Ba Mươi Bẩy Pháp Tu của Bồ Tát Tác giả: Ngulchu Thogme Zangpo Việt dịch: Ly Bui (Sona
Ba Mươi Bẩy Pháp Tu của Bồ Tát
Tác giả: Ngulchu Thogme Zangpo
Việt dịch: Ly Bui (Sonam Nyima Chân Giác).
Nam Mô Đức Quán Thế Âm tôn kính !
Mặc dù thấy mọi pháp chẳng đi cũng chẳng đến,
Ngài vẫn dùng mắt nhìn chúng sinh, nhất tâm cứu độ ,
Trước đấng đấng đạo sư hộ trì tối thượng Quán Thế Âm,
Đệ tử luôn luôn cung kính đảnh lễ bằng tam nghiệp[4] thanh tịnh.
Chư Giác Ngộ viên mãn, là nguồn phúc lợi và hỷ lạc,
Đều khởi ra từ sự thành tựu viên mãn giáo pháp kỳ diệu,
Vì hành trì tùy thuộc sự quán triệt của pháp tu,
Nên tôi thuyết giảng pháp tu của Bồ-tát sau đây.
1. Hiện thời đắc thân người đầy đủ, khó kiếm, là chiếc bè,
Để tự giải thoát mình và chúng sinh ra khỏi biển luân hồi,
Hãy ngày đêm không ngừng tinh tấn hành trì,
Văn, tư và tu. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
2. Chấp ái người thân làm ta như nước xô động,
Lòng sân hận kẻ thù thiêu đốt ta như lửa,
Vô minh si mê làm ta quên tu sửa,
Hãy từ bỏ xứ sở quê hương. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
3. Xả bỏ tâm dao động thì phiền não giảm thiểu dần,
Không còn vọng niệm thì hành trì tự nhiên tăng trưởng[5],
Giữ gìn chánh niệm, tâm sẽ khởi tín về đạo pháp ,
Hãy ẩn tu nơi hẻo lánh. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
4. Bạn bè, thân thuộc lâu đời, rồi cũng phải chia ly
Tiền của kiếm cực nhọc, rồi cũng phải bỏ lại sau lưng.
Tâm thức, là khách trọ, rồi cũng sẽ phải lìa thân [là nhà trọ] để ra đi
Hãy xả bỏ đời sống thế gian. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
5. Liên hệ bạn bè xấu thì tam độc sẽ tăng trưởng,
Hành trì văn, tư và tu sẽ suy thoái,
Tâm từ bi sẽ bị đánh mất.
Hãy xa lìa tất cả bạn bè xấu. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
6. Nương tựa bậc thiện tri thức sẽ giải trừ các lỗi lầm, ác nghiệp,
Đức hạnh sẽ được tăng trưởng như vầng trăng non.
Hãy trân quý bậc thiện tri thức hơn thân mình.
Đó là pháp tu của Bồ-tát.
7. Chư thiên thế gian còn bị tù hãm trong vòng luân hồi,
Làm sao có thể hộ trì che chở cho ai được?
Do đó, khi tìm về quy y,
Hãy quay quy y vào Tam Bảo. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
8. Tất cả các khổ đau không thể chịu được của ba đọa xứ,
Đấng Thế Tôn dạy chính là quả báo của những ác nghiệp,
Do đó, ngay cả khi phải hy sinh tính mạng mình,
Cũng đừng bao giờ tạo ác nghiệp. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
9. Dục lạc của ba cõi giống như giọt sương trên đầu ngọn cỏ,
Sẽ tan biến trong giây phút.
Hãy phát nguyện đạt giải thoát tối thượng bất biến bồ đề.
Đó là pháp tu của Bồ-tát.
10. Từ vô thỉ quá khứ, chúng sinh đã từng là mẹ thương yêu ta,
Thì hạnh phúc của riêng ta có ích gì, khi các chúng sinh mẹ đang chịu khổ đau ?
Do đó hãy phát nguyện thành tựu,
Tâm Bồ-đề để giải thoát vô lượng chúng sinh. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
11. Tất cả những khổ đau, không ngoại lệ, đều đến từ sự tìm kiếm dục lạc ích kỷ,
Quả vị giác ngộ viên mãn thì được khởi sinh từ lòng từ bi vị tha.
Do đó hãy tu tập ngã tha hoán vị,
[đổi hạnh phúc của ta để nhận lấy khổ đau của người]. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
12. Ngay cả khi kẻ khác vì tham ái,
Cướp đi hay sai bảo người khác cướp đi tất cả tài sản của ta,
Hãy hồi hướng cho họ thân, tài sản
Và công đức ta tích tụ trong ba đời. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
13. Cho dù ta hoàn toàn không làm lỗi nhỏ gì,
Mà nếu kẻ khác vẫn muốn chặt đầu ta,
Với thần lực của từ bi,
Hãy gánh nhận tất cả nghiệp ác của họ . Đó là pháp tu của Bồ-tát.
14. Cho dù kẻ khác vu khống ta,
Với đủ các lời ác qua ba ngàn thế giới,
Bằng tất cả tâm tốt lành đối với chính người đó,
Hãy tán dương các đức hạnh của họ. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
15. Cho dù giữa đám đông, có người đứng ra nhạo báng,
Vạch những lỗi kín của ta ra và nói xấu,
Hãy coi người đó như là bậc thiện tri thức,
Và cung kính đảnh lễ họ. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
16. Cho dù kẻ ta thương yêu như chính con mình,
Quay ngược trở lại, đối với ta như kẻ thù,
Hãy từ bi với người đó như một người mẹ
Thương yêu con mình đang bị bệnh. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
17. Cho dù một người bằng ta hoặc thấp kém hơn ta,
Vì lòng kiêu ngạo nhục mạ ta,
Hãy kính trọng họ như vị đạo sư,
Đặt kẻ đó trên đỉnh đầu mình. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
18. Mặc dù ta có kiếp sống nghèo nàn, luôn bị kẻ khác miệt thị
Phải chịu cảnh bệnh tật, ma chướng,
Hãy nguyện nhận tất cả khổ đau, ác nghiệp của kẻ khác,
Và không sinh lòng chán nản. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
19. Cho dù ta nổi tiếng, được nhiều người tán dương,
Đảnh lễ kính trọng, và giầu có như Tỳ Sa Môn[6],
Hãy nhận chân là của cải và danh tiếng thế gian chẳng có nghĩa gì,
Đừng tự phụ theo danh vọng thế gian. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
20. Khi kẻ thù bên trong là tâm sân hận của chính ta chưa bị khuất phục,
Thì chiến thắng kẻ thù bên ngoài chỉ càng làm cho kẻ thù tăng trưởng,
Vì thế hãy chiến thắng chính tâm của mình,
Bằng đạo quân từ bi. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
21. Đặc tính của dục lạc của thế gian giống như nước biển,
Càng uống càng khát nhiều hơn,
Khi thấy tâm chấp thủ và tham ái khởi lên,
Hãy lập tức xả bỏ tâm ấy. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
22. Quán xét những gì khởi lên trong tâm thức,
Từ vô thủy, tự tâm không bị dính mắc bởi biến kế[7] nào,
Nhận thức điều đó, hãy ngừng tâm chạy theo chủ thể và đối tượng.
Đó là pháp tu của Bồ-tát.
23. Khi tiếp xúc với đối tượng của tham ái, dù đẹp bao nhiêu,
Cũng chỉ giống như cầu vồng trong cơn mưa mùa hạ,
Đừng thấy là có thật,
Hãy xả bỏ tham ái. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
24. Tất cả các khổ đau đều giống như ngủ mơ thấy con mình bị chết,
Khi chấp các huyễn mộng là thật có thì ta sẽ mệt mỏi,
Do đó, khi gặp phải tình trạng khổ đau bất đắc ý,
Hãy coi như là mộng huyễn. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
25. Khi mong cầu giác ngộ đến độ có thể bố thí cả chính thân mình,
Thì chẳng cần bám víu vào những ngoại vật,
Do đó chẳng mong cầu được trả quả tốt,
Hãy tu tập bố thí với tâm vô chấp trước. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
26. Thiếu giới hạnh thì chẳng thể thành tựu nổi lợi lạc cho chính mình,
Như thế, nguyện lợi lạc các chúng sinh khác chỉ là trò cười,
Do đó, đừng khởi những mong cầu thế gian,
Và hãy tuân thủ giới hạnh. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
27. Bồ-tát nào muốn tích tụ nhiều đức hạnh, kho tàng trân quý,
Do đó không khởi lòng sân hận với bất kỳ ai,
Và phát triển hạnh nhẫn nhục. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
28. Nhận biết chư Thanh văn và Độc giác, chỉ vì muốn đạt giác ngộ cho bản thân,
Mà chuyên cần hành trì tinh tấn, như phải dập tắt lửa cháy trên đầu,
Hoan hỷ chuyên cần tu tập để lợi ích chúng sinh,
Là nguồn gốc của mọi đức hạnh. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
29. Nhờ thiền định chỉ và quán [minh sát tuệ],
Sẽ tiêu trừ phiền não, vọng tưởng,
Và vượt lên trên cả bốn cõi thiền vô sắc định,
Hãy tu tập thiền định như vậy. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
30. Nếu thiếu trí huệ, chỉ với năm pháp còn lại của lục độ Ba La Mật,
Thì không thể đạt toàn giác,
Với các phương tiện thiện xảo, hãy phát triển trí tuệ vô tướng,
Tam luân thể không[8]. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
31. Nếu không quán xét các lỗi lầm của chính ta,
Thì chỉ có hình thức bề ngoài là người tu pháp, mà thực sự không tu,
Vì thế hãy luôn luôn quán xét những lỗi lầm của chính ta
Và từ bỏ những lỗi lầm. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
32. Khi bị ảnh hưởng bởi tâm phiền não, ta đi vạch lỗi của Bồ Tát khác,
Như vậy ta sẽ đi xuống, vì thế không vạch lỗi,
Của những người đã đi vào đại thừa,
Đó là pháp tu của Bồ-tát.
33. Ham muốn được thắng lợi và danh vọng nên phải tranh cãi
Do đó hành trì văn, tư và tu bị suy giảm,
Vì thế tụ tập bạn bè, giao tiếp và liên hệ với các thí chủ,
Hãy từ bỏ tất cả không dính mắc. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
34. Bởi vì ác ngữ làm cho tâm kẻ khác bị sân hận,
Và làm hạnh nguyện bồ tát bị suy giảm,
Hãy từ bỏ ác ngữ làm cho tâm người khác không vui,
Đó là pháp tu của Bồ-tát.
35. Khi tâm phiền não trở thành thói quen trong ta,
Thì khó tiêu trừ bằng các thuốc hóa giải,
Dùng thuốc hóa giải là thanh kiếm trí tuệ chánh niệm để diệt trừ tâm phiền não
Như là tham ái, ngay lúc nó khởi lên trong tâm thức. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
36. Tóm lại, trong tất cả mọi hành động, ta đều phải biết,
Tâm thức của ta đang trong tình trạng nào?
Hãy luôn luôn giữ tâm chánh niệm và tỉnh giác,
Để đạt mục đích làm phúc lợi cho người. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
37. Để giải thoát vô lượng chúng sinh hữu tình khỏi khổ đau
Với trí tuệ vô tướng tam luân[9],
Hãy hồi hướng tất cả những công đức,
Để đạt giác ngộ Bồ-đề. Đó là pháp tu của Bồ-tát.
Lời kết:
Nương theo giáo pháp của chư tôn thánh giả,
Đã được ghi lại trong kinh điển, mật điển và các luận giải,
Tôi đã viết lại 37 pháp tu của Bồ Tát,
Để lợi ích cho chư vị ước nguyện đi theo Bồ-tát đạo.
Do trí tuệ thấp và học lực kém cỏi,
Bài tụng này thiếu vần điệu để làm hài lòng chư hiền giả,
Tuy nhiên vì đã y cứ vào kinh điển và giáo pháp của chư tổ,
Nên tôi nghĩ Pháp Tu của Bồ Tát này không sai lầm.
Tuy nhiên, vì người kém trí tuệ như tôi
Khó có thể đào sâu vào trong những đại hạnh của Bồ-tát,
Nên tôi cầu xin Chư Tôn Thánh từ niệm tha thứ những lỗi lầm
Các mâu thuẫn và những suy luận bất nhất.
Nhờ những công đức này, và nhờ thần lực của hai Bồ Đề Tâm
Quy ước và tối hậu. Xin nguyện tất cả chúng sinh,
Chẳng trụ trong cực đoan của Luân Hồi và Vô Trụ Niết-bàn,
Đạt đến quả vị như Đấng Hộ Trì Quán Thế Âm.
Tỳ Kheo Thogme[10], một vị sư thuyết giảng kinh điển và luận lý, đã soạn ra bài tụng, để lợi lạc cho chính tác giả và các chúng sinh khác này, tại hang đá tên gọi là Ngulchu Rinchen Puk.
Hồi Hướng
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Chú thích:
Bản dịch này được dịch thẳng từ Tạng ngữ sang Việt ngữ.
Ly Bui (pháp danh Sonam Nyima Chân Giác, bút hiệu Không Quán), ©2011.
[1] Tham khảo thêm "Life and Teaching of Ngulchu Thogme Sangpo", Vol. II No. I & II (1989). (Translated from Tibetan By Erik Pema Kunzang).
Gyalsa Ngulchu Thogme (Wyl. rgyal sras dngul chu thogs med) or Thogm Zangpo (Wyl. thogs med bzang po) (1297-1371), sinh ra tại Puljung, vùng Tây Nam của Tu Viện Sakya Monastery.
[2] Tâm biến kế (e. fabricated mind) luôn luôn chạy theo vọng tưởng nhị nguyên, phân biệt ta (chủ thể) và người (đối tượng). Tra cứu thêm về duy thức học, tâm biến kế là một trong Tam Tự Tánh: 1. Biến Kế Sở Chấp, 2. Y Tha Khởi và 3. Viên Thành Thật. Đó là nói về khi ta khởi tâm chế biến (biến kế) gán ghép vào sự vật những gì không phải của nó thì sẽ sinh phiền não. Phật giáo thí dụ so sánh là khi đi trong đêm (vô minh), thấy sợi giây mà tưởng là con rắn nên khở tâm sợ hãi vô cùng. Chỉ khi nảo dứt tâm biến kế và nhận rõ lý duyên khởi (Y tha khởi, nghĩa là nhờ các thứ khác mới khởi sinh ra được) thì sẽ đạt được Phật tánh (Viên Thành Thật) tròn đầy, nhìn sự vật mà không khởi tâm biến kế, không khởi tâm phân biệt ta và người.
[3] Vô tướng, tam luân thể không (kinh Kim Cang, E. the tree spheres on non-conception): nghĩa là không chấp vào tướng, không có tác nhân (tác nhân nghĩa là người làm), không có hành động và không có đối tượng của tác nhân.
[4] Tam nghiệp là ba cửa ngõ thân khẩu và ý.
[5] Tại đây, dịch giả Việt ngữ xin tán thán bài luận giảng này bằng cách trích dẫn lời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni: "Ai còn tham ái (tức là còn ngã ái chấp: cái này là của tôi, ngã mạn chấp: đây là tôi, ngã kiến chấp: đây là tự ngã của tôi), thì còn có dao động. Ai không tham ái, thì không dao động. Ai không dao động, thì được khinh an. Ai được khinh an thì không còn chấp. Ai không còn chấp, thì không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thì không có sanh diệt. Ai không còn sanh diệt, thì không còn có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn diệt khổ đau. (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh).
[6] Tỳ Sa Môn (S. Vaisravana) là một vị trời trong Tứ Thiên Vương của cõi trời Dục giới.
[7] Tâm biến kế (e. fabricated mind) luôn luôn chạy theo vọng tưởng nhị nguyên, phân biệt ta (chủ thể) và người (đối tượng).
[8] Vô tướng, tam luân thể không (kinh Kim Cang, E. the tree spheres on non-conception): nghĩa là không chấp vào tướng, không có tác nhân (tác nhân nghĩa là người làm), không có hành động và không có đối tượng của tác nhân.
[9] Trí tuệ vô tướng tam luân: không chấp vào chủ thể, đối tượng và hành động (E. devoid of conceptualization of three spheres [agent, action, and object]). Xem chú thích số 9.
Tạng ngữ viết là kor-sum nam-par dag-pa.
[10] Ngul Chu Thogme Zangpo (1297-1371) là một vị tổ sư Tây tạng nổi tiếng, ngay từ khi 15 tuổi đã thuyết giảng và giải nghĩa về A-tỳ-đàm Tập Luận (S. Abhidharma-samuccaya) của Tổ Vô Trước người Ấn-độ, (S. Asaṅga hoặc Āryāsaṅga, 300-370 CE), cho nên được người Tây tạng xưng tụng là Thogme có nghĩa là Vô Trước [đệ nhị].
Tham khảo thêm tại mạng http://www.rigpawiki.org/index.php?t..._Tokmé_Zangpo
http://ccbs.ntu.edu.tw/FULLTEXT/JR-BH/bh117491.htm
Một bản dich khác: TAM THẬP THẤT BỒ TÁT HÀNH Gyal-Sa Lag-Len So-Dun-Ma Đạo sư Trước
CHÌA KHÓA ĐẠI GIÁC NGỘ
TAM THẬP THẤT BỒ TÁT HÀNH
Gyal-Sa Lag-Len So-Dun-Ma
Đạo sư Trước tác
Bồ Tát Togmey Zangpo (1245-1369)
Luận sư Yếu giải
Hòa Thượng Geshe Tsultim Gyeltsen
PHẦN BA
TAM THẬP THẤT BỒ TÁT HÀNH
Nguyên bản
Yếu giải
Vấn & Đáp
http://buddhahome.net/kinhsach/chiak...chiakhoa3a.htm
ĐẠI Ý CÁC ĐOẠN TRONG NGUYÊN "BẢN
Khấn Nguyện
1. Tinh tấn kiên trì
2. Lìa sanh quán
3. Tránh sao nhãng
4. Bận bịu với đời
5. Lánh ác hữu
6. Trọng Đạo sư
7. Quy y
8. Ngưng ác hành
9. Cầu giải thoát
10. Phát Bồ đề tâm
11. Hoán vị ngã tha
12. Hồi hướng thân, tài, đức
13. Nhận ác nghiệp tha nhân
14. Ngợi khen thay phỉ báng
15. Xem kẻ thù như đạo sư
16. Từ ái vô điều kiện
17. Khiêm cung nhận phê phán
18. Nhận khổ tha nhân
19. Tránh kiêu mạn
20. Diệt nội thù
21. Lìa buông lung căn
22. Phá niềm tin hữu cố nhiên
23. Nhìn vật đẹp như ráng trời
24. Nhìn điều không muốn như huyễn
25. Viên thí
26. Viên giới
27. Viên nhẫn
28. Viên cần
29. Viên định
30. Viên tuệ
31. Đoạn lỗi
32. Không nêu lỗi người
33. Cắt ái nhiễm quyến thuộc
34. Không trả thô ác ngữ
35. Trừ tập quán xấu
36. Tỉnh thức luôn
37. Hồi hướng trọn công đức
NGUYÊN BẢN
Khấn Nguyện
"Cung kính đảnh lễ Quán Thế Âm;
Đại bi ban phát trọn từ tâm.
"Các đấng khứ lai bao lần hiện
Tri kiến vạn vật đều không huyễn,
Tận hiến trọn thời và chuyên cần
Cứu cánh trong tâm quyết "Độ nhân!"
Chư Thượng Tôn sư, và Quán Thế,
Đấng trọn tri kiến luôn Bảo vệ,
Cúi lễ Ngài, dâng tâm chí thành,
Tạ ân bằng trọn ý, ngữ, hành.
"Chư Phật Chiến Thắng, Đấng Toàn Giác,
Chân cội an bình và phúc lạc,
Giác ngộ nhờ theo đúng Pháp mầu
Quy hướng đời vào Đạo tối cao.
"Sống bằng Pháp tùy vào viên kiến
Về cách tu tập và hành thiện.
Giờ đây tôi xin cố giải bàn
Bồ tát tu tập hạnh từng làm.
Đoạn 1
"Thân người vững chãi lại nhã nhàn —
Con thuyền hiếm quý rất khó tầm —
Giờ ta đắc một không khuyết lỗi,
Tu tập đêm ngày chẳng dời đổi
Vượt biển khổ giải thoát luân hồi
Chẳng riêng ta trọn cả bao người
Lắng nghe, tư duy và thiền lự —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 2
"Trụ lâu chốn ấy sanh nhiễm ái,
Thân tình như sóng dập dồn mãi.
Ngọn lửa giận hờn kẻ quấy phiền,
Thiêu công đức cũ bao kiếp hiền.
Bóng tối che mắt nhìn thiển cận,
Khó phân hay dở, dễ nhầm lẫn.
Thôi hãy lìa quê cảnh riêng tây —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 3
"Xa rời hẳn mọi điều khích động,
Hồn chao đảo sẽ dần tĩnh lặng.
Tịnh hóa niệm tán loạn buông lung,
Tâm quy đức hạnh sẽ dần tăng.
Tuệ sáng tỏ, cảnh vào tiêu điểm,
Niềm tin nơi Pháp vững vàng thêm.
Sống một mình ẩn dật nơi đây —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 4
"Chung sống lâu rồi đến lúc thôi,
Bạn thân quyến thuộc cũng chia phôi.
Của tiền lao lách công gom nhặt,
Xa tít sau khi đời lịm tắt.
Tâm, là khách trọ của thân, nhà,
Ngày kia phải dọn bỏ đi xa.
Xả niệm đừng lo đời hiện tại —
Chư Bồ tát trọn hành cách ấy.
Đoạn 5
"Gặp phải bạn xấu đưa lối lầm,
Sân hận, tham lam, ngu dại thêm.
Thời giờ tu tập còn đôi chút,
Quên lãng Pháp; hành thiền sơ xuất.
Tâm từ bi cho mọi chúng sanh
Bị chi phối, lạc lõng, lãng quên.
Hãy cắt tiếp giao cùng bạn ác —
Chư Bồ tát trọn hành chẳng khác.
Đoạn 6
"Khi phó thác trong tay Đạo sư,
Chân thật mong cầu hướng dẫn từ
Bậc thông kinh điển rành tập huấn,
Trưởng dưỡng như trăng khuyết tròn dần.
Giải mọi nguy khó, xóa ảo hư,
Nếu trọn lòng tin bậc chân sư,
Phải tôn quý hơn bản thân nữa —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 7
"Chư thiên cõi này chưa hết lo,
Vẫn phải luân hồi, một ngày kia.
Vướng bận như ta, sao che chở?
Trong tù còn giải thoát ai khỏi?
Nhưng Phật, Pháp, và bậc sống nương,
Tự tại cứu độ — chẳng phụ lòng.
Hãy đến quy y cùng Tam Bảo —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 8
"Đức Phật dạy, khổ phải đa mang
Của người kiếp sống lắm đau thương
Là quả bất hạnh do tai ác
Hại người trong nhiều đời kiếp trước.
Không muốn về sau khổ kinh hoàng,
Chớ nao núng dù phải thiệt thân,
Ngưng dứt mọi ác hành nguy hại —
Chư Bồ tát trọn hành cách ấy.
Đoạn 9
"Như sương mai đọng trong phút giây
Trên đầu ngọn cỏ, sớm tan ngay,
Thú vui tìm thấy trong đời tục
Chẳng lưu tồn, thoáng qua khoảnh khắc.
Trong khi thành Phật được tự tại,
An lạc tuyệt vời chẳng đổi thay.
Tận lực đạt cứu cánh siêu diệu —
Chư Bồ tát trọn hành cách ấy.
Đoạn 10
"Mỗi lần đầu thai, bao kiếp đời,
Lại được cưu mang bởi mẫu từ.
Bấy nhiêu bà mẹ còn luân lạc,
Nhẫn tâm sao đành, riêng ta thoát!
Muốn độ tha nhân, nhiều khôn lường,
Cứu các bà mẹ khổ thân thương,
Phát Bồ đề tâm, nguyện thành Phật —
Chư Bồ tát trọn hành chân thật.
Đoạn 11
"Mọi khổ ta mang, chẳng biệt trừ,
Đến từ ước vọng vui riêng tư;
Còn khi hành, ý cho tha lợi
Sẽ sanh vào tối thượng Phật vị.
Thế, nên hoán đổi tư dục tham
Chớ quên cảnh khổ của chúng nhân,
Chuyển lòng ích kỷ thành quan thiết —
Chư Bồ tát trọn hành chẳng khác.
Đoạn 12
"Nếu bị thôi thúc bởi tham dục
Khao khát tài vật chẳng sở thuộc,
Kẻ không may nào trộm của ta,
Hoặc thấy cướp giật, cứ tảng lờ;
Do tâm từ bi không nhiễm trước,
Nguyện trọn hồi hướng cho người đó:
Xin trao của, đức, lẫn hình hài —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 13
"Mặc dù ta chẳng tội tình chi
Và không hại ai suốt trọn đời,
Nếu có kẻ dọa đoạt mạng sống
Chỉ bởi điên rồ tâm loạn động,
Dung thứ cầu người qua khổ tai,
Thoát khỏi đọa bất hạnh sau này.
Vô ngã nhận quả hành khốn khó —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 14
"Nếu ai đồn xấu hoặc phỉ báng,
Về ta, lời ác khó chịu đựng,
Cả khi những điều bị rêu rao
Lắm người tưởng thật cứ tin theo;
Bởi ta vẫn mong kẻ bêu rếu
Vượt khó khăn và tâm thư thái,
Nên ngợi khen xử tốt với người —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 15
"Nếu ngay giữa đám đông tụ lại
Có người cứ nhằm ta ngược đãi,
Lớn tiếng phơi bày các lỗi lầm,
Cười chê các nhược điểm vẫn còn.
Chớ nên giận hay cố chống đỡ,
Lặng nghe và ghi nhận lời họ,
Kính lễ người như một vị thầy —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 16
"Nếu người ta thương và chăm lo
Như mẹ hiền cưng quý con thơ,
Đáp lòng tận tụy bằng oán ghét
Xử ta như kẻ thù sâu nhất,
Hãy xem việc đó bệnh nguy nan
Hành con mình và dấy động tâm,
Càng yêu quý hơn và tử tế —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 17
"Bạn ngang hàng hay kẻ kém thua
Về trí, tâm linh, hoặc sang giàu,
Mắng ta xem không ra gì hết
Do lòng ngã mạn và ghen ghét,
Xem họ như thầy dạy ta luôn
Khiêm tốn và trừ tánh kiêu căng,
Tôn trọng và đặt họ cao cả —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 18
"Dù chỉ là người khốn khó thay
Luôn bị bạc đãi lắm đắng cay,
Nếu cứ bệnh hoạn dày vò mãi
Lại bị hại, đớn đau, ngăn ngại,
Hãy nhận đau khổ của tha nhân
Phải chịu đựng do lỗi đã làm,
Đừng mất dũng tâm khi nhận khổ —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 19
"Được khen, nổi tiếng, ngưỡng mộ nhiều
Người kính nể gặp luôn cúi đầu,
Dù có sản nghiệp thật vĩ đại
Ngang với kho tàng của Thần Tài,
Thế nhưng thấy rõ quả luân hồi,
Dù may mắn, chẳng phải tinh khôi,
Diệt mạn từ vinh hoa khởi dấy —
Chư Bồ tát trọn hành cách đấy.
Đoạn 20
"Sân ẩn trong tâm bị lãng quên
Lại chuyển ngược ra ngoại thù nhân,
Cố tiêu diệt họ, giết hàng vạn,
Vạn kẻ thù khác lại hành hạ.
Thấy rõ bạo hành chẳng giải trừ
Hãy dụng lực nhân ái khoan từ;
Nội hướng điều phục tâm động loạn —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 21
"Buông thả các căn theo các trần
Và uống nước muối cũng như nhau.
Càng dùng nhiều vào cho thỏa thích,
Càng tăng tham muốn và khao khát.
Nên khi chớm bị cuốn hút vào
Bất cứ vật gì các căn ưa,
Cắt nhanh không chút chi do dự —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 22
"Vật trông như hiện hữu chân thật
Chỉ do tâm ảo cấu tạo tác;
Tâm của ta từ thuở uyên nguyên
Nào có tinh túy thật cố nhiên.
Thức giác Chân đế vượt suy niệm
Từ vật được biết với người biết,
Giải phá niềm tin cố nhiên hữu —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 23
"Khi nào gặp một vật đẹp xinh,
Hoặc hấp dẫn vừa ý ưa nhìn,
Đừng bị lầm tưởng nó khác lạ
Hơn chi chiếc ráng trời mùa hạ:
Dù cả hai dường như đáng yêu,
Chẳng có thực chất sau mặt ngoài.
Tránh bị lôi cuốn bởi quyến dụ —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 24
"Bệnh khổ phải chịu trong đời ta
Giống cái chết con mình trong mơ;
Chấp như thật điều vốn huyễn giả
Làm phí sức thân tâm vô bổ.
Bởi lý đó, gặp việc khó ưa
Cảnh thường tạo ra lắm khổ sầu.
Tiếp cận như chỉ là mộng ảo —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 25
"Những bậc tận lực đến Viên Giác
Thí cả thân hướng vào mục đích;
Trước gương khôn sánh, nói làm chi
Đến thí phẩm tầm thường vật tài.
Chớ vọng cầu được đền lòng tốt
Không nghĩ cả đắc thêm công đức,
Dấn thân hành thí pháp quảng đại —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 26
"Nếu thiếu nghiêm giới điều phục hạnh
Ta không thể thành tựu cứu cánh,
Làm sao toại ước vọng tha nhân?
Nỗ lực vô giới, phi lý thuần!
Trước phải bỏ đam mê khoái lạc
Trói vào vòng luân sanh thật chặt.
Phải giữ gìn nguyện thọ giới trì
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 27
"Bồ tát chú tâm hành công đức
Cầu tích lũy thật nhiều việc tốt,
Đối đãi kẻ phá hoại nhiễu nhương
Thử nguyện của họ, như mỏ vàng
Bởi lẽ đó, nên ngưng oán ghét
Và hận sân cùng người tác ác;
Thiền định sâu về nhẫn kiên trì
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 28
"Nếu Bích chi Phật và Thanh văn
Muốn tu Niết bàn riêng cá nhân,
Nỗ lực khôn cùng hầu thành tựu
Dù bị thiêu vẫn không lìa đạo.
Thử xem bao năng lực phải dùng
Bởi những người tu độ tha nhân;
Giác ngộ cần thật nhiều tinh tấn —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 29
"Siêu kiến hội nhập vào tinh túy,
Hiển bày cách thật vật hiện hữu,
Chỉ khởi ngoài cảm xúc nhiễu phiền
Với tâm thanh tịnh làm chân nền.
Vượt khỏi tứ vô sắc giới định
Phải tu đắc nhất tâm bất loạn
Và nhập vào đại định viên toàn —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
30. Viên tuệ
"Viên bố thí, nhẫn nhục, trì giới,
Thiền định cùng tinh tấn chưa đủ;
Nếu thiếu Viên Tuệ, năm thứ trên
Không thể đưa vào Phật quả viên.
Với pháp bồ đề tâm trưởng dưỡng
Trí tuệ thấy tác nhân, hành động,
Và đối thể thảy chẳng thật hữu —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
31. Đoạn lỗi
"Không nỗ lực phân tích rõ ràng
Ảo cấu vương và lầm lẫn mang,
Cho dù bên ngoài tu tập Pháp,
Vẫn cứ hành nhiều việc vô Pháp.
Bởi lẽ đó, nên cố xét qua
Lầm và ảo, lỗi của chúng ta,
Rồi sau đó diệt chúng trọn cả —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 32
"Khi nói chuyện người, ảo cấu lực
Khiến ta trụ trong lỗi kẻ khác,
Nếu chính Bồ tát bị bẻ bôi
Tất danh phẩm ta bị hư hao.
Nên chừa lỗi nói xấu người khác
Đã vào Đại thừa đạo giải thoát.
Chỉ nên đề cập lỗi của ta —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 33
"Tranh cãi người nhà hoặc bạn bè,
Hầu được nể trọng hay vật gì,
Khiến ta không thể lắng nghe Pháp,
Giảm sút thiền định hoặc tu tập.
Nguy cơ thường trụ trong nhà thân,
Cũng như gia đình hay bạn quen,
Buông bỏ ràng buộc vào quyến thuộc —
Chư Bồ tát trọn hành chẳng khác.
Đoạn 34
"Thô ác ngữ thốt ra khi giận
Khiến người đau và tâm động loạn;
Và ta, gắng theo Bồ tát hành
Nhận ra tu tập giảm rõ rành.
Thấy lỗi khởi từ lời thô nặng,
Người nghe quả khó ưa kỳ chướng,
Hãy bỏ lối ngược đãi cùng người —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 35
"Loại hành xấu chóng thành tập quán
Một khi quen cùng hạ tầng tâm;
Nỗ lực tinh chuyên rất cần đến
Tạo đối lực chống các trược nhiễm.
Võ trang bằng tỉnh thức, hồi niệm
Tấn công ngay trược nhiễm như tham;
Trừ cái chướng ngăn ngại tiến bộ —
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn 36
"Nói tóm, điều gì ta hành xử
Trong duyên hay cảnh nào gặp gỡ
Đều phải bằng lực tỉnh giác luôn
Hiểu trọn vẹn trạng thái của tâm.
Phải có tỉnh thức và hồi niệm,
Giúp tập trung, sẵn sàng phục vụ,
Ta hành cho phúc lạc chúng sanh —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn 37
"Mọi công đức tích từ nỗ lực
Đưa vào tu tập đạo thiện đức
Ta hành hầu giải thoát khổ đau
Của vô lượng bà mẹ nhiều đời,
Trọn hồi hướng cho họ thành Phật,
Với tuệ kiến, tha ngã không thật
Lẫn công đức, thảy chẳng phải chân —
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Hồi hướng
"Khi thận trọng theo mọi pháp giảng
Chư Đạo sư Thánh đức truyền xuống
Liên hệ nghĩa kinh và mật thừa
Thuyết bởi chư Phật và Cổ sư,
Tôi viết tác phẩm về tu tập
Ba mươi bảy hành của Bồ tát
Nhằm lợi lạc cho người muốn theo
Con đường chư Bồ tát phải qua.
"Bởi năng lực trí thức kém cõi
Cùng huấn tập thọ nhận ít ỏi,
Tôi không thể làm thơ văn chương
Đúng khuôn thức học giả hài lòng,
Nhưng do dựa trên lời kinh điển
Cùng điều chư Thánh sư chỉ điểm,
Tôi tin chắc không có sai lầm
Đây chính thật điều Bồ tát làm.
"Tuy nhiên, bởi chiều sâu và rộng
Các làn sóng lớn Bồ tát hạnh
Thật khôn lường đối với một người
Lực trí thức hữu hạn như tôi
Nên bị lỗi, mâu thuẫn diễn đạt
Thiếu mạch lạc và khuyết điểm khác;
Cầu xin chư Thánh sư khoan hòa
Nhẫn nại trước các sơ xuất này.
"Bồ đề tâm của Không tối hậu
Và tương đối tánh của từ ái,
Không cực đoan như hữu thế gian
Và nhập định giải thoát lạc an,
Nguyện trọn chúng sanh thọ công đức
Từ nỗ lực do tôi tạo tác
Chứng ngộ như ngài, Quán Thế Âm
Viên kiến đại bi độ chúng con.
CHÌA KHÓA ĐẠI GIÁC NGỘ TAM THẬP THẤT BỒ TÁT HÀNH
CHÌA KHÓA ĐẠI GIÁC NGỘ
TAM THẬP THẤT BỒ TÁT HÀNH
Gyal-Sa Lag-Len So-Dun-Ma
Đạo sư Trước tác
Bồ Tát Togmey Zangpo (1245-1369)
Luận sư Yếu giải
Hòa Thượng Geshe Tsultim Gyeltsen
TAM THẬP THẤT BỒ TÁT HÀNH
YẾU GIẢI
(tiếp theo)
20. Diệt nội thù
Sân ẩn trong tâm bị lãng quên
Lại chuyển ngược ra ngoại thù nhân,
Cố tiêu diệt họ, giết hàng vạn,
Vạn kẻ thù khác lại hành hạ.
Thấy rõ bạo hành chẳng giải trừ
Hãy dụng lực nhân ái khoan từ;
Nội hướng điều phục tâm động loạn -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Trong đoạn hai mươi, nói rằng việc đối kháng dòng tâm bệnh hoạn bằng trợ lực mạnh mẽ của từ ái và bi mẫn là một trong các tu tập của Bồ tát. Trận chiến ta phải tham dự diễn ra trong nội tâm. Lực lượng tham chiến và lực lượng ta cố chinh phục đều ẩn bên trong ta. Đoạn này nói nếu ta không thể chinh phục được kẻ thù thật sự ở bên trong, đó chính là sự thù hận, thì dù có thắng bao kẻ thù bên ngoài, lại sẽ có thêm nữa. Các lực lượng từ ái và bi mẫn mà ta nói đến ở đây không phải là điều gì có thể đạt được từ một người nào khác. Có các thứ phẩm tánh ta cần phải phát triển tự bên trong. Dùng lực từ bi tiêu diệt sân hận là một trong các tu tập của Bồ tát.
Trong Bồ Đề Hành Kinh, ngài Tịch Thiên (Shantideva nói rằng, nếu chúng ta có nhiều mẫu đất đầy gai nhọn, thật khó dùng da che phủ trọn mặt đất. Nhưng nếu ta có một đôi dép bền chắc dưới chân làm bằng thứ da của sự nhẫn nhục, thì bao gai góc cũng đều khuất phục. Xem như ta có nhiều kẻ ngoại thù. Phải mất một thời gian lâu dài mới có thể diệt trừ được họ, nếu phải đối diện mỗi lần từng người một. Tuy nhiên, nếu ta chinh phục hận thù bên trong, tức kẻ nội thù, thì tất cả kẻ ngoại thù đều tự động biến mất. Thí dụ về bàn chân và mảnh đất đầy gai rất hữu ích. Ngoài ra, tất cả các điều trong Bồ Đề Hành Kinh do Tịch Thiên viết từ kinh nghiệm bản thân của ngài. Vả chăng, đa phần các kinh văn của các đại trí giả Ấn độ, các đại học giả và du già Tây tạng, cho đến nay, đều viết từ các kinh nghiệm bản thân của chư vị.
Cùng trong nội dung này, đệ Nhất Đạt lai Lạt ma, Gendun Drub, viết một bài thơ nhan đề Đông Tuyết Sơn Hành. Gendun Drub là đệ tử trực tiếp và đồng thời của Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa). Thỉnh thoảng, ngài về thăm nơi cố quán Tsang.
Một hôm, khi đang ở Tsang, ngài đột nhiên cảm thấy rất nhớ vị lạt ma của mình, Tông Kha Ba. Thế nên, ngài đã làm bài thơ nói rằng, "Có một vầng mây trắng trên đỉnh núi dường như cố vươn lên trời. Nhìn vầng mây đó khiến tôi nhớ vị lạt ma từ ái của mình, và tôi trọn lòng tin nơi thiện tâm của ngài." Trong bài thơ đó, trong một dòng ngài nói dak, có nghĩa là kẻ thù, nang, có nghĩa bên trong, và duk, có nghĩa là sống. "Ảo cấu là kẻ thù ở bên trong ta, thế nên ta phải chinh phục chúng."
Mọi người ở đây, kể cả chính tôi, phải cố làm bằng trọn nỗ lực hầu khuất phục kẻ thù bên trong chúng ta. Nói cho đúng, tâm ảo cấu ta mang bên trong chính là kẻ thù thật sự. Để sáng tỏ hơn, tôi xin kể câu chuyện về một vị đại du già, ngài Milarepa. Có lần Milarepa thiền trong một hang núi bên trong rất tối tăm, trông như động ma. Ngài luôn lo sợ hôm nào đó có kẻ nào từ trong bóng tối xuất hiện và tấn công mình. Ngài rất lo sợ. "Có thứ gì đáng sợ sẽ xuất hiện từ chỗ đó và hại ta." Một hôm bỗng hiện ra một ông kẹ trông thật dễ sợ, khủng khiếp. Trước tiên, Milarepa kinh hoảng. Rồi nhận ra được sự khiếp đảm của mình, ngài ngưng lại và bắt đầu quán xét sự tiến triển của trường hợp này. Ngài nhận thức đó chính là sự thêu dệt của chính tinh thần mình, sản phẩm của tâm mình, đã hiện ra vào lúc ấy. Bởi lý do đó, ngài làm một bài thơ như sau, "Trừ phi tâm ta khởi dậy như kẻ thù, thì không có lý do gì để ông kẹ đó đến như kẻ thù." Sau khi ngài đọc bài thơ đó và ngồi thiền, ông kẹ biến mất.
21. Lìa buông lung căn trần
Buông thả các căn theo các trần
Và uống nước muối cũng như nhau.
Càng dùng nhiều vào cho thỏa thích,
Càng tăng tham muốn và khao khát.
Nên khi chớm bị cuốn hút vào
Bất cứ vật gì các căn ưa,
Cắt nhanh không chút chi do dự -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn thứ hai mươi mốt nói về việc loại trừ các vật vốn dĩ nguyên nhân trực tiếp của sự bám víu và ràng buộc, là một trong các tu tập của Bồ tát. Tất cả các ngoại hình đẹp đẽ của cõi dục giới (karmadhatu) cũng chỉ như nước muối. Các đối vật của ngũ căn - [ngũ trần] sắc, thanh, hương, vị, xúc - đều giống như nước muối ở biển. Càng uống nhiều nước biển, ta chỉ càng khát thêm. Thay vì giải khát, nó khiến tệ hại hơn. Tương tự, ta càng dung dưỡng các đối vật của ngũ căn, thì tham luyến và sân hận càng gia tăng. Không cách chi việc dễ dãi cùng các trần đó lại cho phép ta giảm thiểu sự tham luyến. Chẳng hạn, nếu ta yêu thích vẻ đẹp của một bông hoa, trước hết ta ngắm nhìn một đóa hoa, nhưng ngày kế tiếp, ta lại muốn một đóa hoa khác đẹp hơn nữa. Rồi ta lại ngắm nhìn, và cứ đi lòng vòng các tiệm hoa để tìm mua một bông hoa khác đẹp hơn. Hoặc, giả như ta là người yêu âm nhạc, ta cứ lắng nghe nhạc, và luôn luôn hy vọng được nghe một thứ âm nhạc hay hơn nữa. Lòng yêu nhạc đó khiến ta bỏ nhiều tiền mua dĩa hát và tham dự hòa tấu. Và không phải chỉ mất tiền bạc; thời giờ bỏ vào trong trình tự đó, với tất cả thời giờ phí phạm cho việc tham luyến âm thanh. Vài người cảm thấy họ phải mua dĩa nhạc, và khi họ cần dời nhà hoặc tái định cư, vấn đề lớn nhất của họ là làm sao mang theo hết các dĩa nhạc họ mua suốt nhiều năm trời.
Nếu ta say mê mùi hương, thì ta lại mất nhiều thời giờ, năng lực, cố đi tìm một mùi hương tuyệt hảo. Ta không bao giờ thỏa mãn mà cứ đi mua hết mùi nước hoa này sang mùi khác. Ta đi từ cửa tiệm này sang gian hàng nọ, bỏ nhiều thời gian, chỉ tìm một loại mùi hoàn hảo. Đó là kết quả của sự mê đắm mùi hương. Nếu ta lại say mê thực vị, thì cứ đi hết nhà hàng này sang quán ăn nọ, mà sự thèm muốn vẫn cứ tăng lên. Chẳng hạn như, đã được ăn một bữa thật ngon, ta chớ hề bảo, "Được rồi, ăn vậy là đủ." Không, ta phải ăn một thức ăn gì ngon hơn nữa. Đó là cách sự thèm muốn thực vị cứ gia tăng mãi. Không hề có chấm dứt. Dĩ nhiên, ta cần sử dụng sức mạnh của ngũ căn, nhưng ta phải dùng chúng một cách chừng mực. Ta cần có cảm giác thỏa đáng của ngũ căn, để không phải mất nhiều thì giờ hoặc năng lực tìm kiếm các đối vật. Bởi ta quả thật dễ vướng vào tham luyến, nên tác giả đã khuyến tấn ta buông bỏ sự mê đắm hoặc bám víu vào ngũ căn ngũ trần. Đó là một trong các tu tập của Bồ tát.
22. Phá niềm tin hữu cố nhiên
Vật trông như hiện hữu chân thật
Chỉ do tâm ảo cấu tạo tác;
Tâm của ta từ thuở uyên nguyên
Nào có tinh túy thật cố nhiên.
Thức giác Chân đế vượt suy niệm
Từ vật được biết với người biết,
Giải phá niềm tin cố nhiên hữu -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Có hai tướng của hiện tượng [cảnh]: do đối thể và do tâm nhận biết đối thể. Đoạn thứ hai mươi hai nói, nhận thức tướng đối thể hoặc chủ thể chẳng phải tự chúng hiện hữu, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Cho dù cảnh thị hiện ra sao đối với ta, đều phát nguồn từ tâm ta. Nhưng chính tự tâm, vốn là khởi nguồn, cũng thiếu chân hiện hữu ngay từ chân khởi thủy. Đoạn này theo nghĩa ngôn từ, đừng chấp vào cảnh do tâm nhận thức cảnh, nhưng không có nghĩa không nên hiểu biết chúng. Đây chỉ có nghĩa đừng nhận thức chúng như tự hiện hữu chân thật và độc lập.
Ánh sáng là bản chất của tâm ta. Bản chất của tâm vốn không bị nhiễm cấu bởi các niệm tưởng, và các cấu hoặc trần cũng chẳng phải bất phân cùng tâm ta. Dĩ nhiên, ánh sáng của tâm tạm thời bị ám chướng bởi cấu trần bên ngoài, những hôn ám đó không phải tự bên trong tâm. Đức Di Lặc (Maitreya) dạy trong Tối Thượng Mật Luận (Uttaratantra), "Bản tánh chân nguồn của tâm sáng tỏ và các cấu trần bám vào chỉ tạm bợ hoặc ngẫu nhiên."
Tất cả mọi cấu hoặc trược đều là tạm bợ hoặc ngẫu nhiên, và, do đó, không phải là thành phần của chính bản chất tâm. Do đó, chúng ta có thể giác ngộ. Một điển hình là chiếc áo khoác bám bụi. Dù chiếc áo bị dơ, nhưng bụi có thể tẩy sạch, bởi vì bụi đất chẳng phải bất phân cùng chiếc áo. Nếu cấu trược bất phân với tâm, thì không cơ may nào giác ngộ. Nếu ta chấp nhận niềm tin rằng cấu trược đã vào trong tâm và là một với tâm, tất nhiên khi ta tẩy cấu trược đi, cũng là mang theo cả tâm với nó. Nhưng không phải như thế.
23. Nhìn vật đẹp như ráng trời
Khi nào gặp một vật đẹp xinh,
Hoặc hấp dẫn vừa ý ưa nhìn,
Đừng bị lầm tưởng nó khác lạ
Hơn chi chiếc ráng trời mùa hạ:
Dù cả hai dường như đáng yêu,
Chẳng có thực chất sau mặt ngoài.
Tránh bị lôi cuốn bởi quyến dụ -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn hai mươi ba nói rằng, dù những vật hoặc người hấp dẫn xuất hiện trước ta, đừng tham luyến hoặc mê chấp vào đấy, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Nếu ta thật sự mang ý nghĩa đó trong tâm, thì dù ở trong một thành phố lớn như Los Angeles cũng chẳng gặp vấn đề gì. Thông thường ta có ý tưởng rằng, nếu sống ở thành phố lớn, ta dễ bị xúc chạm nhiều hơn bởi tham luyến, sân hận, và vô minh đầy dẫy. Nếu giữ ý niệm đó, tất ta đi sai đường, vì đang tin tưởng rằng mọi thứ đều từ bên ngoài đến, chứ không phải ở bên trong. Nhiều người trong chúng ta có ý niệm đó, nhưng không đúng chút nào. Nếu chúng ta không có hai yếu tố đó, tham luyến và mê chấp, thì dù ở thành phố lớn cũng chẳng gặp vấn đề gì.
Trong dòng đầu có nói, "Bất cứ khi nào tôi gặp một vật tuyệt đẹp hoặc hấp dẫn, xin cho tôi xem như là chiếc ráng trời mùa hạ trên đồng cỏ." Giống như ráng trời, vật có thể hiện ra thật xinh đẹp trong mắt ta. Sự kiện vật hiện ra thật đẹp đối với ta hầu như do nhận thức tinh thần giả tạo. Ta tin rằng phẩm tánh thu hút của vật là cố hữu trong chúng. Thật ra, không có hiện hữu độc lập của một phẩm tánh nào cách rời khỏi nhận thức của ta về nó. Người ta có thể lập luận rằng, đây không phải là một thí dụ hay, bởi vì ráng trời không thể sờ chạm được. Trong khi đó, các vật mà ta thấy thật hấp dẫn có thể nói chuyện, sờ chạm, và cảm giác được.
Sự tương đồng giữa hai thứ trên nằm trong cách chúng đều tùy thuộc vào một số nguyên nhân nào đó. Ráng trời có điều kiện là hai trạng thái đến cùng lúc, ánh sáng và hơi ẩm. Khi ánh sáng và hơi ẩm đồng lúc hiện ra trong không gian, thì ráng trời xuất hiện. Các vật hấp dẫn khác là kết quả của nhiều trạng thái và điều kiện đến với nhau, tạo nên vật hấp dẫn đó. Tuy nhiên, không hề có sự hấp dẫn cố nhiên hiện hữu độc lập nào cả. Lấy thí dụ về một chiếc xe. Không có chiếc xe đẹp nào hiện hữu độc lập khỏi các thành phần của nó hoặc sự nhận thức của ta về nó. Chiếc xe chỉ là sự kết tập của rất nhiều điều kiện đến cùng nhau, và ta gán đặt, đó là một chiếc xe đẹp.
24. Nhìn điều không muốn như huyễn
Bệnh khổ phải chịu trong đời ta
Giống cái chết con mình trong mơ;
Chấp như thật điều vốn huyễn giả
Làm phí sức thân tâm vô bổ.
Bởi lý đó, gặp việc khó ưa
Cảnh thường tạo ra lắm khổ sầu.
Tiếp cận như chỉ là mộng ảo -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn hai mươi bốn nói, khi ta đối diện cùng đau khổ hoặc vật không mong muốn, hãy nhận thức về chúng như huyễn ảo, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Tất cả các loại khổ ta kinh nghiệm chính là quả của nhận thức sai lầm, giống như giấc mộng. Khi ta mộng thấy mất một trong các anh chị em hoặc đứa con duy nhất của mình, quả thật đau đớn, nhưng đó chỉ là thị hiện sai lầm. Sự khổ, đau, và lo sợ ta kinh nghiệm trong giấc mơ là thật ngay dù khi sự việc đó không hề xảy ra. Đôi khi ta còn khóc và sáng hôm sau thấy gối ướt đẫm. Đôi lúc ta thấy một điều gì thật buồn cười trong chiêm bao, và cười lên, có khi làm người ở gần phải thức giấc.
Trong nội dung này, tôi xin trích dẫn Tịch Thiên (Shantideva) trong Bồ Đề Hành Kinh, nói rằng, "Tất cả thể hiện của đau khổ được kinh nghiệm bởi địa ngục chúng là quả của nhận thức sai lầm [tà kiến], nhưng do ảnh hưởng của nghiệp, nó trở nên thật đối với kẻ nào gặp phải." Do ác nghiệp, sự kiện kia trở nên thật đối với kẻ đó. Đấng tạo tác mặt sắt nóng bỏng của địa ngục [thiết vi địa ngục], có vẻ như trường tồn bao kỷ nguyên, thật ra chỉ là chính cái tâm tiêu cực [tà tâm] của ta.
Chư Phật giải thích các thể hiện đó đều chỉ là quả của tà tâm.
Trong trường hợp riêng, ta không thể nhìn ảo ảnh là ảo ảnh, mà nhận thấy nó hiện hữu chân thật. Do đó, vấn đề bắt đầu xuất hiện.
Đoạn này nói, "Từ đây trở đi, xin tôi có thể nhận biết sự thị hiện nhầm lẫn như chính nó." Lại nữa, trong Lama Chopa có nói, "Tất cả nội cảnh và ngoại cảnh, vốn như ảo huyễn, khác nào giấc mộng hoặc phản ánh của trăng trên mặt nước hồ trong trẻo.
Cho dù chúng hiện ra, khi nhìn ra được khía cạnh thiếu chân hữu của chúng, xin tôi có thể viên mãn thiền định về như huyễn."
25. Viên thí
Những bậc tận lực đến Viên Giác
Thí cả thân hướng vào mục đích;
Trước gương khôn sánh, nói làm chi
Đến thí phẩm tầm thường vật tài.
Chớ vọng cầu được đền lòng tốt
Không nghĩ cả đắc thêm công đức,
Dấn thân hành thí pháp quảng đại -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn thứ hai mươi lăm nói về tu tập pháp thí [thí ba la mật] không cầu vọng đền đáp. Nếu những bậc hướng đến Giác ngộ thí đến chính thân mạng họ, thì ta còn đề cập chi đến các loại phẩm vật tầm thường cần tặng dữ. Phát tâm quảng đại thật sự nhằm trưởng dưỡng thí lực. Có bốn loại thí ta có thể tu tập: thứ nhất, tu thí tài vật [thí tài hoặc thí sắc]; thứ nhì, thí giáo pháp [thí pháp] - chia sẻ sự hiểu biết; thứ ba, thí từ bi [thí từ ái]; và thứ tư, thí quy y hoặc hộ trì [thí an hoặc thí vô úy].
Trong bốn loại, cao thượng nhất là thí Pháp. Chúng ta có thể không có thứ gì, kể cả một đồng xu, nhưng vẫn có thể tu tập bố thí chia sẻ Pháp cùng người khác. Khi nỗ lực thí Pháp, có thể ta cảm thấy, "Làm sao tôi lại có thể giảng Pháp được." Tôi không nghĩ đó là một ý niệm đúng. Chẳng hạn như, khi ta đọc tụng kinh, có thể tăng cường độ âm thanh để người lân cận được nghe, trong ý định đó là một hình thức Pháp thí, và với hy vọng sẽ mang lợi lạc đến cho họ. Đây cũng đã là một hình thức Pháp thí. Khi ta ở một mình trong công viên hay ngoài đường, và nhìn thấy thú vật hoặc chim chóc, cố niệm vài câu chú, danh hiệu của vị Thánh, hoặc hồng danh của đức Phật, trong hy vọng sẽ lợi lạc cho chúng. Đó cũng là một hình thức bố thí. Chẳng hạn như, ta đừng quên đàn kiến, và nghĩ là chúng ngoại lệ; không phải vậy. Ta có thể đến gần ổ kiến và tụng hồng danh đức Phật, để chúng được nghe. Ngay dù ta không có thần thông chuyển hóa hoặc lợi lạc trực tiếp cho đàn kiến, chắc chắn hồng danh chư Phật được tụng đọc cho chúng sẽ có vài ảnh hưởng.
Ta cũng có thể tu tập pháp thí bằng cách trao tài vật cho người khác. Nhưng nếu trao vật gì ta trộm cướp hoặc lừa đảo, đó chỉ là thí bất tịnh. Ta làm chủ thân thể mình, nhưng đối với tất cả các bà mẹ chúng sanh việc có thể trao tặng thân mình là điều khó khăn nhất. Chúng ta không có khả năng trao trực tiếp, tuy nhiên vẫn có thể tưởng tượng trao tặng thân mình cho người khác. Nếu nghĩ là người nào cần một thứ gì ta không có, ta có thể dùng tinh thần hình dung hoặc tưởng tượng trao tặng nó cho người đó.
Khi tu pháp môn thí, đừng nghĩ đến quả của nghiệp đó cho chính mình. Ta không nên nghĩ, "Tôi sẽ được gì khi tu tập thế này? Quả chín tuyệt vời nào sẽ dành cho tôi?" Ý tưởng như thế sẽ khiến hành động bố thí thành bất tịnh. Tuy nhiên, một điều ta không nên quên là phải hồi hướng công đức của mình: "Do công đức của tu tập bố thí này, xin cho tất cả chúng con Đại Giác ngộ." Kinh hồi hướng phải được tụng sau mỗi tu tập. Khi ta cảm hướng Đại Giác ngộ do bố thí, tức là nói đến quả đắc được, hoặc quả của thiện nghiệp. Tuy nhiên, Giác ngộ không phải là quả của nghiệp, mà đúng hơn là kết quả của tích lũy công đức. Lấy thí dụ, ngài Milarepa không sở hữu vật gì, thế nhưng ngài đã thực hiện vô số thí trong một ngày. Trong một bài thơ, ngài viết, "Tôi không có vật phẩm cúng dường nào dành cho chư đạo sư, nhưng xin báo đáp tâm từ bi của đạo sư bằng việc tu tập giáo pháp thật tinh chuyên." Một thứ cúng dường tốt nhất có thể hành chính là cúng dường việc tu tập của chúng ta. Đó là pháp thí cao thượng nhất.
26. Viên giới
Nếu thiếu nghiêm giới điều phục hạnh
Ta không thể thành tựu cứu cánh,
Làm sao toại ước vọng tha nhân?
Nỗ lực vô giới, phi lý thuần!
Trước phải bỏ đam mê khoái lạc
Trói vào vòng luân sanh thật chặt.
Phải gìn giữ nguyện thọ giới trì -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Tu tập thứ hai mươi sáu của Bồ tát chính là vun trồng giới hạnh mà không có ý cầu luân sanh. Không có giới hạnh, chúng ta không thể đạt đến mục tiêu cá nhân, thế nên việc cố đạt một điều gì cho người khác chỉ là trò cười. Mục tiêu của ta bao gồm hai điều: một là thành tựu cho cá nhân; hai là thành toàn cho tha lợi. Hầu đạt một trong hai, tất cả mọi tu tập của ta đều phải đặt trên giới đức thỏa đáng. Điều này đã được đức Phật thiết lập rõ ràng trong Biệt Giải Thoát Kinh (Pratimoksha Sutra), chỉ dạy, "Như một người không chân làm sao chạy, một người thiếu giới đức chánh đáng chẳng thể nào thoát khỏi luân sanh." Tất cả ngợi khen và lợi ích của giới luật được đức Phật dạy rõ vào chi tiết trong Biệt Giải Thoát Kinh. Chẳng hạn như, nếu chúng ta sống trong tu viện, cứ mỗi mười lăm hôm ta phải làm điều gọi là sám hối, và ta lắng nghe Biệt Giải Thoát Kinh.
Thế nào là giới đức? Định nghĩa thật sự của giới đức chính là mong cầu hoặc tự nguyện ngưng các ác hành. Giới đức được dùng như một bức tường ngăn chặn dòng nước cuốn của ác hành. Khi ta đạt đến hạnh giới đức, dòng nước của mọi ác hành tương lai sẽ bị ngăn chặn. Có các điều luật đặc biệt cho giới hạnh thuộc vào nguyện Biệt giải thoát (Pratimoksha) [cụ túc giới của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni], nguyện Bồ tát giới, nguyện Mật tông. Nhưng dù ta không phát nguyện nào như thế, vẫn cần phải tu tập giới đức tự nhiên bằng cách diệt trừ các sinh hoạt thiếu đạo đức [thập bất thiện].
27. Viên nhẫn
Bồ tát chú tâm hành công đức
Cầu tích lũy thật nhiều việc tốt,
Đối đãi kẻ phá hoại nhiễu nhương
Thử nguyện của họ, như mỏ vàng
Bởi lẽ đó, nên thôi oán ghét
Và hận sân cùng người tác ác;
Thiền định sâu về nhẫn kiên trì -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Vun trồng nhẫn nhục, thay vì sân hận, đối với những người hãm hại ta, là tu tập thứ hai mươi bảy của Bồ tát. Có nhiều câu chuyện về nhẫn nhục, nhưng ở đây, nhẫn được sánh với một kho tàng. Một người tìm thấy một kho tàng sẽ vô cùng vui sướng, vì sự giàu sang tức khắc. Khi người mong cầu sự phú túc của đức hạnh gặp kẻ nào làm hại mình, cũng giống như tìm thấy một kho tàng, vì nó tạo cơ hội tu tập nhẫn nhục. Nó trở thành một nguồn vui lớn lao cho người đó. Từ đó, ta có thể từ bỏ sân hận, và phát khởi nhẫn niệm đối với mọi chúng sanh. Theo Lam Rim Chenmo, đại Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) nói, bố thí như một bảo châu như ý thỏa đáp nguyện vọng của người khác, trong khi giới luật như nước mát giải nhiệt của tham dục. Bảo châu như ý là bố thí; lực hóa giải nhiệt tham dục là giới luật; và nghiêm sức tuyệt hảo chính là nhẫn nhục.
Nhẫn nhục là món trang nghiêm tuyệt hảo cho những người dũng mãnh. Ảnh hưởng của nhẫn nhục khởi đầu ngay từ trong nhà với người ta cùng chung sống. Nếu ta sống với thầy mình, nó khởi đi từ vị thầy. Tại nhà, nó bắt đầu ở con cái và vợ hoặc chồng, và rời nhà là sang đến láng giềng lân cận. Nếu ta hiểu được ảnh hưởng tàn phá của hận thù và sân giận, tất không gặp khó khăn khi thiền quán nhẫn nhục. Dĩ nhiên, ảnh hưởng lớn nhất của sân hận là nó dẫn ta vào cõi địa ngục. Lại nữa, tất cả đức hạnh ta đạt được mà chưa hồi hướng vào Giác ngộ đều bị hủy diệt bởi một khoảnh khắc sân hận. Đặc biệt, nếu sân hận hướng về một trong các thân bằng hoặc vị thầy của ta, hậu quả còn nặng nề hơn nữa. Nếu ta nổi giận cùng cha hoặc mẹ, hay cùng người bệnh hoạn trong tình trạng yếu đuối, hậu quả cũng khá nặng nề. Cường độ ảnh hưởng của sân hận tùy thuộc vào đối tượng. Nếu đối tượng của ta là nguồn thiện ý lớn đối với ta, thì sân giận đó trở nên tàn hoại. Đối với người bệnh, có thể họ không tử tế với ta, những vì người đó ở trong điều kiện yếu đuối, cho nên giận họ rất có hại. Dĩ nhiên, sự tan rã tình bạn thường do sân giận mà ra. Sân có thể là nguồn gốc của các chia rẽ giữa cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, hay bạn bè, bởi vì một khi lửa sân bốc cháy, ta rất khó làm dịu lại. Sân khởi đầu nhiều mâu thuẫn, và dần dà đưa đến bất hòa giữa người ta. Nếu thiền về các tác hại của sân, ta sẽ không gặp trở ngại khi trưởng dưỡng nhẫn.
Nhẫn không chỉ có nghĩa kham chịu sự khiêu khích mà không nổi giận. Nhẫn còn vượt xa hơn thế. Chẳng hạn như, nếu chúng ta vượt qua được sự khó nhọc vô bờ của tiến trình tu tập, kham chịu sự khó nhọc đó chính là một hình thức nhẫn. Khi các Bồ tát phải thực thi các hành vô cùng khó khăn, chư vị chấp nhận mọi khó nhọc với sự cao thượng và phấn chấn. Đó là một hình thức nhẫn. Mọi người chúng ta đều thấy khó chịu đựng các nặng nhọc trong tiến trình truyền thống hàng ngày. Lấy thí dụ, sau một ngày phải làm việc mệt nhọc, khi về đến nhà ta đã hết hơi sức, thế nên khi ngồi xuống tu tập, ta chỉ muốn làm cho nhanh và rút ngắn nó bất cứ khi nào có thể. Đó là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy ta thiếu sự kham nhẫn trước khó khăn.
Chúng ta có thể chịu đựng khó khăn đó bằng cách nói, "Cho dù điều gì xảy ra hoặc khó khăn cách mấy, tôi không thể phương hại việc tu tập. Tôi phải hành bằng trọn khả năng mình, làm trọn trách vụ cho tiến bộ cá nhân, cũng như trách vụ nhận lãnh vì tha nhân. Tôi không thể phương hại." Với thái độ đó, ta có thể đối đãi các giờ phút khó khăn trong từng ngày, và đặt việc tu tập Pháp của mình lên hàng tối thượng. Kết quả tích cực của sự kham nhẫn khó khăn rất lớn lao. Thế nên nó đáng giá mọi nỗ lực bảo trì kham nhẫn bất cứ lúc nào.
28. Viên cần
Nếu Bích chi Phật và Thanh văn
Muốn tu Niết bàn riêng cá nhân,
Nỗ lực khôn cùng hầu thành tựu
Dù bị thiêu vẫn không lìa đạo.
Thử xem bao năng lực phải dùng
Bởi những người tu độ tha nhân;
Giác ngộ cần thật nhiều tinh tấn -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Tu tập thứ hai mươi tám của Bồ tát là vun trồng sự tinh tấn chuyên cần cho lợi lạc mọi chúng sanh. Đoạn này nói, ngay cả chư Thanh văn (Shravakas) và Bích chi Phật (Pratyekabuddhas) tu tập hầu đắc quả cho cá nhân, cũng phải hăng hái làm việc. Nếu tóc ta bốc lửa, ta phải hành động thật nhanh hầu dập tắt lửa. Tương tự, chư vị phải làm việc cùng tốc độ đó. Đương nhiên, nếu lửa cháy, ta không thể ngồi yên phút nào mà phải dập tắt ngay càng nhanh càng tốt. Như thế, nếu Thanh văn và Bích chi Phật, chỉ làm việc cho quả vị cá nhân, đã phải làm tận lực như thế bằng trọn cả tinh chuyên; chúng ta làm việc hầu đắc Đại Giác ngộ cho phúc lạc toàn chúng sanh, tất nhiên phải làm việc ít ra khó nhọc ngang bằng hoặc hơn nữa.
Thế nào là tinh tấn? Tinh tấn là sự hứng thú sáng suốt khi làm điều gì đức hạnh. Tại Mỹ, người ta hay dùng từ "năng lực" (energy). Nhưng, tôi nghĩ tinh tấn và năng lực có hơi khác nhau. Theo cách tôi hiểu, "năng lực" gần giống như sự can đảm. Thế nên, chúng ta có thể can đảm trong cả việc tốt lẫn việc xấu.
Chúng ta có thể làm việc thật lao nhọc cho một thứ gì tiêu cực, ngay cả làm đổ mồ hôi, nhưng mồ hôi đó không phải là kết quả của sự tinh tấn. Ngay dù phải lau mồ hôi trên trán, mồ hôi đó không do tinh tấn. Định nghĩa theo tự vựng của tinh tấn là sự hăng say thực thi các hành đức hạnh. Điều này quan trọng đối với tất cả chúng ta, vì ta cần sự thành tựu khởi phát từ tinh tấn.
Nguyệt Xứng (Chandrakirti), trong quyển Trung Đạo Hành (Madhyamakavatara), bảo rằng tất cả kiến thức đều theo sau tinh tấn. Tinh tấn dẫn đến kiến thức. Cũng thế, Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) viết trong Lam Rim Chenmo, nếu ta khoác y giáp tinh tấn, tất kiến thức sẽ gia tăng trong ta như trăng tròn dần. Đó là lý do chư vị đã khuyến tấn chúng ta phải luôn giữ sự hứng khởi tuôn tràn như dòng nước chảy. Nó không thể rời rạc hoặc gián đoạn, hứng thú vài ba hôm rồi lại buông thả. Thay vì vậy, chúng ta cần thật tinh chuyên, gìn giữ sự liên tục tháng này qua tháng nọ, năm này qua năm khác. Rất quan trọng chúng ta cần phải gia trì năng lực trong tu tập hàng ngày, và làm việc hàng ngày với lòng hăng hái, không cần ai nhắc nhở, mà làm cho chính bản thân mình.
29. Viên định
Siêu kiến hội nhập vào tinh túy,
Hiển bày cách thật vật hiện hữu,
Chỉ khởi ngoài cảm xúc nhiễu phiền
Với tâm thanh tịnh làm chân nền.
Vượt khỏi tứ vô sắc giới định
Phải tu đắc nhất tâm bất loạn
Và nhập vào đại định viên toàn -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn hai mươi chín nói thiền về định (samadhi) [tam muội da] vượt khỏi bốn cảnh trời vô sắc giới, là một trong các tu tập của Bồ tát. Định hoặc chỉ (shamatha) là tâm tịch tĩnh trụ vào một cứ điểm hay một đối tượng [nhất tâm bất loạn]. Tâm phối hợp được an định và thẩm kiến (vippasyana) [minh sát kiến, minh sát tuệ] có thể điều phục mọi ảo cấu. Bởi các lẽ đó, thiền chánh định, hoặc nhất trụ định, vượt tứ vô sắc giới thiên, là một trong các tu tập của Bồ tát.
Đa phần thời gian thiền trưởng dưỡng tam muội mang đến quả là tái sanh trong cõi vô sắc giới. Nếu nỗ lực phát triển an định là nhằm đạt đến một trong các hiện hữu vô sắc, thì quả không hữu ích mấy cho chúng ta. Ta phải đạt đến tịch tĩnh cho một thứ gì vượt trên mục tiêu đó. Ở một trong các kinh, đức Phật nói chư Bồ tát không có vọng cầu sanh vào cõi vô sắc, vì chúng sanh trong cõi đó không thể nhìn thấy nhau; thế nên đó chẳng phải chỗ thích hợp cho tu tập Pháp. Bởi lẽ đó, cõi vô sắc là một trong tám nơi thiếu tự do mà chúng ta không muốn sanh vào. Họ cũng thuộc vào cùng loại các vị thần trường thọ không có cơ hội tu tập Pháp.
Thế nào là tịch tĩnh hoặc an định (shamatha)? Tịch tĩnh là tâm an trụ bất loạn vào đối tượng nhất điểm. Đây là một khí cụ tất cả chúng ta đều phải sở đắc. Muốn nhận được khí cụ đó, ta cần thiền về sự phát triển của nó. Với trợ lực của an định, phối hợp cùng thẩm kiến, ta có thể đạt mục tiêu. Ta cần thẩm kiến để có thể quán phân. Như thế, thẩm kiến (hoặc tuệ kiến không tánh) [không kiến tuệ, không kiến] giống như một vũ khí sắc bén, và an định giống như một người mạnh mẽ với đôi vai rắn chắc. Nếu ta dùng thẩm kiến với trợ lực của an định, tất có thể cắt đứt hữu hiệu tận gốc rễ của tất cả ảo cấu, vốn là cội nguồn của tất cả phiền não.
Hiện có rất nhiều người ưa thích thiền an định [chỉ], nhưng nếu chỉ hành có mỗi thứ đó mà thiếu thiền minh sát tuệ [quán], tất thiền an định có khi trở thành một trong các phương tiện dẫn dắt ta lang thang trong vòng luân sanh. Với thẩm kiến, ta không chỉ nói đến một thứ gì ngăn chặn các ảo cấu thô thiển, mà là một thẩm kiến vi tế có khả năng cắt đứt tận gốc rễ của ngã chấp. Tự nó, an định không cung ứng cho ta bất kỳ phương tiện nào nhằm giải thoát khỏi luân sanh. An định, chẳng phải duy nhất trong Phật giáo, mà có thể tìm trong nhiều truyền thống khác nữa. Chẳng hạn như, có nhiều người Ấn giáo có thể đắc an định bằng thiền về các tầng giới của tam muội. Với tâm tịch tĩnh, họ có thể sanh vào cõi sắc giới hoặc vô sắc giới. Với trợ lực của an định, người ta có thể tạm loại trừ các ảo cấu thô của cõi dục giới và ngay cả của cõi sắc giới, nhờ đó tái sanh vào cõi vô sắc giới. Với an định, người ta có thể tiến lên tận đỉnh cao của luân sanh, cao nhất trong bốn cõi vô sắc giới. Bởi vì họ tạm vượt thắng mọi ảo cấu thô của cõi sắc giới và dục giới, họ cảm thấy như đã đạt được một tự do thường xuyên tránh khỏi các ảo cấu, và không còn điều gì tồn lưu để tịch diệt. Họ cảm thấy như mình đã đắc giải thoát.
Nhưng một lần nữa, nghiệp trụ trong cõi đó sẽ dần dà kiệt cạn. Một khi đã cạn, người ta nhìn thấy chốn kế tiếp sắp phải tái sanh vào, đó lại là nơi họ đã từng khởi hành. Sự thất vọng lớn lao đó khiến người ta mất niềm tin nơi Pháp hoặc Giáo, bởi vì họ đã từng ngỡ rằng mình đắc tự do trọn mãn. Khi nhận ra mình vẫn chưa được tự do, họ khởi một cái nhìn tà vạy hoặc thô ác [tà kiến hoặc ác kiến] đối với Pháp. Điều này khiến họ lại sa đọa lần nữa vào cõi dưới thấp kém.
Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) nói rằng, tịch tĩnh, hoặc định, giống như một vị vua hoàn toàn thống trị tâm. Khi tâm được đặt vào một loại đối tượng nào với thứ định đó, nó sẽ trụ bất động giống như núi Tu Di (Meru) khổng lồ. Định đó, nếu hướng về bất cứ điểm đức hạnh nào, sẽ hội nhập theo mà không bị phân tán. Bởi đức tánh của định, cả thân và tâm đặt vào một trạng thái khai triển cực độ, hội nhập đại an lạc tinh thần. Nếu thật nghiêm túc trong thiền an định, ta có thể đắc trong vòng sáu tháng. Tuy nhiên có nhiều trường hợp những người thử trong ba tháng - hoặc ba năm, năm năm, hay sáu năm - mà không đạt gì cả.
Có người cho biết đang thiền an định; và khi được hỏi thiền đã bao lâu, họ đáp khoảng sáu năm, nhưng vẫn chưa điều phục được tâm mình. Thật ra, tôi nghĩ trong các trường hợp đó, không phải do lỗi của pháp thiền an định, mà chính là tiếp cận cá nhân của hành giả có sai lầm.
30. Viên tuệ
Viên bố thí, nhẫn nhục, trì giới,
Thiền định cùng tinh tấn chưa đủ;
Nếu thiếu Viên Tuệ, năm thứ trên
Không thể đưa vào Phật quả viên.
Với pháp bồ đề tâm trưởng dưỡng
Trí tuệ thấy tác nhân, hành động,
Và đối thể thảy chẳng thật hữu -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn ba mươi nói, không có bát nhã (prajna), hoặc trí tuệ [tuệ bát nhã], ta không thể đắc Đại Giác ngộ, cho dù đã hoàn mãn trọn năm thứ ba la mật (paramitas) kể trên. Nhưng tuệ không thể tự nó làm việc. Nó phải đi cùng với phương pháp, đó là bồ đề tâm và từ bi. Ba vòng đó là đối thể thọ hành, tác nhân, và hành động. Hiểu biết cả ba thứ đó đều thiếu chân hiện hữu, chính là trí tuệ. Phối hợp trí tuệ cùng phương pháp là một trong các tu tập của Bồ tát.
Chẳng hạn, nếu lấy thí dụ của thiền định (samadhi), thiền giả chính là tác nhân, định là đối thể, và thiền về định chính là hành động. Tâm thức giác được sự thiếu vắng chân hữu của cả ba thứ trên chính là tâm tuệ. Tuệ ở đây là sự thức giác về đối thể.Trong Tạng ngữ gọi là so sor, có nghĩa một cách cá biệt, và tok pa, có nghĩa hiểu biết; thế nên tuệ chính là sự hiểu biết về đối thể một cách cá biệt. Trong Bồ Đề Hành Kinh (Bodhicharyatavara) nói rằng, năm loại viên hoặc ba la mật đầu là phương pháp giúp ta đi đến loại thứ sáu, trí tuệ. Tất cả năm ba la mật trên đều được đức Phật dạy nhằm hiểu được tuệ, ba la mật thứ sáu. Điều đó có thể tìm thấy trong chương chín của Bồ Đề Hành Kinh của Tịch Thiên (Shantideva).
Chúng ta cần nỗ lực hàng ngày hầu tìm hiểu về ba la mật thứ sáu, tuệ ba la mật, hoặc viên tuệ. Hãy hết sức tinh tấn hầu tiếp cận sự hiểu biết đó. Tôi nghĩ tầm quan trọng của tuệ chính bởi nó là khí cụ hay vũ khí thật sự giúp phá tan ngã chấp. Đặc biệt, hầu vượt qua bóng tối ngăn che tri kiến trực tiếp về hiện cảnh, trí tuệ phải được trợ lực của phương pháp, tức là năm ba la mật trên.
Chẳng hạn như, chư Thanh văn (Shravakas) và Bích chi Phật (Prateykabuddhas) có tuệ kiến không, nhưng bởi vì thiếu phương pháp, các vị không có phương tiện nhờ đó có thể chống đối hữu hiệu bóng tối ngăn che tri kiến trực tiếp về hiện cảnh.
31. Đoạn lỗi
Không nỗ lực phân tích rõ ràng
Ảo cấu vương và lầm lẫn mang,
Cho dù bên ngoài tu tập Pháp,
Vẫn cứ hành nhiều việc vô Pháp.
Bởi lẽ đó, nên cố xét qua
Lầm và ảo, lỗi của chúng ta,
Rồi sau đó diệt chúng trọn cả -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Tu tập thứ ba mươi mốt của Bồ tát là quán xét và truy cứu lỗi lầm của ta trong đời sống hàng ngày, và loại trừ chúng. Nếu ta không truy cứu hoặc quán xét lầm và lỗi của mình, có thể ta đang làm các hành vô Pháp thay vì là Pháp. Bởi lẽ đó, trong đời sống hàng ngày, ta cần quán xét lỗi lầm của chính mình, không chỉ quán xét, mà bất cứ khi nào nhìn thấy chúng, phải ngăn chặn ngay và cố gắng loại trừ chúng. Cố gắng loại trừ các lỗi chính là một trong các tu tập của Bồ tát.
Tôi đã nhiều lần nhắc đến sự quán xét sinh hoạt thân khẩu ý của chúng ta, và bất cứ khi nào nhận ra điều gì sai trái, nên học cách buông bỏ. Tôi cũng nhiều lần luận về việc đó. Một phương pháp là phối kiểm hành động của ta bốn lần trong một ngày. Vào khoảng giữa trưa, ta nên xét lại các việc đã làm vào buổi sáng và kiểm điểm, "Tôi có làm điều gì sai hoặc điều gì tốt chăng?" Nếu làm điều gì tốt hoặc đức hạnh, ta có thể tự khuyến tấn mình làm thêm nữa, nhưng nếu làm điều gì sai trái ta nên hối tiếc, và phải tẩy trừ nó. Khi rời sở làm, ta có thể ngồi trên xe trước khi lái về nhà, và kiểm điểm lần nữa việc đã làm từ sau giờ ăn trưa cho đến khi tan sở. Nên lập một danh sách về những gì đã làm, và nếu làm điều gì đúng, thì có thể vui hưởng nó; nếu làm điều gì sai, nên sám hối việc đã làm. Rồi, trước khi vào giường ngủ, ta nên tái xét lại các hành động, và nhìn xem mình là đã làm việc gì trong ngày hôm đó.
32. Không nêu lỗi người
Khi nói chuyện người, ảo cấu lực
Khiến ta trụ trong lỗi kẻ khác,
Nếu chính Bồ tát bị bẻ bôi
Tất danh phẩm ta bị hư hao.
Nên chừa lỗi nói xấu người khác
Đã vào Đại thừa đạo giải thoát.
Chỉ nên đề cập lỗi của ta -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn thứ ba mươi hai nói rằng, người đã nhập đạo Đại thừa không nên nêu lỗi lầm của người khác, đặc biệt nếu người đó là một vị Bồ tát. Nếu có người nào làm điều gì sai và phạm lỗi, và người đó chọn sự che dấu, đó là việc của họ. Không phải trách nhiệm của ta phải công bố lỗi lầm của họ.
Mặt khác, nếu ta làm điều gì sai, cần phải tuyên xưng điều sai quấy đó, thú nhận, và thanh tẩy. Việc ta có nói lỗi của người khác ra chẳng thành vấn đề. Lại nữa, nếu nêu lỗi của một người vốn dĩ là một vị Bồ tát, chỉ do ảo cấu của ta, đó lại là một tổn hại cho chính ta.
Ngay dù cho người đó chẳng phải là Bồ tát, chẳng hạn như một bạn đồng nghiệp với ta, lại chẳng có lý do gì nêu lỗi của người đó một cách không cần thiết. Cũng thế, nếu ta thấy lỗi của cha mẹ hoặc anh em, nên bỏ qua đi và đừng nêu ra; làm vậy khôn ngoan hơn. Nếu có một lý do tốt cần phải nói ra lỗi của họ, thì phải làm vậy, đặc biệt khi ta phải làm nhân chứng trước tòa. Khi biết người đó đã phạm tội, ta phải đứng ra và nói thật. Tuy nhiên, nếu sự thành thật của ta lại làm hại tánh mạng của người khác, nên tránh đi là hơn. Điều này rất quan trọng.
33. Cắt ái nhiễm quyến thuộc
Tranh cãi người nhà hoặc bạn bè,
Hầu được nể trọng hay vật gì,
Khiến ta không thể lắng nghe Pháp,
Giảm sút thiền định hoặc tu tập.
Nguy cơ thường trụ trong nhà thân,
Cũng như gia đình hay bạn quen,
Buông bỏ ràng buộc vào quyến thuộc -
Chư Bồ tát trọn hành chẳng khác.
Đoạn này nói, cắt đứt ái nhiễm cùng khung cảnh nhà cha mẹ hoặc nhà người bảo trợ là một trong các tu tập của Bồ tát. Tại sao ta cần cắt ái nhiễm cùng nhà ta hoặc nhà thí chủ? Nếu cứ ràng buộc vào họ, tất tranh cãi sẽ thường khởi dậy về những phục vụ hoặc tặng phẩm mong được, và tranh chấp này sẽ làm tổn hại việc tu học và thiền định. Nếu ta cứ ở mãi nơi nhà của thân hữu hoặc bảo trợ, điều xảy ra là mỗi khi có tranh chấp, ta cố can thiệp, và làm như thế ta bắt đầu quan tâm đến việc của họ. Việc của ta thật sự chỉ là học hỏi và tu tập Pháp.
Tôi từng chứng kiến việc này nhiều lần trong đời. Tôi có vài thí chủ, nhưng mỗi khi thăm viếng họ, tôi chỉ chú tâm quán tưởng và đọc tụng kinh. Tôi không bao giờ can thiệp vào việc của họ. Đôi khi tôi có sự thúc giục muốn lưu ý đến việc của họ, nhưng thí chủ của tôi là một người rất tuyệt không muốn để tôi hòa lẫn cùng họ. Ông luôn muốn để tôi yên trong điện thờ. Lý do là, nếu có việc gì xen lấn vào việc tu học, quán chiếu, và thiền định của ta - mục tiêu chủ yếu của ta - chắc chắn việc can dự đó chẳng có giá trị chi cả. Bởi lý do đó, ta nên buông bỏ ràng buộc vào nhà người bảo trợ, hoặc nhà bạn nam hay nữ, và không có một luyến ái nào. Đúng ra, ta nên xem các ngôi nhà đó như nhà khách trọ. Đó là điều khôn ngoan. Chẳng hạn như, nếu ta thuê một phòng trong khách sạn, sẽ không bao giờ phải can thiệp vào việc quản trị hoặc thương vụ của khách sạn đó. Tương tự, ta nên có một thái độ như thế bất cứ khi nào ta viếng thăm thí chủ hoặc thân hữu. Đó chính là cách tốt nhất.
34. Không trả thô ác ngữ
Thô ác ngữ thốt ra khi giận
Khiến người đau và tâm động loạn;
Và ta, gắng theo Bồ tát hành
Nhận ra tu tập giảm rõ rành.
Thấy lỗi khởi từ lời thô nặng,
Người nghe quả khó ưa kỳ chướng,
Hãy bỏ lối ngược đãi cùng người -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Tu tập thứ ba mươi bốn của Bồ tát là không đáp trả thô ác ngữ ta nhận từ người khác. Thô ác ngữ thường rất khó nghe - bất kể ai nói ra. Đó chính là lý do ta chẳng hề muốn nói thô ác ngữ cùng bất cứ ai. Lời thô nặng sẽ làm động loạn tâm người khác. Nếu tâm họ bị động loạn, tất sẽ hư hao đến tu tập Bồ tát của chính ta.
Một trong các tu tập của Bồ tát là không bao giờ nói lời thô ác đối với tâm người khác. Bất cứ lời nào thật sự động loạn tâm một người khác, tạo sân hận hay phiền não trong tâm họ hoặc làm tăng thêm nỗi đau khổ của họ, là lời ta phải tránh trong ngôn ngữ hàng ngày. Thế nên, ta phải cố gắng thật ý thức đừng bao giờ đáp trả lời thô nặng, cho dù là nói với ai, chẳng kể người đó là cao cả, ngang bằng, hoặc khiêm hạ. Không bao giờ dùng thô ác ngữ với bất cứ ai phải là một nỗ lực thường xuyên của chúng ta.
35. Trừ tập quán xấu
Loại hành xấu chóng thành tập quán
Một khi quen cùng hạ tầng tâm;
Nỗ lực tinh chuyên rất cần đến
Tạo đối lực chống các trược nhiễm.
Võ trang bằng tỉnh thức, hồi niệm
Tấn công ngay trược nhiễm như tham;
Trừ cái chướng ngăn ngại tiến bộ -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn thứ ba mươi lăm nói, khi nào ta nhận thấy sự mống khởi của luyến ái và ảo cấu, phải diệt trừ ngay. Ta cần kiểm chế chúng ngay giai đoạn đầu tiên, vì nếu tiếp nhận ảo cấu và cho phép chúng trụ của mình một thời gian, tất ta sẽ tập một thói quen tăng trưởng dần. Nếu ta không điều phục ảo cấu, nó sẽ tạo thành cứng rắn rất khó kháng cự. Ta cần dùng sự tỉnh thức và tinh tường để quán sát thật gần bất cứ ảo cấu này vừa khởi. Đôi khi ta cố ý làm điều gì sai, nhưng lại có lời bào chữa như, "Tôi biết nó sai nhưng tôi muốn có kinh nghiệm." Nếu ta đón nhận loại tâm này, thì nó trụ càng lâu, càng phát triển ngoài sự điều phục. Chẳng hạn như, nếu người khác nói, "Tôi biết bạn không uống rượu hay hút thuốc, tại sao không thử xem, chỉ một lần thôi." Ta có thể đáp, "Không, cám ơn, cũng chẳng ích lợi gì." Như ta biết, nếu có một trận chiến, ngăn chặn được kẻ xâm lấn ngay biên giới tất hữu hiệu hơn, bằng không, chúng sẽ xâm nhập vào và đô hộ toàn bờ cõi. Khi đó đánh đuổi chúng sẽ khó khăn hơn nhiều. Điều tốt nhất là ngăn cản chúng ngay ngoài biên cương.
36. Tỉnh thức luôn
Nói tóm, điều gì ta hành xử
Trong duyên hay cảnh nào gặp gỡ
Đều phải bằng lực tỉnh giác luôn
Hiểu trọn vẹn trạng thái của tâm.
Phải có tỉnh thức và hồi niệm,
Giúp tập trung, sẵn sàng phục vụ,
Ta hành cho phúc lạc chúng sanh -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn thứ ba mươi sáu nói, bảo trì sự tỉnh giác trong nỗ lực hàng ngày hầu lợi tha là một trong các tu tập của Bồ tát. Sự an sinh của tha nhân rất quan trọng, và để giúp ích hữu hiệu, ta cần thức giác và tinh tường. Trong mỗi hành của thân, khẩu, và ý, hãy quán xét thận trọng với tâm tỉnh giác, và đừng bao giờ để cho bất cứ thứ nào trong cả ba bị vướng vào ác trược.
37. Hồi hướng trọn công đức
Mọi công đức tích từ nỗ lực
Đưa vào tu tập đạo thiện đức
Ta hành hầu giải thoát khổ đau
Của vô lượng bà mẹ nhiều đời,
Trọn hồi hướng cho họ thành Phật,
Với tuệ kiến, tha ngã không thật
Lẫn công đức, thảy chẳng phải chân -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Tu tập thứ ba mươi bảy của Bồ tát là hồi hướng trọn công đức đã tạo thành vào Đại Giác ngộ cho lợi ích của vô lượng chúng sanh. Câu này nói rằng, tất cả công đức ta tích lũy, qua sự tinh chuyên, sẽ thanh tẩy ảo cấu và phiền não của vô lượng chúng sanh. Trí tuệ này giải thoát vô chấp vào chân hữu. Với trí tuệ giải thoát vô chấp chân hữu của ba đối thể đó, và việc hồi hướng công đức cho Đại Giác ngộ, là một trong các tu tập của Bồ tát.
KẾT LUẬN
Trên đây là ba mươi bảy tu tập chủ yếu của Bồ tát, được Bồ tát Togmey Zangpo viết dưới hình thức rất cô đọng. Đây là các tu tập trực tiếp của chư Bồ tát, nhưng gián tiếp có ý nghĩa đối với bất cứ ai có hạt giống Đại thừa bên trong và quyết định trở thành hành giả Đại thừa. Ngay dù một vài trong số các tu tập trên có thể không mạnh mẽ như ta mong muốn, hoặc không hữu hiệu như đối với chư Bồ tát, chúng ta vẫn có thể thử đến gần điều gì mà một vị Bồ tát phải hành.
Tác giả xác nhận ngài viết điều này theo đúng các kinh văn được giảng dạy trong cả Kinh thừa [Hiển giáo] lẫn Mật thừa [Mật giáo], theo thánh ngôn của các vị đại sư. Ngài trình bày ba mươi bảy thi đoạn trên, trong mục đích giúp đỡ cho những ai có cảm hướng muốn trở thành Bồ tát. Tác giả viết, "Do bởi năng lực kém cõi và kiến thức hạn hẹp của tôi, nên tôi không có văn tài thơ phú khiến học giả hài lòng; nhưng nhờ theo sát kinh điển và tu tập của chư Thánh sư quá khứ, và do phần tinh hoa nhất của hiểu biết cá nhân, điều tôi soạn thảo nơi đây chính thật là tu tập của chư Bồ tát không chút sai lầm. Tuy nhiên, các cảnh giới của chư Bồ tát bất khả thẩm định và vô lượng vô biên, đối với một người như tôi với tri thức hữu hạn thật khó dò lường, thế nên nếu tôi có đưa vào những gì có vẻ sai lầm, mâu thuẫn diễn đạt, hoặc các khiếm khuyết bất ngờ khác, xin thành thật cáo lỗi. Tôi xin chư học giả khoan hòa dung thứ."
Đó là một cách làm giảm bớt lòng kiêu mạn và tự phụ của chính mình.
HỒI HƯỚNG CỦA TÁC GIẢ
Tiếp theo là hồi hướng công đức của tác giả đã thu hoạch được nhờ soạn kinh văn này. "Do bởi đức hạnh đạt được nhờ soạn thảo bản văn này, cầu xin mọi chúng sanh được phú túc với cả bồ đề tâm tương đối lẫn tối hậu, và không còn tồn lưu giữa vòng luân sanh, hoặc giữa sự thỏa mãn của niết bàn cá nhân, và nguyện cho tất cả được thành tựu như đức Quán Thế Âm."
Kinh văn được đúc kết như thế.
GHI CHÚ CUỐI
Rất quan trọng đối với chúng ta là phải Hồi Hướng Công Đức vào cuối các thời thiền hoặc sau bất cứ sinh hoạt Pháp nào. Do bởi đức hạnh hoặc công đức thọ nhận khi thực thi bất cứ Pháp hành nào, cầu xin Thánh đức Đạt Lai Lạt Ma, và tất cả chư Thánh Đức Đại Sư đã bảo trì và thăng hoa pháp giảng trường thọ thật dài lâu. Cầu xin Pháp vô biên của đức Phật được mãi mãi trường tồn cho phúc lợi trọn chúng sanh. Cầu xin trọn Tăng già đoàn hiện hữu trên thế giới trụ trong thanh tịnh hạnh, thoát khỏi mọi tranh chấp hoặc ly gián, và thành tựu trong tu tập cùng thiền định. Cầu xin mọi quốc gia trên thế giới thoát tai ương bệnh tật, đói khổ, chiến tranh và tranh chấp. Cầu xin nền hòa bình ưu thắng và trường tồn vĩnh cửu trên quả đất. Cầu xin mọi chúng sanh giải thoát khỏi ràng buộc khổ luân sanh và đạt an bình, hạnh phúc trường cửu, và Đại Giác ngộ.