Thiền như là gió thổi
Mặt nước không lay động
Chỉ để lại gợn sóng
Bọt nước hay là sóng
Sóng thì nhảy lăn tăn
Bọt nước hoà với sóng
Rồi cứ thế cứ thế
Gió thì vẫn cứ thổi
Mặt nước vẫn cứ lay
nước ở trong Cốc Vương
Bọt nước Hoà với sóng...
Printable View
Thiền như là gió thổi
Mặt nước không lay động
Chỉ để lại gợn sóng
Bọt nước hay là sóng
Sóng thì nhảy lăn tăn
Bọt nước hoà với sóng
Rồi cứ thế cứ thế
Gió thì vẫn cứ thổi
Mặt nước vẫn cứ lay
nước ở trong Cốc Vương
Bọt nước Hoà với sóng...
Thiền Như là gió thổi
Mặt nước không lấy động
Chỉ để lại gợn sóng
Bọt nước hay là sóng
Sóng thì nhảy lăn tăn
Bọt nước hoà với sóng
Rồi cứ thế cứ thế
Gió thì vẫn cứ thổi
Mặt nước vẫn cứ lay
Nước ở trong Cốc Vương
Bọt nước hoà với sóng.
Định như là bóng nổi
Như là mây thoảng gió bay
Gió thì nâng mây bay
Làm sao để mà bắt
Bóng nổi cũng như vậy
Hiện rồi thoáng vụt tắt
Chưa vụt thì đã tắt
Bắt được không đấng anh tài.
nhứt thiết hửu vi pháp/như mộng huyển bào ảnh/như lộ diệc như điển/ƯNG TÁC NHƯ THỊ QUÁN
ĐÂY là THẬT QUÁN
Xe máy thì chạy ngược
Xe máy lại chạy xuôi
Xe sau đuổi xe trước
Rồi âm thanh lại im bặt
Xe lại chạy đâu mất
Rồi lại nghe cái vèo
Xe máy lướt qua mặt
Xe trước tiếp xe sau
Chẳng để lại âm thanh
Rồi lại xe ô tô
Cùng hòa chung nhịp điệu
Bổng nghe tiếng nổ công cong
Tưởng chừng là Công nông
Nhịp sống quá ồn ào
Nhưng chỉ là xe máy...
【 THIỀN ĐỊNH 】
Hành giả; hằng sống với chánh niệm tỉnh giác tu tập Thiền Định “tự tri, tỉnh thức, vô ngã” hành thiền sống với tâm vô trụ. “Thiền Học” là học đạo lý giác ngộ, nương ngôn từ (Văn, tư, tu) để thấy biết thanh lọc tâm trí (mới thấy biết chính nó) đó là sự giác ngộ tỉnh thức của ý chí cuộc sống. “Thiền” là giá trị tối thượng của nhân loại trong vũ trụ. Có thể gọi “Thiền” bằng nhiều tên khác, nhưng nội hàm là “tự tri, tỉnh thức, vô ngã” dù áp dụng theo phương pháp nào để được chuyển hoá tâm thức, cần phải có Giác Ngộ Tỉnh Thức để soi sáng cái “tôi” (Vô Ngã Vị Tha) mới có thể khai thông Trí Tuệ “giác ngộ chân thật” Chơn, thiện, Mỹ.
- Thiền Định mà dùng nhận thức suy luận để hiểu, đó là Thiền bằng trí thức; tức là (thiền bằng vọng tưởng) bằng kiến thức bị quy định. Tâm ngôn hay tâm hành là sự nói năng trong tâm thức, là sự dao động trong tâm; Vọng tưởng càng nhiều thì thực tại của tâm trí càng bị che mờ. Sự hiểu bằng cách Thiền này chỉ có giá trị định hướng, đánh thức khát vọng giác ngộ, chứ không có sự giác ngộ đích thực chơn chánh. Phải vừa đọc, vừa nghiệm, vừa đối chiếu với trạng thái tâm trí đang hiện hữu (đang là) như tấm gương soi sáng “thấy-biết” rõ mặt thật của tâm trí (Nó) để ấn chứng.
- Thiền giả, dụng tánh nghe biết vọng tưởng trọn vẹn (tức biết lắng nghe sâu sát và tự nhiên những nói năng ý niệm trong tâm trí) là thấy, biết nhắm vào gốc rễ của cấu trúc vô minh, phiền não. Thấy rõ, biết rõ điều này rất quan trọng cho Thiền, cho sự đột chuyển (chuyển y) nội tâm, cho sự nghiệp giác ngộ. Biết rõ vọng niệm hay vọng tưởng là huyễn tướng... là “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác” (Kinh Viên Giác). Hành giả thấy, biết rõ vọng tưởng thì vọng niệm tự xa lìa, thì thánh trí diệu dụng, tự tánh Viên Giác hiện tiền “tịch quang thường chiếu” (Chơn Không Diệu Hữu) thấy, biết mọi sự khởi niệm tuỳ duyên.
- Hành giả muốn giác ngộ, phải có tuệ lực chủ hướng để thấy nghe, nhận biết tự tâm và tự tánh vi tế vọng niệm sinh diệt. Mới chuyển ngược được định lực chủ hướng của vô sư trí hiện tiền. Khác với hữu sư trí - một tiến trình nhận thức (tâm ngôn, tâm hành), vô sư trí là năng lực của tự tánh diệu minh (là tấm gương bên trong) đang thấy biết rõ vọng tưởng (vọng niệm). Đó là năng lực nghe rõ tất cả mọi ý niệm trong tâm trí (quán thế âm) một cách tự nhiên, không cần dụng công (quán tự tại) nghe lại, tức có sự tự nghe, tự thấy tự biết (tự tri), tức tỉnh giác, Chánh trí hiện tiền thì tâm có sự chuyển hoá Vọng niệm dừng lại (tịch tịnh). Tâm vô niệm như nhiên, tự tánh thanh tịnh Viên Giác tròn đầy.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
(sưu tầm)
Rồi lại tiếng xe bên
Ào ào cuốn theo bụi
Là minzk hay New York
Cũng lướt theo cái vèo
Rồi máy kéo xe múc
Xe trước cuốn xe sau
Âm thanh thì nhộn nhịp
Nhịp sống quá hối hả
Rồi nghe tiếng công công
Lại nghe tiếng rần rần
Xe Benz chạy như lướt
San đất về đổ đường
Xe xích chậy rần rần
Xe lu lao vun vút
Đất đá nghiền rào rào
Như bụi cuốn đá bồi
Rồi theo sau là gì
Không gian thì yên ả
Đại địa sấm rền vang
Là lôi chấn ấn đinh
Là chiên diên đà là ni
Là bát nhã kim cang
Hỏi ai đấng tài anh.
Có phải làm nghề Cầu Đường không ? Hello đồng môn
Túi làm công nhân sửa đường, dặm vá , ra đá , đổ bê tông
Công ty CP công trình giao thông bạc liêu
https://www.tratencongty.com/company...hong-bac-lieu/
Trích dẫn:
Ngài thấy những khúc đường bị lở lói, lồi lõm, chỗ cao, chỗ thấp bất bình đẳng là Ngài mang đất đến lấp bằng; và cầu cống bị hư hỏng là ra sức tu bổ lại cho chắc chắn. Nên thời bấy giờ họ gọi tên Ngài Trì Địa tức ông gánh đất. Tuy Ngài đến đâu vẫn khổ tâm lo việc mình làm mình biết chẳng cần ai để ý, là dụng tâm hết sức lương thiện và cặm cụi làm như vậy đã lâu rồi, nhưng chưa hề thấy hiệu quả đến như thế nào?
Một hôm Ngài gặp Đức Phật Tỳ Xá Phù đi ngang qua sở, liền cung kính lễ bái. Đức Phật dạy: Ngươi là việc công ích, từ thiện khắp giúp mọi người, cố nhiên là việc làm tốt lành. Nhưng ngươi cứ một mặt trên vật chất mà làm là thành công chẳng tròn, chẳng biết muôn vật là duy Tâm. Ngươi phải biết thế giới đại địa đều là từ trong tâm hiện ra. Địa có cao thấp do Tâm bất bình. Cho nên tâm ngươi bình, thế giới mới bình theo. Vì Tâm là làm chủ nhân muôn loài; nhân bình thời quả mời bình, lẽ phải như thế. Cho nên muốn bình đại địa, trước tiên phải bình Tâm đã. Sau một hồi được Đức Phật khai thị cho phen này. Ngài Trì Địa Bồ tát, liền từ nơi sự việc đã làm mà vào lý quán. Và cứ thế mà lần lữa gắng công tu hành mới phá được vô minh chứng Pháp tánh, thành Đại Bồ tát
" Như Như " là cảnh giới gì ? Kinh hoa Nghiêm nói " Quang Minh tạo ra pháp thân Như Lai " . Vậy Quang Minh đó đã tạo ra bao nhiêu pháp thân Như Lai?
Trích dẫn:
Như Như Bất Động – Liễu Liễu Thường Minh. Đây là trạng thái bất động, không dấy khởi vọng niệm của bản tánh (như hồ nước phẳng lặng, không gợn sóng). Song, nơi bản tánh bất động ấy luôn bừng hiện trí huệ chiếu soi, quán sát mọi sự (như sự phản chiếu của mặt nước).
Đố cả nhà có hay không có Niết Bàn
https://thuvienhoasen.org/a19179/tat...u-co-phat-tanhTrích dẫn:
Tất cả không Niết-bàn
Không Niết-bàn của Phật
Không có Phật Niết-bàn
Xa lìa giác, sở giác
Hoặc có hoặc không có
Cả hai thảy đều lìa.
https://chuaadida.com/chi-tiet-kien-van-giac-tri-10483/Trích dẫn:
Thật ra kiến, văn, giác, tri vốn hay khởi vọng niệm. Như nguồn (dòng) tâm thức liên miên bất tận chẳng thể dứt sạch cạn được. Phật Tánh (buddha nature, Phạn: Tathagatha-garbhai, Như Lai Tạng) không sanh khởi vô minh, cũng chẳng sanh khởi vọng tâm . Vô minh ko có nguyên nhân ( vô nhân ) , vọng tâm đã gọi là vọng thì không thể kiểm soát được , như người loạn thần khi hết điên thì cái điên đã trốn đi đâu ? Vô Nhân Vô Duyên là ý nghĩa của Thủ Lăng Nghiêm . Cho nên người nhận lầm kiến, văn, giác, tri là Phật Tánh vốn là sai lầm, tu hành cũng vô ích.
https://thientrithuc.vn/tuoi-tre-doi...n-tinh-vo-lau/Trích dẫn:
TRI KIẾN LẬP TRI, TỨC VÔ MINH BỔN. TRI KIẾN VÔ KIẾN, TƯ TỨC NIẾT BÀN (Thấy biết mà lập ra thấy biết, đó là cội gốc vô minh. Thấy biết mà không có thấy biết, đây là Niết bàn chân tịnh vô lậu.)
Chúng ta thường nghe nói rất nhiều về câu tri kiến lập tri… Nhưng cụ thể như thế nào là tri kiến lập tri? Thấy biết mà lập ra thấy biết?
Đầu tiên, chúng ta tìm hiểu nguồn gốc của thấy biết. Theo kinh Lăng Nghiêm, nói về hai thứ căn bản, ở căn bản thứ hai: “Thể Bồ đề Niết bàn vốn thanh tịnh từ vô thủy, tức là cái thức tinh vốn sáng hiện giờ của ông, hay sanh các duyên nhưng ông lại duyên theo các sanh khởi ấy mà bỏ quên nó. Do các chúng sanh bỏ quên cái vốn sáng này, nên tuy trọn ngày sử dụng nó mà chẳng tự biết, uổng lạc vào sáu nẻo.”
.
https://tangthuphathoc.net/pham-03-phap-gioi/Trích dẫn:
Phật bảo Thắng Thiên vương:
–Này đại vương! Cảnh giới của chư Phật là không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì xa lìa cảnh giới, nên tất cả chúng sinh nghĩ lường cảnh giới của chư Phật thì tâm sẽ cuồng loạn không biết gì cả. Vì sao? Vì đồng với tánh hư không, không thể nghĩ lường, cầu không thể được, xa lìa cảnh giới giác quán. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật còn không thấy có cảnh giới của phàm phu để mà nghĩ lường, huống nữa là cảnh giới của chư Phật; cũng không được nương tựa vào các nguyện. Tuy thực hành Bố thí mà không chấp vào quả báo của Bố thí; Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ cũng như vậy. Tất cả công đức cho đến Niết-bàn cũng không chấp trước, không nương tựa. Vì sao? Vì lìa ngã và ngã sở nên tự tánh xa lìa, không hai, không khác.
Pháp giới là gì
https://thuvienhoasen.org/a30337/pha...-gioi-the-tanhTrích dẫn:
Tất cả các vũ trụ, tất cả những gì hiện hữu, sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý, tất cả không gian thời gian là thể tánh của pháp giới. Nói cách khác, tất cả các hiện tượng đều là bản thể, tất cả mọi tướng xuất hiện đều là thể tánh.
Không có một cái nghe, cái thấy, cái hiểu, cái xúc chạm nào có thể ở ngoài pháp giới, nghĩa là ở ngoài pháp giới thể tánh. Tất cả các tướng đều là tánh, tất cả các pháp đều là “pháp giới tánh” (chữ của kinh). Đây là cái thấy trực tiếp của một vị Đại Bồ-tát. Nhưng khi nói ra sự thật này, những người còn chìm đắm không thể không kinh quái. Sở dĩ kinh quái vì chúng ta đã ở quá lâu trong một thế giới phân biệt, các sự vật tách lìa nhau, chống trái nhau vì sự cứng đặc nặng nề của chúng. Đây là do cái thấy lầm tất cả có bản chất riêng, bản tánh riêng, tự tánh riêng. Sống quen trong thế giới của sự khác biệt do vọng tưởng như vậy nên khi nói tất cả là pháp giới thể tánh, nghĩa là tất cả là một thể tánh, và thể tánh ấy là vô phân biệt, thì người bình thường kinh sợ, quái lạ.
Đức Phật nói, “Chúng sanh kiêu mạn nếu nghe pháp này sẽ sanh lòng kinh quái”. Chúng sanh kiêu mạn là do không biết nên vô tình vọng tưởng ra một cái tôi và tích tập vào cái tôi ấy những kinh nghiệm của sáu giác quan. Từ đó, tự cắt lìa mình khỏi toàn bộ pháp giới vốn là pháp giới thể tánh. Càng sống, càng có nhiều kinh nghiệm tích tập quanh một cái tôi thì pháp giới càng phân mảnh, chống trái, xung đột nhau. Do đó mà khi nghe toàn thể pháp giới là một vị pháp giới tánh thì bèn kinh quái.
Nếu tất cả pháp đều là pháp giới thể tánh thì còn có một khe hở nào cho cái nhiễm ô hay cái thanh tịnh? Nếu toàn thể pháp giới bản tánh đều là vàng, thì còn có khe hở nào cho các thứ cặn bã hay gấm vóc, lụa là? Pháp giới là pháp giới thể tánh, và trong pháp giới thể tánh, chỉ có pháp giới thể tánh vô phân biệt, không có nhiễm tịnh, đây là đệ nhất nghĩa.
https://tangthuphathoc.net/pham-13-khuyen-gioi/Trích dẫn:
Văn-thù-sư-lợi! Trong Cù-đa-ni khắp nơi đầy cả các bậc: Tuđà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật, dày kín như rừng trúc, mía, lau. Nếu có người ác giết hại tất cả. Văn-thù-sưlợi! Ý ông nghĩ sao? Người ác đó, do sự việc này bị tội nhiều không?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Tội này không thể nghe, không thể nghe! Người này không có kỳ hạn ra khỏi A-tỳ địa ngục.
Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Có người nào không tin kinh này, tội đó còn nhiều hơn tội giết hại Thánh nhân trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng.
Văn-thù-sư-lợi! Nếu thiên hạ khắp bốn châu đều như bụi trần và chư Phật Như Lai nhiều như số bụi ấy; có người ác nào giết hại và cướp đoạt hai loại tài sản là: Diệt pháp tài và Phá thế tài.
Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghĩ sao? Người này bị tội nhiều không?
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Tội này không thể nghe, không thể tính kể, không thể nghĩ lường.
Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
–Nếu lại có người không tin kinh này; hủy báng và làm chướng ngại, thì tội đó còn nhiều hơn tội đoạt hai loại tài sản trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng. Giả sử tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, đều thành Vô thượng Chánh đẳng giác rồi mà người ác này cũng chưa ra khỏi được địa ngục A-tỳ.
Mới sinh ra 2 bên vai mỗi người đều có 2 vị thần Thiện và Ác ghi lại việc tốt xấu.
https://thuvienhoasen.org/a36118/pha...uc-tai-toi-hauTrích dẫn:
“Bấy giờ Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định, từ Sơ thiền đến Phi phi tưởng xứ định và ngược lại, rồi bảo khắp đại chúng:
Ta dùng trí huệ Bát nhã sâu xa xem thấy ba cõi tất cả sáu đường chúng sanh, núi non, biển lớn, lục địa các loài. Ba cõi như vậy bản tánh vốn lìa, rốt ráo tịch diệt, đồng tướng hư không, không danh, không thức, vĩnh viễn dứt lìa các cõi hữu. Xưa nay bình đẳng, không có niệm tưởng cao thấp, không có thấy, không có nghe, không có cảm, không có biết, không thể trói buộc, không có giải thoát, không có chúng sanh, không có thọ mạng, không sanh không khởi, không dứt không diệt, không phải thế gian không phải chẳng thế gian, Niết bàn sanh tử đều chẳng thể đắc, hai bên bình đẳng vì bình đẳng với tất cả các pháp.
(Bậc thấy biết như vậy thì) nhàn nhã, tĩnh lặng, không có chỗ ra sức, chỗ an trụ rốt ráo đều chẳng thể đắc, từ pháp vô trụ mà hiện làm như pháp tánh vô trụ, hết tất cả tướng, không có một tướng nào. Pháp tướng như vậy, ai rõ biết thì gọi là người xuất thế, nếu chẳng biết như vậy gọi là bắt đầu sanh tử. Đại chúng các ông phải đoạn dứt vô minh, diệt chỗ bắt đầu của sanh tử”.
Như Lai Chánh Giác thật không có bệnh rồi nằm nghiêng bên mặt, cũng không rốt ráo nhập vào Niết bàn. Ca Diếp! Đại Niết bàn đây tức là thiền định rất sâu xa của chư Phật. Thiền định này chẳng phải là cảnh giới của Thanh Văn, Duyên Giác
https://thuvienhoasen.org/a35756/pha...-tanh-cua-tam?
Lục thức tụ lại thành tâm thức, hay tâm thức sinh ra lục thức?Trích dẫn:
Tâm thức ấy thật không có đến đi, chỉ là trước sau như nhau, tương tục, chẳng đổi khác. Đây là lời dạy bí mật của Như Lai