Lịch sử Chư Phật địa cầu - Chánh Giác Tông (Buddhavamsa)
Chánh Giác Tông
(Buddhavamsa)
Hòa thượng Bửu Chơn
Tam Bảo Tự, Đà Nẳng
In lần thứ nhất: 1954
In lần thứ hai: 1966
http://buddhanet.net/budsas/uni/u-chanh-giac-tong/chanh-giac-01.htm
TIỂU TỰA
Người tu Phật ai ai cũng có đức tin, nhưng nếu không rõ được rành mạch những lịch sử hoặc những hành vi của các vị Bồ tát phải hành thế nào để thành được một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác và do nhờ pháp Ba-la-mật (PÀRAMITA) nào đưa các ngài qua tới bờ giác ngạn là Niết Bàn, thì đức tin ấy có khi cũng mơ hồ và có khi cũng lầm lạc.
Vì vậy nên tôi không nệ tài hèn học kém, ráng sao lục tóm tắt theo Tam Tạng Pàli (TIPITAKA) bộ kinh Chánh giác tông (BUDDHAVAMSA) và quyển Chư Bồ tát vị lai (ANÀGATAVAMSA) để đem lại một vài tia sáng cho các nhà tu Phật. Ai là người có chí muốn thành một bậc Chánh Biến Tri, hãy noi theo gương lành của các Ngài và thực hành theo mới mong chứng quả được.
Trong quyển kinh này có nhiều đoạn hơi khó hiểu hoặc không thể tin được vì oai lực và pháp Ba-la-mật của một vi Phật Tổ khác Thường xuất chúng và thời đại cũng khác nhau vượt qua khỏi trình độ suy nghĩ hoặc hiểu biết của phàm nhơn.
Nên độc giả xem quyển kinh này nên dùng đức tin mà hiểu biết rằng: "Muốn thành 1 vị Phật Tổ không phải dễ, không phải ai cũng muốn được, và không phải chuyện bịa đặt ra, mà trái lại phải thực hành cho đúng theo thời hạn và điều kiện nhất định và tròng đủ pháp Ba-la-mật mới thành một vi Phật Tổ được."
Với lòng Bác ái,
NÀGA THERA (Tỳ Khưu Bửu Chơn),
Đà Nẳng 1954.
-ooOoo-
[01]
[COLOR="rgb(139, 0, 0)"]CHÁNH GIÁC TÔNG[/COLOR]
NAMATTHU RATANA TAYASSA
Xin nghiêm Thân, Khẩu, Ý trong sạch để làm lễ Tam Bảo.
NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMÀSAMBUDDHASSA (3 lần)
Tôi xin thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A-la-hán Vô thượng,
đã đắc quả Chánh Biến Tri, Tam-miệu Tam-bồ-đề.
PHẬT NGÔN
DHAMMO HAVE RAKKHATI DHAMACÀRIM
DHAMMO SUCINNO SUKHAMÀ VAHATI ESÀNISAMSO
DHAMMESUCINNE NA SUGGATIM GACCHATI DHAMMACÀRÌ
Người thực hành theo Pháp Bảo, thì Pháp Bảo hộ trì.
Người hằng tích trử Pháp lành thì được đến sự an vui và lợi ích .
Người thực hành theo Pháp Bảo, thì không sanh vào cảnh khổ.
[COLOR="rgb(139, 0, 0)"]THẬP ĐỘ BA-LA-MẬT[/COLOR]
Trước khi giải về pháp Chánh giác tông tôi xin giải tóm tắt về pháp Thập Độ tín dụng (DASAPÀRAMÌ) là pháp của chư Bồ-tát (chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh; BODHISATTA) quá khứ, vị lai và hiện tại nguyện thành một bậc Chánh Biến Tri (SAMMÀ SAMBUDDHA) đều phải thực hành theo cho tròn đủ và cho đúng thời kỳ nhất định mới chứng quả vị được.
[COLOR="rgb(139, 0, 0)"]DASAPARÀMÌ: Mười pháp Ba-la-mật hay Thập Độ là:
1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí Ba-la-mật (Đáo bỉ ngạn tới bờ bên kia Niết Bàn).
2. SÌLA PÀRAMÌ: Trì giới Ba-la-mật.
3. NEKKHAMMA PÀRAMÌ: Xuất gia Ba-la-mật
4. PANNÀ PÀRAMÌ: Trí tuệ Ba-la-mật
5. KHANTÌ PÀRAMÌ: Nhẫn nhục Ba-la-mật
6. VIRIYA PÀRAMÌ: Tinh tấn Ba-la-mật
7. SACCA PÀRAMÌ: Chân chánh Ba-la-mật
8. ADHITTHÀNA PÀRAMÌ: Nguyện vọng Ba-la-mật
9. METTA PÀRAMÌ: Bác ái Ba-la-mật.
10. UPEKKHÀ PÀRAMÌ: Xả Ba-la-mật
[/COLOR]
Trong mỗi pháp trên đây đều chia làm 3 bực là: hạ, trung, thượng, thành ra 30 pháp. Mỗi pháp chia làm 3 bực là:
1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí bực hạ.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ PUTTA DÀRASSA PARICÀGO DÀNA PÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh vì lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí của cải, vợ, con, gọi là bố thí Ba-la-mật bậc hạ.
2. DÀNA UPPA PÀRAMÌ: Bố thí bậc trung.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ ANGA PARICÀGO DÀNA UPPAPÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh vì lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí tay, chân, thịt, mắt, mũi, mình gọi là bố thí Ba-la-mật bậc trung.
3. DÀNA PARAMATTHA PÀRAMI: Bố thí bậc thượng.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ JIVITA PÀRICÀGO DÀNA PARAMATTHA PÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí mạng sống (là cắt đầu hoặc mỗ lấy tim mình mà cho kẻ khác) gọi là bố thí Ba-la-mật bậc thượng.
Còn 9 pháp kia khi thực hành cũng mường tượng như trên.
Chỗ nói đúng thời kỳ nhất định là: Phải biết chư Bồ-tát (là chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh, chớ không ai gọi là Phật Bồ-tát bao giờ), chia làm 3 bậc:
1- PANNÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về huệ lực, phải tu trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu.
2- SADDHÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tín lực là có nhiều đức tin, phải tu trong 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
3- VIRIYÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tấn lực và nhiều sự tinh tấn, phải tu trong 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu.
Nói về sự nguyện vọng của mỗi vị Bồ-tát chia ra làm 3 thời kỳ:
1. Chư Bồ-tát thuộc về Huệ lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 7 A-tăng-kỳ.
b. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 9 A-tăng-kỳ .
c. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
2. Chư Bồ-tát thuộc về Tín lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 14 A-tăng-kỳ
b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp Đức Phật thọ ký là 8 A-tăng-kỳ.
c. Thời kỳ gặp một vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày thành đạo quả là 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
3. Chư Bồ-tát thuộc về Tấn lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 28 A-tăng-kỳ.
b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp một vi Phật thọ ký là 36 A-tăng-kỳ .
c. Thời kỳ gặp 1 vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày thành đạo quả là 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
-oOo-
Tất cả chư Bồ-tát trên đây nếu nói tóm lại thì chỉ còn có hai bậc là:
1/ ANIYATA BODHISATTA: Bất Thường Bồ-tát là chư Bồ-tát chưa thành tựu được nguyện vọng, là chư Bồ-tát nào đã nguyện trong tâm hoặc nói ra nhưng mà chưa gặp được một vị Phật tổ nào thọ ký cho thì chưa chắc sẽ thành một bậc Chánh giác được.
2 / NIYATA BODHISATTA: Thường trụ Bồ-tát là chư Bồ-tát đã thành tựu được nguyện vọng là Bồ-tát đã được truyền hoặc một vị Phật tổ thọ ký, chắc chắn sẽ thành Chánh giác trong ngày vị lai.
-oOo-
SAMODHÀNA DHAMMA: 8 pháp tròn đủ.
Chư Bồ-tát phải có tròn đủ 8 pháp:
1- MANUSSATTAM: Phải là loài người chớ không phải trời hay thú.
2- LINGA SAMPATTI: Phải là nam nhơn chớ không phải là phụ nữ hay là bán nam bán nữ.
3- HETU: Có đủ duyên lành để đắc quả Alahán trong kiếp ấy (ví dụ như đạo sĩ Sumedha là Bồ-tát tiền thân Phật tổ Thích Ca)
4- SATTHÀRA DASSANAM: Gặp được Đức Phật ra đời và được làm một điều phước thiện nào tới Đức Phật ấy.
5- PABBAJJÀ: Phải là người xuất gia.
6- GUNA SAMPATTI: Phải đầy đủ những pháp của bậc cao nhơn là có ngũ thông và bát thiền.
7- ADHIKARO: Đã được làm phước báu cao thượng là bố thí mạng sống mình và vợ con mình do tâm nguyện cho thành Chánh giác.
8- CHANDATÀ: Phải có ý nguyện đầy đủ quyết cho thành một bậc Chánh giác dầu cho khó khăn, khổ sở thế nào cũng không nao núng và thối chuyển.
Chư Bồ-tát nào có tròn đủ 8 pháp trên đây, thì mới được chư Phật thọ ký cho và từ ấy mới gọi là NIYATA BODHISATTA, là Bồ-tát chắc chắn sẽ thành Chánh giác không sai.
-oOo-
BUDDHA BHÙMI: 4 Pháp căn cứ của chư Bồ-tát đã được thọ ký.
1) USSÀHA: Rất siêng năng dõng mãnh trong sự làm điều thiện.
2) UMMAGGA: Có trí tuệ phân biệt thiện ác, để xa lánh điều dữ và hành theo điều lành.
3) AVATTHANA: Có chí quả quyết và cứng rắn là khi đã làm một điều thiện nào không hề thối chuyển và ráng làm cho tới thành tựu.
4) HITACARIYÀ: Khi làm một việc nào toàn là việc hữu ích cho mình và cho kẻ khác.
Chư Bồ-tát đã được thọ ký một khi làm một việc chi đều lấy 4 pháp trên để làm căn cứ cho tâm mình.
-oOo-
AJJHÀSAYA: 6 khuynh huớng của Bồ-tát
Chư Bồ-tát đã được thọ ký đều có 6 khuynh hướng.
1) ALOBHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không tham, và luôn luôn có tác ý muốn dứt bỏ của cải mình để làm việc hữu ích cho kẻ khác.
2) ADOSAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không sân, và luôn luôn có tâm từ bi đối với kẻ khác.
3) AMOHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không si, và có trí tuệ suy xét rõ rệt rồi mới tin.
4) NEKKHAMMAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn xuất gia, và có ý dứt bỏ các sự quyến luyến.
5) PAVIVEKAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng ở nơi thanh vắng, và có ý muốn xa lánh các bè bạn và nơi hội hợp đông đảo.
6) NISSARANAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn giải thoát khỏi ái dục, phiền não và sự khổ não của cõi thế gian.
Chư Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì luôn luôn có những tư cách và nết hạnh đã kể trên.
-oOo-
ACCHARIYA DHAMMA: 7 pháp xuất chúng của chư Bồ-tát đã được thọ ký.
1) PÀPPATIKUTHA CITTO: Có tâm gớm ghê điều xất xa tội lỗi, là tâm của Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì hổ thenï và ghê sợ điều tội lỗi cũng như người bị phỏng lửa thấy lửa ghê sợ vậy.
2) PASÀRANA CITTO: Có tâm vui thích theo điều thiện, là tâm của Bồ-tát lúc nào cũng vui tươi thỏa thích đến điều lành việc phải, một khi đã làm điều thiện nào thì sốt sắng vui vẻ làm cho đến khi được thành tựu không bao giờ bỏ dỡ.
3) ADHIMUTTA KÀLAKIRIYÀ: Tâm nguyện ngưng tuổi thọ đã nhứt định, là khi Bồ-tát sanh về cõi trời làm cho ngưng trệ sự tạo pháp Ba-la-mật để độ chúng sanh ở thế gian, ngài bèn nguyện cho tuổi thọ ở cõi trời ấy cho giảm đi để sanh xuống trần gian độ đời, liền khi ấy tuổi thọ giảm bớt và sanh liền xuống cõi thế gian.
4) VISESAJANATTAM: Là một bậc khác thường hơn tất cả chúng sanh khi ở trong bụng mẹ, vì tất cả chúng sanh khi ở trong bụng mẹ thì ngồi chồm hổm, hai tay nằm lại đở càm, mặt day vào lưng mẹ, đầu đội đồ mẹ mới ăn vào, mình ngồi trên vật thực cũ dơ dáy gớm ghê, còn Bồ-tát thì ở trong bụng mẹ rất sạch sẽ, mặt day ra phiá trước ngồi xếp bằng như vị pháp sư.
5) TIKÀLANNÙ: Có sự nghi nhớ và biết rõ 3 thời kỳ, khi kiếp chót sẽ thành đạo thì: khi đầu thai vào lòng mẹ, biết rõ ta đầu thai vào lòng mẹ, khi ở trong bụng mẹ cũng biết rõ đương ở trong bụng mẹ, lúc sanh ra khỏi lòng biết rõ đương sanh ra khỏi lòng. Còn chư Phật Độc Giác và hai Thượng Thinh văn thì chỉ biết trong hai thời kỳ, trừ lúc ra khỏi lòng mẹ thì không biết, còn 80 vị đại A-la-hán thì chỉ biết có một thời kỳ là lúc vào thai bào mà thôi.
6) PASÙTIKÀLO: Khi sanh ra thì Phật mẫu đứng sanh. Lúc ấy Bồ-tát xuôi hai tay xuống và tuột ra, cũng như vị pháp sư từ trên pháp tọa đi xuống vậy.
7) MASSUNA JATIYO: sanh ra trong loài người là tất cả chư Bồ-tát khi kiếp cuối cùng sẽ thành Chánh Giác thì sanh ra làm người, chớ không phải trời hoặc là súc sanh. Nếu sanh làm trời mà thành đạo thì loài người lại thối thoát kiếm cớ cho là trời mới tu thành Phật được, còn nếu sanh làm súc sanh thì loài người cho thấp hèn hơn mình cũng không chịu tu theo, nên chư Bồ-tát mới sanh ra làm người để độ chư thiên, loài người và súc sanh cũng được. Hơn nữa khi làm người lúc nhập Niết Bàn mới có Xá Lợi lại cho chư thiên và nhân loại lễ bái cúng dường.
7 pháp trên đây là xuất chúng (lạ thường) của chư Bồ-tát đã được thọ ký.
Tất cả chư Bồ-tát đã giải trên đây đều phải thực hành theo 10 pháp Ba-la-mật đúng theo khuôn khổ nhất định của thời kỳ và đã được một vị Phật tổ thọ ký, tiên tri cho biết trước rằng còn bao nhiêu năm, tháng, ngày v..v... sẽ thành môt vị Phật tổ, chừng ấy mới gọi là "Thường trụ Bồ-tát" và thế nào cũng đắc quả Chánh Biến Tri "A-nậu-la tam-miệu tam-bồ-đề" không sai vậy.
-oOo-
GIẢI VỀ A-TĂNG-KỲ: ASANKHÀYA
Một hôm có vị Tỳ khưu bạch với Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, 1 A-tăng-kỳ là bao lâu? Phật giải rằng: Không thể nói là bao nhiêu năm được, chỉ ví dụ cho hiểu thôi.
Theo trong Tam tạng (quyển 32 chương 86): Ví dụ như có 1 khối đá vuông vức 1 do tuần (16 cây số) trong 1 trăm năm có 1 vị Chư thiên xuống, lấy tấm lụa thật mõng quét khối đá ấy, rồi cách một trăm năm sau cũng quét như thế, cho tới khi nào khối đá ấy bằng mặt đất thì mới gọi là 1 A-tăng-kỳ. Hoặc ví dụ như 1 cái thùng vuông vức 1 do tuần đầy hột cải, trong 1 trăm năm mới có 1 vị Chư thiên tới lấy ra 1 hột, rồi cách 1 trăm năm sau lấy ra 1 hột nữa, lần lượt như thế cho đến khi lấy hết những hột cải trong thùng ấy mới gọi là A-tăng-kỳ.
Hay là viết 1 con số 1 rồi thêm 140 con số không (zéros) nữa cũng gọi là 1 A-tăng-kỳ, đây là A-tăng-kỳ của kiếp trái đất chớ không phải làm năm.
KIẾP (KAPPA): 1 thời gian
Chổ nói kiếp có 4 là : Thành, Trụ, Hoại, Không
1) Bắt đầu từ khi quả địa cầu cấu tạo đầu tiên như bọt nước rồi dần dần đặc lại như bột và cứng như đất thật lâu, không thể kể là bao nhiêu năm tháng nhưng chưa có ai ở (sanh) trên mặt địa cầu gọi là kiếp Thành.
2) Bắt đầu từ khi có 1 người đầu tiên sanh vào quả địa cầu cho tới khi người ta sanh ra vô số như hiện nay gọi là kiếp Trụ.
3) Bắt đầu từ khi trên mặt địa cầu không còn ai ở (sanh) nữa cho tới khi nước bể cả khô khan vì sức nóng của ánh thái dương rồi cháy luôn quả địa cầu đi gọi là kiếp Hoại.
4) Bắt đầu từ khi quả địa cầu đã tiêu hoại chỉ còn khí hư, u u, minh minh, không không vô cùng vô tận tạo nên quả địa cầu khác gọi là kiếp Không.
4 kiếp kể trên đây nhập lại thành 1 đại kiếp, mà chư Bồ-tát phải thực hành pháp Ba-la-mật cho đúng thời kỳ nhất định của những đại kiếp ấy.
[02]
NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ GIẢI THÍCH VỀ CHÁNH GIÁC TÔNG
Một hôm đại đức Xá Lợi Phất ở trên núi Kỳ xà quất (GIJJHAKUTA) tại xứ Vương Xá (RAJÀGAHA) cùng 560 vị Tỳ khưu đều là bậc A-la-hán cả, thấy Đức Phật đang dùng phép thần thông hoá đường đi kinh hành bằng ngọc trên hư không gần thành Xá Vệ (KAPILAVASSU), trong người Phật phóng hào quang 6 màu sáng ngời rực rỡ, có cả Chư thiên và Phạm thiên trong 10 ngàn thế giới ta bà đang chầu chực tại chổ Đức Phật đi kinh hành.
Đại đức Xá Lợi Phất nghĩ rằng: Đức Phật vô cùng oai hùng và cao thượng hơn tất cả Chư thiên và Phạm Thiên, không biết oai lực quý báu của chư Phật quá khứ ra sao? Ông bèn mời 500 vị A-la-hán cùng đi với ông đến xin Đức Phật giảng giải cho biết oai lực của chư Phật quá khứ, liền khi ấy 500 vị A-la-hán cùng ông dùng thần thông bay tới chổ Đức Phật đi kinh hành và bạch với Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, xin ngài mở lòng bác ái giảng giải về oai lực của chư Phật quá khứ để đem lại đức tin và sự lợi ích cho tất cả Chư thiên và nhân loại... Tùy lời hỏi, Đức Thế Tôn bèn giảng như sau:
28 VỊ PHẬT QUÁ KHỨ
Đức Phật giảng rằng: Nầy Xá Lợi Phất! Trong một thời gian quá khứ, trải qua 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời tế độ sanh linh, môt hôm có 1 ngưới lái thuyền tên MÀTUDÀRA MÀNAVA bị thuyền đắm giũa bể khơi, y rán sức cõng mẹ trên lưng lội dưới bể trong 7 ngày, mặc dầu mệt nhọc vô cùng, vẫn can đảm hy sinh vì mẹ, làm cảm động một vị Đại phạm thiên. Ngài bèn xuôi khiến cho người lái thuyền phát tâm trong sạch nguyện thành môt bực Chánh Giác để độ chúng sanh thoát khỏi sông mê bể khổ. Từ đó người lái thuyền trở thành 1 vị Bồ-tát, để tập sự nguyện trong tâm trọn 7 A-tăng-kỳ rồi phát nguyện bằng lời nói, tu tập thêm 9 A-tăng-kỳ cho tới khi gặp Đức Phật Nhiên Đăng (DIPANKÀRA) thọ ký và tiên tri cho biết rằng còn 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu nữa sẽ thành một vị Chánh Đảng Chánh Giác tên GOTAMA. Đức Bồ-tát trên đây là tiềân thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà chúng ta đang học và hành theo giáo lý của ngài vậy.
CHUYỆN BỒ-TÁT THÍ SINH MẠNG
Có 1 kiếp Bồ-tát tu làm đạo sĩ, cùng 500 học trò ẩn tu nơi rừng núi. Một hôm ngài ra mé núi thấy dưới hố sâu có con cọp mẹ gầy ốm, đương dợm ăn cho con đỏ đói. Vị đạo sĩ thấy vậy động lòng thương xót, liền kiếm cớ biểu học trò về, rồi ngài gieo mình xuống hố, thí thân cho cọp mẹ ăn. Khi người học trò lớn trở lại kiếm, biết thần mình đã bố thí thân mạng cho cọp ăn, cũng nhảy theo xuống hố làm mồi cho cọp. Người học trò ấy tức là Đức Phật Di Lặc trong ngày vị lai.
Cách đây độ 20 A-tăng-kỳ, có 1 người em gái của Đức Phật PURÀNA DIPANKÀRA, có lòng trong sạch đem dầu cúng dường Phật, rồi nguyện thành 1 vị Chánh giác và xin Phật thọ ký cho. Phật giải rằng: vì em là phụ nữ nên không thể nguyện thành Phật được, chờ 16 A-tăng-kỳ nữa em sẽ thành đàn ông rồi chừng ấy sẽ có Phật thọ ký cho.
Nhân đó Đức Phật mới giảng cho các thầy Tỳ khưu nghe 4 điều khó là:
1- Khó sanh được làm người.
2- Phụ nữ khó sanh làm nam nhân.
3- Làm nam nhân khó được xuất gia.
4- Khó gặp Phật ra đời.
Khó gặp Đức Phật ra đời, vì muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định thì mới mong thành 1 vị Phật Tổ được.
Còn phụ nữ khó sanh làm nam nhân, vì phải có nhiều duyên lành phước báu mới có thể sanh làm đàn ông được, phụ nữ không thể nào nguyện thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Độc giác Phật, hoặc là Chuyển Luân Vương Bồ-tát được. Phụ nữ muốn sanh làm nam nhân phải rán tu hành tinh tấn, thọ trì ngụ giới, bát quan trai giới hoặc xuất gia trọn đời xa lánh tình dục, gìn vẹn trinh tiết, rồi nguyện cho thành nam giới.
Khó sanh làm người, vì phải tạo nhiều phước báu cao thượng, mà chúng sanh lại ưa làm tội hơn làm phước, bởi tội dễ làm hơn phước. Trong kinh có câu: Vạn kiếp nan sanh đắc cá nhân - Muôn kiếp khó sanh được làm người.
Khi được phước lành cấu tạo sanh ra đàn ông thì lại quên căn lành, say đắm theo ngũ trần lục dục, quyến luyến theo vợ con gia đình nên khó mà ly gia cắt ái để xuất gia tu hành cho được.
-oOo-
CÁC VỊ PHẬT THỜI QUÁ KHỨ
Đức Thích Ca Mâu Ni giảng giải cho Đại đức Xá Lợi Phất rằng: cách đây 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp có 4 Đức Phật tổ nối tiếp ra đời trong quả địa cầu. Vị Phật thứ nhất là TANHANKARA, ngài tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, đắc đạo dưới gốc cây bông sứ, sau 7 ngày hành đạo, tuổi thọ 10 muôn năm.
Vị Phật tổ thứ 2 tên MEDHANKARA, tu 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, hành đạo trong nữa tháng đắc đạo quả, dưới cây Vông đồng, tuổi thọ 9 muôn năm.
Vị Phật tổ thứ 3 tên SARANANKARA, tu 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, hành đạo trong 1 tháng, đắc đạo quả, dưới cây cẩm lai. Tuổi thọ lúc ngài còn ở thế gian là 7 ngàn năm, tuổi thiệt không rõ là bao nhiêu vì trong kinh không thất nói tới.
Bồ-tát tiền thân Phật tổ Thích Ca sanh ra đều có gặp 3 vị Phật tổ trên đây, nhưng chưa được lời tiên tri của vị nào thọ ký cho.
-oOo-
Vị Phật tổ thứ 4 tên DIPANKÀRA ra đời, tại xứ RAMMAVATÌ, cha ngài tên ATISARASUDEVA, mẹ tên SUMEDHÀ, vợ tên PADUMÀ, con trai tên USABHAKHANDHA, lúc còn ở thế có 3 muôn cô hầu.
Một hôm đi dạo ngoài thành thị thấy 4 điềm là: người bịnh, già, chết và người tu rồi chán nản xuất gia hành đạo trong 7 ngày, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 10 muôn nam, 40 muôn Thinh Văn đệ tử của ngài đều đắc lục thông, luôn luôn theo hầu ngài.
Đại đức SUMANGALA là Thượng thinh văn phía mặt, Đại đức MAHATISSA là Thượng thinh văn phía trái. Tỳ khư ni NANDÀ là nữ Thượng thinh văn bên mặt. Tỳ khưu ni SUNANDÀ là nữ Thượng thinh văn bên trái. Đại đức SAGATA là đệ tử hầu hạ luôn theo Phật. Có hai đại thiện nam là TAPUSSA và BHALLIKA, và hai đại tín nữ là SIRIMÀ và SONÀ. Phật cao 40 thước tây (80 hắc tay), có 32 tướng tốt và 80 tướng phụ. Ngài độ Chư thiên và nhân loại đắc đạo quả Niết Bàn vô số kể.
Khi đúng tuổi thọ, ngài nhập Niết Bàn tại chùa NANDÀRÀMA. Người ta làm một bảo tháp cao 36 do tuần để thờ xá lợi ngài, và một bảo tháp nữa thờ 8 món cần thiết của ngài như : 3 lá y, 1 bát, 1 sợi dây lưng, 1 bình lọc nước, 1 con dao nhỏ để cạo tóc hoặc cắt móng tay, và 1 ống đựng kim tại cây sơn chổ ngài thành đạo.
Ngài thuộc dòng vua, tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.
Sau khi nhập diệt rồi, giáo pháp ngài lưu truyền được 100.000 năm. Bảo tọa chỗ ngài thành đạo bề cao 26 thước (53 hắc tay).
Thuở ấy đức Bồ-tát SUMEDHÀ, tiền thân của Phật Thích Ca, sanh làm con của một đại phú bà-la-môn. Khi cha mẹ qua đời, Bồ-tát thừa hưởng một gia tài tích trữ 7 đời. Thấy của cải vô số, Bồ-tát bèn suy nghĩ: "Ông bà, cha mẹ ta dày công lập ra một sự nghiệp đồ sộ, mà khi lâm chung chẳng một ai đem theo một đồng một cắt nào, của thế đành để lại cho thế gian. Ta đây cũng vậy, một ngày kia rồi cũng chết để lại của cải này. Rất uổng công tìm kiếm miên trường, thà đem của cải này làm việc phước thiện gieo trồng âm đức cho kiếp vị lai". Nghĩ xong, bèn vào tâu vua, xin đem hết tài sản ra bố thí cho người nghèo khó, rồi xuất gia vào non tuyết lãnh cố công tu hành, không bao lâu đắc được các cõi thiền luôn cả các pháp.
Khi Phật Nhiên Đăng (DIPANKARA) ra đời, và thừa dịp dân chúng trong xứ RAMMAVATI sửa sang đường xá để thỉnh Đức Phật và 40 muôn tăng chúng quang lâm đến chùa SUDASSANA MAHÀVIHÀRA dự lễ trai tăng, đức Bồ-tát bay đến xin lãnh một phần công việc. Biết Bồ-tát có nhiều thần thông dân chúng bèn lựa những chổ khó khăn, hư hỏng đầy những bùn lầy, đạo sĩ vẫn vui lòng lãnh lấy vì nghĩ rằng nếu ta dùng thần thông mà làm công việc thì không mấy gì được phước nhiều, vậy ta nên dùng sức lực mới có công đức nhiều hơn. Nghĩ xong Bồ-tát bèn ra công lấp đường, cặm cụi làm mãi, đến giờ Đức Phật và chư tăng ngự tới thì còn một khoảng chưa xong. Trong thấy 32 tướng tốt và 80 phụ tướng, hào quang sáng rỡ của Đức Phật, Bồ-tát bèn phát tâm trong sạch nghĩ rằng: lúc này là lúc ta nên bố thí mạng sống ta cho Đức Phật và chư tăng. Nghĩ rồi liền nằm chổ khoảng đường làm chưa xong và bạch với đức Phật xin bố thí thân mạng cho ngài và Chư tăng đi trên mình và nguyện thành 1 vị Phật tổ trong ngày vị lai để tế độ chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ.
Lúc ấy Đức Phật DIPANKÀRA ngự tới đứng trước đầu đạo sĩ SUMEDHA, thọ ký và tiên tri cho rằng, vị đạo sĩ nguyện bố thí thân cho Như Lai đây, sau này trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành một vị Phật tổ tên là GOTAMA, tại xứ Ca bì la vệ (Kapilavattu) cha tên SUDHODANA, mẹ tên MAYA,v.v... sẽ hành đạo trong 6 năm mới thành chánh quả dưới cội cây bồ đề. Khi Bồ-tát được nghe lời thọ ký của Đức Phật Nhiên Đăng, ngài bèn lấy 8 cành hoa cúng cúng dường cùng chư tăng đi chung quanh mình Bồ-tát, chư thiên cùng dân chúng cũng cúng dường rất long trọng.
Sau khi Đức Phật DIPANKÀRA nhập diệt rồi, một thời gian 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế đó Đức Phật KONDANNA đã tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, giáng sanh tại xứ RAMMAVATI, cha tên SUNANDA mẹ tên SUJÀTÀ, giòng vua, khi ngài cuất gia đi bằng xe có cả trăm triệu đòng xuất gia đi theo ngài hành đạo trong 10 tháng đắc đạo dưới gốc cây thị bảo tọa bề cao 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Phật 44 thước.
Đại đức ANURUDDHA là đệ tử hầu hạ bên cạnh Đức Phật, đại đức BHADDA và đại đức SUBHADDA là Thượng thinh văn, tỳ khưu ni TISSÀ và UPATISSÀ là Thượng thinh văn phái nữ.
Trong thời kỳ ấy đức Bồ-tát, tiền thân Phật tổ Thích Ca sanh làm chuyển luân vương tên là VIJITÀVÌ, xuất của cải ra thật nhiều cúng dường đến Đức Phật và chư Tăng, Đức Phật bèn tiên tri cho biết rằng, còn 3 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa, Bồ-tát sẽ thành 1 vị Phật tên là GOTAMA. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật KODANNA nhập Niết bàn, giáo pháp ngài lưu truyền 10 muôn năm mới mãn.
Sau khi Đức Phật KODANNA nhập diệt rồi thì trong thời gian 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời cả.
-oOo-
Sau thời kỳ đó có 4 vị Phật tổ, lần lượt ra đời trên một trong quả 3 địa cầu.
Vị thứ nhất tên SUMANGALA, ngài tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, cha tên là UTTARARÀJA, mẹ tên UTTARÀ. Khi từ cung trời Đâu xuất đầu thai vào lòng mẹ thì hào quang chiếu sáng cả ngày và đêm lối 5 thước chung quanh mình Phật mẫu luôn luôn. Từ khi vào thai bào, thì chư thiên luôn luôn gìn giử cho đúng 10 tháng tới khi sanh. Lớn lên có 9 ngàn cung phi mỹ nử hầu hạ. Ngài ở thế làm vui 9 ngàn năm rồi mới xuất gia, lúc ra đi cởi ngựa có cả 30 triệu người xuất gia theo. Ngài hành đạo trong 8 tháng đắc quả dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi bề cao 29 thước. Hào quang trong mình Đức Phật phóng ra luôn luôn sáng cả ngày lẫn đêm tới 10 ngàn thế giới sa bà đều vàng ánh. Ngài bề cao 40 thước, tuổi thọ chín muôn năm.
Đức Bồ-tát kiếp ấy sanh làm bà-la-môn đại phú tên là SURUCI phát tâm trong sạch thỉnh Đức Phật và 1 trăm ngàn triệu Chư tăng, trai tăng trong 7 ngày, cất rạp lớn 16 do tuần vuông vức. Sau 7 ngày rồi, Đức Phật SUMANGALA tiên tri rằng còn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa người sẽ thành một vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi Bồ-tát nghe được lời thọ ký của Đức Phật rất vui mừng, rồi xin xuất gia tu hành theo Phật. khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, người ta thiêu xác ngài rồi làm một bảo tháp cao 30 do tuần để thờ xá lợi ngài, giáo pháp ngài hưng thạnh đến 9 muôn năm mới mãn.
-oOo-
Phật tổ thứ nhì tên SUMANA giáng sanh tại xứ MEKHATA, cha tên SUDATTA, mẹ tên SIRIMÀ, ngài xuất gia đi bằng tượng có 300 triệu người xuất gia theo, hành đạo trong 10 tháng thì đắc quả, thành đạo dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi cao 15 thước, chư Tăng luôn luôn 8 muôn triệu theo tùy tùng tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 45 thước.
Lúc ấy Bồ-tát sanh làm Long vương tên là ATULANÀGA có thần thông quảng đại, dẫn hết cả tùy tùng mình lên làm lễ Phật và Chư tăng xong rồi xin dâng y thần cho Phật và Chư tăng. Đức Phật tiên tri cho biết rằngcòn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành một vĩ Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ thì Đức Phật SUMANA nhập Niết Bàn tại chùa ANGÀRÀMA, người ta thiêu xác ngài rồi làm một bảo tháp cao 4 do tuần để thờ xá lợi ngài, sau khi nhập diệt rồi, giáo pháp ngài được hưng thạnh đến 9 muôn năm.
-oOo-
Phật tổ thứ 3 tên REVATA giáng sanh tại xứ SUDHANNAVATI, cha tên VIPULA, mẹ tên VIPULAYA. Lúc còn Bồ-tát có tới 33 ngàn mỹ nữ hầu hạ, ngài hưởng ngôi vui 6 ngàn năm. Thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc xuất gia đi bằng xe giá, có 10 muôn triệu người đồng xuất gia theo ngài, hành đạo 7 tháng, đắc đạo dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi bề cao 25 thước, tuổi thọ 6 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.
Lúc ấy Bồ-tát sanh vào dòng bà-la-môn tên ATIDEVA, khi vào nghe pháp, phát tâm trong sạch quy y và thọ trì ngũ giới rồi dâng y cho Phật.
Đức Phật tiên tri cho biết rằng, còn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật REVATA nhập Niết Bàn còn để lại giáo pháp tới 6 muôn năm mới mãn.
-oOo-
Đức Phật thứ tư tên SOBHITA giánh sanh tại xứ SUDHAMMAø, cha tên DHAMMAJÀTAø, mẹ tên SUDHAMMÀ, ngài hành pháp Ba-la-mật đã được 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Lúc còn thái tử có 7 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi mới chán nãn xuất gia, hành đạo trong 7 ngày rồi đắc đạo dưới cội cây bồ đề.
Lúc ngài xuất gia, nguyện cho đền đài đều bay theo ngài, tới gốc cây bồ đề rồi hạ xuống, Đức Phật khi đắc đạo cũng ở trong đền ấy. Hào quang trong mình Phật chiếu sáng rãi ra khắp nơi tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 29 thước.
Lúc ấy Bồ-tát sanh ra trong dòng bà-la-môn tên SUJÀTA, vào nghe pháp rồi quy y giữ giới và bố thí, trai tăng cho Đức Phật và chư tăng 7 ngày, Đức Phật tiên tri cho biết rằng, còn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp thì người sẽ thành 1 vị Phật tổ. Khi đúng tuổi thọ rồi Đức Phật SOBHITA nhập Niết Bàn tại chùa SIHÀRÀMA giáo pháp ngài không có để lại.
Sau khi Đức Phật SOBHITA rồi cách một thời gian sau 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có vị Phật tổ nào giáng sanh độ thế.
-oOo-
Sau đó trên một quả địa cầu khác có 3 vị Phật ra đời là: ANOMADASSÌ, PADUMA, NÀRADA.
Vị thứ nhất tên ANOMADASSÌ, tu trong 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Ngài giáng sanh tại xứ CANDAVATÌ, cha tên YASAVÀ, mẹ tên YASODHARÀ. Trong lúc giáng sanh vào lòng mẹ thì hào quang phóng ra 40 thước chung quanh mình hoàng hậu vô số kể. Khi lớn lên làm vua có 23 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi đi dạo vườn hoa thấy 4 điềm rồi xuất gia, có 30 triệu người đồng lượt xuất gia theo ngài, hành đạo trong 10 tháng mới đắc đạo dưới gốc cây gòn rừng, bảo tọa cao 19 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 29 thước.
Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm chúa Dạ xoa (YAKKHA) có 10 ngàn Dạ xoa khác tùy tùng hầu hạ. Nghe Đức Phật ra đời bèn trong sạch hoá thần thông thành ra đền đài bằng 7 thứ ngọc, rồi thỉnh Phật và chư Tăng cúng dường trong 7 ngày. Đức Phật tiên tri rằng còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa thì người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Đức Phật ANOMADASSÌ hào quang luôn luôn phóng ra chung quanh mình Phật 12 do tuần cả ngày và đêm. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, xá lợi ngài không có bể nhỏ ra mà còn dính nguyên nhau như tượng hình Đức Phật bằng vàng vậy, người ta tạo một bảo tháp cẩn bằng 7 thứ ngọc bề cao 25 do tuần để thờ xá lợi ngài tại BUDDHÀRÀMA.
-oOo-
Đức Phật thứ nhì tên PADUMA, giáng sanh tại xứ CAMAPAKA, cha tên ASAMA, mẹ tên ASAMÀDEVÌ. Khi lớn lên làm vua có 33 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc đi bằng xe giá có 10 triệu người xuất gia theo, hành đạo trong 8 tháng thì đắc quả dưới gốc cây mã tiền, bề cao bảo tọa 19 thước, hào quang của Phật luôn luôn phóng ra lối 29 thước sáng ngời như ngọc cho tới khi ngài nhập diệt.
Thuở ấy Bồ-tát sanh làm chúa sư tử gặp Đức Phật nhập đại định phát tâm trong sạch đứng hầu Phật trong 7 ngày đêm nhịn ăn uống. Khi xả định, Phật tiên tri với chư tăng rằng. Con sư tử hầu này còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ rồi ngài nhập Niết Bàn và nguyện cho xá lợi tiêu tan ra tro bụi hết nên không có tạo tháp để thờ và cụng không để giáo pháp lại.
-oOo-
Đức Phật thứ 3 tên NÀRADA, tu 10 pháp Ba-la-mật trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp giáng sanh tại xứ DHANNAVATÌ, cha tên VÌJITAVÀ làm chuyển luân vương, mẹ tên ANOMA. Khi chưa thành đạo ngài làm vua 9 ngàn năm, có 120 cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc ra đi có cả quân binh 4 hạng tuỳ tùng, ngài hành đạo trong 7 ngày, đắc đạo dưới cây Gáo, bảo tọa cao 29 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 29 thước. Hào quang ngài phóng ra luôn luôn 1 do tuần cả ngày đêm chung quanh Phật.
Thuởû ấy Bồ-tát tu hạnh đạo sĩ nơi tuyết lãnh sơn (Hy mã lạp sơn), Đức Phật ngự đến, đạo sĩ bèn hoá thần thông cho tịnh xá rộng lớn đủ chổ thỉnh Phật và chư Tăng làm phước trai tăng 7 ngày đêm (ngài hay qua xứ Bắc Cừu-lưu Châu đem vật thực về) khi đúng 7 ngày rồi, Bồ-tát nghe pháp xong dâng trầm hương cho Đức Phật.
Đức Phật tiên tri cho biết rằng, còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa thì người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ 9 muôn năm ngài nhập đại Niết Bàn tại chùa SUDASANÀRÀMA, người ta tạo 1 bảo tháp bề cao bằng 4 lằn chim bay để thờ xá lợi ngài, giáo pháp ngài lưu truyền đến 9 muôn năm.
Khi Đức Phật NÀRADA nhập diệt rồi, cách môt thời gian 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế sau đó 1 quả địa cầu chỉ có 1 vị Phật tổ tên PADUMUTTARA giáng sanh tại xứ HAMSAVÀTÌ, cha tên ANANDA, mẹ tên SUJÀTÀ, khi lớn lên còn ở thế gian 9 ngàn năm có 10 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi thấy 4 điềm rồi thì chán nản, suy nghĩ để xuất gia. Lúc ấy đền đài ngài đang ngự bổng bay lên không trung, khi tới cây bồ đề hạ xuống ngài bèn xuất gia nơi ấy, ngài hành đạo 49 ngày, thành đạo dước gốc cây dương, bảo tọa cao 19 thước. Mỗi khi Đức Phật ngự đi đâu đều có bông sen mọc lên đỏ bàn chân ngài, nên người gọi ngài là Đức Phật hoa sen (Bửu liên Phật).
Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm bá hộ JATILA, thỉnh Phật và Chư tăng thọ thực dâng y cho Phật và chư tăng, nghe Đức Phật thuyết pháp, khi dứt thời pháp Đức Phật tiên tri cho biết rằng: còn 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật PADUMUTTARA nhập Niết Bàn tại chùa NANDÀRÀMA, xá lợi ngài không bể rời ra mà đóng lại thành khối như vàng ròng, người ta tạo một bảo tháp bằng 7 thứ báu cao 12 do tuần để thờ xá lợi ngài.
Sau khi Đức Phật PADUMUTTARA nhập Niết Bàn rồi thì một thời gian 7 muôn đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế đó có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tên là SUMEDHA giáng sanh tại xứ SUDASSANA, cha tên SUDASSARÀJA, mẹ tên SUDATTÀ, khi còn ở thế 9 ngàn năm làm vua trị vì thiên hạ, có 4 muôn 8 ngàn cung phi mỹ nữ hầu ha. Khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc ra đi bằng tượng (voi) có cả 1000 triệu người đồng lòng xuất gia 1 lượt. Ngài hành đạo trong 8 tháng, khi đúng rằm tháng tư ngài thành đạo dước gốc cây sầu đông, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 44 thước hào quang trong người Phật phóng ra lối 1 do tuần luôn luôn cả ngày đêm như ngọc ma ny.
Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm người đại phú hộ tên là UTTARA gặp Phật nghe pháp rồi phát tâm trong sạch bố thí của cải 800 triệu để làm phước trai tăng đến Đức Phật và Chư tăng. Phật thọ ký cho biết rằng còn ba muôn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ ngài nhập Niết Bàn tại chùa MEDHÀRÀMA, ngài nguyện cho xá lợi tiêu tan hết, nên không có tạo bảo tháp để thờ.
-oOo-
Vị Phật thứ nhì tên SUJÀTA, giáng sanh tại SUMANGALA. Cha tên UGGATTA, mẹ tên PABHÀVATÌ. Khi còn ở thế gian 9 ngàn năm, làm vua có cả 23 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia. Lúc đi ra bằng ngựa có cả 10 triệu người xuất gia theo 1 lượt với ngài, hành đạo trong 9 tháng đắc đạo duớc bụi tre ngà, bảo tọa bề cao 16 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 25 thước.
Thửơ ất Bồ-tát sanh làm Chuyển luân vương có 7 báu, nghe Đức Phật ra đời trong sạch đến nghe pháp, khi nghe xong liền dâng cả 7 báu và của cải để làm tứ vật dụng cho Đức Phật và Chu Tăng, rồi xuất gia tu hành theo Phật. Đức Phật tiên tri cho biết rằng: còn 3 muôn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa SELÀRÀMA, người ta tạo 1 bảo trháp bề cao 12 cây số để thờ xá lợi ngài.
Sau khi Đức Phật SUJÀTA nhập diệt rồi, có 1 thời không gian 1 muôn 6 ngàn đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Sau đó có 1 quả địa cầu, có 3 Đức Phật ra đời. Vi thứ nhất tên PIYADASSÌ giáng sanh tại xứ SUDHANNAVATI, cha tên SUDATA, mẹ tên CANDÀDEVÌ. Lúc còn ở thế có 33 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi bằng xe, tất cả quan quân tùy tùng đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 6 tháng, đắc đạo dưới cây Cầy (bràyong) bảo tọa cao 26 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.
Thuởû ấy bà-la-môn tên KASSAPA đại phú gia, vào nghe pháp phát tâm trong sạch bỏ của cải ra 1000 triệu để cất chùa dâng cho Đức Phật và Chư Tăng rồi quy y tam bảo, thọ trì ngũ giới, Đức Phật tiên tri cho biết rằng: còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ ngài nhập Niết Bàn tại chùa ASSATTHÀRÀMA. Nguời ta tạo một bảo tháp bề cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài, không bể mà đóng khối thành một hình Phật đẹp như vàng ròng, giáo pháp ngài còn lại 9 muôn năm mới mãn.
-oOo-
Vị Phật thứ nhì tên là ATTHADASSÌ giáng sinh tại xứ SOBHANA, cha tên SÀGARA, mẹ tên SUDASSANÀ khi còn ở thế 1 muôn năm lên làm vua có 33 ngàn cung phi mỹ mữ hầu hạ, khi thấy 4 điềm phát sanh chán nản đi xuất gia. Lúc ra đi có 4 hạng quan binh cả thảy 9 triệu đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 8 tháng, hành đạo dưới cây Cầy, bề cao 26 thướùc, tuổi thọ 10 muôn năm, Phật bề cao 40 thước, hào quang phóng ra luôn luôn 1 do tuần xung quanh ngài.
Thuở ấy Bồ-tát sanh ra dòng bà-la-môn đại phú gia SUSÌMA, xuất của cải ra bố thí cho dân chúng hết rồi xuất gia tu đạo sĩ, khi hay Đức Phật ra đời bèn bay xuống nghe pháp xong trong sạch bay lên cõi trời hái bông rãi xuống như mưa cúng dường chổ Phật ngự, ngài tiên tri cho biết rằng: còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp nữa người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa ANOMÀRÀMA, ngài nguyện cho xá lợi ngài bể nhỏ và hóa thành bảo tháp xá lợi khắp nơi cho quần chúng chiêm bái tới mãn thời kỳ Phật pháp.
-oOo-
Vị Phật thứ ba tên DHAMMADASSÌ giáng sanh tại xú SARANA, cha tên SABBA LOKA SARANA, mẹ tên SUNANDÀ, khi còn ở thế đến 8 ngàn năm lên làm vua có cả 120 ngàn cung phi hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia vừa lúc tâm ngài vừa tính xuất gia thì đền đài ngài đương ngự liền bay bổng lên rồi bay tới chổ cây (kram buk) bèn hạ xuống, thì tất cả cung phi mỹ nữ đều chạy ra khỏi đền. Ngài bèn xuất gia nơi ấy có cả 1 triệu người đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 7 ngày khi đến ngày thứ 8 thọ cơm trộn sữa bề của cô VICIKOLIYÀ dâng cho. Tối hôm ấy hành đạo dưới cây Bibijala và đắc quả Phật. Bề cao bảo tọa 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, lúc còn ở thế vợ tên VICIKOLÌ, con trai tên PUNNAVADANA.
Đại đức PADUMA là Thượng thinh văn bên hữu.
Đại đức PUSSADEVA là Thượng thinh văn bên tả.
Tỳ khưu ni KHEMÀ là Thượng thinh văn bên hữu.
Tỳ khưu ni SACCANAMÀ là Thượng thinh văn bên tả.
Đại đức SUNETTA là đệ tử hầu hạ Đức Phật.
2 ông SUBHADDA và KATISSAHA là đại thiện nam.
2 cô SÀLIYA và KALIYÀ là đại tín nữ.
Thuở ấy Bồ-tát sanh làm Ngọc hoàng Thượng đế (Trời Đế thích) SAKADEVARÀJA bay xuống luôn cả chư thiên tùy tùng đãnh lễ Đức Phật. Ngài thọ ký và tiên tri cho biết rằng: còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp nữa người mới thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Đúng tuổi thọ Đức Phật nhập đại Niết Bàn tại xứ SALÀVATÌ. Khi người ta thiêu xác ngài xong thì xá lợi ngài dính nhau lại thành 1 tượng Phật như vàng ròng. Người ta làm 1 bảo tháp bề cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài. Giáo pháp ngài lưu truyền đến 10 muôn năm mới mãn.
Khi Đức Phật DHAMMADASSI nhập diệt rồi thì có một thời không gian 1 muôn 3 ngàn 907 đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời cả.
-oOo-
Mãi sau có 1 vị Phật tổ ra đời tên SIDDHATTHA giáng sanh tại xứ VEBHÀRA, cha tên UDENA, mẹ tên SUPHASSÀ, khi tuổi được 1 muôn năm, lên ngôi trị vì thiên hạ, có 48 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc ra đi bằng xe có 1 triệu người tùy tùng đồng xuất gia theo ngài, hành đạo trong 10 tháng, đắc quả dưới cây Gòn rừng (KANNIKA). Bảo tọa cao 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 30 thước.
Thuở ấy Bồ-tát sanh làm Bà-la-môn đại phú gia tên MANGALA bố thí hết của cải cho dân chúng rồi xuất gia tu đạo sĩ nơi rừng núi, khi hay tin Đức Phật đã ra đời dạy đạo liền đến đãnh lễ ngài và nghe pháp. Khi nghe Đức Phật thuyết pháp xong, phát tâm trong sạch bay đi hái trái mận ở nơi ranh giới quả địa cầu thật nhiều rất thơm tho, ngon ngọt đem về dâng cho Đức Phật và chư Tăng. Khi độ xong Đức Phật thọ ký và cho biết rằng còn 92 đại kiếp nữa người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật SIDATTHA nhập Niết Bàn tại chùa ANOMARÀMA. Người ta tạo 1 bảo tháp để thờ xá lợi ngài cho dân chúng chiêm ngưỡng đến khi mãn thời kỳ Phật pháp là mười muôn năm.
-oOo-
Kế đó có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ giáng sanh tên là: TISSA và PUSSA.
Đức Phật TISSA giáng sinh tại xứ KHEMA, cha tên JANASANDHA, mẹ tên PADUMÀ, khi còn ở thế có đến 3 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy bốn điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi có 4 vạn quan binh tùy tùng, có 10 triệu người đồng xuất gia theo ngài, hành đạo trong nữa tháng, đắc quả dưới cây Cẩm lai (ASANA), bảo tọa bề cao 20 thước, tuổi thọ 10 muôn năm. Bề cao ngài 30 thước.
Thuở ấy Bồ-tát sanh làm vua tên SUJÀTA, sau chán nản sự ràng buộc vợ con của cải, danh lợi, ngài bèn xuất gia tu đạo sĩ ở nơi Hy mã lạp sơn đắc được các pháp thần thông. Khi hay tin Đức Phật ra đời, bèn bay xuống nghe pháp rồi phát tâm trong sạch bay đi hái bông trên cung trời về kết thành cây long thật đẹp như ngọc mani dâng cho Đức Phật. Ngài thọ ký và tiên tri cho biết rằng còn 91 đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa SUNANDÀRÀMA. Người ta thiêu xong làm 1 bảo tháp bề cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài cho đến khi mãn thời kỳ Phật pháp là 10 muôn năm.
-oOo-
Vị Phật thứ 2 tên PUSSA, giáng sanh tại xứ KÀSIKA, cha tên JAYASENA, mẹ tên SIRIMÀ, khi ở thế tuổi được 9 ngàn năm, lên làm vua có 3 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi bằng xe giá có 10 triệu quan quân tùy tùng đồng xuất gia theo ngài hết. Ngài hành đạo trong 6 tháng 7 ngày, đắc đạo dưới cây Tầm ruột rừng, bề cao bảo tọa 9 thước, tuổi thọ ngài 9 muôn năm, bề cao ngài 29 thước.
Thời kỳ ấy Bồ-tát sanh làm vua tên VIJITAVI, khi vào nghe pháp phát tâm trong sạch thỉnh Phật và chư Tăng vào đền trai tăng, xong xin xuất gia đầu Phật. Phật thọ ký cho và tiên tri cho rằng: còn 91 đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, ngài nguyện xá lợi rãi rác khắp nơi cho người chiêm ngưỡng.
-oOo-
Kế tiếp, quả địa cầu có 1 vị Phật ra đời tên là VIPASSÌ, giáng sanh tại xứ BANDHUMAVATI, cha tên BANDHUMA, mẹ tên BANDUMATÌ. Khi sanh ra mọi người đều không bịnh hoạn và lo sợ tai hại chi cả, đến khi tuổi đúng 8 ngàn năm lên làm vua có 43 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi bằng xe giá, có đến 84 ngàn người đồng xuất gia theo ngài, hành đạo trong 8 tháng, đắc đạo dưới cây Cẩm lai, bề cao bảo tọa 25 thước, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước. Hào quang trong người Phật túa ra luôn luôn 1 do tuần xung quanh.
Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm Long vương NÀGA, có thần thông quảng đại biết hóa 1 căn phòng thật lớn bằng 7 thứ báu rồi thỉnh Phật và chư Tăng tới để trai tăng bố thí. Xong rồi dâng bảo tọa bằng 7 thứ ngọc báu cho Đức Phật ngài thọ ký và tiên tri cho biết rằng còn 90 đại kiếp sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa SUMITTÀRAMA, xá lợi ngài không bể nhỏ ra mà dính lại thành 1 tượng Phật thật đẹp, người ta làm 1 bảo tháp cao 7 do tuần để thờ xá lợi ngài. Giáo pháp để lại 8 muôn năm mới mãn.
Khi Đức Phật VIPASSÌ nhập diệt rồi có một thời không gian là 59 đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.
-oOo-
Kế đó quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời.
Vị thứ nhất tên là SIKHÌ giáng sanh tại xứ ARUNAVATÌ, cha tên ARUNAVATTA, mẹ tên PABHAVATÌ. Khi tuổi được 7 ngàn năm lên làm vua, có cả 24 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ ngôi vua xuất gia. Lúc ra đi bằng tượng có 7 muôn người hầu hạ theo ngài rồi xuất gia hết, hành đạo trong 8 tháng, đắc quả dưới gốc cây Xoài tượng, bảo tọa bề cao 12 thước,tuổi thọ 7 muôn năm, bề cao ngài 35 thước. Hào quang ngài luôn luôn túa ra 3 do tuần, sáng ngời rực rở, che lấp ánh mặt trời mặt trăng.
Thuởû ấy đức Bồ-tát sanh làm vua tên là ARINDAMA, tại xứù PARIBHUTTA, khi Đức Phật ngự tới xứ ấy, đức vua hết sức trong sạch đến đãnh lễ dưới chân ngài rồi thỉnh Phật và chư Tăng ngự trong thành làm phước trai tăng trong 3 tháng. Khi đúng 3 tháng rồi dâng cà sa và các món phụ tùng nhà sư. Đức Phật thọ ký và cho biết còn 30 đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.
Khi đúng tuổi tho,ï ngài nhập Niết bàn tại chùa ASSÀRÀNA, người ta tạo 1 bảo tháp cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài, giáo pháp hưng thạnh đến 7 muôn năm.
-oOo-
Đức Phật thứ 2 tên VESSABHÙ giáng sanh tại xứ ANUPAMA, cha tên SUPPATITA, mẹ tên YASAVATI. Khi được 6 ngàn năm thì kên ngôi vua có 3 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ ngôi vua đi xuất gia, lúc ra đi có quan quân xe giá tùy tùng, 7 muôn người đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 6 tháng đắc quả dưới cây Long thọ (SALÀ) bảo tọa bề cao 20 thước.
Có đại đức SONA là đại thinh văn bên hữu, đại đức UTARA là Thượng thinh văn bên tả, đại đức UPASANTA là đệ tử hầu cận, có tỳ khưu ni tên RAMÀ và SAMÀLÀ là Thượng thinh văn tả hữu về phái nữ, có ông SOTTIKA và RAMBHA là đại thiện nam và cô GOTAMÌ và SIRIMÀ là đại tín nữ.
Thuở ấy đức Bồ-tát của chúng ta sanh làm vua tại sứ SARABHAVATI, ngài tên là SUDASSANA, khi Đức Phật ngự tới xứ ấy, đức vua vào đãnh lễ ngài và nghe pháp, khi nghe pháp xong phát tâm trong sạch thỉnh Phật và Chư tăng làm phước trai tăng xong, cất 1 tịnh thất bằng cây trầm hương dâng Đức Phật rồi xin xuất gia hành đạo theo Phật. Ngài rất sốt sắng hành cả 13 pháp đầu đà, rất vui thích trong sự học hỏi Tam tạng, Đức Phật bèn thọ ký tiên tri cho biết rằng, còn 30 đại kiếp nữa sẽ thành Phật tổ GOTAMA.
Khi đúng tuổi thọ 6 muôn năm, ngài nhập Niết bàn tại chùa KHEMÀRÀMA, xá lợi ngài bể nhỏ và chia rãi rác khắp nơi cho người chiêm bái.
Sau khi Đức Phật VESSABHÙ nhập diệt rồi có 1 thời không gian 29 đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời dạy đạo cả.
-oOo-
Cho tới quả địa cầu chúng ta đương ở hiện tại đây, có 5 vị Phật tổ giáng sanh (3 vị quá khứ, 1 vị hiện tại và 1 vị lai). Ba vị quá khứ là KAKUSANDHA, KONÀGAMANA và KASSAPA. Vị hiện tại là GOTAMA. Vị tương lai là METTEYYA (Di Lặc).
Đức Phật KAKUSANDHA giáng sanh tại xứ KHEMAVATI, cha tên AGGIDATTA dòng bà-la-môn, làm thái sư cho đức vua KHEMANKARA, mẹ tên VISÀKHA. Khi tuổi được 4 muôn năm ngài hưởng cả gia tài của cha là bà-la-môn, làm quan thái sư cho đức vua mà có quyền hành hơn vua, vì làm thầy dạy dỗ vua. Lúc còn là Bồ-tát có 3 muôn mỹ nữ luôn luôn hầu hạ, và 4 muôn người trai trẻ tùy tùng. Khi ngài thấy 4 điềm rồi phát tâm chán nản đi xuất gia, có 4 muôn người tùy tùng đưa người đi xuất gia theo ngài, hàng đạo trong 8 tháng, khi thọ cơm sữa dê của cô VAJIRINDHA, đi đến gốc cây Sung (Sirisa), lãnh 8 bó tranh của SUBHADDA, rồi trãi dưới gốc cây đắc quả, bảo tọa bề cao 17 thước. Ngài hành đạo nơi ấy tuổi thọ 4 muôn năm, bề cao ngài 20 thước, hào quang ngài luôn luôn tủa ra chung quanh ngài 10 do tuần.
Bồ-tát lúc ấy sanh làm vua tên KHEMA, trong sạch làm phước trai tăng tới Đức Phật và Chư tăng, lại yêu cầu hộ độ 4 món vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men, thật lâu, mãi sau lại bỏ ngôi xuất gia theo Phật, thọ trì tam học rất siêng năng hành đạo. Đức Phật bèn thọ ký và tiên tri cho biết rằng: thầy Tỳ Khưu này sẽ thành 1 vị Phật tổ thứ 4 tên là GOTAMA trong quả địa cầu này vậy.
Đức Phật KAKUSANDHA có 2 vị đại đức là VIDHURA và SANJIVA là Thượng thinh văn hữu tả, có hai vị tỳ khưu ni tên là SÀMÀvà CAMPAKÀ là hữu và tả Thượng thinh văn phái nữ. Có đại đức BUDDHIJA là đệ tử hầu cận Phật, có 2 đại thiện nam là ACCUTA và SUMANA, có 2 đại tín nữ là NANDÀ và SUNANDÀ.
Khi đúng tuổi thọ, Đức Phật nhập Niết bàn tại chùa KHEMÀRÀMA. Người ta làm 1 bảo tháp bề cao 4 cây số để thờ xá lợi ngài. Giáo pháp ngài hưng thạnh tới 4 muôn năm mới mãn.
Sau khi ấy tuổi thọ chúng sanh dần dần giảm bớt xuống tới 10 tuổi hoặc hơn chút ít, vì lòng hung dữ độc ác của chúng sanh, khi chán nản đến tội ác, lại quay về làm điều thiện thì tuổi thọ lần lần tăng lên đến tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới già chết.
-oOo-
Rồi lần lần hạ xuống cho tới thời gian tuổi thọ chúng sanh còn 3 muôn năm. Khi ấy Đức Phật KONAGÀMANA giáng sanh tại xứ SOBHAVÀTÌ, cha tên là YANNADATTA dòng bà-la-môn làm quan thái sư và thầy dạy dỗ đức vua SOBHAVÀTÌ, mẹ tên UTTARÀ. Khi Bồ-tát tuổi được 3 ngàn năm, thì được lãnh trọn cả gia tài của cha mẹ, có 3 tòa lâu đài và 16 ngàn mỹ nữ hầu hạ, vợ tên RUCIGATTÀ, con trai tên SATTAVÀHA. Khi Bồ-tát thấy 4 điềm rồi bỏ đi xuất gia, đi bằng tượng có 3 muôn người tùy tùng theo ngài đều xuất gia theo hết, hành đạo trong 6 tháng, đắc đạo dưới cây Sung, bảo tọa cao 10 thước, tuổi thọ 3 muôn năm, bề cao ngài 15 thước.
Bồ-tát lúc ấy sanh làm vua tên PABBATA tại xứ MITHILÀ. Khi nghe Đức Phật đã ra đời bèn đến nơi đãnh lễ thỉnh Đức Phật và Chư tăng trai tăng bố thí trong 7 ngày và thỉnh Phật nhập hạ 3 tháng. Ngài hết lòng hộ độ 4 món vật dụng đến khi ra hạ làm lễ dâng casa cho Phật và Chư tăng. Đức Phật bèn thọ ký và tiên tri cho biết rằng, còn cách 1 vị Phật tổ cũng trong kiếp này thì người cũng thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.
Đức Phật KONÀGAMANA có 2 vị đại đức tên BHIYYOSA và UTTARÀ là Thượng thinh văn tả hữu, có hai vị tỳ khưu ni tên SAMUDDÀ và UTTARÀ là Thượng thinh văn tả hữu về phái nữ. Có đại đức SOTTHIJÀ là đệ tử hầu cận Đức Phật. Có 2 đại thiện nam là UGGA và SOMMADEVA, có 2 đại tín nữ là SIVALÀ và SÀMÀ, là người hộ trì Phật Pháp.
Khi đúng tuổi thọ 3 muôn năm ngài nhập Niết bàn tại chùa DHAMMA SABHÀRÀMA, xá lợi ngài nguyện cho bể nhỏ ra và bay khắp nơi cho mọi người chiêm bái.
-oOo-
Sau khi ấy tuổi thọ chúng sanh lần giảm xuống còn 10 tuổi hoặc hơn, rồi lần lần trở lên cho tới tuổi 1 A-tăng-kỳ rồi hạ xuống lần lần tới thời đại chúng sanh tuổi thọ được 2 muôn năm thì Đức Phật KASSAPA giáng sanh tại xứ BÀRÀNASÌ, cha tên là BRAHMADATTA, dòng bà-la-môn làm quan thái sư và thầy chỉ dạy đức vua. Khi Bồ-tát tuổi được 2 ngàn năm thì gia tài cha mẹ, 3 tòa lâu đài, có cả 48 ngàn mỹ nữ hầu hạ. Khi dạo vườn thấy 4 điềm chán nản xuất gia. Lúc ấy cả đền đài ngài đang ở, bay tới gốc cây da hạ xuống. Ngài bèn xuất gia nơi ấy, có cả 10 triệu người đồng xuất gia theo ngài hành đạo trong 7 ngày, thành đạo dưới gốc cây Da, bảo tọa bề cao 25 thước, tuổi thọ ngài 2 muôn năm, bề cao ngài 10 thước.
Ngài có 2 đại đức tên TISSA và BHÀRADVÀJA là Thượng thinh văn tả hữu, và 2 vị tỳ khưu ni tên ANULÀ và URUVELÀ là Thượng thinh văn tả hữu bên phái nữ. Có đại đức SABBÀMITTA là đệ tử hầu cận Đức Phật, có 2 đại thiện nam hộ độ ngài là SUMANGALA và GHÀTIKARÀ, có 2 đại tín nữ là VIJITASENÀ và cô BHADDÀ hộ độ ngài.
Lúc ấy Bồ-tát sanh làm JOTIPÀLA thông suốt ba bộ kinh Phệ đà. Khi vào nghe pháp trong sạch, xin xuất gia tỳ khưu, rất siêng năng thọ trì tam học và thuộc nằm lòng Tam tạng. Đức Phật thọ ký và tiên tri cho biết rằng, người sẽ thành 1 vị Phật tổ kế Như Lai tên là GOTAMA vậy.
Khi đúng tuổi thọ Đức Phật KASSAPA nhập Niết bàn tại vườn SETAPYA, người ta làm 1 bảo tháp thờ xá lợi ngài cho người chiêm bái, đến khi mãn thời kỳ Phật pháp là 2 muôn năm.
-oOo-
ĐỨC PHẬT TỔ GOTAMA
Rồi đức Thích Ca Mâu Ni liền thuyết pháp cho đại đức Xá Lợi Phất nghe rằng: "Tất cả 28 vị Phật tổ đã qua Như Lai đều gặp Phật cả, nhưng chỉ có được 25 vị là từ Đức Phật Nhiên Đăng (DIPANKARA) thọ ký cho đến Đức Phật Ca Diếp (KASSAPA) là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, Như Lai đã thực hành theo 10 điều Ba-la-mật (PARÀMI) đã tròn đủ. Khi kiếp chót sanh lên cung trời Đâu Suất (TUSITA), chư thiên 10 ngàn thế giới tới thỉnh Như Lai giánh sanh để độ đời, Như Lai nhận lời bèn coi có đủ 5 điều mà chư Phật quá khứ và vị lai cũng đều xem xét y nhau cả rồi mới giáng sanh. 5 điều ấy là:
1) Ngài xem coi xứ sẽ giáng sanh, không ngoài xứ Trung Ấn Độ.
2) Ngài xem coi châu nào sẽ giáng sanh, không ngoài Nam thiện bộ châu. (JAMPÙDIPA).
3) Ngài xem coi dòng nào ngài sẽ giáng sanh, không ngoài 2 dòng bà-la-môn và vua.
4) Ngài xem coi tuổi thọ chúng sanh: là không quá 10 muôn, không dưới 100 tuổi, nếu chúng sanh tuổi sống dai hơn 10 muôn thì không thấy cái khổ già đau chết, còn dưới 100 tuổi thì nhiều ái dục phiền não lắm khó mà độ được.
5) Coi tuổi Phật mẫu, khi sanh ngài ra rồi, trong 7 ngày phải thăng hà, về hưởng phước báu trên cung trời, vì 1 vị Phật mẫu khi sanh Bồ-tát ra rồi thì không ai được làm lem lấm tình dục nữa.
Các vị Bồ-tát xem đủ điều trọn vẹn rồi mới giáng sanh. Khi Bồ-tát hứa với Chư Thiên rồi bèn giáng sanh xuống xứ KAPILAVATTHU trung Aán Độ (hiện nay tại xứ Nepal), tên là Sĩ Đạt Ta (SIDHATTHA), cha tên SUDHODANA, mẹ tên MAHÀ MAYÀ. Lúc ngài giáng sanh, thì có 7 điềm khác cũng sanh ra 1 lượt với ngài là
1. Đại đức ANANDA
2. Cô YASODHARÀ là vợ ngài
3. CHANDRA, người giữ ngựa.
4. KÀLUDÀYI, quan hầu
5. Ngựa KANTHAKA
6. Cây Bồ Đề.
7. Những hầm của 7 báu.
Khi sanh ra đúng ngày rằm tháng tư, ngài đi 7 bước, tay chỉ thiên, tay chỉ địa và nói:
--"Trên trời dước đất chỉ có mình ta là cao thượng đáng tôn kính, kiếp này là kiếp chót của ta vậy".
Khi lớn lên, vua cha làm 3 tòa lầu, có 4 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Đúng 16 tuổi thì cưới công chúa Da du đà la (YASODHARÀ) và được nhường ngôi vua cho. Ngài hưởng ngôi vua 13 năm, đúng 29 tuổi thì hoàng hậu trổ sanh thái tử tên Ra hầu la (RAHULA). Khi ngài đi dạo ngoài vườn thành thấy 4 điềm là: người già, người bịnh, người chết và 1 thầy tu, chán nản bỏ ngôi vua đi xuất gia. Lúc đi ra cởi ngựa,hành đạo trong 6 năm khổ hạnh còn da bọc xương.
Một hôm ngài nghĩ rằng, con đường khổ hạnh không thể nào đắc quả được, ngài bèn bỏ con đường ấy mà thực hành theo con đường trung đạo, đến ngày rằm tháng tư, ngài thọ cơm trộn sửa dê của cô SUJÀTÀ, rồi thành đạo dưới cây Bồ Đề. Canh đầu ngài đắc Túc mạng minh, biết rõ tiền kiếp của mình và chúng sanh. Canh giữa ngài đắc Thiên nhãn minh, thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh tùy theo duyên nghiệp lôi cuốn mãi mãi. Canh chót ngài đắc Lậu tận minh, là thấy rõ các pháp trầm luân (Àsava) và diệt tận cả ái dục phiền não. Đúng hừng sáng thì ngài hoàn toàn thành 1 bực Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngài hưởng đạo quả Niết bàn 49 ngày. Rồi trời Phạm thiên xuống thỉnh ngài đi thuyết pháp độ đời. Ngài nhậm lời bèn đi đến vườn lộc giả ISIPATANA MIGGADÀYAVANA chuyển pháp luân đầu tiên độ 5 thầy Kiều trần như, và 180 chư thiên và Phạm thiên, đều đắc đạo quả . Pháp Ngài thuyết là phải lánh xa 2 con đường là khổ hạnh và lợi dưỡng, là phải thực hành theo con đường bát chánh là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, và thấy rõ cái khổ, thấy rõ ái dục là nguyên nhân phát sanh cái khổ, thấy rõ Niết bàn là nơi diệt khổ, thấy rõ bát chánh đạo thực hành theo để diệt khổ.
Trong 45 năm trường vẫn thuyết pháp độ đời, tuổi thọ ngài chẳn đúng 80, ngày rằm tháng tư mới nhập Niết bàn tại xứ KUSINÀRÀ dưới bóng 2 cây Song long thọ (SÀLA). Bề cao ngài 6 thước, tuổi thọ chẳn 80, bảo tọa bề cao 20 thước, hào quang túa lối 1 sải. Có 2 vị đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là Thượng thinh văn tả hữu, có đại đức ANADA là đệ tử hầu cận, có 2 vịâ tỳ khưu ni là KHEMÀ và UPPAVANNA là Thượng thinh văn tả hữu về phái nữ, có 2 ông CITTAKA và HATTHALAVAKA là đại thiện nam, có 2 cô NANDÀMADA và UTTARÀ là đại tín nữ.
Sau khi ngài nhập diệt xá lợi ngài chia ra tám phần cho người tại bảo tháp để thờ, giáo pháp ngài còn hưng thạnh đến 5 ngàn năm mới mãn.
-ooOoo-
CHÚ GIẢI LỊCH SỬ CHƯ PHẬT - Dịch giả: TỲ KHƯU THIỆN MINH
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
Theravāda
CHÚ GIẢI LỊCH SỬ CHƯ PHẬT
Nguyên Tác: BUDDHAVAMSA
Bản Pāli Ngữ: BUDDHATTA THERA
Bản Dịch Anh Ngữ: I.B. HORNER
Bản Dịch Việt Ngữ: TỲ KHƯU THIỆN MINH
PL. 2551 - DL.2007
Lời Giới Thiệu
Hội Thánh Ðiển Pāli đã tồn tại gần trăm năm. Cho đến thời điểm, năm 1976, hội đã xuất bản hầu như toàn bộ các tác phẩm kinh điển viết bằng tiếng Pāli ngoại trừ các tác phẩm Vô Ngại Giải Ðạo (Paṭisambhidāmagga), Thí Dụ Kinh (Apadāna), Bộ Song Ðối (Yamaka) và một phần tác phẩm Paṭṭhāna. Nhng cho đến nay chỉ xuất bản được bốn tập Chú giải mà thôi: đó là các tập Chú giải về Tiểu tụng Khuddakapāṭha[1], Pháp cú Dhammapada[2], Dhammasaṅgaṇi[3] và Thuyết luận sự Kathāvatthu[4]. Nhằm kỷ niệm sinh nhật thứ một trăm vào năm 1981 Hội Thánh Ðiển Pāli đã thiết lập một dự án dịch thuật các tập Chú giải (Aṭṭhakathā). Mục tiêu của dự án này nhằm xuất bản càng nhiều bản dịch Anh Ngữ càng tốt, ngay sau khi đã sẵn sàng, chứ không đợi phải đến ngày kỷ niệm một trăm năm mới thực hiện. Tôi cảm thấy một vinh dự lớn lao vì bản dịch tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (Bhudhavaṃsa) (BvA) của tôi có tên gọi là Mahuratthavilāsinī hay ý nghĩa ở Anh Ngữ là Người Khai Sáng Ý Nghĩa Ngọt Ngào (Clarifier of the sweet meaning) (CSM) là tác phẩm đầu tiên được đưa vào in ấn trong dự án này. Ðiều đó có nghĩa là hầu như tác phẩm đã gần hoàn tất trước khi dự án được hình thành, điều này đã tạo cho tôi một lợi thế lớn so với các bạn dịch thuật đồng nghiệp của tôi.
Và như vậy, tôi nắm bắt cơ hội này để thực hiện một số nhận xét chung, ngắn gọn bao quát có thế; trước tiên về nguồn gốc tập Chú giải, rồi đến chức năng và cuối cùng là một số vấn đề liên quan đến phương pháp thực hiện. Tôi hy vọng công việc này sẽ giúp đưa ra những đường nét hướng dẫn cho những nghiên cứu trong tương lai, khi ta nhắm tới cấu trúc và tổ chức Chú giải như một khối toàn diện, không loại trừ công việc nghiên cứu những điểm dị đồng và bất đồng có thể phát hiện tồn tại nơi các Tập Chú giải và giữa các Tập Chú giải với các nhóm nghiên cứu.[5] Thí dụ như các tác phẩm BvA, Jātakanidāna, VvA, PvA. CpA và ApA có thể giải thích cho rằng có liên quan nhiều hơn với việc Chú giải những vấn đề truyền thuyết hơn là các giới luật tu trì (Vinaya), các chủ đề học thuyết và rất nhiều các điểm khác về (Sutta Kinh Phật), hay những khái niệm triết học siêu hình (Abhidhamma Vi Diệu Pháp).
Vì các tập Chú giải họp thành một ngành quan trọng trong văn chương Pāli, căn bản đối với việc giải thích chính xác về Phật Pháp. Không phải vì thế mà chúng không thu hút chú ý của một số vị có thẩm quyền đáng tin cậy trong lãnh vực nghiên cứu văn bản Pāli. Nổi bật nhất trong mối tương quan này ta thấy nổi lên E.W. Adikaram[6], ông đại khái đã chia các tư liệu của mình thành hai nhóm: những khác biệt có liên quan đến các Tập Chú giải (Aṭṭhakathās) và Kinh điển (Canon) và những khác biệt giữa tập Chú giải (Aṭṭhakathās) với những gì còn lại. Tất cả những gì ông đề cập đến đều đáng cho chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng và đắn đo suy xét. Những nhận định do Thiền sư ṇamoli thực hiện về các công vụ[7] Chú giải và nhiệm vụ của các tập Chú giải[8] cũng rất ư là sáng suốt và hữu ích, tuy có ngắn hơn đôi chút. Tác phẩm vừa xuất bản mới đây của M. Winternitz[9] và của B.C. Law,[10] cả hai công trình nghiên cứu này đều đề cập đến những vấn đề chung chung liên quan đến xuất xứ Chú giải, sự tăng trưởng, mục tiêu và nội dung[11] của các tác phẩm Chú giải Kinh Phật.
Những gì tiếp theo sau đây tôi muốn đề cập đến các tập Chú giải với những đường hướng khác hơn và cách tiếp cận những phương pháp Chú giải tôi đã đưa ra trong Chương III trong phần nhập đề này, được thực hiện toàn khối từ những góc độ tôi chưa thấy được thảo luận cho đến giờ phút này. Nhưng trước tiên, những nguồn tư liệu của các tập Chú giải (ctys) phải được tái khẳng định, bất chấp toàn bộ những gì đã được đề cập đến rất nhiều về vấn đề này. Hình như vẫn còn nhiều điều chưa được làm sáng tỏ và còn gây hiểu lầm. Thứ hai, mục tiêu hay đối tượng của các Tập Chú giải (ctys) cũng cần được xác định trở lại một lần nữa, chủ yếu là đưa ra những điểm nhấn mạnh đúng đắn về lý do và sự cần thiết trong việc biên soạn ra chúng. Thế rồi, trong đoạn III có một số phương sách đặc trưng được sử dụng trong qui trình làm sáng tỏ những điểm trên cũng được thẩm tra lại. Không ít khi công việc làm sáng tỏ dễ hiểu này lại còn trở nên hữu ích trong việc truyền đạt kiến thức cho ta nữa.
-ooOoo-
I. NGUỒN TƯ LIỆU CÁC TẬP CHÚ GIẢI
Việc biên soạn các tập Chú giải dưới dạng chúng ta đang có trong tay hiện nay chủ yếu do Budhaghosa và Dhammapāla thực hiện và tới một mức độ ít hơn cũng do Buddhadatta thực hiện nữa, tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) được gán cho vị này. Cả ba người đều là các vị tỳ khưu và đều sống ở thế kỷ thứ năm sau CN, và đều sinh sống tại Ấn Ðộ rồi chuyển sang Mahāvihāra tại Thành Phố Anurādhapura bên quốc đảo Sri Lanka để theo đuổi công việc dịch thuật tại đó với sự đồng ý của các nhà sư sở tại. Rất có thể đã có nhiều hơn một nhân vật có tên là Buddhaghosa và Budhadatta và cũng rất có thể lại có đến bốn nhân vật có tên là Dhammapāla[12]
Nói một cách chính xác, chẳng có ai trong ba nhân vật kể trên là tác giả của bất kỳ tập Chú giải nào đã được truyền lại cho chúng ta được ghi tên các vị này cả. Trừ trường hợp họ chỉ là dịch giả và là nhà biên tập chủ yếu tham gia công việc biến đổi các tác phẩm này theo một thứ tự khả dĩ dễ chấp nhận và tinh vi hơn về các tư liệu họ đã phát hiện tại Sri Lanka dưới danh nghĩa là các tập Chú giải. Rất có thể bắt nguồn từ Ấn độ (cũng rất có thể lại xuất phát từ chính Ðức Phật) rồi trưởng lão Mahinda đã đem các tập Chú giải này sang Sri Lanka dưới dạng ngôn ngữ Māgadhī, rồi cũng chính tại đảo quốc này các tập Chú giải này đã được dịch sang tiếng Sinhale (Tích Lan). Và chính vì thế cho nên các tập Chú giải này đã còn tồn tại. Một số các tập Chú giải này đã tồn tại khoảng chín trăm năm trước khi chúng được chuyển sang một ngôn ngữ ngày nay, chúng ta gọi là Tiếng Pāli, cũng như do một số người mà ngày nay chúng ta gọi là các bậc Chú giải đã sắp xếp và biên tập lại, trong đó có Buddhaghosa và một số người khác mà tên tuổi của họ đã được ghi lại trong các tác phẩm này cho đến ngày hôm nay. Nhưng họ thực sự chỉ là dịch giả và biên tập các tác phẩm này mà thôi,[13] chớ không phải là tác giả và biên soạn nguyên thủy của các tác phẩm này. Chính Buddhaghosa, hay như chúng ta có thể tin tưởng, đã đề cập rất nhiều trong các đoạn kệ giới thiệu mỗi tác phẩm dài viết về bốn tập Bộ Kinh Pāli Nikāya, cũng như trong các tác phẩm viết về VA[14] và về Asl[15]. Chỉ nghiên cứu các tập Chú giải các Bộ Kinh Pāli đầu tiên, chúng ta thấy ngài Buddhaghosa đã nói rằng:
“Các tập Chú giải đã được tụng ngay trong Hội Nghị Ðầu Tiên[16] do năm trăm vị Trưởng Lão và sau này lại được tụng trở lại tại (đại hội thứ hai và đại hội thứ ba[17]), đã được mang sang đảo quốc Sīhala[18] do Māha-Mahinda và sau này được dịch sang tiếng Sihāḷa nhằm đem lại lợi ích cho các cư dân sống trên đảo Sri Lanka. Loại bỏ tiếng Sīhala khỏi các tập Chú giải và dịch sang ngôn ngữ[19] đẹp, dẹp bỏ những thiếu sót, làm cho ngôn ngữ này thích hợp với văn phong bản văn Kinh Phật Pāli[20] mà không đi ngược lại với truyền thống của các vị Trưởng Lão đang trụ trì trong vùng Mahāvihāra, các ngài là những ngọn đèn theo dòng giõi các vị trưởng lão, là các chuyên gia trong mọi quyết định, ta sẽ chuyển đổi làm cho ý nghĩa trở nên rõ ràng, loại bỏ những nhắc đi nhắc lại không cần thiết, nhằm đem lại phấn chấn cho chúng sanh và nhằm giúp Phật Pháp tồn tại vĩnh viễn.”
Buddhaghosa đã nói, như đã được ghi lại trong phần giới thiệu bản dịch sang tiếng Pāli phần Chú giải Bộ Luật (Vinaya) như sau:
“Vì tập Chú giải này được biên soạn bằng ngôn ngữ đảo quốc Sihala, thế nên không thể phục vụ cho chư vị tỳ khưu và bá tánh tại hải ngoại. Chính vì thế giờ đây ta sẽ bắt đầu dịch tập Chú giải này cho khớp với văn phong bản văn Kinh Phật. Trong phần mở đầu tập Chú giải này ta sẽ dựa trên điều đó đối với tác phẩm Ðại Chú giải (Mahā-aṭṭhakathā) và không loại bỏ bất kỳ ý nghĩa chính xác nào cùng những khoản luật giới đã đưa ra trong Mahāpaccari và một số tập Chú giải nổi tiếng khác như tập Kurundi đã được truyền thống các vị Trưởng Lão chấp nhận... Chính vì thế ta sẽ tránh được những cách Chú giải không chính xác (viết sai) được truyền lại trong các tập này. Ðể từ đó, chỉ loại bỏ sự khác biệt ngôn ngữ[21] và cô đọng lại các phần Chú giải đã được kéo dài thêm, không loại bỏ bất kỳ quyết định nào đồng thời cũng không đi lệch hướng so với bất kỳ truyền thống bản văn nào... (ta sẽ Chú giải tác phẩm Luật (Vinaya)[22]
Còn nữa, theo Bà Rhys Davids lưu ý. Chính Buddhaghosa đã đề cập đến trong các đoạn kệ giới thiệu tác phẩm Chú giải Bộ Pháp tụ (Atthasālini)”[23] “Tập Chú giải[24] Vi Diệu Pháp, ngài Ðại ca diếp (Mahākassapa) cùng với các đại Thánh tăng khác đã tụng trước tiên trong Ðại Hội Lần thứ nhất và sau này các vị Thánh tăng khác đã tụng tại đại hội thứ hai và đại hội thứ ba và rồi Trưởng Lão Mahinda, đã được chuyển tới quốc đảo tráng lệ này và đã được viết thành ngôn ngữ các cư dân trú ngụ tại đây. Loại bỏ khỏi tập Chú giải này ngôn ngữ của những cư dân tại Tambapaṇṇi[25], dịch tác phẩm này sang một ngôn ngữ hoàn hảo và được viết bằng một loại văn phong bản văn Kinh Phật Pāli, làm sáng tỏ và giải thích các quyết định của các cư dân sống trong vùng Mahāvihāra không pha tạp và không bị tha hóa do các quan điểm của các giáo phái khác, và chỉ nghiên cứu những gì cần phải nghiên cứu được trích ra từ các Bộ Kinh Pāli (Nikāya) và các tác phẩm Chú giải, Ta sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa và làm cho người trí hoan hỷ.”
Thật không thể khẳng định rõ ràng hơn được nữa, mối bận tâm to lớn của ngài Buddhaghosa chính là rút ra từ một đống các tập Chú giải cổ xưa đồ sộ đó, để đem lại hình thái có hệ thống và có lý hơn, dễ dàng thấu hiểu đối với một số lớn các vị tỳ khưu và đồng thời loại bỏ những tư liệu không cần thiết được tìm thấy trong đó. Ngài còn quyết định trung thành tuyệt đối với cách tiếp cận với phương pháp Chú giải không thể không nắm giữ đối với Giáo Pháp của các vị Trưởng lão và hay truyền thống Nam Tông, được cất dấu trong đó. Ngoài ra rất ít khi ngài đưa ý kiến riêng của mình vào các tác phẩm đó, ngài chỉ biên dịch từ tiếng Sihale sang tiếng Pāli mà thôi, và đó là những gì ngày nay chúng ta đang có trong tay được coi như là các tác phẩm Chú giải Pāli vậy.
Câu truyện truyền thống cũng cung cấp thêm một vài chi tiết cho trong Mhvs[26] chỉ là theo lời khuyên của vị trưởng lão Revata trụ trì tại Bodh-gayā, là một cậu bé Bā-la-môn (sau này có tên là Buddhaghosa) đã nhận được lệnh pabbajjā, hay “xuất gia” như là một điều chuẩn bị cần thiết để sang Sri Lanka hầu có thể hoàn thành lời ước để thực hiện một cuộc nghiên cứu sâu rộng về Tam Tạng cùng với những tập Chú giải về kinh này. Vì ở đây, tại Jambudipa, (Ấn độ) theo lời Hoà Thượng Revata giải thích, “chẳng tồn tại bất kỳ một tập Chú giải nào cả” n’atthi aṭṭhakathā idha. đặt chân đến Mahāvihāra, Buddhaghosa đã yêu cầu có được “toàn bộ các bản chép tay” để ngài có thể biên soạn một tập Chú giải. Nhằm thử khả năng của ngài Buddhaghosa với tư cách là một nhà tổ chức biên soạn bản văn và cũng như là một dịch giả (từ tiếng Sinhale sang tiếng Māgadhas[27]) và để xác định được kiến thức của ngài về các tư liệu ngài chờ đợi để triển khai, các vị tỳ khưu sở tại, vô cùng kinh ngạc trước hiểu biết và kiến thức của ngài, liền đưa cho ngài hai đoạn kệ và nói: “Hãy tỏ rõ khả năng của ngài với các đoạn kệ này, khi nào chúng ta nhìn thấy khả năng của ngài, chúng ta sẽ đưa cho ngài toàn bộ các bản chép tay” tác phẩm Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga) là kết quả của các cuộc nghiên cứu của ngài về các bản văn Kinh Phật Pāli và các tập Chú giải cổ viết bằng tiếng Sinhale. Cho dù chính ngài đã viết, đây chỉ là một tác phẩm nguyên bản ở mức độ ngài đã hệ thống hoá và điều phối hợp các tư liệu Chú giải cổ xưa biến thành ít phổ biến và một hình thức cô đọng hơn các hình thái nguyên bản, hầu như vẫn chiếm ưu thế hơn trong các tập Chú giải[28] này. Ở mức độ đó tác phẩm nguyên bản” khác được gán cho Buddhaghosa, có tên gọi là ṇodaya, chỉ được biết đến dưới dạng một vài Ms hay một phiên bản của nó không ngờ lại được đưa ra ánh sáng.[29] Rất tiếc chẳng có tập Chú giải nổi tiếng Pāli nào còn tồn tại, những tập Chú giải đó được Buddhaghosa biên tập” và chuyển ngữ, rồi đến ngài Dhammapāla và tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) lại do Buddhadatta thực hiện. Nhưng hình như Buddhaghosa đã sử dụng hầu hết tên các tác phẩm đó, đặc biệt là trong tác phẩm VA, và chính ngài đã truyền xuống đến chúng ta thông qua các tác phẩm Mahā- hay Mulā- aṭṭhakathā, Mahāpaccari, Kurundī. Và Andhakaṭṭhakathā và cả một số tác phẩm khác nữa.[30]
Ðôi khi những tác phẩm này chỉ được trích dẫn, đôi khi lại được phê chuẩn, đôi khi ngài còn phê phán ngược lại như trong Tác phẩm VA và ở một số tác phẩm khác[31]. Như vậy chứng tỏ cho thấy ngoài việc làm một dịch giả, ngài còn quan tâm nhiều đến việc biên tập nữa. Cũng như vậy đối với Dhammapala và Buddhadatta trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) không đích danh đề cập gì đến các tác phẩm cổ xưa này. Tuy nhiên[32] cách diễn tả “trong các bản chép tay”, potthakesu rất có thể ám chỉ về các tác phẩm này.
Cũng vậy, và ngay cả sống trước thời các vị biên soạn các tác phẩm cổ này, có các vị Porāṇas, là các vị học giả, “không còn gì phải nghi ngờ họ là các vị thiền sư thuộc hạng niên trưởng và họ đã chiếm một vai trò quan trọng trong việc hình thành và ổn định trường phái Nam Tông[33].” Adikaram cũng thuận theo ý kiến cho là ngay cả nếu như họ không được biết đến tại Ấn độ đích danh là các vị Porāṇas, ấy vậy mà quan điểm và những giải thích Giáo Pháp của họ lại được kết hợp chặt chẽ trong một tác phẩm Chú giải cổ (như đã được đề cập đến ở trên) khi tác phẩm Mahā-aṭṭhakathā và các tác phẩm Chú giải khác đã được biên soạn, được phổ biến với tên gọi là Porāṇaṭṭhakathā.[34]
Tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) hầu như không thể chứng tỏ cho thấy có các vị Porāṇas tồn tại và gán cho họ một đoạn kệ được trích dẫn[35] ít nhất trong mười một tác phẩm Chú giải khác. Hơn thế nữa, trong bản Chaṭṭhasaṅgyan viết bằng tiếng Miến về tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) cũng gán đoạn kệ sau đây với một câu chú thích cho là bản dịch tiếng Sinhale đã bỏ qua cả đoạn kệ lẫn việc qui kết của tác phẩm[36] này:
Một Vị Phật xuất hiện trong Kiếp Sāra, trong Kiếp Maṇḍa có hai vị Chiến Thắng xuất hiện.
Trong Kiếp Vara xuất hiện ba Vị Phật, Kiếp Sāramaṇḍa có bốn Vị Phật xuất hiện.
Năm Vị Phật xuất hiện trong Bhadda Kiếp; chẳng còn vị Chiến Thắng nào nhiều hơn thế nữa xuất hiện đâu.
Hơn thế nữa, trong khi đưa ra tám lý lẽ thường dùng nêu lên lý do tại sao đức Thế Tôn lại được gọi là Vị Như Lai, cho dù tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) có trích dẫn ba đoạn kệ[37] mà hầu như trong các Chú giải khác đã đồng nhất với nhau về cùng một chủ đề được qui cho Porana. Ðiều này không phải như vậy. Còn nữa, có một đoạn kệ mà ít nhất bốn tập Chú giải khác đều mô tả như vậy, nhưng cả tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA)[38] hoặc giả UdA 403 đều làm như vậy. Tôi chẳng tìm thấy bất kỳ đoạn kệ nào trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) lại mô tả về họ cả. Phải chăng chỉ có tập Chú giải (cty) là không làm như vậy sao?
Ngoài một số hiểu biết về các vị Poranas, tức các vị cao niên là những người tiền nhiệm mình, các vị Chú giải (ctys) cũng đã ý thức được về những vị này, rất có thể là những người đồng thời với mình, và đôi khi họ cũng đề cập đến các vị này như là “họ” (they: được hiểu là như vậy), api paṭhanti, họ cũng đã giải thích”[39]; đôi khi như là aññe hay là apare[40], là những người khác; và thường xuyên hơn là keci, tức là một số. Rất có thể, trong một số đoạn “những người này” cũng được hiểu một cách hoàn toàn khác. Thí dụ như, một đoạn về nirāmisa trong tác phẩm PṭsA bắt đầu nói rằng, “trong bản chép tay họ (hiểu ngầm) viết là ‘sāmisañ ce’. Điều đó “không khá hơn” potthake sāmisañ ce ti likhanti. Likhanti,tam na sundarataram[41]. Vậy nó đã đưa ra ba bội đôi trong việc xác định và phủ định, phải thông hiểu hay hiểu ngầm trong việc giải thích nirāmisa và sāmisa. Ngữ cảnh trên được giải thích trước tiên trong những danh từ hay những ý niệm (liên kết với từ gotra-bhū), trước tiên giải thích anne sau đó keci. Cả hai sự giải thích đó dẫn đến không thoả đáng. Và một lần nữa, ví dụ trong UdA 116 253 428 đều mà kesi nói, vanneti vadanti, pathanti, được người ta nói như là tam na sundaram, “điều đó chưa đúng”. Việc nghiên cứu của họ cũng thấy loại bỏ trong UdA 34, tan akāranam, và 431, n’attha’idam kāranam “ đó là điều nhầm lẫn”, cũng có thể trong UdA 44, nhưng không cần thiết ở trong UdA 51. Thực vậy, Tiến sĩ Lily de silva tìm thấy sự khác biệt đó đối với huynh hướng của keci có nghĩa xấu, Kesi thì trú ở Abhayagirins và cũng có thể trú ở utara vihara, quy định điều này không có nhất quán[42] mà theo DPPN hoàn toàn chấp nhận cả hai là đúng[43]. Tuy nhiên điều đó chúng ta nên ghi nhận rằng dường như vấn đề đó tỷ lệ đọc hiểu hay nói chính xác (vadanti) quy cho kesi thu nhận mà không có bất kỳ sự phê bình nào ca[44], do đó sự giải thích này thường không có nghĩa là bị phản đối như người không đúng vững. Nhưng cho đến thời điểm này, nhìn bao quát sự khác nhau các bản chú giải đối với Kesi đã biên soạn, nó có thể chỉ trích dẫn một vài công trình nghiên cứu ở nơi này, nơi nọ trong một phương pháp lung tung.
Như vậy, điều đó dường như khả quan hơn cho việc trình bày chỉ một số trường hợp nhỏ khi Phật tông quy cho việc đọc khác nhau đối với kesi phát biểu đồng ý hay không đồng ý, hoặc ra mắt đồng ý, hay xác định không đồng ý. Nhưng chúng tôi hy vọng con số nhỏ này sẽ là đủ đánh dấu sự quan trọng bộ Phật tông gắn liến với Kesi. Liên quan đầu tiên trong ba phân loại này chính là đoạn văn sau đây: gavapānena ti idam vuttam eva, ghatapānenā ti pi pathanti keci[45]. Hoặc một lần nữa, atthamī ti atthan gato, kesi attham gato ti pathanti[46] Và, yavavipulo ti vipulayaso... keci tatth’ āsi vipulo rukkho ti pathanti- “bao quát là nổi tiếng... một số người đọc ‘đã có một cây lớn ở đó’[47].
Nhưng chúng tôi cũng chấp nhận: cando tāragane yathā ti... kesi cando pannaraso yathā ti pathanti – “ như mặt trăng ở giữa các vì sao... một số người đọc ‘ như mặt trăng vào ngày 15”. Việc đọc này dường như không được chấp nhận như trong Phật tông đã nói, so uttānattho va, “ ý nghĩa này hoàn toàn rõ ràng[48].
Trái lại, ở đây có đoạn kinh văn: sabbakilesānī ti sabbakilese, lingavipariyāsam katvā vuttaṃ kesi tattha sabbakilesehī ti pathanti –“ tất cả phiền não có nghĩa là tất cả phiền não, ý muốn nói đã được thay đổi giống. Một số người đọc ‘ ở đó ( ví dụ như cây giác ngộ của nārada)bằng tất cả những phiền não’’’[49], điều đó không đúng vì không ghi nhận điều này. Tuy nhiên, điều kesi nói, vadanti, về sự hiện hữu tám phẩm chất đặc biệt”, dứt khoát không chấp nhận cho sự không đồng ý có hay thích hợp bản văn, tam pāliyā na sameti[50] . Ðây là điều thật tế đối với “một số người” lầm lẫn khi giải thích những phẩm chất này liên quan với những vị ẩn sĩ mà những vị này có thể cung ứng tám điều hạnh phúc, nơi đó hạnh phúc được tiếp nhận liên quan với trạng thái tâm của các vị sa môn: tỉnh thức, thanh tịnh, trong sáng, không nhuợc điểm, không phiền não, nhẹ nhàng và thoải, thích hợp, không lay động[51].
Một vài từ ngữ ở đây nói về kesi có thể cho chúng ta những biểu hiện quan tâm bên ngoài đối với Phật tông đã chú giải và dịch thuật. Thật vậy, nó được nói thêm ở đây rằng có một số người bị phản đối vì họ viết sai trong kinh điển: mayi pabbajite ti mayi pabbajitabhāvam upagete. Mama pabbajitam santan ti potthakesu likhanti, so pamādalekho ti veditabbo[52]. Khi tôi xuất gia có nghĩa là khi đó tôi đạt được trạng thái của một người xuất gia. Họ đã viết trong kinh văn ‘ ở đó có sự xuất gia của tôi’; điều này phải hiểu ngầm là viết sai [53].
-ooOoo-
II. CHỨC NĂNG MỘT TẬP CHÚ GIẢI
Mục tiêu căn bản nhất của mỗi Tập Chú giải chính là giải thích ý nghĩa các từ, các cụm từ nơi các đoạn Kinh Phật được rõ ràng, dứt khoát và còn phải là điều giải thích chung cuộc nữa, “để khám phá” theo như lời[54] E. Hardy, và hầu như vượt qua mọi nghi ngờ và mọi tranh luận. Ðể bảo toàn tối đa Giáo lý của đức Phật theo ý nghĩa đã được trù liệu từ trước, và đã được các vị luận sư truyền đạt lại một cách liên tục, ācariyaparampara[55]. Lúc nào cũng vẫn có những người nói xuyên tạc, luôn vẫn có và sẽ còn có nhiều người cải tiến” sẵn sàng đưa ra những nhận định của riêng mình. Thông qua cả bạn lẫn thù luôn có những thay đổi độc hại và việc làm giảm giá trị lời của Ðức Phật vẫn thường xen vào trong một thời gian dài bất tận. Các vị Chú giải đóng vai trò là áo giáp để bảo vệ và chống lại những tình huống như vậy. Vì họ chiếm một vị thế độc nhất đó là những người duy trì và giải thích Phật Pháp đích thực. Ðiều thiết yếu không những là chỉ hiểu họ, nhưng còn phải theo dõi họ một cách cẩn thận và chấp nhận ý nghĩa họ gán cho một từ một cụm từ mỗi lần họ Chú giải. Giờ đây họ rất “gần gũi” với Kinh Pāli. Họ không thêm vào bản văn hoặc bớt đi điều gì còn phải được nghiên cứu thấu đáo. Và chẳng có tập Chú giải nào được viết ra vào những thời điểm sau này có thể được ghi thêm vào đó. Với các ṭikàs hay những tập Chú giải phụ giải thích những điểm trong các tập Chú giải “cần phải được làm sáng tỏ thêm phần giải thích chính xác hay đôi khi chỉ là thêm vào những thông tin”[56] là điều chúng ta không quan tâm đến ở đây.
-ooOoo-
III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHÚ GIẢI
Các tập Chú giải chính là một kho tàng về kiến thức sắp loại từ kiến thức tột đỉnh để đạt đến tư tưởng Phật Giáo. Ví dụ như Tam Bảo, Ngũ Uẩn,(khandha), Giới (dhātu), các Xứ (āyatana), y tương sinh (paṭiccasamuppāda). Các quyền (indriya), Chánh Ðạo (magga) và tám thành tố cấu tạo thành chánh đạo gọi là Bát Chánh Ðạo, Thiền (jhāna) và các chứng đắc (samāpatti), các điềm báo (tướng) hiện tượng hiện hữu (lakkhaṇa), giải thoát (vimutti), níp-bàn và các từ đồng nghĩa khác, thông qua những khái niệm triết học và tâm lý học ít được đề cao, đến các vấn đề quen thuộc như: nơi chốn, cây cối. Gia súc hay súc vật.
Trong tập Chú giải này tác giả đã thường xuyên lưu ý đến Ngữ Pháp; những thay đổi thì và giống cách này cách khác cũng được tác giả thay thế dần và cũng được lưu ý đến một cách đặc biệt như ta đã thấy xuất hiện trong thực tế được ghi lại trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) và vấn đề này được gọi là cách sử dụng ngữ pháp hay các qui tắc Ngữ pháp (lakkhaṇa[57]).
Các tác giả cũng sử dụng rất nhiều cách ví von và các ẩn dụ được kể lại và dùng làm đối kháng cũng như các câu chuyện thường xuyên được nói đến để minh hoạ một điểm nổi lên và đưa ra một số viễn cảnh cho toàn bộ vấn đề. Một vài điểm này có liên quan đến quá khứ, rất có thể là những điều cổ xưa hoặc giả là những chuyện cổ tích, có những lúc là những biến cố không mấy xa xưa. Câu chuyện có thể được kể dưới dạng chuyện Kinh Bản Sinh, số khác được coi như là có thực và không quá xa xưa, rất có thể là những sự kiện đang diễn ra và sự xuất hiện có thể liên quan đến những vấn đề như thuộc lãnh vực chính quyền địa phương. Các phong cách hay tập tục nổi cộm và cách thức ứng sử lại được công bố là tốt hay xấu, nghiêm túc hay không nghiêm túc cả hai đều có liên quan đến những hậu quả xã hội và kết quả nghiệp chướng nữa. Nhưng vấn đề này không thể truyền đạt trong một khuôn khổ hạn chế bài giới thiệu và ở đây chỉ đưa ra một đường nét bao quát bản chất vấn đề, luôn luôn là mối quan tâm lịch sử đáng cho chúng ta lưu ý. Không còn nghi ngờ gì nữa toàn bộ những tập Chú giải đã sử dụng tư liệu này như là một loại tác dụng phụ của các từ ngữ và các đoạn văn đang được Chú giải cách đặc biệt nhằm làm rõ điều cốt lõi những vấn đề này và đầu tư với tính xác thực đáng tin cậy. Tuy nhiên toàn bộ các từ và các đoạn văn này hầu như là vô tận có thể tìm thấy trong các chi mục ở hầu hết các ấn bản của Hội Thánh Ðiển Pāli (PTS).
Các nhà Chú giải, với sự trợ giúp của trí nhớ không chê vào đâu được, chắc chắn đã chế ngự được toàn bộ các công trình Kinh Phật, nếu không muốn nói là tất cả. Bằng không thì, với sự trợ giúp của việc giải thích Chú giải bằng cách nào họ đã có thể rút ra từ các tác phẩm này một cách thích đáng và đi thẳng vào vấn đề khi có cơ hội yêu cầu[58] hoặc trình diễn một cách tài tình giáo lý lỗi lạc và tiềm tàng chứa đựng[59] bên đó?
Lẽ đương nhiên nội dung các tác phẩm Chú giải này có khác nhau giữa Luật Tạng, Kinh tạng và Vi diệu pháp. Các nội dung này còn thay đổi tùy bản chất và rất có thể còn tùy tầm quan trọng chủ yếu nó truyền tải, nếu có bất kỳ tác phẩm Kinh Phật đặc biệt nào đang được Chú giải. Như vậy theo Ngài Hoà Thượng ṇamoli thuật lại trong tác phẩm KhA[60] “Mức độ quan trọng trong việc nhấn mạnh chung cuộc lại nằm ở bản văn viết về Từ Tâm được coi là căn bản để đạt đến hạnh phúc tột đỉnh Níp-bàn đã được khai thác triệt để trong tập Chú giải.
Các nội dung các tập Chú giải có thay đổi là điều tự nhiên. Tuy nhiên các nội dung này cũng tương ứng và phù hợp với nhau đặc biệt trong các từ không thể tránh khỏi và luôn được lặp đi lặp lại xem ra chỉ nhằm nhồi nhét trong Giáo Pháp. Kết quả là, những cách giải thích Chú giải cho thấy có rất ít hoặc không có sự bất đồng đáng kể nào không chỉ trong một hoặc hai tác phẩm Chú giải mà hầu như toàn bộ các tập Chú giải đó như trong các đoạn văn song hành hoặc có thể đem ra so sánh với nhau được, mặc dù đôi khi độ dài đoạn văn có thay đổi và không tương đồng với nhau. Thí dụ như, tất cả các tập Chú giải đều sử dụng từ Như Lai hầu như chính xác hoàn toàn gồm tám lý do tại sao Ðức Phật lại được biết đến[61] như là một vị Như Lai. Ðây không phải là từ có hai nghĩa. Cũng tương tự như vậy, hình như chỉ có một cách giải thích duy nhất về từ caturaṅgika-sannipāta[62], tức là Tăng Ðoàn Tứ Phần các vị tỳ khưu (four factored Assembly of the bhikkhus). Hay chúng ta có thể quay trở lại với một tập Chú giải khá dài và rất giống với tập Chú giải pāṇtipāta. t nhất đã diễn ra trong năm tác phẩm Chú giải,[63] hay đối với những giải thích về các từ tiếp theo rất đa dạng trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii 1051 tt., AA v 7-9, hay duvidhaṃ hi kammaṭṭhānaṃ, trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii 721-4. MA I 275-8, hay một số loại paññā ghi trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii 931-3, MA iv. 82-6, SA i. 119-122. rõ ràng đây chỉ là tất cả những nhắc lại được lấy ra, nếu không phải trong tác phẩm Chú giải đã được sửa soạn và đã được sẵn sàng trước đó, rồi trích từ một số nguồn thông thường khác. Mặt khác, lại có những trường hợp khi các tác phẩm Chú giải có những từ giống nhau và có thay đổi một cách đáng kể. Một ví dụ rõ ràng về điểm này có thể tìm thấy trong các tập Chú giải về các thần linh bhassara, Subhakiṇha và Vehapphalā nh trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 37. MA i. 35 và Chú giải Tăng Chi Bộ iv 27. Vì cho dù một số ít chỉ là cách diễn tả loại suy có thể được sử dụng, toàn bộ những điểm này đều có một điểm chung. Hoặc giả ít nhất cũng có hai các định nghĩa khác nhau về từ bhikkhu, một cách xuất hiện trong tác phẩm Padabhājaniya[64] hay tập Chú giải cổ về các Luật Giới bản[65] còn định nghĩa khác lại xuất hiện trong Niddesa[66]. Cả hai từ này đều được biết bằng tiếng Pāli và mặc dù ngay từ lúc đầu các tác phẩm Chú giải đều được chấp nhận cho là Kinh Pāli trước khi được “đóng lại”.
Hơn nữa, một từ Kinh Phật rất có thể không được Chú giải ngay trong chính tác phẩm Chú giải đó, cho dù việc Chú giải đó có thể xuất hiện tại nơi nào khác, tuy nhiên, tính cách đáng tin cậy của việc chuyển đổi vị trí giải thích từ tác phẩm Chú giải này sang tác phẩm Chú giải khác cũng có thể đặt ra vấn đề và đôi khi không được chấp nhận[67]. Tuy nhiên hình như thường xảy ra những trường hợp gần như diễn ra thường xuyên. Thí dụ, BvAC tr. 33 Chú giải từ deva-cakkhu cho là deva-cakkhu nghĩa là hiểu biết siêu phàm, abhiññā, chỉ nổi lên do sự gia tăng thêm ánh sáng, lokavaḍḍhana; rất có thể điều này không nói lên cho chúng ta biết nhiều. Nhưng tác phẩm ItA ii. 28 lại coi dibba-cakkhu có nghĩa là, đang tăng thêm ánh sáng kasina, kasiṇalokaṃ vaḍḍhetvā. có ánh sáng kiến thức xuất hiện giống như thiên nhãn, dibbacakhuññaṇassa. Mặc dù có liên quan đến It và ItA liệu cho là Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) cũng đã yên lặng ám chỉ kasiṇa này chăng? Nhiệm vụ của dibbacakhu được giải thích khác đi trong Ndi tr. 255tt.
Hay, một ví dụ khác, có ý nghĩa liên quan và chính vì thế lại được gán cho từ dukkha trong tác phẩm Chú giải Tăng Chi Bộ ii 96, 203, 208 v.v... lại chính là từ vaṭṭadukkha, nỗi thống khổ do phải tái sanh nơi vòng luân hồi trong khi đó nơi tác phẩm Chú giải Tăng Chi Bộ ii 263, iii. 182 dukkha được giải thích có liên quan đến bốn chân đế.[68] Tuy nhiên, những chân đế này đã bao trùm cả vaṭṭadukkha và việc chấm dứt đau khổ này thể theo Chân Ðế thứ ba. Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) tr. 63 và Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) tr. 41. trong một lời khẳng định dài về từ dukkha, đã cắt nghĩa chân đế này không theo bất kỳ cách nào trong hai cách trên. Nhưng có những từ khác đã xác định rõ ràng các ý nghĩa[69] như thể vedenā[70] rất có thể đã được gộp lại trong một ý nghĩa khác trong năm ý nghĩa hai tác phẩm này đã thừa nhận để đưa ra một chỉ số đối với việc phổ biến dukkha trong cuộc sống chúng ta. Chính vì thế, dukkha, đã trở thành một ví dụ một từ được giải thích ngắn gọn do một số tác phẩm Chú giải. Ðược thực hiện một cách kỹ càng hơn ở các tác phẩm khác, cho dù ngay cả không phải luôn luôn đều có cùng một ý nghĩa rõ ràng. Nhưng một khi, Phật Pháp “sâu xa, khó lòng nhận ra, khó lòng hiểu thấu... lại khả dĩ dễ hiểu đối với kẻ khôn ngoan.”[71] Lại được am hiểu tường tận, đặc tính liên quan và chính xác của ý nghĩa này đã trở nên rõ ràng.
Tuy nhiên rất nhiều nội dung chính trong các tác phẩm Chú giải có thể thay đổi từ cách này sang cách khác[72], phương pháp Chú giải căn bản và bất biến như ngày nay chúng ta đã nắm bắt được lại phải được thực hiện theo một tuần tự liên tiếp trong khi nó xuất hiện. Ấy vậy, ta không thể nào Chú giải được hết toàn bộ các từ trong Kinh Phật. Có đôi khi chúng ta phải đánh giá với sự trợ giúp Chú giải chẳng có điều gì là sẵn sàng cả. Rất có thể hoặc ý nghĩa đó đã bị thất lạc ngay cả do thời gian các tập Chú giải cổ xưa được biên soạn. Hay từ đã được am hiểu đầy đủ, lúc đó không còn hay không với đặc tính chính xác và chắc chắn nữa.
Ngoài ra phương pháp Chú giải cơ bản này được theo dõi suốt do tất cả các tập Chú giải. Chúng xuất hiện chung nơi một số các phương tiện Chú giải rõ nghĩa khác nữa. Không nhất thiết phải sử dụng trong mọi lúc, nhưng khi nào có nhu cầu nổi lên, lúc đó các phương pháp này sẽ quay trở lại với nhau, hay đôi khi chúng sẽ trở thành những công cụ tích cực.
Cho dù những công cụ này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hiểu biết ngày càng lớn lao và chính xác hơn về cấu trúc xét một cách toàn diện. Song chỉ một phần nhỏ thuộc chủ đề rộng lớn này được trình bày ở đây, và chẳng có yêu sách nào được thực hiện ở đây nhằm đạt đến mục đích hoặc hiểu biết về bất luận điều gì hay bằng bất kỳ cách nào. Tuy nhiên, toàn bộ những gì được trình bày dưới đây về những phương pháp Chú giải có thể được thêm vào và ta có thể đem ra tranh cãi về các phương pháp khác. Song giống như vị biên soạn Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), vì sợ phải trình bày tác phẩm quá dài dòng, thế nên tôi chủ chương không trình bày quá dài theo những chỉ số một số phương pháp Chú giải được các tác giả Chú giải sử dụng.
III 1. Những trích dẫn Kinh Ðiển
Mỗi tập Chú giải, đặc biệt khi cố gắng vượt qua toàn bộ những tranh cãi, thì cũng có thể đưa ra rất nhiều trích dẫn trong các tác phẩm Kinh Phật. Cho dù thường xuyên có thể đề cập đến đích danh các tác phẩm này[73] hay đưa ra những gì hiện nay ta thường hiểu là những trích dẫn chính xác. Tác phẩm đó có thể đưa ra trích dẫn bằng các từ sau. vuttaṃ pi c’etaṃ. Hay vuttaṃ (pi) h’etaṃ.” Chúng ta có thể nói về điều này”; hay với cách diễn tả, yath[74]’āha hay ten’āha, như người ta đã nói.” Ðôi khi còn thêm vào “do Ðức Phật đã dạy”[75] hay “do các vị Poranas”[76] hay do một số người khác. Nhưng không nhất thiết phải đưa ra tên nguồn tài liệu. Hay một vị Chú giải có thể chỉ đưa ra những mô tả nguồn cung cấp, tỷ như một người bà la môn có kiến thức, chẳng có bất kỳ biểu thị nào cho thấy những trích dẫn đó có thể xuất hiện rải rác trong các tác phẩm Kinh Phật.[77]
III 2. Những cách giải thích khác
Có nhiều cách “giải thích khác”, pātha, có thể được đưa ra và xuất hiện tuy không mấy thường xuyên trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA)[78] Khi một cách giải thích khác nhau được ghi nhận, ta có thể nói rằng, ayam eva vā pātho[79], “hoặc đây chính là cách giải thích”. Hay có thể nói,... vā pātho[80] hay (chữ này chữ kia) là cách giải thích”, chủ yếu khi có một sự biến đổi ý nghĩa nhất định[81], cách giải thích khác thường này hay bị bác bỏ vì không đúng hay chính xác[82], hay cũng có thể được chấp nhận. Trong trường hợp này ta có thể nói đó là “có cùng một ý nghĩa”, “ý nghĩa là hoàn toàn giống nhau.” Ý nghĩa giống nhau”, so yev’attho, hay, ayam ev’attho[83]. Cũng có những trường hợp trong đó một tác phẩm Chú giải, sau khi đã đưa ra một cách giải thích khác đi và khẳng định điều đó có nghĩa là gì và thêm “ý nghĩa này tốt hơn” hay chính xác hơn ayaṃ sundarataro[84].
Một đoạn văn rất thú vị trong KhA tr. 78 chứng tỏ cho thấy việc chuyển giao Chú giải một cách tỉ mỉ về vấn đề này như sau: “Và ở đây trong đoạn “một là gì?” (ekam nāma kiṃ) cách giải thích theo hai cách đó là kim và ki ha. Ở đây theo cách giải thích ở tiếng Sinhale là kī ha, vì những người Sinhale thường nói kī ha khi phải nói là kiṃ. Một số (keci) khẳng định ha chỉ là một tiểu từ, và cũng như vậy trong chính cách giải thích[85] theo truyền thống các vị trưởng lão. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp ý nghĩa vẫn hoàn toàn giống nhau và có thể được giải thích tuỳ theo ý thích.”[86] Ðây không phải là điều độc nhất. Các đoạn khác như đã được đề cập đến ở trên cho thấy có một chút thay đổi trong chính ý nghĩa nữa. Như vậy điều này cũng tốt thôi.
Có hai trường hợp rất thú vị được trích trong UdA[87] trong đó người ta đưa ra nhiều cách giải thích: (1) Kya nu’ atthā ti, katamāya nu bhavatha? Kāya notthā ti pi pāli: so ev’attho. Kāya nvetthā ti pi paṭhanti: tassā katamāya nu etthā ti attho. (2) Na khv’etam ti, na kho etaṃ. Ayam eva vā pāṭho: - na kho tan ti pi paṭhanti, na kho etam icc’ eva padavibhāgo.
Ngược lại đối với Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), như ta đã ghi nhận, lại đưa ra các cách giải thích khác. Hình như MA viết về Mstas 51-100[88] thí dụ, lại đưa ra rất ít nếu không nói là chẳng đưa ra bất kỳ tham khảo nào về những điểm này cả. Ðiều này hình như cũng đúng trong rất nhiều trường hợp được ghi trong những điều còn lại trong MA, với rất ít ngoại lệ. Ðó là trong MA I tr. 137 khó có thể được kể là điều này xuất phát từ cách mô tả có sẵn (stock) về nhiều ý nghĩa từ agga-sadda, từ ‘agga’. Nhưng lý do đàng sau sự thiếu xót này trong các cách giải thích khác chỉ có thể được phỏng đoán mà thôi. Liệu vị biên soạn tập MA có biết được những khác biệt đó và nghĩ rằng đây là điều không cần thiết đem gộp lại chăng, và tuy nhiên rất có thể lại phán đoán chắc điều đó không mấy khả thi được suy luận rằng tập MA đã có kích cỡ quá lớn rồi chăng? hay liệu ngài biên soạn đó, chủ yếu chỉ mới sử dụng có một nguồn tư liệu chăng? Hoặc giả rất có thể còn có thể xuất hiện nơi các mối liên quan khác, sự cố ý loại bỏ những quan điểm không chính thống về đặc tính chính thống chăng?”
III 3. Những Liệt Kê
Một hình thức làm sáng tỏ việc Chú giải lại gồm trong việc liệt kê ra các loại khác nhau nơi cùng một tiết mục duy nhất, toàn bộ điều này có thể có một số liên quan với các từ kinh điển. Thí dụ như, trong MA (Chú giải trung bộ Kinh) ii 112 đặc tính liên quan với từ Kinh Phật. Thí dụ như, trong MA ii 112 qui trình làm dịu đi toàn bộ cấu trúc. Sabbasaṅkhāra-samatha, được giải thích theo hai giai đoạn: trước tiên, bằng cách khẳng định rằng do rung động, lắc lư và dằn vặt các saṅkharas. thì cách làm dịu đi đã đem lại kết quả. Và thứ hai, bằng cách nói đến việc loại bỏ sang một bên cũng một tiết mục. đây có bốn upadhi. Cụ thể là một căn bản dẫn đến tái sanh. Chính vì thế từ upadhi xuất hiện ở đây bốn lần như là yếu tố cuối cùng của một từ ghép: Khandha-upadhi, kilesa-, abhisaṅk-, hāra-. Và pañcakmaguṅa-upadhi[89]. Toàn bộ những phương thức (chấp thủ) này phải được loại bỏ vì chúng cản trở chống lại việc chứng đắc Níp-bàn. Upadhis được giải thích hầu như đầy đủ hơn trong SA i. 31 và SnA 44 theo thứ tự nghiệp chướng, khandha, kilesa. abhisaṅkhāra. Chúng là trong số ba vivekas, tránh khỏi được liệt kê như là kāya, citta, và upadhi.[90]
Nhng ví dụ khác trong đó việc liệt kê được dùng để giải thích đó là mariyādā trong MA iv. tr. 89 trong đó có hai loại được đưa ra và rồi lại hai loại nữa; có hai loại; thuộc đồng ruộng. Khetta, ba loại trong MA iv. 114, Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 9; thuộc loại biến mất. Antaradhana. Năm loại trong Chú giải Tăng Chi Bộ 1 87 nhưng chỉ có ba loại trong MA iv. 115. VbhA 431; thuộc về Níp bàn chung cuộc, có ba loại trong MA iv. 116 - hai loại cuối này nằm trong giải thích về apubbam acarimaṃ; về sư tử, sīla, có bốn loại trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii 827. Chú giải Tăng Chi Bộ iii 65, SnA 125; bàn về thế đứng của sư tử, sihaseyyā, có bốn loại ghi trong UdA 403; về thu thúc, saṃvara, có năm loại ghi trong ItA i 110[91], về bài nói chuyện, kathā, về các Vị Phật, có hai loại được ghi trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) ii 382, KvA 34, cụ thể là sammuti và paramattha; về bài nói chuyện (bình thường), có ba loại được ghi trong MA ii. 258 có tên là ekanālikā, caturassā, nisinnavatthikā. Thế rồi trong tác phẩm KhA vẫn còn bốn loại nói chuyện khác nữa, có tên là catubbidhā, bốn thứ có tên và ví dụ của mỗi loại cũng được đưa ra; cũng lại có ba loại vivekā, tức là tách rời hay viễn ly. Và ba loại thế gian. loka, được nhắc đến dưới đây[92] và nhiều loại khác nữa. Ðiều đương nhiên là con số không được hiểu theo nghĩa đen nhưng đôi khi lại có nghĩa là “các loại” như trong các ví dụ vừa mới nêu ra trên đây; và ôi khi lại là “lý do để” một điều rất rõ ràng được nhận ra trong phần liệt kê bốn loại suttanikkhepa. Những lý do để thực hiện một bài thuyết pháp.[93] Trong mọi trường hợp thường được nói là loại nào đã được nhắm tới ở đây, trong đó “ở đây” có nghĩa là đoạn văn hiểu theo văn cảnh kinh điển đã được làm sáng tỏ.
Hơn thế nữa, một vị Chú giải có thể chọn ít đề tài hơn trong số một tổng đề tài bao la, hay một số lớn hơn có thể được thêm vào con số ít hơn. Ðiều này một lần nữa mang tính chất chứng tỏ và về đặc tính uyển chuyển nơi các tác phẩm Chú giải lẫn chú ý đã được dành cho việc biên soạn các tập Chú giải này. thí dụ, như chúng ta đã thấy trong Chú giải Tăng Chi Bộ I 87 đã đếm từng antaradhaāna, tức là lần biến mất”tức là năm lần... Điều này có thể thực hiện được bằng cách thêm vào ba lần được kể đến ở nơi khác. Cũng như vậy KhA 120 thêm vào ba loại huyên náo, Kolāhala đối với loại đó KhA 272 và SA I 130 lại ám chỉ như vậy, những điều không thể thích hợp với nhu cầu của họ. Như vậy đối với KhA kolāhala là năm lần, pañcavidha. Còn đối với Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) và SA lại có tới ba kolāhala.
Như vậy chúng ta đem ra trình bày ở đoạn kế tiếp có liên quan đến “cỗ máy Chú giải”[94] nhưng trước khi tiếp tục công việc có lẽ ta cần phải nhấn mạnh trở lại một lần nữa rằng rất ít ví dụ điển hình được nêu lên trên đây chỉ họp thành không hơn không kém một thành phần không nghĩa lý gì trong việc liệt kê những tỷ lệ, nếu được gom lại sẽ trở thành bao la; và hơn thế nữa những điều liệt kê trên đây chỉ là một khía cạnh trong Kinh Phật mà thôi[95] cũng như các tác phẩm Chú giải vậy.
III 4. “Những lần” liệt kê
Ðây là một phương cách trong đó khi ta nói đến từ này từ nọ “gấp x lần.” Thí dụ như, trong VA i 225 saddhamma (Chánh Pháp) là tividha gấp ba lần. Một trong ba “lần” được khẳng định một cách súc tích, hình như không đưa ra bất kỳ một ưu tiên nào trong những lần đó, toàn bộ những lần này được ứng dụng một cách đồng đều. Hai lần, duvidha, còn có tầm quan trọng đồng đều, về vinaya trong tác phẩm MA i. 22 (xin đọc cùng tác phẩm ii. 208), SA ii. 253. SnA 8, ItA i. 110. Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl). 351. một lần thuộc vinaya thu thúc, saṃvara, điều còn lại thuộc về cách đoạn trừ, pahāna. Rồi sau đó mỗi lần này lại chia ra thành năm “lần”, pañcavidha, tất cả đều có tên gọi khác nhau; rồi sau đó tác phẩn SnA lại tiếp tục triển khai đề tài này rất dài dòng. Toàn bộ những “lần” không thấy đưa ra ở đây. Như vậy chẳng có gì được ưu tiên cả. Trong tác phẩm UdA 362 ta có catubbhidha ogha, đó là bốn loại bộc lưu tham dục (kāma), hiện hữu (bhava), tà kiến (diṭṭhi) và vô minh (avijjā) toàn bộ bốn loại bộc lưu này đều phải được vượt qua một cách đồng đều để cho vị a-la-hán có thể tồn tại an toàn trên mảnh đất khô ráo nơi bến bờ bên kia.
Tuy nhiên các đoạn khác, như trong tác phẩm UdA 233 khi đề cập đến giới (sīla) người ta cho rằng chỉ có hai loại giới, “các loại” xuất hiện tùy theo các phạm trù khác nhau, đó là lokiya và lokuttara, thuộc loại hiệp thế và loại siêu thế. Cả hai đều rất cần thiết vì loại đầu tiên lại rất cần cho loại thứ hai được coi như là căn bản cho loại sau. Lại có một cách phân biệt khác tinh tế được thấy trong bốn loại niềm tin, catubbidhā saddhā, trong tác phẩm Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) ii 529, iii 1028, ở đây mỗi loại chỉ được áp dụng cho một con người cụ thể trong một giai đoạn khác nhau trong qui trình tiến tới chánh đạo có tầm quan trọng ngang nhau. Nhưng còn nữa, cũng nhằm ám chỉ đến các giai đoạn được chứng đắc. Là tividha viveka[96], tức ba loại viễn ly hay thân viễn ly (kāya), tâm (citta) và sanh y (upadhi). Mặt khác, cho dù pavāraṇā được cho là gồm bốn loại trong MA i. 93, do hiệu quả đem lại thì điều này chỉ ám chỉ từ này có bốn ý nghĩa thích ứng cho bốn cơ hội khác nhau. Một trong các cơ hội đó được gọi là “cơ hội được mong đợi nơi trần thế này”, ayaṃ idha adhippetā. Nh vậy trong SnA 74, 255 santhava được mô tả chỉ gồm có ba loại mà thôi, loại thứ ba được dự định ở trang 74 và hai loại đầu tại trang 255. và trong một số tác phẩm Chú giải một câu hỏi, pucchā, được cho là gồm năm loại, pañcavidhā[97]; sau khi đã mô tả mỗi loại thì loại đúng nhất được hiểu trong mỗi văn cảnh.
Cũng còn có một từ quan trọng đó là “mắt” và “kiến thị”, cakkhu, quan trọng vì tác phẩm Bhagavan đôi khi lại có một tính ngữ là cakkhuma, là người có nhãn thức. Chính vì thế cakkhu phải được giải thích đầy đủ và được phân tích dài dòng trong tác phẩm Niddesa[98]. Tuy nhiên, không có sự xuất hiện của từ vidha, có nghĩa là loại. Ðiều này được giới thiệu trong tập Chú giải ngắn hơn thuộc tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon tr. 33 và ItA i. 99. Tuy nhiên hai đoạn này cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Cả hai đều đề cập đến kiến thị gồm hai loại: maṃsacakkhu và aṇcacakkhu (paññācakkhu trong tác phẩm ItA). Và khác biệt đầu tiên gồm hai loại và khác biệt thứ hai gồm năm loại. Ðược so sánh ở một vài chừng mực nào đó là hai loại kicca[99], tức là điều đã được thực hiện, loại đầu tiên trong hai loại này, niratthaka. Còn lại như một loại không có sự chia ra, nhưng loại thứ hai Sātthaka, được liệt vào loại gồm năm lần mỗi thứ đều có tầm quan trọng đối với cuộc sống tu trì hàng ngày.
Ðôi khi, có lẽ chỉ thỉnh thoảng thôi một từ lại ám chỉ một số “loại” đa dạng được diễn tả theo như các đoạn Kinh Phật là nơi nó xuất hiện, thí dụ như MA, i. 62 đã đưa ra sáu đoạn theo kiểu này để cho thấy số “loại” thấy nơi từ āsava, lại gồm tới từ hai, deveha, đến bảy, sattadha, loại, như đã được truyền xuống trong mỗi đoạn được liệt kê gộp một loại được Chú giải (Trung Bộ Kinh i. 6), là nơi āsava gồm bảy loại. Một con số cũng đã đạt đến do cùng những giai đoạn trong ItA i. 114tt. Ta cũng nên lưu ý ở đây là tác phẩm ItA có nói về thân xác, kaya, gồm rất nhiều loại, bahuvidha[100] và các vị hiền triết. Munayo, cũng thuộc nhiều loại, anekavidha[101] Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon tr. 44 có đề cập đến mười sáu loại”đối với mahāpaññā, người khôn ngoan vĩ đại, nhưng lại không cung cấp bất kỳ thông tin cho biết họ thuộc những hạng người như thế nào.Những tập Chú giải về từ này xuất hiện chỗ này chỗ khác[102] cũng chỉ biến các loại này thành rõ ràng.
III 5. Một chương sách phụ
Một tập Chú giải thỉnh thoảng lại đưa ra một số con số có lẽ từ hai hiện trạng trở lên. Tất cả mọi người có thể dính dáng đến một hiểu biết toàn diện và một hành động đánh giá thích hợp về từ được Chú giải. Như vậy Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii. 1062, Chú giải Tăng Chi Bộ IV. 118, trong một bài Chú giải khá dài dòng về app’ichassa[103] một người có ít hay không có ước muốn, đưa ra bốn vấn đề, vì lý do đưa ra, có thể không ước ao có được đó là: paccaya. Adhigama. Pariyatti. Dhutanga, những nhu cầu thiết yếu của một nhà sư. Chứng ắc (một trong số bất kỳ giai đoạn Thánh đạo và Níp-bàn nào) kiến thức về các bản văn Kinh Phật. Và những việc tu tập khổ hạnh. Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) và Chú giải Tăng Chi Bộ lại thêm vào một loại văn phong Chú giải mà vấn đề đã được thảo luận đầy đủ trong Thanh Tịnh Ðạo.[104]
Những tham khảo về Thanh Tịnh Ðạo, có thể được gọi là phương sách Chú giải phụ hay là phương pháp phụ, rất thường xuyên được cả hai vị Buddhaghosa và Dhammapala thực hiện để cho một tác phẩm Chú giải cần thiết phải thảo luận ở mức độ vắn tắt nhất. Về điều đã được bàn soạn đến từng chi tiết. Chính vì thế phương pháp phụ này lại là một điều biểu thị khác mà dịch giả các bộ Chú giải tiếng Sinhale cổ cũng đang thể hiện như là những vị biên tập luôn theo khả năng của các vị đó, giới thiệu các cách rút gọn thay thế vào tính cách dài dòng. Vì tuy nhiên Thanh Tịnh đạo là tác phẩm của chính Buddhaghosa, được soạn thảo sau những tác phẩm Chú giải cổ này vào lúc ngài đã tìm hiểu, học hỏi, nắm vững và hệ thống hóa được những nội dung của các tác phẩm này một cách thành thạo có thể chứng thực được công việc dịch và ấn bản các tác phẩm này sang tiếng Pāli. Với “tập bách khoa các giáo lý của Ðức Phật”[105] để có thể chuyển lại cho chúng ta, chỉ cần kiến thức lẽ thường cũng có thể hiểu được. Tuy nhiên Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), đã không xuất hiện nói đến Thanh Tịnh Ðạo ch danh và chúng ta không thể nói đến, tỷ dụ như “ba thế giới”, là tayo lokā[106], saṅkhāraloka. Sattaloka. Okāsaloka. Đã được đặt nền tảng trực tiếp trên cách phân tích[107] tương ứng của Thanh Tịnh Ðạo.
III 6. Nhiều nghĩa đa dạng
Cuối cùng, tôi muốn thu hút chú ý của các bạn đến một phương pháp Chú giải khác, theo tôi nghĩ có tầm quan trọng không thể bỏ qua được.[108] Phương cách này lại liên quan mật thiết đến các từ Kinh Phật có nhiều nghĩa khác nhau và xuất phát từ bản chất phân tích các từ này, đó là sadda (âm thanh). Với một văn cảnh như vậy sadda (âm thanh) được sử dụng theo chính nghĩa của “từ”.Thí dụ như cuốn tự điển cổ tiếng Pāli, là Abhidhānappadīpikā, liệt kê 14 nghĩa khác nhau của từ dhamma, là dhammadda, kết thúc với ādo[109] vân vân và vân vân” là một cách trù liệu khôn ngoan, vì tôi có thể thêm vào đó ba ý nữa. Bất kể từ đó có là gì đi chăng nữa, sau khi các tác phẩm Chú giải đã khẳng định điều đó thì lập tức đưa ra những nghĩa khả dĩ có thể đưa ra. Rồi trích các đoạn Kinh Phật và cho biết ở đâu từ đó có nhiều nghĩa thích hợp với nhau. Cuối cùng, và các từ đó luôn luôn phải khẳng định được từ nào là thích hợp. Như vậy khả năng xảy ra nghĩa sai sẽ được loại bỏ và thay thế vào đó bằng nghĩa đúng nhất.
Ðể đưa ra một ý tưởng ngắn gọn về phương pháp này, tôi sẽ đơn cử từ “sādhu” ayam’ sādhu-saddo, hay sadhū ti ayam’ saddo āyācana-sampaṭicchana-sampahaṃsana-sundara-daḷhīkammādisu (Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) đã bỏ qua đoạn này, kết thúc bằng từ sundarādisu) dissati. Tuy nhiên, ta phải hiểu những từ này như sau: āyācana, SnA 176;sampaṭicchana. Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon 47; daḷhikamma, Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) 171; MA i. 19; SA ii. 7. mức độ tôi biết được Chú giải Tăng Chi Bộ đã không khảo sát tỷ mỷ từ sādhusadda, nhưng lại định nghĩa từ sādhu bằng một hay những nghĩa theo các văn cảnh thấy trong Tăng Chi bộ Kinh (Anguttara), là nơi xuất hiện. Chính vì thế āyācana được chọn lựa kỹ càng trong Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 136; từ sampahaṃsana được chọn trong Chú giải Tăng Chi Bộ iv. 120, 167; sundara được chọn trong Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 290, iv. 98. như vậy năm nghĩa của sādhu đã được liệt kê đầy đủ và được sử dụng đúng lúc thích hợp.
Ðến đây tôi đưa ra một danh sách các từ có nhiều nghĩa khác nhau tôi đã thấy trong các đoạn Chú giải trong đó các từ này đã được bàn cãi. Xét một cách tổng quát các đoạn này đều giống nhau, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Tuy nhiên thường thấy xuất hiện những khác biệt cũng như liên quan đến ý nghĩa. Một điều ta nên nhận thấy rằng các từ này thường thích hợp với đoạn văn này đoạn văn nọ trong bản văn Kinh Phật. Tôi không có ý muốn tạo ra một bảng kê các từ và tôi cũng hoàn toàn ý thức được danh sách các từ này không thể được coi như là đầy đủ.
Một số tập Chú giải đã sử dụng "sadda" như là một “từ”
[Các từ có sadda đi kèm theo, nhưng không có nhiều nghĩa hay chỉ có một nghĩa được đưa ra ở đây tôi đánh dấu bằng một hoa thị]
aṅgaṇa MA i. 139 (không có sadda), BvA[110] trang175
agga VA 173. DA i. 235, MA i. 136, Chú giải Tăng Chi Bộ i. 124 135, i 114, ItA i. 102
ajjhatta UdA 374
attha SA i. 334, SnA i. 238, ItA i. 81
atthi VA i. 209 (không có sadda)
* anu ItA I 168, ThagA i. 114
anta DA i. 103, ItA ii 112; xin đọc MA i. 87
antarā Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 34 Chú giải Tăng Chi Bộ iii. 75, SnA i. 20, UdA 109 164, ItA īi. 95
* api UdA 278 392, ItA i. 45, Chú giải Vimānavatthu 94
abhi VA i. 20. Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) ii 20
abhikkanta VA i. 170. Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 227, MA i. 139. ii. 124, SA i. 14. Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 105 375 KhA 114. SnA i. 155, UdA 286, Chú giải Vimānavatthu 52 (ngắn hơn)
* ādi Chú giải Tăng Chi Bộ īi. 9 BvA 65
āyatana Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 124; xin đọc Chú giải Tăng Chi Bộ īi 272. PṭsA i. 83. Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) (không có sadda). VbhA 45 tt
āram(b)bha PtsA i. 44, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 145, PugA 246
āsajja Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 55
iti VA ii.442, AA, iii.14, UdA-45,215, itAi.19tt, 23tt
idaṃ ItA i. 107
* idha VA v 1067
ukkā MA i. 175 (không có sadda), Chú giải Phật Tông (BvA). 144
uposatha SnA i. 199. UdA 296; xin đọc MA iv. 74 (không có sadda)
uppanna Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 67
uḷāra Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) īīi. 878, SA īīi. 208, Chú giải Vimānavatthu 10, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 30.
Eka UdA 18, ItA i. 37
etaṃ ItA i. 5
eva SA iii. 123, UdA 392
evaṃ Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 26 MA i. 3, SA i. 5. Chú giải Tăng Chi Bộ (SA) i. 4, KhA 100. SnA i. 135, UdA 6, PṭsA iii 529
kappa Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 103, MA ii. 125, SA i. 15. Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 377, KhA 115, CpA 10, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 65.
kāma Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 11
kiṃ Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 16
* kira Jā i. 158, Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 322, PvA 103
kusala Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 49, PṭsA i. 129,. 205, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 38
kevala MA ii. 125, SA i. 15, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) ii. 376, KhA 115
khandha ItA ii. 22
* kho ItA i. 54
gati MA iii. 364
* gandha ItA ii. 57
guṇa Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 43 76; xin đọc thêm SA i. 23 (không có sadda)
ca KhA 228, ItA i. 54 93 172 178, ii. 23, 32, Chú giải Vimānavatthu 74, PvA 18, ThagA i. 108 155, īi. 10 125 156 249 256 273, īīi. 75 79, CpA 12 Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 185, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 171, 297
cakka MA ii, 27, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 120, iii. 9, PṭsA iii. 626
cakkhu Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i.183; xin đọc thêm ItA i. 99, Ndi 354 tt (không có sadda) Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 33
channa ThagA i. 25
ṭhāna MA i. 102
tathāgata ItA i. 117
* tu ItA ii. 151, CpA 117
te Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu (VvA) 9
dukkha ItA ii. 5, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 63, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 41
deva Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu(VvA)18,ThagA i. 27
dhamma Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 99, (xin đọc Pháp cú kinh (DhA) i. 22, MA i. 17, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) iv. 97, ItA i. 39 Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 13, PṭsA 38.
Pariyāya VA i. 132, Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 36, MA i. 18, ItA i. 151
* pasu ItA ii. 70
pātimokkha ItA ii. 129
puñña ItA i. 73
* putta ItA ii. 70
bodhi Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 55 145; xin đọc. VA i. 139, iv. 952, MA i. 54, SA ii 153, UdA 27, CpA 18 (tất cả đều không kèm theo sadda)
brahma MA i. 34, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 11
brahmacariya Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 177, MA ii. 41, ItA i. 107
bhūta MA i. 31, KhA 165, NdA iii. 96
* matta SnA i. 137; xin đọc Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 35
* mama Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) iii. 162
maya Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 10
mūla MA i 12. UdA 27
me Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 28, MA i 4. SA i. 5 Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 6, KhA.101, SnA i. 135, UdA 11, ItA i. 22, Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 25 ThagA i. 26 ii. 144, PṭsA iii. 530
yaṃ Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA)52
* yathā Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 48
rūpa Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 21, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 41
loka UdA 107
vaṇṇa Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 37, MA ii 125, SA i. 14, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) ii. 375-6, KhA 114, Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 16
vā Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 51, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 29 55, īīi. 171, iv. 75, SnA i. 266, UdA 211 278 321 422, ItA īi. 52 104, ThagA i. 57, ii. 173 228, iīi. 12 85, CpA 130.
vidhā Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 304
vutta MA i. 94, UdA 45, ItA i. 4
veda Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 68
* vedanā Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 41
vo MA i. 18, ItA i. 39
saṃsaṭṭha Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 70
saṅkhā MA i 75
saṅgaha Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 305
sacca SA i. 328, SnA i. 232
sabba MA i. 17, ItA i. 52, CpA 18
samaya VA i. 106, Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 31, MA i. 7, SA i. 9, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 11, KhA 104, UdA 18, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 127, PṭsA iii. 530, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 57
sampanna MA i. 153 (không có sadda, ItA ii. 175, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 14 (không có sadda)
sādhu Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 171, MA i. 18, SA ii. 7, SnA i. 176 Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 47
sukha ItA i. 74, ii. 4, ThagA i. 27, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 40
suta Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 28. MA i. 4, SA i. 6 Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 6, SnA i. 135, UdA 11, ItA i. 23, PṭsA iii. 530
suvaṇṇa Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu (VvA) 9
* hi PvA 103, ThagA i. 77 130 171
Ta cũng thấy tồn tại một cách đối thuộc dạng khác nữa trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 3 và tập Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) ii. 124. Cả hai đoạn văn này đều được ghi vào mục lục, mà không thấy xuất hiện bất kỳ nhất quán nào, những địa danh Ðức Phật đã lưu lại (hay trải qua mùa mưa) trong suốt hai mươi năm đầu sau khi ngài đã đạt đến Giác Ngộ.
Cũng vậy, chỉ có một tập Chú giải khác tôi được biết ngoài tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) đã đề cập đến bốn vị trí không thay đổi hay bó buộc tất cả Chư Phật phải lui tới, là sabbabuddhānaṃ cattāri avijahitaṭṭhānāni[111]. Bốn vị trí là: ngồi thiền trong tư thế xếp bằng để đạt đến Giác Ngộ tại một địa điểm và cùng một địa điểm; Chuyển Pháp Luân trong thánh địa Con Nai ngay trong nơi cư trú của các vị thuộc các vị đại hiền triết (chư Thiên); địa điểm đặt dấu chân đầu tiên ngay tại cổng thành Saṅkassa ngay sau khi giáng lâm từ cõi chư Thiên (sau khi đã kết thúc thuyết giảng Vi Diệu Pháp nơi cõi chư Thiên) và vị trí bốn chân giường nơi Hương Phòng tại Jetavana. Cả thiền viện cũng không được khác cho dù có rộng hay hẹp về kích thước. Chỉ có khác được là thành phố mà thôi. - Rất có thể thành phố có thể được xây dựng ở những địa điểm khác nhau trong phạm vi tương đối xa cách với thiền viện.
Tôi xác tín rằng đang phát triển một ý thức cho là Giáo Pháp thuộc Kinh Pāli sẽ trở nên rất thâm sâu, tinh tế và chính xác, dễ hiểu và có hệ thống[112] tôi cũng xác tín rằng Giáo Pháp này không khó hiểu và cũng chẳng dễ gì như có một thời người ta đã nghĩ thế.[113] Một điều có thực là cho dù toàn bộ các từ được sử dụng, hay hầu hết các từ đó có thể được dịch sang tiếng khác, ấy vậy vẫn có vấn đề tồn tại mà một số vấn đề đó mang nhiều ý nghĩa tại đoạn văn này hay đoạn văn khác. Nếu không phải do các tập Chú giải thì các phương pháp chính xác, dễ hiểu và có hệ thống trong việc Chú giải cũng giúp ta rất nhiều. Mục tiêu chính của bài giới thiệu này là nhằm trình bày ít nhất một số những phương pháp Chú giải không giống như các phương pháp đã được áp dụng trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA). Nhưng được coi như là những công cụ và dụng cụ được sử dụng xuyên suốt toàn bộ các tập Chú giải Kinh Phật vậy. Phật Pháp và Chú giải là hai điều phụ thuộc lẫn nhau. Việc Chú giải là điều cốt yếu đem lại hiểu biết cho bá tánh, thế nên Chú giải càng chính xác càng tốt đối với Phật Pháp. Cả hai cùng họp thành một khối toàn diện, ngăn nắp để có thể hướng dẫn bá tánh trong cuộc tìm kiếm ly Dục và đạt được Thập Toàn Giải thoát đích thực.
Luân Ðôn năm 1976
I.B. Horner
-ooOoo-
NHẬP ÐỀ
Ở mức độ tôi biết được, đây là cố gắng đầu tiên để dịch tác phẩm Madhuratthavilāsini, tức là Tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) sang Anh ngữ hay sang bất kỳ một ngôn ngữ Âu Châu nào khác. Công việc dịch thuật này đúng như tôi đã đặt cho một tên gọi là “Người Khai Sáng Ý Nghĩa Ngọt Ngào” (CSM) hầu như hoàn toàn dựa trên ấn bản tôi đã thực hiện theo nguyên bản La Tinh hoá, do Hội Văn Bản Pāli xuất bản vào năm 1946 BvAC, là ấn bản hình như tôi chỉ sử dụng ấn bản duy nhất do Simon Hewavitarne Bequest, Colombo 1922 xuất bản. Nhưng theo ấn bản Chaṭṭha Saṅgāyanā, thì bản Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Miến (BvAB) xuất bản tại Rangoon 1959, lại khiến tôi có thể chú thích trong tác phẩm CSM một số khác biệt trong các cách dịch này và tập Chú giải Lịch sử Chư Phật ấn bản Ceylon. Một bản tường trình đầy đủ sẽ được đưa ra một cách thích hợp trong phần xuất bản nguyên bản viết bằng vần La-tinh về tập Chú giải này hơn là trong một bản dịch tập Chú giải này, và tôi sẽ không thực hiện điều này ở đây.
Tuy nhiên cùng lúc đó, một số lớn các bản dịch khác cũng được tìm thấy về các đoạn kệ trong năm sáu lần tái bản bản dịch tác phẩm Phật Tông do N.A. Jayawickrama, khi ông xuất bản tập Chú giải Lịch sử Chư Phật, PTS năm 1974, và ở mức độ ít hơn so với bản dịch tác phẩm này với tựa đề là, “Ký Sự Niên Ðại Chư Phật” (CB), SBB, 31, 1975. Hầu như đa số, nhưng không phải toàn bộ các đoạn kệ trong Phật Tông đều đã thấy xuất hiện trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), bất kỳ ai quan tâm đến các bản dịch đa dạng đó giờ đây cũng có thể nghiên cứu trong các lần xuất bản mới đây và cả bản dịch PHẬT TÔNG mới này nữa.
Ðối với những điểm tương đồng một cách chung chung giữa BvA và các tác phẩm Pāli khác, trước tiên và đứng đầu ta thấy có tác phẩm Kinh Bản Sinh Duyên Khởi (Jātakanidāna). Các vị tiền sử xa xưa (Dūrenidāna) hay mới đây (Avidūrenidāna) hoặc các vị không mấy xa xôi lắm (Ja I 3-82), tất cả đều có nhiều tương quan gần gũi với nhau, cho dù với một số ít khác biệt, đối với cả tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) do ngài Sumekhakathā thực hiện cũng như trong bài báo cáo dài về cuộc đời Ðức Phật Cồ Ðàm trong Ký Sự Niên Ðại tập thứ XXVI.[114]
Thêm vào đó, tác phẩm Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA tt.1-31) còn kể lại câu chuyện về Ðức Phật Tổ Sumedha cùng với các từ tương tự. Tiếp theo sau tác phẩm trên, các vị tiền sử xa xưa (tt. 31-52) trong đó các ký sự niên đại viết về Chư Phật tiền kiếp, được đề cập một cách đầy đủ trong các tác phẩm Phật Tông và Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), chủ yếu xuất hiện dưới dạng tinh lược (rút ngắn). Họ cũng thực hiện điều này bằng những cách diễn đạt lời từ khác nhau. Vì các bản dịch lại nhấn mạnh[115] đến những điểm dị biệt, được ghi lại trong tác phẩm Thūpavamsa (tr. 147-166) các vị Tiền Sử xa xưa trong cuốn Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA) (tr.52-81) và Santikenidāna (tr.82-99) cũng được giải thích cùng chung với Ký Sự Niên Ðại về Ðức Phật Cồ Ðàm trong tác phẩm Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA).
Lẽ dĩ nhiên những đường nét phác thảo rộng rãi, câu chuyện này khó có những thay đổi nào đáng kể. Một số chi tiết được đưa vào và bỏ qua có thể được thay đổi, tuy nhiên, đa số những thay đổi này lại đáp ứng nhu cầu cần thiết về việc tường trình điều đang được bàn về vấn đề này. Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) không có chủ đề nghiền ngẫm; chẳng có bất kỳ hình thức đặc biệt nào khác hơn là sự nghiệp của vị Bồ Tát hoặc của những vị Phật Tổ quá khứ, nếu như có liên quan và phải nhấn mạnh đến việc loại bỏ các yếu tố khác.[116] Như vậy ở một vị thế chỉ nhằm đưa ra những gương iển hình như trong Bản Ký Sự Niên Ðại XXVI, lại có một sự dồi dào chi tiết không gây cản trở gì trong việc kể lại về cuộc ời đã qua của vị Bồ Tát kể từ lúc giáng lâm cho đến cuộc Ðại Xuất Gia, từ cuộc sống trong hậu cung được đề cập đến sáu năm thực thi cuộc phấn đấu khắc khổ[117]. Chính vì thế xuyên suốt vài tường trình này ngay cả thuật bắn cung để dành được cô dâu,[118] thì hầu như hoàn toàn khớp với những gì được mô tả bằng những từ rất đồng nhất được ghi trong Kinh Bản Sinh Sarabhaṅga (No. 522) Trong Kinh Bản Sinh này ta thấy người bắn cung tên là Jotipāla, đây cũng là tên của Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm khi ngài còn là một vị Bồ Tát dưới thời Ðức Phật Tổ Kassapa.[119]
Vị Biên Soạn hay dịch giả tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) chính là Ngài Buddhadatta. Vào thời điểm xử lý với tác phẩm Chú giải này, hình như ngài đã cư ngụ trong một ngôi chùa tại tỉnh Kāvīrapaṭṭana[120], rất có thể “toạ lạc tại bờ biển phía Nam Ấn Ðộ.”[121] Ðây chính là vào thế kỷ thứ năm sau CN. Rất có thể ngài đã được đồng nhất với vị Budhadatta là người cũng được mô tả trong cuốn Luật (Vinaya)-vinicchaya. Abhidhammāvatāra, Jinālaṅkāra[122], và cuốn Dantadhātubodhivaṃsa[123] hầu như chắc chắn là có một vị Buddhaghosācariya trẻ tuổi cùng thời với ngài. Vị này hình như rất quen thuộc với những bài viết của vị Chú giải vĩ đại này.”[124] Có một lời khẳng định được thực hiện dựa trên cở sở “bài Chú giải này đã theo rất sát với phương pháp trong các tác phẩm của Buddhaghosa”.
http://buddhanet.net/budsas/uni/u-ki...tsu/cgps00.htm