù nhân nữ đông nhất miền Bắc, Trại 05 hiện có 30 công dân đặc biệt. Chúng là những đứa trẻ từ 1 đến 10 tuổi do không có người thân nuôi dưỡng nên phải theo mẹ đến chốn này.
Khu dành cho con em phạm nhân nằm đối diện phân trại số 4 có thể coi là trường mẫu giáo lý tưởng. Khoảng sân rộng với hàng rào hoa hồng đủ màu sắc, có đủ trò chơi dành cho trẻ em như cầu trượt, xích đu... Nhà trẻ được chia thành 2 lớp. Trẻ từ 2 tuổi trở xuống thuộc lớp mầm non, hết giờ lao động, chúng được mẹ đón về phòng giam, sáng hôm sau lại đưa ra gửi. Những trẻ còn lại thuộc lớp mẫu giáo sẽ ngủ ngay tại nhà trẻ, chiều thứ 7 các em được đón về và chiều chủ nhật quay lại lớp học. Có lẽ đã quen sống tự lập từ nhỏ nên các cô bé, cậu bé khá dạn người. Trong suốt thời gian ở đây, các em chỉ chơi với nữ phạm là bạn tù của mẹ và cán bộ quản giáo nên khi có khách từ nơi khác đến thăm, chúng rất vui và quấn quýt với chúng tôi. Hai cô bé Tạ Ngọc Anh, Lò Thị Công hát tặng chúng tôi bài “Cả nhà thương nhau”, rồi các em nắm tay nhau múa hát, ăn bánh kẹo.
Tôi hỏi Ngọc Anh: “Trước khi vào đây cháu ở đâu?”. Cô bé trả lời rất rành rẽ: “Cháu ở ngoài xã hội”. Thì ra khái niệm về thế giới rộng lớn và tự do ngoài bức tường của trại giam này chỉ gói gọn trong hai từ “xã hội” mà chắc hẳn các bé chỉ nói theo mẹ chứ chưa hẳn đã hiểu rõ ý nghĩa của nó. Ngọc Anh được sinh ra trong tù, em còn có một người anh tên là Hoàng Anh vào đây khi mới 5 tháng tuổi. Mẹ là Phạm Thị Hải Yến, án 17 năm, bố là Tạ Trung Dũng, án 7 năm vì tội buôn bán ma túy. Cả gia đình đều ở trong này nhưng Ngọc Anh ít khi được gặp bố. Trong hồ sơ của phạm nhân Yến, người đứng tên làm khai sinh cho Ngọc Anh là một cán bộ của trại.
Những đứa trẻ này đủ nhạy cảm để hiểu hoàn cảnh và thân phận của mình nên bé nào cũng rất tự giác trong sinh hoạt. Giờ ăn, các bé giúp cô giáo và các bác dọn mâm, nhường nhịn nhau cùng ăn. Tới giờ ngủ, những em lớn như Nguyễn Hoàng Biên Thùy, Nguyễn Hoài Nam mắc màn cho các bé nhỏ hơn. Hai cậu bé này đều đã 9 tuổi nhưng vẫn chưa được đi học vì các em trong độ tuổi đi học ở đây khá chênh lệch nên không thể tổ chức dạy học được và trại cũng không có chức năng cấp chứng chỉ. Muốn học văn hóa, phải đưa các em ra trường tiểu học của Nông trường Thống Nhất cách đó khá xa nên điều này càng khó thực hiện. Vì thế đành để các em học chữ dưới sự chỉ dẫn của hai cô giáo tốt nghiệp trung cấp mầm non.
Trò chuyện với thượng tá Vân mới biết Trại 05 phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong việc xử lý tình huống liên quan đến những đứa trẻ này. Khi mẹ nhập trại có kèm theo hồ sơ gồm bản án, quyết định thi hành án và biên bản bàn giao nhưng đứa trẻ thì không có một giấy tờ nào, chỉ vẻn vẹn một dòng trong hồ sơ của mẹ: “Có kèm theo con nhỏ”. Thượng tá Vân bảo, dù là trẻ con nhưng các cháu vẫn cần có hồ sơ để đảm bảo tính pháp lý và làm căn cứ để giải quyết những vướng mắc về sau. Ví như, nếu người mẹ không may chết trong trại, người nhà đến đòi con thì phải giải quyết thế nào? Chế độ phòng dịch, tiêm phòng cho trẻ rất hạn chế, trẻ có HIV không được chế độ hỗ trợ và uống thuốc đặc trị. Trong trường hợp trẻ bỏ trốn, bị bắt cóc hoặc đi lạc cũng không biết căn cứ vào đâu... Trong thời gian chờ một quyết định mang tính pháp lý của Nhà nước, Ban giám thị Trại 05 cứ giải quyết theo cách mình nghĩ, nghĩa là gửi cán bộ đi học nghiệp vụ mầm non, làm việc với chính quyền xã sở tại để làm giấy khai sinh cho trẻ. Nhiều giám thị còn đùa rằng, hiện trại có một số cháu ở độ tuổi từ 8 đến 10, mẹ chúng mang án tù 20 năm thì không khéo phải cưới vợ cho chúng ở trong trại mất thôi vì khi chúng ra tù theo mẹ cũng đã gần 30 tuổi. Đùa thì đùa vậy nhưng tôi tin Ban giám thị sẽ sớm tìm ra biện pháp hữu hiệu và nhân đạo nhất để cuộc sống của những đứa trẻ theo mẹ đến nhà pha phần nào đỡ thiệt thòi, mặc cảm.
Rời khỏi trại giam, ám ảnh lớn nhất đối với tôi và nhiều nhà văn đi cùng đoàn là những đôi mắt trẻ thơ trong veo ấy.
Kỳ cuối: Những mảng màu sau song sắt
Phạm Vân Anh
-
Kỳ cuối: Những mảng màu sau song sắt
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Upl...2027/tr10t.jpg
Phạm nhân nữ mang con đi gửi trẻ.
KTNT - Toàn cảnh “vòng lao lý” xứ Thanh đã cho tôi ấn tượng khó quên. ở đó là một không gian được giới hạn bởi những bức tường cao và dây thép gai giăng như vạch trên nền trời vết xước nham nhở. Trong thế giới ấy là xã hội thu nhỏ với nhiều mảng, nhiều khoảng tối sáng mà chỉ những cá thể đang sống trong đó mới hiểu rõ từng phân vuông. Và điểm sáng của bức tranh buồn mà tôi muốn nói trước khi kết thúc loạt ký sự này chính là đời sống tinh thần của phạm nhân đang trả án nơi đây.
Kỳ IX: Theo mẹ đến nhà pha
Những tiết mục văn nghệ chào mừng của các phạm nhân khi chúng tôi đến thăm Trại giam Thanh Lâm khá thú vị. Họ là những thanh niên còn trẻ, vì một phút lỡ lầm mà sa vào vòng lao lý đang cố vực dậy cuộc đời. Nguyễn Đức Đạt, 24 tuổi, người Hà Nội - thanh niên đẹp trai, giọng nói nhẹ nhàng và có tài đánh đàn, hôm đó chơi một bản nhạc khá hay có tên “Chiều Thanh Lâm”. Sau này, tôi mới được biết đó là bài hát được nhạc sỹ Đăng Nước phổ thơ của đại tá Nguyễn Xuân Phòng trong thời gian nhạc sỹ này thụ án tại đây. Đạt đang theo học năm thứ 3 đại học thì tham gia vào một vụ cướp và được di lý đến trại. Do có tài, lại có trình độ học vấn nên phạm nhân này được “biên chế” vào tổ phục vụ tại nhà trung tâm. Mỗi lần trại có khách hoặc tổ chức liên hoan văn nghệ, các cậu chàng bảnh bao trong áo trắng “bỏ thùng”, quần tối màu, biểu diễn say sưa phục vụ khách và các anh em bạn tù. Sau cánh gà của hội trường hôm ấy, Đạt đã nói một câu mà tôi tin là rất thật: “Em rất biết ơn ban Phòng và ban Quyền (thượng tá Lê Văn Quyền, Phó giám thị trại giam), các ban đã giúp em nhận ra giá trị của cuộc sống”.
Với kinh nghiệm hơn 30 năm vắt mình trong công tác quản lý, giáo dục phạm nhân, đại tá Nguyễn Xuân Phòng nhận định: “Đối với những phạm nhân trí thức, sai lầm của họ chỉ là nhất thời, cần có thái độ ứng xử thích hợp và khai thác khả năng của họ để phục vụ trại”. Thực tế nhiều năm qua cho thấy nhận định đó hoàn toàn đúng và mang lại hiệu quả. Trại đã có “lưng vốn” hơn 20 bài hát, hàng trăm bài thơ, tiểu phẩm, truyện vui do các văn nghệ sỹ đến thăm trại và nhiều lượt phạm nhân từng cải tạo nơi đây sáng tác.
Giống như Trại giam Thanh Lâm, Trại 05 cũng khiến chúng tôi bất ngờ. Dãy nhà lớn dùng làm hội trường giữa phân trại 4 là nơi các nữ phạm nhân thuộc đội thêu ren làm việc được trang trí khá đẹp, có kẻ nhiều khẩu hiệu. Đó là công của đội “tám vía”. Rồi những chậu cây cảnh được làm bằng xi măng cũng do chính những nữ phạm nhân này làm nên. Trước khi chúng tôi đến mấy hôm, họ vừa tổ chức chia tay một bạn tù được trả tự do. Mọi người ai cũng khóc rất nhiều. Khóc chán rồi ôm nhau hát vang những bài như “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn”, “Con kênh xanh xanh”, “Cả nhà thương nhau”… Ngoài định suất lao động phải nộp cho trại, những chị em này còn rất chịu khó thêu những chiếc túi hay khăn tay nho nhỏ gửi về làm quà cho con.
Ấy là những phạm nhân thuộc đội thêu, còn đối với phạm nhân làm trang sức tại phân trại 3 thì quà về cho vợ, bạn gái là những viên thủy tinh được mài dũa rất khéo. Nhờ có dây chuyền mài hạt xoàn và đá trang sức, họ tỉ mẩn nhặt những mảnh sành, mẩu thủy tinh nhỏ để mài 16 cạnh, tạo độ phản chiếu lấp lánh như viên đá quý thật sự. Họ làm để giết thời gian, nguôi nỗi nhớ nhà và có vật kỷ niệm cho gia đình, kỷ vật cho chính mình về những tháng ngày làm lại cuộc đời sau song sắt. Rất có thể khi ra tù, họ sẽ trở thành những thợ kim hoàn giỏi, tạo ra nhiều đồ trang sức, mỹ nghệ có giá trị.
Đêm đầu tiên ở Trại 05, bạn tôi, nhà báo Nguyễn Xuân Thủy gần như thức trắng với anh chị em quản giáo phân trại 4 để hiểu thêm tâm tư tình cảm của họ. Còn tôi thì đánh vật với những trang văn của tù nhân mà các đồng chí quản giáo nơi đây giữ lại. Nếu căn cứ vào lượng tác phẩm đã ra mắt bạn đọc cả nước thì phạm nhân có bút danh khá ấn tượng là Hoàng Gia Bảo có thể coi là nhà văn. Từng là tiến sỹ văn hóa tốt nghiệp tại Liên Xô (cũ), suốt quá trình cải tạo tại Trại 05, ông đã viết hai tập truyện ngắn và tiểu thuyết đã được xuất bản, hiện “nhà văn áo sọc” này đang “thai nghén” tiểu thuyết mới, hứa hẹn nhiều điều thú vị.
Thượng tá Quyết – Phó giám thị phụ trách phân trại 5 và 6 (trước đây là Trại giam Thanh Cẩm) sau một hồi tìm kiếm đã đưa cho tôi xem tập bản thảo viết tay của một phạm nhân người miền Nam đã chết trong tù tên là Minh Đức. Phải nói rằng đó là truyện ngắn khá hay mà chủ đề chính là sinh hoạt thường ngày trong trại, những tiểu phẩm nói về sự hoàn lương của những người tù sau khi trở về xã hội đã quay lại thăm các “thầy” và vùng đất rừng xanh núi đỏ khi xưa mình từng cải tạo. Anh Quyết bảo, mỗi lần đọc, anh thấy những người tù không chỉ là đối tượng mà mình cần cải giáo mà ở một góc độ nào đó, nếu biết chia sẻ, họ cũng có thể là con người biết yêu thương, hối cải.
Một tập hồi ký khác mà thượng tá Quyết cất giữ rất cẩn thận có tựa đề “Ngược dòng” của phạm nhân N.H.Q, hiện đã ra tù, được viết tay bằng nét chữ khỏe, đầy đặn, mở ra trước mắt tôi cuộc đời của một con người. Một chi tiết trong hồi ký làm tôi rơi nước mắt là khi đứa con gái thứ hai của anh lúc đó mới 3 tuổi, theo mẹ vào thăm bố trong tù đã đòi mẹ bế lên thật cao để thơm bố. Rồi bàn tay bé nhỏ của em đặt vào bàn tay đã từng phạm tội của bố một phiếu bé ngoan em được cô phát ở trường và bảo: “Bố phải ngoan nhé, lần tới con vào sẽ phát phiếu bé ngoan cho bố”. Cử chỉ ấy khiến tất cả những phạm nhân, quản giáo và gia đình phạm nhân có mặt ngày hôm ấy nghẹn ngào.
Kết thúc chuyến đi, ấn tượng trong mỗi chúng tôi là những bóng áo sọc đang cần cù lao động sau song sắt. Cuộc sống vẫn trôi lặng lẽ, mang theo đó không ít những thân phận con người với nhiều tính cách. Những phạm nhân nơi đây đang trả giá cho lỗi lầm của mình để nhen lên tia hi vọng về một khởi đầu mới tốt đẹp hơn.
Phạm Vân Anh