-
Những Vần Thơ Ngoại Cảm
NHỮNG VẦN THƠ NGOẠI CẢM
Nguời viết là một nông dân, học vấn biết đọc biết viết. Từ năm 1990 có khả năng xuất thần, ứng khẩu đọc thơ có vần có điệu, nội dung là các bài thơ Tiên, các câu chuyện thơ dã sử... mà chúng tôi gọi là những vần thơ Ngoại Cảm.
Những bài thơ này được ghi chép, sưu tầm bởi Câu Lạc Bộ Tiềm Năng Con Người phía Nam, do ông Nguyễn Tuấn Thanh, Thư ký Thường trực, hiệu đính và cung cấp cho TGVH.
Phần chú thích do chúng tôi soạn dựa theo Lịch sử Việt Nam để người đọc dễ theo dõi.
HOAN NGHÊNH MỌI Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI XEM
Mọi sự trích dẫn xin ghi rõ nguồn từ TGVH.
Bản quyền thuộc ông Nguyễn Tuấn Thanh.
-
CHUYỆN TÌNH TRỊNH KIỂM - TIỂU THƠ NGUYỄN NGỌC BẢO
1. Non sông một dải sơn hà
Nguyễn Kim (1) ngồi kể chuyện nhà thuở xưa.
Màn trời sương sớm nắng trưa
Kiếp người mây rước trăng đưa mơ màng
Từ đường một đấng nhà quan
Mấy đời gầy dựng giang san cõi bờ.
Phu nhân vào gọi tiểu thơ (2)
Đến nghe lệnh dạy kịp giờ với anh (2).
Cha lành con cháu cũng lành
10. Giống nòi rường cột trâm anh ngọc vàng
Nguyễn Uông, Ngọc Bảo, Nguyễn Hoàng
Ngồi chờ nghe lệnh nghiêm đàng chỉ phân.
Kim rằng người sống cõi trần
Sao cho ích nước lợi dân mới là,
Ông con (3) hồi thuở xưa xa
Phò Lê gầy dựng nghiệp nhà cho Lê,
Giang san xã tắc thâu về
Giống nòi rường cột nhà Lê vẫn còn,
Nay mà mất hết nước non
20. Vì Lê Uy Mục (4) tánh còn say mê
Đến Lê Tương Dực (5) ê hề
Trò chơi nhiều kiểu đáng chê con à.
Nghĩ công nghiệp cũ xưa xa
Nghĩ Lê Thái Tổ nhớ nhà Thánh Tông
Nghĩ người xưa lắm dày công
Nghĩ ơn đất nước cha ông dựng gầy
Truyền noi cho đến hội này
Để cho con lũ cháu bầy nhuốc nhơ.
Đăng Dung họ Mạc phỉnh phờ
30. Gạt Vua chém tướng đoạt cờ Nam ta (6)
Làm tôi soán đoạt Bửu tòa
Giết Vua Lê chết với bà Thượng Khanh.
Hai con là đấng hùng anh
Hãy noi gương thiện làm lành nghe con,
Ngọc Bảo phận gái phấn son
Cũng nên giúp sức nước non con à.
Xưa nay nhiều gái quần thoa
Đứng lên gầy dựng sơn hà thiếu chi,
Nay mà xã tắc lâm nguy
40. Khắp nơi nổi loạn biên thùy lâm le (7),
Con ngồi cha kể con nghe
Con dù phận gái cũng dè việc quan.
Nguyễn Uông lại với Nguyễn Hoàng
Chức làm Thái úy phải toan việc trào (8)
Mở mang đức độ anh hào
Hầu cho trong nước đồng bào mến danh.
Tiểu thơ quỳ xuống thưa rằng
Thưa cha con muốn rõ danh chúa nhà,
Như Lê Chiêu Tông (9) chúa ta
50. Con hay là cháu của nhà Thánh Tông.
Hiện nay thành nội Thăng Long
Mạc Đăng Doanh (10) ngự ngai rồng lâu nay.
Bốn phương sĩ tử tranh tài
Thi đình mở hội chọn rày trạng nguyên,
Con nghe lòng luống ưu phiền
Thủ khoa Đình Ái (11) giải nguyên hai người.
Nguyễn Kim nghe nói liền cười
Ý con muốn nhắc đến người Bỉnh Khiêm.
Cho hay từ cổ chí kim
60. Con người ba tuổi chớ tìm văn nhân (12),
Nếu con vì nước vì dân
Phải nghe cha dạy ân cần làm y.
Có người dõng tướng nam nhi
Ở thôn Vĩnh Lộc tu mi kiệt hào (13),
Cha người xưa vốn quan cao
Làm quan gián nghị trong trào Uy Vương,
Tại vua Uy Mục bất lương
Từ quan hưu trí về nương quê nhà,
Người này giòng dõi Trịnh gia
70. Vốn tên Trịnh Kiểm (14) là nhà võ quan,
Nay ba mươi tuổi xuân sang
Chưa nơi kết tóc còn đang xuân thì.
Cha nghe họ Trịnh oai nghi
Chiêu binh mãi mã phòng khi đoạt thành (15),
Nếu như họ Trịnh tài lành
Dùng mỹ nhân kế dỗ dành Trịnh gia
Con đây là gái màn hoa
Gả cho Trịnh Kiểm một nhà cũng xuê,
Hội này binh loạn tứ bề
80. Cha cần võ tướng phò Lê con à.
Thăng Long họ Mạc khai khoa (16)
Dù trăm quan trạng cha mà chẳng lo,
Cha hay lưu ý thăm dò
Mạc Đăng Doanh vốn nhà nho thiên tài
Từ ngày túc vị đến nay
Vẫn còn quý trọng nhân tài nhà Lê,
Các quan thần phục một bề
Tìm tòi con cháu vua Lê phong thần,
Các bà quận chúa cung tần
90. Của Lê để lại Mạc cần thăm nuôi (17).
Cha nghe cũng tạm làm vui
Em Lê Chiêu Tông (18) khóc mùi như ngây
Thăng Long cha đến đêm chầy
Gặp Lê Công Chúa ngất ngây kêu trời.
Cha liền khẽ nhỏ đôi lời:
Công nương là gái tuyệt vời như tranh
Dù không làm vợ Đăng Doanh
Cũng là vợ của công khanh đại thần.
Xưa nay hễ đấng anh quân
100. Không hề chém giết nữ nhân bao giờ,
Giết người chiến lược binh thơ
Gái nào chém tướng đoạt cờ cầm binh
Thì là mới sợ bỏ mình
Công nương là gái giữ gìn phòng hoa,
Tối ngày son điểm phấn thoa
Tội chi mà sợ Mạc gia chém đầu.
Công nương nghe rõ từng câu
Kề tai mới thuật đuôi đầu cha hay.
Bảo là quan Trạng có tài
110. Võ văn đều đủ cả hai con à
Tên Khiêm họ Nguyễn tài ba (19)
Mạc Đăng Doanh rất trọng nhà Trạng nguyên,
Nên đưa Công chúa kết duyên
Lê Oanh Vàng chẳng xứng nguyền phu thê
Cho nên mới khóc dầm dề
Định tìm phương trốn theo về với cha,
Đặng cho huynh muội một nhà
Cha liền kể hết cho hà nguyên nhân:
Công nương mến nước thương dân
120. Phải cần chước lượng nương thân tại trào
Ưng ông võ trạng tài cao
Vâng lời họ Mạc Mạc nào biết chi
Chỉ qua cái đạo xướng tùy
Kề tai nói nhỏ những khi đồng sàng (20),
Kể cho Quan Trạng hoàn toàn
Giang san này của họ hàng nhà Lê
Ngày nay họ Mạc thâu về
Nghĩ công Thái Tổ (21) nặng nề xưa xa,
Đã là Quan Trạng tài ba
130. Những điều loạn nghịch lòng mà nào ưa
Đó là một kế ngăn ngừa
Dù cho Quan Trạng mưu thừa ra chi
Để cho Chiêu Tông lánh nguy
Công nương y kế mới thì được cho,
Phận tôi xã tắc nương phò
Ngày lo binh mã đêm lo quân hình.
Phúc đâu Quan Trạng lại nhìn
Công nương hoảng sợ cha hình như cây (22),
Hồi lâu cha mới nói vầy:
140. Trạng Khiêm đã rõ tôi đây lão thần
Tôi người mến nước thương dân
Nửa đêm lén đến thăm phần công nương
Vì là giọt máu Lê Vương
Hãy còn xót lại cung chương một nàng
Chánh tên Công Chúa Oanh Vàng
Đăng Doanh bắt gả tân quan đây này,
Nàng đang than khóc như ngây
Tôi vừa đến viếng ngài đây đã kề,
Nếu thương cho lão ra về
150. Nếu ngài ghét lão bắt về khảo tra
Lão vì cơ nghiệp Lê gia
Thăng Long lão mới vào ra đêm dày
Nếu Vua nhà Mạc mà hay
Thì đầu của lão sẽ bay tức thì.
Trạng rằng lão tướng chớ nghi
Người trong một nước cớ chi ngại lòng,
Lão thần là kẻ chí công
Lúc nào cũng nghĩ giống giòng nhà Lê,
Vậy thì lão cứ ra về
160. Cha nghe Trạng nói cười hề bước ra.
Từ nay con hãy nghe cha
Cha mời Trịnh Kiểm sang qua dinh tiền
Gả con cho Trịnh kết duyên
Cha cùng họ Trịnh trị yên Mạc trào.
Công nương là gái má đào
Sẽ ưng Quan Trạng chuyện nào cũng an.
Nói rồi tỏa bức thư sang
Cho người mời Trịnh luận bàn chuyện riêng,
Trịnh nghe vội vã đến liền
170. Uông Hoàng hai gã ngạc nhiên không chào,
Trịnh Kiểm cứ việc đi vào
Nguyễn Kim đứng dậy đón chào hỏi han
Tiểu thơ lui lại hậu đàng
Trịnh Kiểm nhỏ nhẹ hỏi han nọ này:
Thưa ngài tôi đã đến đây
Chuyện chi cứ nói đủ đầy tôi nghe.
Nguyễn Kim mới nói nè nè
Danh ngài tôi cũng đã nghe đủ đầy,
Nay mời ngài đến nơi đây
180. Ý tôi muốn cột sợi dây xích thằng (23),
Ngài thì thông đạt võ văn
Chẳng hay tử phược thê thằng ra sao?
Trịng Kiểm rằng tuổi đã cao
Ba mươi chín tuổi lược thao gồm tài (24)
Vẫn lo binh pháp dồi mài
Ban đêm dạy võ ban ngày dợt binh,
Rảnh đâu lo việc gia đình
Nơi nơi muốn khởi đao binh kia cà
Nếu lo con vợ cửa nhà
190. Ai lo Non Nước Sơn Hà Chúa Vua,
Nên tôi như kẻ quê mùa
Không con không vợ chọn Vua mà thờ
Hiện còn nhuần gội binh thơ
Nên chưa kết nghĩa tóc tơ nơi nào.
Nguyễn Kim liền mới nói mau
Tôi sanh một gái má đào phương phi
Nếu ngài chẳng nệ điều chi
Xin cho tiện nữ kết nghì trúc mai,
Phỉ duyên gái sắc trai tài
200. Phò Lê diệt Mạc tôi ngài gắng công.
Trịnh Kiểm nghe nói vui lòng
Xin cho coi mắt má hồng đặng chăng
Trăm năm một mối xích thằng
Nên duyên túc trái cũng căn Trời dành.
Nguyễn Kim nghe cũng lòng đành
Truyền cho Ngọc Bảo gái lành bước ra
Trịnh Kiểm liếc mắt xem qua
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà như Tiên,
Hãy còn thơ bé thiếu niên
210. Như vầy âu cũng xứng duyên vợ chồng.
Kiểm xem đẹp dạ vui lòng
Vội vàng dâng lễ tơ hồng giao bôi,
Đem binh hiệp lại một ngôi
Cha con vui dạ, chúa tôi một nhà (25).
-
CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Kim (1468-1545), tướng giỏi nhà Hậu Lê, giúp vua Lê chống lại nhà Mạc nên được phong chức Thái Sư Hưng Quốc Công. Nguyễn Kim là thủy tổ của chín đời Chúa Nguyễn, về sau nhà Nguyễn truy tôn ông là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế.
2. Nguyễn Kim có ba người con. Người con gái lớn nhất Ngọc Bảo, lấy chúa Trịnh Kiểm; hai người con trai là tướng giỏi được phong Quận công, người con trai lớn Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết; người con trai thứ là Chúa Nguyễn Hoàng (1525–1613), cai trị Đàng Trong từ Thuận Hóa trở vào.
3. Nguyễn Kim thuộc dòng dõi công thần nhà Hậu Lê. Cha Nguyễn Kim là Nguyễn Văn Lưu, công thần nhà Hậu Lê. Chị họ của Nguyễn Văn Lưu chính là Hoàng hậu Trường Lạc của vua Lê Thánh Tông.
4. Thời kỳ suy tàn của nhà Lê. Lê Uy Mục (1488–1509) ăn chơi vô độ, ham rượu chè, gái đẹp, tàn bạo giết hại nhiều người vô tội. Uy Mục mới lên làm vua đã giết tổ mẫu là bà Thái hoàng Thái hậu (tức Trường Lạc hoàng hậu của vua Lê Thánh Tông trước đây), giết quan Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật, vì trước đây bà Thái hậu và hai vị quan này không chịu lập Uy Mục nối ngôi. Lê Uy Mục được gọi là Quỷ Vương.
5. Lê Tương Dực (1495–1516) đưa quân về chiếm Đông Kinh, bắt vua Lê Uy Mục và bức tử, lên ngôi vua. Lê Tương Dực chơi bời xa xỉ truỵ lạc, bỏ bê việc nước. Ông cho xây điện 100 nóc, xây Cửu Trùng Đài nhiều năm trời không xong, hao tổn tiền của, giết hại nhiều người. Lê Tương Dực cho đóng thuyền bắt gái đẹp khỏa thân chèo chơi ở hồ Tây, gian dâm với cung nhân của các triều vua trước. Vì hoang dâm nên Lê Tương Dực được gọi là Vua Heo.
6. Năm 1518, Mạc Đăng Dung được vua Lê Chiêu Tông tin cậy giao cầm quân dẹp loạn binh biến ở kinh thành. Lập được công lớn, lại nắm quyền bính trong tay, về sau Mạc Đăng Dung phản bội, phế truất vua Chiêu Tông, đưa em của vua là Lê Cung Hoàng lên ngôi.
Vua Chiêu Tông được các tướng đưa vào Thanh Hoá, đến năm 1526, Mạc Đăng Dung bắt được vua Chiêu Tông mang về Thăng Long giết chết.
Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất luôn vua Lê Cung Hoàng, lên ngôi vua lập ra nhà Mạc, niên hiệu Minh Đức. Nhà Mạc trị vì cho đến năm 1592.
7. Các võ tướng nhà Lê không phục nhà Mạc, ngầm tập hợp lực lượng cát cứ ở các địa phương.
8. Trào: triều đình.
9. Lê Chiêu Tông (1506-1526) lên ngôi từ 1516 đến 1522. Theo Đại việt Sử ký Toàn thư, vua Lê Chiêu Tông là con Cẩm Giang vương Lê Sùng, cháu nội Kiến vương Lê Tân và là chắt của vua Lê Thánh Tông.
10. Mạc Đăng Doanh (1503-1540), nối ngôi Mạc Đăng Dung, trị vì từ năm 1530 đến 1540.
11. Năm 1535, nhà Mạc mở khoa thi Hội, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khắc Đốc, Nguyễn Thừa Hưu đỗ tiến sĩ.
12. Văn nhân: ý nói các quan văn.
13. Tu mi: ý nói rậm râu, nhiều tóc, nam tính.
14. Trịnh Kiểm (1503–1570), người đầu tiên lập nên các dòng Chúa Trịnh, thời kỳ Vua Lê - Chúa Trịnh.
15. Nguyễn Kim mong muốn chiêu tập binh tướng khởi nghĩa chống nhà Mạc tái lập lại nhà Lê. Trịnh Kiểm là người có tài, được Nguyễn Kim gả con gái là tiểu thơ Ngọc Bảo cho và giao cho Trịnh Kiểm nhiều trọng trách về sau.
16. Sử sách ghi nhận nhà Mạc rất chú trọng tới nhân tài từ tuyển chọn qua đường thi cử. Tuy chiến tranh, nhưng nhà Mạc cũng chú ý đào tạo và xây dựng hệ thống quan lại thông qua 22 kỳ khoa cử với chu kỳ ba năm một lần.
17. Nhà Mạc mạnh dạn sử dụng quan lại cũ của nhà Lê, điển hình là 4 trạng nguyên thời Lê sơ như: Nguyễn Giản Thanh, Hoàng Văn Tán, Ngô Miên Thiệu, Trần Văn Tất, ngoài ra cũng thu phục nhiều tướng giỏi của nhà Lê như Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Vũ Hộ, Phạm Gia Mô... Các cung phi nhà Lê vẫn được đãi ngộ như trước.
18. Công chúa Lê Oanh Vàng: em vua Lê Chiêu Tông. Ban đầu các quan đại thần định gả cho Mạc Đăng Doanh, nhưng về sau Mạc Đăng Doanh cưới con gái tướng quân Trần Chân.
19. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), đỗ tiến sĩ năm 1535, đời nhà Mạc, được phong làm Tả thị lang Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.
20. Nguyễn Kim một lòng phục hưng nhà Lê, khuyên công chúa nên ở lại trong cung, se duyên cùng tướng tài chờ thời cơ.
21. Lê Lợi (1385-1433), khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh, lên ngôi hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái tổ, chính thức dựng lên vương triều Lê.
22. Hình như cây: đứng lặng như cây gỗ.
23. Dây xích thằng: mối quan hệ thân thuộc.
24. Trịnh Kiểm sinh năm 1503, từ năm 36 tuổi được phong Đại tướng quân, tước Dực Quận công do có công cầm binh mã sang Ai Lao đón vua Lê Trang Tông.
25. Vào năm 1533, Nguyễn Kim bí mật lập hậu duệ của nhà Lê là vua Lê Trang Tông lên ngôi, xây dựng căn cứ tại Ai Lao (nước Lào ngày nay). Nguyễn Kim được vua phong làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công chưởng nội ngoại sự, chức quan cao nhất.
-
ĐÁM CƯỚI NGUYỄN BỈNH KHIÊM - CÔNG CHÚA LÊ OANH VÀNG
Đoạn này nói chuyện Mạc tòa
Đăng Doanh đến buổi liền ra thiết triều,
Trạng Khiêm trong dạ buồn hiu
Cũng vào bái yết giữa triều tung hô
Chúa Mạc xem thấy liền hô
220. Truyền quân mau thỉnh Hoàng cô (1) đến Trào
Oanh Vàng được lệnh đi vào
Tung hô vạn tuế giữa trào nên xinh,
Muôn tâu lệnh Mạc Hoàng huynh (2)
Điều chi triệu thiếp trào đình đến đây
Chúa Mạc mới trả lời vầy:
Nhớ ơn tiên đế tạo gầy giang san
Trong triều còn lại Oanh Vành
Vốn là Hoàng tộc thiệt hàng Đế vương,
Trẫm đây lại với muội nương
230. Tuy là khác họ tình thương đậm đà
Trẫm xem như thể ruột rà
Như em cùng mẹ cùng cha khác nào,
Muội nương là gái má đào
Quyền huynh thế phụ chuyện nào phải toan,
Trẫm nay phán giữa triều đàng
Đặng cho võ bá văn ban lãm tường
Trạng Nguyên phải cưới muội nương
Kẻ tài người sắc văn chương ai bì,
Võ văn lớn nhỏ triều nghi
240. Sửa sang đại yến phải y lịnh truyền
Nay ngày Hoàng đạo ân Thiên
Chánh ngày Quý Mão kết duyên đến già.
Chúa Mạc vừa phán lệnh ra
Võ văn lo cuộc đuốc hoa chúc mừng
Đàn ca nhạc trỗi tưng bừng
Trong Trào lớn nhỏ điều vâng y lời
Truyền cho quân sĩ ăn chơi
Vì là lễ cưới của thời Hoàng cô
Trước thì văn võ tung hô
250. Sau thì Quan trạng Hoàng cô vào chầu
Chúa Mạc ông mới phán âu
Vợ chồng quan trạng thuận câu bố kình
Trẫm vui như được báo linh
Trẫm ban chức trạng là Trình Quốc Công,
Trạng nên gánh vác non sông
Trạng nên vì Trẫm hết lòng thảo ngay.
Oanh Vàng đặt gối tâu bày
Hoàng huynh lệnh dạy dám ai cãi lời
Con Vua cháu Chúa tuyệt vời
260. Giòng Vua vốn thiệt con Trời cao xa,
Hoàng huynh sao gả em nhà
Trạng Khiêm trong trướng bốn bà hiền thê (3)
Hoàng huynh gả thiếp theo về
Thứ ngôi nhỏ bé nặng nề hổ ngươi
Làm cho thiên hạ chê cười
Em Vua làm bé vợ người chánh thê,
Hoàng huynh muốn giết họ Lê
Giết bằng một cách thảm thê thế này.
Chúa Mạc mới phán như vầy:
270. Trạng Nguyên nhiều vợ Trẫm đây nào toàn (4),
Trạng không tâu rõ các đàng
Để cho Trẫm gả Oanh Vàng cho khanh,
Trẫm là phận sự làm anh
Tại khanh ham vợ dấu quanh việc nhà.
Trạng Khiêm quỳ gối tâu qua
Muôn tâu bệ hạ thứ tha tội này
Lòng tôi chẳng có riêng tây
Nghĩ Vua phán lệnh thần đây vâng lời,
Làm trai sống giữa Đất Trời
280. Nên danh có vợ nhiều nơi hệ gì,
Sanh con giòng giống tu mi
Phò Vua giúp Nước có chi ngại lòng.
Vợ thần văn võ lão thông
Bốn nàng bốn hướng thiếu phòng trung ương,
Nay thần phụng mạng Quân vương
Cưới Oanh Vàng để trung ương có người.
Chúa Mạc nghe nói liền cười
Vậy thì em Trẫm làm người trung ương,
Bốn cô vợ Trạng má hường
290. Quân mau đòi đến Triều đường Trẫm ban.
Bốn bà vào giữa Trào đàng
Tung hô vạn tuế Thánh Hoàng muôn năm,
Chúa Mạc xem thấy cười thầm
Bốn nàng này quá tối tăm ngu đần,
Rõ là con gái nhà dân
Nhân sao mà Trạng kết thân quá nhiều.
Trẫm vời vội vã đến triều
Chẳng cầu phong phán nửa điều chi chi
Chồng làm quan Trạng triều nghi
300. Vợ làm mệnh phụ chức thì phu nhân
Nếu mà không có chức quyền
Ngang nhiên cũng đến bệ đơn như người (5).
Nghĩ mà Trẫm cũng nực cười
Giữa trào mà lại có người thứ dân.
Oanh Vàng vội vã ân cần
Nắm tay bốn ả đến gần long ngai,
Muôn tâu Thánh Thượng đặt bày
Phong thê ấm tử cho ngài Trạng Nguyên,
Thiếp là Công Chúa đương quyền
310. Bốn nàng vợ của Trạng Nguyên đến trào
Hoàng huynh chín bệ ngôi cao
Phải mang áo mão cẩm bào phu nhân,
Chồng thì lớn chức cao quờn (6)
Vợ là phận gái tróng trơn dân tình,
Thiếp là em của hoàng huynh
Bốn nàng này xét nhân tình khá thương.
Chúa Mạc phán giữa trào đường
Bốn nàng phú lục văn chương thế nào,
Phương nhan kém vẻ má đào
320. Nhân tài chưa rõ là bao khá trình.
Trạng Khiêm tâu giữa trào đình:
Thuở tôi còn học sân trình sư ông (7)
Bốn nàng này cũng lão thông
Nhưng chưa gặp vận gánh gồng giang san,
Tôi nay mà đậu chức quan
Cũng nhờ công khó bốn nàng lâu nay.
Vua truyền bốn ả thi tài
Nữ công nữ hạnh coi ai vẹn toàn,
Truyền cho Công Chúa Oanh Vàng
330. Thi văn bát cú năm nàng xem sao
Cầm kỳ thi họa đổi trao
Đặng cho văn võ trong trào xem qua,
Vua làm chánh khảo trước tòa
Có Hoàng Đình Ái (8) làm mà khán quan.
Đình Ái trong dạ lo toan
Chỉ e Công Chúa Oanh Vàng phải thua
Xưa nay giòng dõi nhà Vua
Quyền hành thì có mà thua nhân tài,
Bốn nàng mà chẳng kiêng oai
340. Oanh Vàng e nỗi kém tài văn thơ.
Lòng còn lưỡng lự ngẩn ngơ
Vua truyền mấy ả làm thơ năm vần,
Đình Ái riêng dạ ngán ngần
Vua truyền thế ấy nhiều phần khó khăn
Vội vàng quỳ xuống tâu rằng:
Muôn tâu bệ hạ cho văn đầu đề
Vua liền y tấu chỉ phê
Cho Hoàng Đình Ái ra đề văn thi,
Làm xong dâng trước đơn trì
350. Oanh Vàng hạng nhất văn thi tuyệt vời.
Vua truyền thi họa tức thời
Năm nàng họa bức cảnh trời hoàng hôn,
Trạng Khiêm ngơ ngẩn tâm hồn
Đình Ái thì lại bôn chôn trong lòng
Phải chi bức họa rạng đông
Thì là dễ họa vầng hồng lên cao,
Còn đang lo lắng ngán ngao
Năm nàng dâng đủ năm màu Dậu Thân
Vua khen tuyệt đẹp giai nhân
360. Truyền đem treo giữa trào thần giải khuây,
Trời chiều có ngũ sắc mây
Có chim én liệng có bầy nhạn bay
Nông dân mở ách trâu cày
Ông câu thổi sáo ông chài xẻ khô,
Bức tranh này của hoàng cô
Đình thần ngắm thử ghi vô hạng nào.
Võ văn đồng thảy tâu vào
Oanh Vàng hạng nhất tài cao tuyệt vời.
Vua đòi Hoàng Hậu đến nơi
370. Thiết triều đại hội xem chơi để lòng,
Truyền cho năm ả ra công
Phải thêu năm chiếc áo rồng cho ta.
Oanh Vàng đầu cúi thưa qua
Hoàng huynh lệnh dạy em mà phải toan
Giữa trào có mặt bá quan
Rồng thì nhiều thứ biết toan thứ nào,
Rồng bay rồng lộn khác nhau
Thần rồng nhả ngọc rồng nhào phun châu,
Rồng nằm rồng ẩn vực sâu
380. Hoàng huynh phải lựa kết châu rồng nào
Để khi Vua mặc lâm trào
Hay là tiếp sứ quan Tàu nữa đa.
Mạc chúa rằng thật hay a
Thêu rồng nhả ngọc cho ta thưởng tài
Năm nàng âu cũng lẹ tay
Nội trong một khắc xong ngay áo rồng,
Đình Ái xem thấy vui lòng
Chúa Mạc mặc áo thưởng công tức thì.
Oanh Vàng giỏi họa văn thi
390. Nữ công hoàng muội kém thì quá xa.
Cầm kỳ thi họa tài ba
Đứng đầu bực nhất trào ca Mạc triều
Vá may nấu nướng tiểu thêu
Bốn nàng hoàng mỹ Mạc triều đậu cao.
Muốn xem nữ hạnh dường bao
Chọn quan trẻ tuổi Mạc trào đẹp trai
Từ quan tam phẩm cân đai
Với quan nhất phẩm khôi hài trò vui,
Đình Ái lòng luống ngậm ngùi
400. Riêng buồn nhưng phải gượng vui cười dài
Vì mình chức cả đẹp trai
Phải trò đùa cuộc khôi hài Vua ban,
Võ văn lớn nhỏ trào đàng
Vâng lời chúa Mạc nhịp nhàng yến viên.
Vua xem hạnh gái chính chuyên
Năm bà vợ Trạng vẻ duyên mỹ miều,
Oanh Vàng thì lại buồn hiu
Bốn bà thì đến giữa triều là hay
Thấy nhiều quan trẻ đẹp trai
410. Nhìn qua quan Trạng râu dài oai nghiêm,
Ngỡ là một gã Bỉnh Khiêm
Văn hay võ giỏi nên tìm mà theo
Tại mình lòng dạ ngặt nghèo
Phải chưa lấy Trạng ta theo gã này
Ngó Hoàng Đình Ái như ngây
Oanh Vàng cười gượng nói này quý nương
Đây là giữa chốn trào đường
Hãy nhìn chín bệ quân vương đang ngồi.
Chúa Mạc khảo sát vừa rồi
420. Khá khen hoàng muội đáng ngôi nữ tài
Hạnh người tốt vẻ lắm thay
Bốn nàng này vốn có tài nấu ăn
Vá may thêu tiểu thẳng băng
Cầm kỳ thi họa võ văn không tường
Khó mà bì lại công nương
Nhưng mà vợ trạng Trẫm thương cũng là,
Trẫm phong Công Chúa Mạc tòa
Oanh Vàng em Trẫm giữ nhà trung ương,
Bốn nàng thì ở bốn phương
430. Đông Tây Nam Bắc công nương chức đồng,
Trạng Khiêm phong chức Quốc Công
Năm bà Công Chúa một chồng thờ chung.
-
CHÚ THÍCH
1. Hoàng cô: Công chúa Oanh Vàng
2. Mạc Hoàng huynh: vua Mạc Đăng Doanh
3. Sách ghi rằng gia đình Nguyễn Bỉnh Khiêm có 3 thê thiếp:
Bà Chánh thất Dương Minh Nguyệt, hiệu Từ Ý, quê ở Hải Dương, là ái nữ của quan Hình Bộ Tả Thị Lang Dương Đắc Nhan.
Vợ thứ hai họ Nguyễn, hiệu là Nhu Tĩnh.
Vợ thứ ba họ Nguyễn, hiệu Vi Tĩnh.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có 12 người con, 7 trai 5 gái. Tất cả mấy người con đều được phong quận công.
Như vậy câu chuyện về công chúa Oanh Vàng trở thành vợ thứ năm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là điều lý thú, lần đầu tiên chúng ta được biết. Câu chuyện này có thể diễn ra vào những năm 1538-1540, thời nhà Mạc.
4. Toàn: ý nói biết hoàn toàn.
5. Bệ đơn như người: ý vua cho phép được tự do vào tâu vua khi có việc cần.
6. Cao quờn: cao quyền, biến âm để đạt vần.
7. Sân trình sư ông: lớp học của cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, thầy dạy học Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cụ Lương Đắc Bằng là người nổi tiếng văn chương quán thế, từng được đi sứ sang nhà Minh, và cụ đã học được sách Thái Ất Thần Kinh của Trung Hoa, và truyền dạy lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cụ Lương Đắc Bằng là cha của Lương Hữu Khánh.
8. Hoàng Đình Ái (1527-1607): Quan Thái Úy, ông có học thức rộng, thông binh pháp, cầm quân nghiêm chỉnh, trong thì tham mưu cho vua, ngoài thì đánh dẹp binh biến, tự mình trải vài trăm trận, đánh đâu được đấy, làm cả tướng võ, tướng văn, không phân biệt thứ bậc, uy quyền, ưu đãi sĩ phu, giữ gìn pháp độ. Mọi người đều phục.
-
MỐI TÌNH HOÀNG ĐÌNH ÁI - CÔNG CHÚA OANH VÀNG
Bãi trào Vua ngự về cung
Ai về dinh nấy thung dung nói cười,
Đình Ái thảm chín sầu mười (1)
Lòng riêng cứ mãi nhớ người thâm khuê
Nên ngồi mình một ủ ê
Đem đàn ra giữa vườn huê giải sầu,
Đang ngồi dạo chẳng rồi câu
440. Oanh Vàng nhẹ gót từ đâu đến kề
Phận tôi là gái thâm khuê
Ban đêm vô phép vào kề nơi đây
Không điều quyến gió rũ mây
Vì non nước Việt thân này mới sang.
Đình Ái rằng hỡi Oanh Vàng
Bỉnh Khiêm hay được thì nàng mạng vong,
Nay nàng là gái có chồng
Tôi trai chưa vợ khác lòng én anh
Thương nàng tôi luống buồn tanh
450. Trước tôi ngỏ ý ba sanh với nàng
Nàng còn tang đức Mẫu hoàng
Nên tôi phải đợi mãn tang đến kỳ,
Trăm năm lòng muốn kết nghì
Thì Vua nhà Mạc chưa chi gả nàng
Làm tôi đã mất Oanh Vàng
Trong lòng còn hỡi ngỡ ngàng hổ ngươi,
Nay nàng làm vợ của người
Lòng tôi thaœm chín sầu mười khôn khuây,
Chỉ e mai nọ mốt này
460. Chồng nhiều thê thiếp khó khuây việc nhà.
Oanh Vàng nước mắt nhỏ sa
Cám ơn Thái Úy (2) lòng mà thương bi,
Nhưng mà không có hệ chi
Trạng Khiêm là kẻ tu mi đường hoàng,
Rằng tôi còn có Mẫu tang
Trạng vui trăng gió bốn nàng cũng xong.
Có chồng chẳng biết tính chồng
Tôi còn lo việc non sông nước nhà,
Đến đây vì việc quốc gia
470. Xin quan Thái Úy hải hà giúp tôi.
Số là chúa Mạc cướp ngôi
Của ông cố tổ (3) của tôi dựng gầy
Giòng Lê tan rã từ đây
Quan trung tử tiết bỏ thây rất nhiều,
Có quan Lễ bộ trong triều
Tên là Bảo Ngọc (4) hiểu nhiều chuyện xa
Ông thì tuổi hạc đã già
Tên Phạm Bảo Ngọc tuổi đà sáu mươi,
Cháu ông văn võ vẹn mười
480. Chầu Vua Hồng Đức vốn người hiền lương,
Vốn tôi lương đống cột rường
Của Vua Lê đấy trung lương ngài à,
Đăng Dung chiếm đoạt sơn hà
Bảo Ngọc dẫn cháu chạy ra khỏi thành
Hiện còn ẩn sĩ mai danh
Ngài nên đi lén ra thành Nghệ An
Đến nơi thăm hỏi dân làng
Thì biết Bảo Ngọc là quan Lê trào,
Cháu người hai gái má đào
490. Cầm kỳ thi họa lược thao đủ đầy
Hồi Lê Tương Dực vui say
Tôi cùng hai ả học nay một thầy,
Khi nên binh biến dầy dầy
Loạn quân tôi lạc tại đây đến giờ
Còn hai nhị vị tiểu thơ
Con quan Binh bộ (5) hiện giờ thoát ra
Nghệ An đến đó quê nhà
Tôi thường thơ tín vào ra với nàng.
Tôi thương Thái Úy trung cang
500. Cùng tôi muốn kết đá vàng chi giao
Chẳng qua không nợ nần nhau
Nên duyên cầm sắc tôi trao cho người,
Trong lòng luống mãi hổ ngươi
Xin Hoàng Thái Úy chọn người thế hôn,
Phận tôi là gái khuê môn
Muốn về Thanh Hóa cầu hôn một nàng.
Đình Ái rằng hỡi Oanh Vàng
Đem ai mà thế việc nàng với tôi.
Oanh Vàng kể rõ khúc nôi
510. Con quan Binh bộ mồ côi song đàng,
Hiện giờ còn ở Nghệ An
Nương cùng bá phụ gia đàng bấy lâu.
Một nàng là Phạm Bảo Châu
Một nàng Thế Thượng báu mầu lắm đa,
Thái Úy mà được giao hòa
Trong hai nàng ấy được mà một cô,
Thì là xã tắc cơ đồ
Nhà Lê tông miếu mả mồ vẹn nguyên,
Nếu không tôi sợ chẳng yên
520. Dần dần họ Mạc tiếm quyền hết trơn
Họ Lê còn nước ngậm hờn
Thiếp nhờ Thái Úy ra ơn dùm nào,
Có quan Tiết Chế quyền cao
Phò Lê Chiêu Tông thẳng vào Nghệ An
Nguyễn Kim tên tộc rõ ràng
Ít lâu lại đến vấn an tôi hoài,
Nên tôi mới rõ việc ngoài
Nhờ quan Thái Úy tiếp tay với nào
Trước là giúp sức Lê trào
530. Sau tầm Châu Thượng chi giao kết tình.
Đình Ái rằng chẳng ai kình
Với Lê Công Chúa tài tình hết đa!
Nói năng nhỏ nhẹ hiền hòa
Cẩn ngôn mỹ hạnh con nhà Đế vương
Đủ tài thi họa văn chương
Khuôn thiên nguyệt thẹn hoa nhường nên xinh,
Từ bên Trung Quốc đế kinh (6)
Vào đây làm khách si tình là tôi.
Oanh vàng rằng Thái Úy ôi
540. Bảo Châu tài sắc như tôi ngài à
Thượng thì võ nghệ giỏi đa
Binh thơ đồ trận tài ba rất nhiều
Vốn không có vẻ mỹ miều
Bởi vì nữ tướng có nhiều oai phong.
Hai người đang nói viễn vông
Phúc đâu hai gái má hồng hiện ra,
Thưa rằng Công Chúa hoàng gia
Thân vàng chày bấy (7) có ngày yên chăng
Đường xa ngàn dặm phăng phăng
550. Vâng lời bá phụ về Thăng Long thành,
Trước là coi Mạc Đăng Doanh
Làm Vua có vẻ hiền lành hay hung
Sau là vào tận hậu cung
Thăm Lê Công Chúa trào trung thế nào,
Mười hôm tôi ở lại trào
Ban ngày ẩn núp đêm vào nơi đây
Lục cùng nội cỏ chòm cây
Các cung các viện đông tây đều nhìn,
Công nương sao chẳng thấy hình
560. Không ngờ đêm vắng tâm tình chốn mô
Gã này Trung Quốc mới vô
Tên Hoàng Đình Ái kinh đô Minh trào,
Công nương trò chuyện quân Tàu
Để tôi thử một đường đao coi là.
Nói rồi liền tuốt kiếm ra
Oanh Vàng cản lại phôi pha đuôi đầu:
Đình gươm hỡi Phạm Bảo Châu!
Tay ôm Đình Ái tay thâu gươm liền.
Tiểu thơ hãy khá ngồi yên
570. Để tôi kể nỗi sự duyên việc nhà.
Cám ơn Lễ Bộ tuổi già
Vì tôi sai cháu sang qua thăm chừng
Đây không phải chốn ba quân
Phạm thơ chớ có lẫy lừng làm oai,
Nếu Châu mà chẳng nương tay
Thì xin chém hết cả hai với nào,
Tôi là Công Chúa phẩm cao
Đình Ái là kẻ nước Tàu Trung Nguyên
Nếu nghi tôi có tình riêng
580. Với Hoàng Đình Ái chẳng kiêng phép nhà
Thì nhờ Châu cứ xuyên qua
Hai tôi xin chết làm ma Lê trào.
Thượng rằng Châu thiệt tầm phào
Hãy quỳ chịu tội hỗn hào cho xong,
Em là phận gái má hồng
Đến thăm Công Chúa thì lòng hiền lương,
Có đâu hớn hở đao thương
Người đang đứng trước công nương anh hào
Dù cho chiến tướng hay Tàu
590. Cũng là thượng khách quý cao nhành vàng,
Chẳng bàn chuyện nước chuyện quan
Cũng là tính chuyện giang san cột rường.
Châu liền quỳ lạy công nương
Tánh tôi thấy chuyện phi thường ra tay,
Công nương là gái trang đài
Vốn không như thể gái ngoài thứ dân,
Gã này là kẻ nam nhân
Vườn hoa dạo gót dạo sân cũng kỳ
E là những thói nam nhi
600. Của Tào Mạnh Đức (8) gạt thì Nam ta.
Đình Ái liền đứng lui ra
Khỏi tay Công Chúa mới là nói ngay:
Công nương vừa nhắc gái tài
Bảo Châu có phải cô này hay không?
Oanh Vàng rằng thật má hồng
Tôi vừa nhắc đến con giòng trâm anh
Ấy duyên túc trái trời dành
Cho quan Thái Úy gái lành tốt tươi.
Đình Ái nghe nói liền cười
610. Tôi không võ nghệ sợ người chẳng tha.
Oanh Vàng rằng thói đàn bà
Một gươm ra mắt gọi là cố nhân
Nếu mà hai họ kết thân
Má hồng sánh với văn nhân cũng mầu,
Cô em là Phạm Bảo Châu
Cô chị Thế Thượng tài thâu đủ dùng
Con quan ngự sử Phạm Dung
Vợ chồng sớm đã quy chung (9) lâu ngày,
Nhà sanh hai gái một trai
620. Trai làm phó sứ Vua sai qua Tàu
Kế sanh nội loạn binh đao
Phó sứ chưa biết ngày nào hồi bang,
Nam ta còn lại hai nàng
Nương cùng bá phụ Nghệ An quê nhà.
Tôi thường muốn bước chân ra
Nghệ An đến đó tầm nhà Bảo Châu
Lòng riêng nhã ý mưu cầu
Chiêu binh đánh Mạc mà thâu sơn hà,
Nước non này của Lê gia
630. Mạc dành ngôi vị lòng mà sao yên
Muốn thâu cho được mối giềng
Của Vua Lê Lợi tổ tiên dựng gầy,
Võ thì hai chị em này
Tham mưu thì có tôi đây lãnh phần
Tôi mà ra mắt muôn dân
Định mưu đánh Mạc mười phần vạn an.
Đình Ái rằng hỡi Oanh Vàng
Hãy về trướng phụng màn loan cho rồi
Muôn điều tạm gửi cho tôi
640. Sẽ hy sinh mạng đắp bồi non Nam.
Canh khuya thức trắng luận đàm
Quốc Công (10) hay được chẳng kham đâu là
Công nương còn bận chồng nhà
Chồng làm Tiết Chế Mạc gia đương triều
Nếu hay Công Chúa luận điều
Làm gì thì cũng ít nhiều quở răn (11)
Nếu người tưởng nghĩa xích thằng
Thì người nhỏ nhẹ nói năng la rầy,
Như người mà có đến đây
650. Gặp tôi ắt phải nọ này ghen tuông,
Nếu người hành hạ công nương
Mặt nào tôi ngó quân vương Minh trào (12).
Xin nàng trở lại phòng đào
Cùng quan Tiết Chế ngọt ngào nhỏ to
Rỉ tai kể hết vai trò
Hãy nhìn tận mặt thăm dò tâm trong
Nếu quan Tiết Chế có lòng
Phò Lê diệt Mạc thì không hệ gì.
Lấy theo hiện pháp mà suy
660. Bỉnh Khiêm đỗ trạng đơn trì Mạc gia
Tức quan của Mạc nàng a
Phải trung với Mạc lẽ là tự nhiên.
Còn tôi là khách Trung Nguyên (12)
Mưu thần định đoạt giang sơn cõi bờ
Tôi không chém tướng đoạt cờ
Định mưu làm tướng mà chờ nội công
Vào đây vừa hội mây rồng (13)
Nên vào ứng cử thử công sách đèn,
Chẳng ngờ vào cửa kẹt then
670. Làm quan với Mạc phận hèn ngẩn ngơ
Minh trào làm chức thượng thơ
Làm quan Hình Bộ làm ngơ chẳng làm,
Để chân vào tận nước Nam
Chức quan Thái Úy nên làm mà chơi
Lúc nào tôi cũng thảnh thơi
Nay vui nên mới hết lời nói ra.
Trước ngày tôi định ứng khoa
Ngọ môn công quán xem qua đồ hình
Của Vua nhà Mạc truy binh
680. Có treo mấy bức đồ hình công nương
Mắt trong tuyệt sắc má hường
Nên tôi mắc bịnh Tề vương (14) nặng nề.
Đồ hình nhà Mạc có phê
Đây là Công Chúa nhà Lê Oanh Vàng
Nếu ai mà thấy được nàng
Thì Vua nhà Mạc phong quan Hộ hầu (15),
Tôi nhìn bức tượng giây lâu
Về mang phải bịnh lo rầu ngẩn ngơ
Anh hùng không lẽ ngó lơ
690. Phải vào ứng cử thời cơ cho tường (16).
Khi tôi vừa đến hội trường
Có người bắt dẫn công nương đến trào
Chúa Mạc đứng dậy hỏi chào
Xem như thủ túc đồng bào đệ huynh
Lòng riêng tôi lại giật mình
Oanh Vàng đẹp tựa như hình trong tranh,
Lại e cho Mạc Đăng Doanh
Thấy nàng sắc đẹp nên đành tấn cung,
Không ngờ có cụ Đăng Dung
700. Bảo cho Doanh phải phục tùng họ Lê
Quan xưa người cũ mới về
Việc trào hành sự theo Lê chỉ truyền
Giòng Lê lớn nhỏ để yên
Không hề chém giết phong quyền chức cao.
Nên khi Công Chúa trở vào
Đăng Doanh nhỏ nhẹ ngọt ngào mến thương,
Lại phong làm ngự muội nương
Ra vào thong thả cung chương các bà
Vui lòng tôi mới ứng khoa
710. Mong ngày hội kiến vườn hoa Oanh Vàng,
Không ngờ giữa lúc Mẫu tang
Trăm năm một nghĩa đá vàng không phai,
Không dè ông tạo thày lay
Chúa Mạc lại gả nàng rày cho Khiêm,
Làm cho tôi phải đứng yên
Tài tôi mà sánh với Khiêm kém nào
Thua Khiêm vì giống người Tàu
Chớ văn với võ tôi nào kém chi,
May mà hội ngộ tương tri
720. Kể cho rõ sự kẻo nghi bên lòng
Vì không lá thắm chỉ hồng
Tôi nguyền hết dạ gánh gồng giang san
Đem nền xã tắc vững an
Thu hồi non nước Oanh Vàng trị yên,
Đã là không nợ tiền khiên (17)
Xin quỳ dưới gối nghe truyền muôn năm
Dù cho một lỡ hai lầm
Một lời đã hứa ngàn năm vẫn còn
Trong khe nước chảy đá mòn
730. Nhưng lời tôi hứa vẫn còn không phai.
Rạng đông chúa Mạc ngồi ngai
Tôi xin từ chức lui hài phương xa
Đi tìm được cựu Lê gia
Phò Lê diệt Mạc mới là trượng phu,
Ra tài rõ mặt sĩ nhu
Kẻo lòng trắc ẩn thiên thu ngậm hờn,
Chẳng ham lớn chức cao quờn
Lúc nào cũng nghĩ oán ơn cho tròn
Làm người sống với nước non
740. Phải làm sao để danh còn núi sông.
Thế Thượng rằng quá viễn vông
Ba tôi (18) xin phép chào ông lui về.
-
CHÚ THÍCH
1. Hoàng Đình Ái thương thầm nhớ trộm công chúa Lê Oanh Vàng.
2. Thái Úy: chức của Hoàng Đình Ái lúc bấy giờ.
3. Công chúa Lê Oanh Vàng là cháu đời thứ 5 của vua Lê Lợi.
4. Phạm Bảo Ngọc: quan Lễ bộ nhà Lê.
5. quan Binh bộ nhà Lê.
6. Hoàng Đình Ái xuất thân là người Trung Hoa, được nhà Minh cử sang nước Nam và làm quan dưới triều Lê-Mạc.
7. Chày bấy: từ ấy đến giờ.
8. Tào Mạnh Đức: Tào Tháo.
9. Quy chung: đã mất.
10. Quốc Công: Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm.
11. Quở răn: trách mắng.
12. Minh trào: triều đình nhà Minh.
13. Hội mây rồng: Khoa thi do nhà Mạc tổ chức 3 năm một lần.
14. Bịnh Tề vương: ý nói bệnh tương tư.
15. Sau khi nhà Mạc truất phế vua Lê Chiêu Tông, vua và em gái là công chúa Lê Oanh Vàng chạy lánh về phương Nam. Mạc Đăng Dung treo thông cáo truy nã và treo thưởng cho người bắt được nhà vua và công chúa. Đến năm 1525 Mạc Đăng Dung truy đuổi vào Thanh Hóa, bắt được Lê Chiêu Tông và Lê Oanh Vàng dẫn về Thăng Long.
16. Hoàng Đình Ái vì yêu thương công chúa Oanh Vàng, nên có ý định đăng quan và tìm cách gặp được công chúa.
17. Nợ tiền khiên: duyên nợ tiền kiếp.
18. Ba tôi: 3 người đang có mặt gồm Oanh Vàng, Thế Thượng và Bảo Châu.
-
CÂU CHUYỆN VỀ NGUYỄN BỈNH KHIÊM
KẾ HOẠCH BÍ MẬT NUÔI DƯỠNG HOÀNG TỬ LÊ DUY BANG
Oanh Vàng trở lại phòng huê
Hai nàng nối gót theo kề hỏi han,
Đã nghe người nói rõ ràng
Bỉnh Khiêm đã cưới Oanh Vàng lâu nay
Nhân sao vắng vẻ trong ngoài
Hai tôi chẳng thấy mặt mày tân lang,
Hay là đã bị phũ phàng
750. Cứ điều nói thiệt tôi toàn sự duyên
Nếu mà chúa Mạc ỷ quyền
Gả cho Tiết Chế ép duyên sắc cầm
Nên quan Tiết Chế chê thầm
Chẳng vui duyên mới để tâm riêng cười
Tánh tôi chẳng mến những người
Kiêu sa nết hạnh dễ ngươi muôn nhà.
Oanh Vàng liền mới phân qua
Quốc Công vốn thiệt hiền hòa tu mi
Nói năng nhỏ nhẹ nhu mì
760. Chuyện chi tôi muốn cũng tùy ý tôi,
Còn điều hiệp cẩn giao bôi
Tôi xin thong thả cho tôi năm này
Lắm khi cười gió giỡn mây
Những điều hoa nguyệt đêm chầy thì không (1).
Ba người đang nói viễn vông
Bỉnh Khiêm liền khoát cửa phòng bước vô,
Mắt nhìn tường tận ba cô
Hai cô này lạ lại vô làm gì?
Ông rằng cả bọn nô tỳ
770. Nếu phu nhân có chuyện gì xảy ra
Các ngươi chắc phải ra ma
Có người lạ mặt cho ta hay liền,
Có đâu cả bọn ngủ yên
Để cho Công Chúa sầu riêng canh chầy.
Oanh Vàng mới nói như vầy
Phu quân đêm vắng đến đây chuyện gì.
Quốc Công rằng hỏi lạ kỳ
Nhà tôi tôi ở hỏi chi vậy à
Vợ tôi tôi đến lân la
780. Để nghe thức ngủ giấc hoa thể nào,
Nhà tôi tôi cứ ra vào
Muốn đi ai cấm muốn vào ai ngăn.
Oanh Vàng liền mới nói rằng
Phu quân giận thiếp nói năng nặng lời
Lâm phòng chàng hãy nằm ngơi
Thiếp kêu cung nữ quạt hơi cho chàng,
Nói rồi Công Chúa lẹ làng
Đỡ chàng nằm xuống ngọa sàn vừa xong
Gượng cười nhỏ giọt mắt hồng
790. Bỉnh Khiêm xem thấy gạn lòng hỏi han,
Công nương nước mắt hai hàng
Buồn chi nên nỗi Oanh Vàng hiền thê
Đêm nay tôi đến hầu kề
Để thăm sức khỏe hiền thê thế nào,
Không lòng ấp mận ôm đào
Điều chi mà khóc nói mau coi là
Đêm về đã hết canh ba
Sao còn thức trắng chẳng mà nghỉ ngơi,
Hai nàng nào lạ đến chơi
800. Nói cho tôi biết đừng lời giấu quanh
Từ ngày kết nghĩa ba sanh
Luôn nhìn hiền phụ long lanh lệ nhòa,
Nàng cùng chúa Mạc một cha
Hay em chú bác nói mà tôi hay
Từ ngày kết nghĩa trúc mai
Nàng rằng nàng bận còn ngày mẫu tang,
Tôi đành riêng nể tình nàng
Bậc quân vương trọng việc tang nàng à
Dù em khác mẹ một cha
810. Mẹ nàng như thể mẹ mà Đăng Doanh,
Nhân sao chúa Mạc lòng đành
Bắt nàng xuất giá tiến hành hôn phu
Luôn nghi nên dạ rối bù
Một ngày kết nghĩa thiên thu vẫn còn
Lòng tôi luôn mải héo von
Tôi nghi hiền phụ tình còn dấu quanh,
Lúc nào tôi cũng dòm hành
Giả làm lính gác đứng canh cửa ngoài
Ban ngày áo mão cân đai
820. Ban đêm làm lính gác ngoài công viên (2).
Đêm nào hiền phụ ngủ yên
Tôi về thảo sách một thiên ba nghìn
Đêm nào hiền phụ lộ trình (3)
Tôi theo dõi gót mà rình luôn luôn
Nhưng chưa rõ nổi ngọn nguồn
Nên đành hỏi lại tấn tuồng mấy thiên.
Oanh Vàng nghe nói ngạc nhiên
Cái tên lính gác chồng hiền của ta!
Ban đêm ta cứ vào ra
830. Luôn luôn chàng cứ bẩm bà xin vâng,
Ngỡ là tướng sĩ ba quân
Nào hay là đức lang quân trá hình,
Đêm về chàng gác cửa dinh
Ngỡ chàng hớn hở vui tình trăng hoa
Bên chàng đã có bốn bà
Nào hay chàng gác cửa nhà công nương,
Mỗi khi ta bước ra đường
Ắt chàng theo dõi tận tường chẳng sai
Thôi thì cứ thiệt nói ngay
840. Tùy chàng thương ghét giấu hoài thất công.
Nghĩ rồi ngồi ghé gần chồng
Thiếp đây vốn thiệt con giòng Vua Lê
Mấy anh của thiếp vụng về
Đăng Dung soán nghiệp giống Lê tiêu tàn,
Anh thiếp lẩn trốn Hà Phan
Mẹ thiếp chúa Mạc chém ngang rơi đầu,
Cung nhân nhiều ả thảm sầu
Ai trung Mạc chém đứt đầu còn chi.
Thiếp là phận gái nữ nhi
850. Vì là sợ chết chạy đi thí càn
Không hay bờ vực lối đàng
Đi hoài chẳng khỏi đền vàng cung vi,
Mười hôm đói khát lội đi
Một mình đi mãi chẳng thì nghỉ ngơi
Phúc đâu có kẻ ngỏ lời
Hỏi rằng có phải nàng thời công nương
Phải thì người sẽ chỉ đường
Thiếp mừng nên mới tỏ tường nguyên do,
Nào hay mưu trước khó dò
860. Người liền dẫn thiếp nạp cho Mạc triều
Chúa Mạc từ tốn ngọt ngào
Vỗ về kính mến rỉ rao ban truyền,
Nay người định đoạt nợ duyên
Thiếp cùng Tiết Chế ước nguyền ba sanh.
Mừng riêng đã được duyên lành
Ngặt non nướcViệt quẩn quanh trong lòng
Thiếp chưa biết được ý chồng
Làm sao dám kể đục trong nỗi nhà,
Thường đêm để bước chân ra
870. Cấm cung còn có một bà chị dâu
Bà này vẻ lịch rất mầu
Đăng Doanh dùng để làm hầu đêm xuân,
Thiếp luôn lưu ý thăm chừng
Cháu thiếp còn hỡi tuổi xuân chàng à
Cháu trai tuổi đã nên ba
Giòng Lê còn chút ruột rà bấy nhiêu
Giữ gìn dấu nhẹm tưng tiêu
Vì trai nên sợ Mạc triều giết đi (4).
Bỉnh Khiêm ông mới nói thì
880. Ta nàng là đạo xướng tùy phu thê
Sao không đón cháu nàng về
Đặng ta đây dạy có nghề văn chương,
Tệ chi lắm vậy công nương
Bấy lâu nàng chẳng phân tường chuyện chi
Lòng ta đây vẫn ngại nghi
Nay đà rõ việc ta thì mới hay,
Hai nàng này lạ con ai
Nói cho ta biết chẳng rày sao đâu.
Oanh Vàng rằng Phạm Bảo Châu
890. Con quan nhất phẩm công hầu nhà Lê
Anh người đi sứ chưa về
Mẹ cha sớm đã đến kề cửu nguyên (5),
Tiểu thơ nhị vị lương hiền
Chào người bằng một đường quyền nội công,
Vâng lời bá phụ thẳng xông
Hai người trở lại Thăng Long Mạc trào
Dọ thăm tin thiếp thế nào
Về cho bá phụ âm hao lãm tường,
Nay nàng vào tận phủ đường
900. Mới hay tiện thiếp tào khương đã thành
Nên còn chờ mãn giờ canh
Hai nàng liền mới ra thành hồi quy.
Bỉnh Khiêm nghe hết văn vi
Bèn đưa hai ả khỏi thì trào ca
Nhắn cùng lão bá quê nhà
Tôi chồng Công Chúa tên là Bỉnh Khiêm
Hôm nào bá phụ có tìm
Đến trào cứ hỏi Bỉnh Khiêm mà vào,
Tuy tôi làm tướng Mạc trào
910. Vợ giòng vương tước lẽ nào tôi quên
Bốn phương hào kiệt đứng lên
Tôi đây cũng muốn đáp đền non sông,
Hai cô chớ có ngại lòng
Về thưa với Phạm tôn ông lãm tường.
Thượng Châu từ giã lên đường
Bỉnh Khiêm trở lại công nương đón chào
Nay đà đã rõ lòng nhau
Thiếp xin quân tử chuyện nào khoan dung,
Nếu chàng đã sẵn lòng trung
920. Đừng điều nghi hoặc ngại ngùng chi chi
Khiêm rằng trống lệnh đến kỳ
Thiết triều chúa Mạc đợi thì bá quan
Ta xin tạm biệt với nàng
Đi chầu kẻo trễ muộn màng người nghi.
Nói rồi liền bước ra đi
Đến trào Tiết Chế bái quỳ tung hô
Chúa Mạc xem thấy liền hô:
Võ văn trào sĩ ra vô vui vầy
Đình Ái sao chẳng vào đây
930. Hay là thọ bệnh ốm gầy chi chăng?
Ngự lâm quân hãy đi phăng
Tới dinh Thái Úy rõ căn thế nào.
Đến nơi ngõ trước ngõ sau
Ngõ nào cửa cũng đóng rào kỹ cang
Ngự lâm rằng lệnh Thánh Hoàng
Triệu quan Thái Úy bệ vàng đến nơi.
Quân canh (6) rằng thật như lời
Quan tôi ngọa bệnh đúng thời ba hôm
Chẳng tin mở cửa lại dòm
940. Quan nhà thọ bệnh ba hôm nằm liều,
Từ mai cho đến xế chiều
Chiều cho đến sáng nằm liều chẳng đi
Không ăn không uống thứ chi
Chúng tôi nào có dám thì hỏi han.
Ngự quân trở lại vội vàng
Tâu cho chúa Mạc hoàn tòan sự duyên,
Chúa Mạc ban thửa lệnh truyền
Ngự y mau đến chữa chuyên coi là,
Ban cho bốn ả cung nga
950. Đến hầu Thái Úy bánh trà thuốc thang
Cung nga được lệnh Vua ban
Tranh nhau hầu hạ họ Hoàng ốm đau,
Ngự y mang thuốc đem vào
Đình Ái uống hết thứ nào chẳng chê,
Uống rồi cứ việc nằm mê
Chúa Mạc ngự đến vỗ về hỏi han
Mạc trào nhiều việc đa đang
Khi không Thái Úy lại mang bệnh tình
Trẫm mong non nước thanh bình
960. Lại nghe xứ xứ đao binh khởi loàn.
Đình Ái phủ phục vội vàng
Muôn tâu cùng lệnh Thánh Hoàng chớ nghi
Hạ thần bệnh chẳng hề chi
Nhọc công Bệ hạ ngự y cho vào,
Làm người trong cảnh trần lao
Khó mà tránh được ốm đau dãi dầu
Xin Chúa đừng có lo âu
Hạ thần cảm đức ơn sâu biển trời.
Vua rằng Trẫm muốn dạo chơi
970. Cùng khanh để bước khắp nơi dinh tiền
Khanh người gốc ở Trung nguyên
Trẫm là Vua mới nắm quyền giang san
Nên chưa hiểu ý các quan
Sợ người còn mến họ hàng nhà Lê
Nên Trẫm lo ngại đủ bề
Cùng khanh Trẫm muốn ngự về các dinh
Để xem cho rõ nhân tình
Biết ai loạn nghịch đặng mình phòng thân,
Các dinh nhất phẩm đại thần
980. Trẫm đây ý muốn để chân đến nhà
Chẳng hay có được chăng là
Làm Vua có luật đến nhà quan chăng? (7)
Đình Ái quỳ xuống tâu rằng
Chúa tôi xum hiệp chi bằng nghĩa ơn
Vua mà ý muốn dời chân
Phải cho biết trước ngôi trời giá lâm
Phòng khi nhiều kẻ lỗi lầm
Chẳng hay bệ hạ giá lâm đến nhà.
Cúi xin bệ hạ thứ tha
990. Cho quân phi báo đến nhà Quốc Công.
Từ ngày tử ấm thê phong
Hạ thần chưa rõ Quốc Công thế nào.
Chúa Mạc truyền lệnh mau mau
Nay Hoàng Thái Uý hết đau mạnh lành
Truyền cho nam Quốc Công khanh
Tiếp nghinh thánh giá bôn hành đến dinh.
Bỉnh Khiêm nghe lệnh giật mình
Hôm nay chúa Mạc vào dinh chuyện gì
Truyền cho Công Chúa năm vì
1000. Phải ra trước ngõ mà quỳ tiếp nghinh,
Nay Chúa di giá đến dinh
Năm bà nghe lệnh cung nghinh Thánh Hoàng.
Chúa Mạc vào giữa công đàng
Đình Ái hộ giá Thánh Hoàng oai nghi
Vai mang bảo kiếm tru di
Mình mang áo giáp chân đi chiến hài (8),
Bỉnh Khiêm xem thấy lạ thay
Vua nay di giá đến ngay dinh mình.
Vua thì ra vẻ thật tình
1010. Quan hầu đường thể ra binh trận đồ,
Chúa Mạc cất tiếng liền phô
Trẫm đi thăm viếng Hoàng Cô thế nào
Từ ngày nghĩa kết duyên trao
Đến nay hạnh phúc thế nào cho hay,
Trẫm mong Tiết Chế sanh trai
Cha lành con cũng giỏi hay bực hiền.
Bỉnh Khiêm quỳ xuống tâu liền
Từ ngày bệ hạ định duyên châu trần
Đã nhờ bệ hạ ban ân
1020. Oanh Vàng nay đã được phần cấn thai
Hằng mong Công Chúa sanh trai
Đặng phò cửu phụ long ngai vững bền
Ngàn năm xã tắc vững nền
Biên thùy yên lặng bốn bên phục tùng
Cha trung con cũng chí trung
Nguyện phò bệ hạ thủy chung vẹn bề.
Chúa Mạc nghe tấu cười hề
Mừng khanh hạnh phúc đã kề bên nhau
Chẳng hay Công Chúa thai bào
1030. Đến nay đây đã được bao trăng rồi?
Bỉnh Khiêm tâu rõ khúc nôi
Sáu trăng đã đủ vợ tôi tính tròn
Ngày nào tôi được nhiều con
Đến trình bệ hạ cung son lãm tường.
Chúa Mạc liền gọi công nương
Nay đà ngự muội tào khương (9) đượm nồng,
Trẫm ban đôi xuyến lưỡng long
Khi nào ngự muội sổ lòng một trai
Xuyến này đeo cả hai tay
1040. Để cho cháu Trẫm tới ngày lớn khôn
Ra vào quanh quẩn ngọ môn
Quan quân rõ mặt đích tôn bệ rồng.
Ngự y Trẫm sẽ sắc phong
Bảo thai đem đến để phòng thai nhi.
Bỉnh Khiêm chồng vợ đều quỳ
Cám ơn Thiên Tử đoái hoài bề tôi,
Xuyến vàng lãnh cất xong rồi
Oang Vàng nghe nói mồ hôi ướt đằm
Thật là Tiết Chế (10) ác tâm
1050. Báo tin với lệnh muôn năm thế này
Về sau tháng lụng ngày chầy
Làm sao sanh được cháu này cho Vua.
Đình Ái lòng chát dạ chua
Em Vua sắp có cháu Vua ra đời
Muốn về Trung Quốc mà thôi
Thượng Thơ Hình Bộ chức tôi vẫn còn.
Bỗng nghe Vua Mạc cười giòn
Trẫm lui về nghỉ cung son tức thì,
Vua cùng Đình Ái ra đi
1060. Oanh Vàng mới hỏi văn vi với chồng
Phu quân tâu với bệ rồng
Thiếp mang thai dựng thiệt không có rồi,
Vốn chưa hiệp cẩn giao bôi
Lại tâu thai dựng làm tôi ngại lòng.
Khiêm rằng hiền phụ chưa thông
Ta nàng kết nghĩa vợ chồng đến nay
Vốn chưa có đủ trăm ngày
Tâu thai sáu tháng Vua rày hân hoan
Phòng khi ta đỡ cho nàng
1070. Về sau đón cháu dinh đàng mà nuôi (11)
Thì khai con đẻ của tôi
Nào ai lưu ý nàng ôi có tường
Ta nghe nàng nói chán chường
Con Vua Chiêu Tông còn nương trong trào
Mai kia có chuyện thế nào
Thì đem Hoàng Tử để vào dinh ta,
Nếu mà tôi mở miệng ra
Là điều ích nước lợi nhà chẳng sai
Lòng tôi một mực thẳng ngay
1080. Nàng đừng Ái ngại chuyện thai trong lòng,
Muốn ra cứu giống cứu giòng
Có chồng có chửa mà lòng hổ ngươi
Thế gian ai dám chê cười
Cớ sao hiền phụ hổ ngươi chuyện này.
Oanh Vàng rằng chẳng riêng tây
Chàng không tâu bốn cô này có mang
Lại tâu có một Oanh Vàng
Làm sao thiếp khỏi ngỡ ngàng ngại nghi.
Khiêm rằng hiền phụ thiếu suy
1090. Vua cần hạnh phúc của thì hai ta
Mấy nàng này kẻ lạ xa
Vua dù phong chức cũng thà như không,
Có nàng Vua mới lo phòng
Tôi tâu như thế cho lòng Vua an.
Nay tôi xin tính với nàng
Hãy đem Hoàng tử Duy Bang về nhà
Bảo rằng nàng đã sanh ra
Một trai tuấn tú thiệt là khôi ngô.
Bốn nàng liền cũng nói vô
1100. Phu quân định bước kế mô rất tài
Chúng tôi buồn bã ngày ngày
Ước chi có cháu chuyền tay ẵm bồng.
Phúc đâu tỳ nữ vào trong
Thưa bà ngoài cửa có ông ăn mày
Vai mang một cái bị dài
Bảo tôi vào gọi bà rày ra mau,
Bỉnh Khiêm nghe nói ngạt ngào
Hối công nương phải ra mau dinh ngoài
Đặng coi cái lão ăn mày
1110. Nói chi cho biết coi ai trá hình.
Oanh Vàng ra tận cổng dinh
Mới hay nhũ mẫu trá hình đến đây
Nàng rằng bổn bộ dinh này
Hậu dinh còn thiếu vườn cây chưa trồng
Nếu mà liệu sức lão ông
Liệu bề vào ở tưới trồng được chăng.
Nhũ mẫu bà mới nói rằng
Tôi còn sức mạnh mần ăn phi thường
Muốn xin vào ở lập vườn
1120. Chẳng hay Tiết Chế có thương phận già
Oanh Vàng rằng lão gia gia
Vẫn còn kính trọng cụ già trẻ thơ
Xin ông đừng có nghi ngờ
Phu quân của thiếp đang chờ dinh trung
Mời ông nối gót theo cùng
Vào dinh Tiết Chế trọng dùng lắm đa
Chồng tôi dù bực quan nha
Vẫn lòng đại đức hải hà thinh thinh.
Nói rồi dẫn đến hậu dinh
1130. Nhũ bà mở đãy ra trình hoàng nhi,
Đây là con của thứ phi
Đây là ấn tín của thì quân vương
Tôi vâng lệnh của nương nương
Đem giao Hoàng Tử công nương nuôi dùm.
Chúa Mạc cử chỉ lạ lùng
Dẫn Hoàng Đình Ái vào cung chuyện trò
Thứ phi bà vẫn âu lo
Thấy Vua như thế nghi cho chuyện gì,
Vừa rồi mới chém cung phi
1140. Vì nàng trăng gió nên đi ra ngoài
Đình Ái giám sát chém ngay
Mới vào nội các của rày Thứ phi
Chúa tôi bàn luận vân vi
Nương nương thấy vậy ngại nghi trong lòng,
Sai tôi đem mão cửu long
Với đem ấn tín Thái Tông di truyền
Giao cho Công Chúa Trạng nguyên
Với giao Hoàng tử lưu truyền làm tin (12).
Bỉnh Khiêm vội vã nghiêng mình
1150. Tay nâng ấn tín tay nghinh tử hoàng
Bốn bà hết sức ngỡ ngàng
Nhìn mặt tử hoàng giọt lệ nhỏ sa
Nhân sao lại ngộ chả cha
Tử hoàng mặt giống quan nhà chẳng sai.
Bỉnh Khiêm chúm chím cười dài
Rõ ràng hiền phụ đến ngày khai hoa
Tuy là Hoàng Tử nên ba
Mai tôi vào tậu vợ nhà mới sanh
Các quan văn võ trong thành
1160. Nào ai tìm hiểu ngọn ngành mà chi
Sắm màn nhung đỏ tức thì
Để cho Hoàng Tử phòng khi Vua đòi
Sẽ bưng ra trước Vua coi
Không ngàn thước lụa cũng thoi vàng ròng.
Oanh Vàng rằng chẳng có xong
Nếu Vua nhìn kỹ đầu ông phải lìa
Khi quân tội lớn danh bia
Hại lây việc cả bên kia đang chờ.
Khiêm rằng hiền phụ ngẩn ngơ
1170. Mạc không lưu ý ngày giờ chi đâu
Người đang bận việc lo âu
Mới ngồi long án hơi đâu nghi ngờ,
Tử hoàng nhà lạ ngẩn ngơ
Không cười không khóc còn khờ chẳng sao
Mai tôi tâu giữa Mạc trào
Rằng công nương đã thai bào khai hoa
Vua liền sắc chỉ ban ra
Đến mừng song hỷ cho nhà ta đây,
Võ văn tựu đến dinh này
1180. Tôi bưng mâm đỏ ai rầy ai thông
Nhà sanh một trẻ đầu lòng
Tự tay tôi ẵm tôi bồng ai hay
Nếu không tâu việc sanh thai
Sau này Vua Mạc biết hay nghi ngờ
Tốt hơn tâu trước bây giờ
Phòng sau khỏi sự nghi ngờ nàng ôi
Nói rồi đội mão kim khôi
Vào trào tâu rõ khúc nôi Vua tường.
Oanh Vàng phận thủ trung ương
1190. Nhờ ơn bệ hạ xót thương ban truyền
Đêm hôm giờ tý đinh niên (13)
Ngày dần tháng mẹo nàng liền khai hoa
Một trai gương mặt sáng lòa
Muôn tâu bệ hạ do hà tường tri
Chúa mạc mừng rỡ xiết chi
Muội nương của Trẫm sanh mà cháu trai
Ngự trù mau khá tiệc bày
Trẫm cùng văn võ vui say ăn mừng.
-
CHÚ THÍCH
1. Đây là kế sách của công chúa Lê Oanh Vàng, ngoài mặt thì đồng ý là vợ Nguyễn Bỉnh Khiêm theo lệnh của Mạc Đăng Doanh, nhưng tìm cách kéo dài thời gian chờ đợi thời cơ, tập hợp lực lượng phục hưng nhà Lê.
2. Lời tâm sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm rất phù hợp với nhiều chi tiết khác trong bài thơ này, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn xuất hiện bất ngờ chỗ công chúa.
3. Lộ trình: ý nói đi đây đi đó.
4. Công chúa Oanh Vàng lui tới chăm sóc cháu trai 3 tuổi, dòng máu nhà Lê.
5. Cửu nguyên: nơi chín suối.
6. Quân canh: lính canh
7. Chi tiết vua Mạc Đăng Doanh hỏi ý kiến Hoàng Đình Ái là rất đúng với lịch sử, vì Hoàng Đình Ái là vị tướng tài có nhiều công trạng, và kiến thức rất mực uyên bác, rất giỏi tham mưu.
8. Mình mang áo giáp, chân đi chiến hài: Thời kỳ chiến tranh liên miên của các phe phái, vua luôn chuẩn bị áo giáp bào sẵn sàng đối phó.
9. Tào Khương: nghĩa Tào Khang, ý nói nghĩa vợ chồng.
10. Tiết Chế: Nguyễn Bỉnh Khiêm.
11. Một kế hoạch hoàn hảo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đưa con trai của vua Lê Chiêu Tông về nhận là con mình, để dễ bề chăm sóc.
12. Bà lão ăn mày xuất hiện và giao Hoàng tử Lê Duy Bang cho thấy khả năng tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
13. Tháng Mẹo, Đinh niên: nhằm tháng 2 năm Đinh Dậu 1537.
-
CHIÊU BINH MÃI MÃ
Đình Ái trong dạ nghi nan
1220. Lộc Vua ban thưởng các quan ân trời
Bãi trào văn võ nghỉ ngơi
Đình Ái áo mão để thời trong dinh
Giả làm một gã thư sinh
Đêm hôm vắng vẻ một mình ra đi
Đi vào tận xứ Sầm Nghi (1)
Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm mời thì hỏi han:
Chẳng hay người ở Hà Phan (2)
Đến đây ắt có luận bàn việc chi?
Đình Ái liền tỏ văn vi
1230. Nhân ngày rảnh rỗi tôi đi du nhàn
Đến đây nhìn thấy công đàng
Chiêu hiền đãi sĩ mười phan anh hào
Nên tôi mới để chân vào
Tùy cơ tôi liệu bề nào giúp công
Võ thì tôi chẳng có thông
Văn thì tôi cũng nằm lòng lai rai.
Nguyễn Kim rằng cũng giỏi hay
Tôi đang chiêu mộ chẳng nài võ văn
Nếu người có chí hiệp lần
1240. Phò Vua giúp nước võ văn cũng dùng
Võ thì chấp chưởng binh nhung
Văn thì nội các cần dùng tham mưu,
Miễn là tráng sĩ lo ưu
Phò Lê diệt Mạc báo cừu đứa gian
Vậy thời tráng sĩ tạm an
Đợi ngày tuyển chọn văn ban thi tài.
Đình Ái ở được mười ngày
Xin cùng Trịnh Kiểm ra ngoài Nghệ An (3)
Ít hôm trở lại công đàng
1250. Trịnh Kiểm rằng chớ vội vàng ra đi
Ta luôn lưu ý ngại nghi
Tráng sĩ chắc có chức chi Mạc trào
Thiên đình rộng rãi lại cao
Nói năng chải chuốt ngọt ngào phép khuôn,
Sách binh thơ dạy ngọn nguồn
Những người khách lạ có tuồng nhiễu nhương
Đề phòng chớ khá xem thường
Chẳng hay tráng sĩ lo phương thế nào
Nếu không quan của Mạc trào
1260. Cũng tay dọ thám giặc Tàu a man
Thưa cùng nhạc phụ hoàn toàn
Bắt ra chém phứt cho an sau này.
Đình Ái mới nói như vầy:
Chém thì chịu chém tôi đây ngại gì
Làm tướng thì phải ngại nghi
Nhưng tôi chẳng có ý gì hết đa,
Tôi người không mẹ không cha
Ở bên Trung Quốc vào mà nơi đây
Định tâm lập nghiệp xứ này
1270. Nếu dùng tôi ở tại đây giúp tài,
Tôi xin ra tận cõi ngoài
Để tầm lương tướng giúp rày nhà Lê
Mười ngày tôi sẽ quay về
Một lời đã hứa chẳng hề sai ngoa.
Nguyễn Kim vừa mới nói ra
Tướng sĩ đi để tầm nhà của ai?
Ái rằng từ thuở xưa nay
Nhà Lê tan rã nhiều ngày lao đao
Quan trung nhiều kẻ tẩu đào
1280. Kẻ lo ẩn sĩ người vào diêm la,
Có quan Lại Bộ trốn ra
Tên Phạm Bảo Ngọc vốn nhà trung Lê
Muốn tầm cụ ấy mời về
Một lòng diệt Mạc phò Lê mới là.
Kim rằng tráng sĩ đi ra
Hãy mau trở lại ta mà đợi trông.
Đình Ái cứ việc thẳng xông
Đến nhà Bảo Ngọc gặp ông dạo vườn
Ngồi kề nhị vị cô nương
1290. Hai nàng hôm nọ tại vườn hoa viên,
Đình Ái còn hơi ngạc nhiên
Vào đây chưa biết dữ hiền ra sao.
Ái liền bước đến cúi chào
Bảo Ngọc xem thấy ngọt ngào hỏi han:
Tráng sĩ người ở Hà Phan
Chuyện chi mà đến gia đàng của ta.
Đình Ái rằng bạch cụ già
Cháu đây quê vốn tại tòa Thăng Long
Rỗi nhàn nên mới thẳng xông
1300. Đến thăm bá phụ thong dong chuỗi ngày,
Cháu tên Đình Ái xưa nay
Làm quan Thái Úy long ngai Mạc trào,
Riêng buồn cởi áo cẩm bào
Từ quan treo ấn đã bao trăng tròn,
Đường đi cách nước xa non
Chẳng ngờ hồng phúc cháu còn duyên may
Đến đây gặp cụ kịp ngày
Bảo Ngọc nghe nói dẫn ngay vào nhà.
Long thành cháu mới sang qua
1310. Chẳng hay Công Chúa thân ra thế nào
Từ ngày nội loạn lao xao
Lão e Công Chúa khổ lao thân vàng,
Đình Ái thuật lại rõ ràng
Công nương mới được nghìn vàng thưởng công,
Chúa Mạc hết sức chiều lòng
Vậy thì cụ chớ lo phòng điều chi.
Bảo Ngọc liền mới nói thì
Nhà bác hiện có hai vì tiểu thơ
Tài dư chém tướng đoạt cờ
1320. Bác đang lo liệu cậy nhờ mai sau,
Đàng xa cháu mới đi vào
Ở đây với bác cháo rau đỡ lòng
Cháu đà rời bỏ Thăng Long
Bác đây luống những hằng mong cháu à.
Đình Ái liền mới phân qua
Nguyễn Kim phò chúa chạy ra khỏi thành
Hiện nay nương xứ Sầm Bành
Chiêu binh mãi mã xây thành lập đô
Cháu đây muốn cụ lộ đồ
1330. Đến nơi hiệp lực giúp vô Lê trào,
Hai cô là gái má đào
Chiêu binh cháu sợ anh hào dễ khi
Chi bằng theo thuở theo thì
Đến phò Chiêu Tông chờ kỳ lập công.
Bảo Ngọc nghe nói vui lòng
Hiệp cùng hai cháu thẳng xông lên đàng.
Về đi về lại luận bàn
Bảo Ngọc mới hỏi họ Hoàng sạ duyên
Cháu đây tuổi đã quá niên
1340. Chẳng hay túc trái nợ duyên thế nào?
Đình Ái mới trả lời mau
Cháu mười tám tuổi chưa trao duyên tình
Chừng nào cháu lập gia đình
Sẽ mời bá phụ chén huỳnh vui say.
Bảo Ngọc ông mới tỏ bày
Bác có hai cháu nhi hài tuổi thơ
Chưa nơi kết nghĩa tóc tơ
Cháu xem vừa ý bác giờ gả cho,
Từ nay tùy cháu thăm dò
1350. Cưới em hay chị tùy cho chọn tài.
Đình Ái nghe nói vui thay
Cám ơn bá phụ đoái hoài xót thương
Cháu xin được cưới Châu nương (4)
Vì Châu giỏi cách múa thương (5) bác à.
Bảo Ngọc nghe nói cười xòa
Có chi kỷ niệm cho già làm tin
Gọi là xính lễ cưới xin
Có hay chẳng có cứ trình thẳng ra.
Đình Ái mới tỏ do hà
1360. Đây là vòng ngọc của nhà Trung nguyên
Vật này là vật gia truyền
Xin dâng bá phụ câu duyên sắc cầm,
Bảo Ngọc xem thấy mừng thầm
Như vầy là nợ trăm năm đá vàng.
Châu rằng tôi chẳng thuận thoàn
Vì người là kẻ tha bang nước ngoài,
Cháu không ưng thứ ngoại lai
Cháu xin bá phụ trả ngay cho người.
Bảo Ngọc nghe nói liền cười
1370. Cháu nào có biết tánh người cháu a
Người này tánh mạng thiệt thà
Cháu đừng nê cố thành ra mất lòng,
Từ đời Bàn cổ cha ông
Người nam tục gọi cha rồng mẹ tiên
Sách xưa Huỳnh Đế Hiên Viên (6)
Loài người do Đức Hoàng Thiên tạo gầy
Đừng phân chủng nọ tộc này
Ai nhiều đức tính xum vầy là nên.
Thượng rằng tiểu muội chớ quên
1380. Nước nam Đại Việt tuổi tên sáng lòa
Bá phụ tuổi lớn tác già
Định sao hay vậy cãi mà làm chi.
Về nói mà lại về đi
Phúc đâu đã đến biên thùy Sầm Châu (1),
Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm gật đầu
Khá khen Đình Ái giữ câu quy kỳ,
Chào quan Lễ Bộ Phạm Duy (7)
Tiểu thơ nhị vị phương phi má hồng
Đưa vào dọn quét thơ phòng
1390. Cho hai nàng ở dinh trong hậu đàng.
Bảo Ngọc liền mới hỏi han
Kể từ loạn nghịch trào đàng đến nay
Lão về điền lý cuốc cày
Nay nghe Đình Ái nói ngài chiêu binh
Cho nên lão mới lộ trình
Đến đây hiệp lực chống kình Mạc gia
Chẳng hay Bệ hạ thoát ra (8)
Ngài phò Lê chúa lão mà nào thông.
Lão xin bái yết mình rồng
1400. Nguyễn Kim mới bước vào trong hậu đàng:
“Phạm Duy người mới cải trang
Xưng là Bảo Ngọc tầm đàng đến đây
Tôi trung bệ hạ bấy chầy
Xin vào ra mắt Vua đây thế nào”.
Chiêu Tông truyền lệnh cho vào
Bảo Ngọc quỳ xuống mắt trào lệ rưng,
Thần vì trong cuộc loạn quân
Phải đành xa chúa mắt gừng nhỏ sa.
Chiêu Tông liền mới phán ra
1410. Nay quan Lễ Bộ tuổi già cao niên
Đàng đi xa thẳm sơn xuyên
Vẫn tìm đến Trẫm thảm phiền khá thương.
Nguyễn Kim tâu lệnh Quân vương
Tiểu thơ nhị vị đưa đường đến đây,
Vua cho ra mắt đủ đầy
Vua nhìn hai gái thơ ngây tủi lòng,
Ước chi còn ở Thăng Long
Đưa hai nàng đến tiêu phòng mới ưng
Nay còn trong cuộc loạn quân
1420. Nhờ hai nàng đến đỡ nâng vận thời.
Đình Ái lưu ý ngôi Trời
Hồi lâu Đình Ái ngỏ lời tâu qua:
Muôn tâu bệ hạ thứ tha
Tôi cùng Lễ Bộ một nhà quan văn
Xin cho thong thả ngày hằng
Đặng xem địa lý thiên văn ngày ngày,
Chiêu Tông rằng thật là hay
Cho hai người đến ngự đài thiên văn.
-
CHÚ THÍCH
1. Xứ Sầm Nghi: ý nói vùng Sầm Châu của nước Lào, núi non hiểm trở, căn cứ địa của nghĩa quân kháng chiến của Nguyễn Kim, phò vua Lê Chiêu Tông đang ẩn náu nơi đây.
2. Hà Phan: Thăng Long.
3. Ý định của Hoàng Đình Ái ra Nghệ An thăm quan Bộ Lễ Phạm Bảo Ngọc và hỏi thăm tin tức gia đình tiểu thơ Phạm Bảo Châu.
4. Châu nương: cô em Phạm Bảo Châu.
5. Múa thương: múa kiếm, ý nói đao thương kiếm kích, võ nghệ.
6. Huỳnh Đế Hiên Viên: Hiên Viên Hoàng Đế, vị Quốc Tổ của Trung Hoa.
7. Phạm Duy: Phạm Bảo Ngọc cải trang thành Phạm Duy để dễ bề trong việc đi lại.
8. Sự kiện vua Lê Chiêu Tông sợ thế lực nhà Mạc, trốn khỏi kinh thành chạy vào Thanh Hóa. Mạc Đăng Dung phế truất vua Chiêu Tông, đưa em của vua là Lê Cung Hoàng lên ngôi.
9. Đài thiên văn: để tính ngày tháng, ghi chép sự kiện.
-
VUA LÊ TRANG TÔNG CHUẨN BỊ XUẤT QUÂN
Bảo Ngọc quỳ xuống tâu rằng
1430. Cháu tôi tuy gái võ văn gồm tài
Nếu Vua khởi chiến nay mai
Xin cho hai cháu đi rày tiên phương.
Trịnh Kiểm xem rõ ngọn nguồn
Hai cô này xứng cậu Uông, cậu Hoàng (1),
Con riêng ta ở Nghệ An
Trịnh Tùng, Trịnh Cối (2) còn đang học hành
Bấy lâu nhạc phụ không rành
Nay ta kể rõ để tranh hai nàng,
Người này tuyệt sắc hồng nhan
1440. Lưỡng quyền đầy đặn nở nang mặt mày.
Chiêu Tông vừa mới phán rày:
Tiểu thơ mà có đủ tài tiên phương
Thì là Trẫm chắc nên tuồng
Phải cần thi võ Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng
Nếu như thua kém hai nàng
Trẫm ban sắc ấn hai đàng tiên phương
Một đàng Sầm Nứa, Sầm Nương
Một đàng đi thẳng đến đường Thăng Long.
Trịnh Kiểm nghe phán vui lòng
1450. Mới tâu chín bệ rõ thông việc nhà:
Muôn tâu bệ hạ hải hà
Con riêng thần có tài ba rất nhiều
Xin thi tài với Bảo Châu
Để tranh cái ấn công hầu tiên phương,
Trước kia thần ở Thăng Long
Làm quan túc vệ cho Hồng Đăng Dung (3)
Nhơn ngày sóc vọng các cung
Vợ thần bị Mạc Đăng Dung chém đầu
Nên thần sản nghiệp gồm thâu
1460. Dẫn hai trẻ nhỏ về âu quê nhà,
Nhân ngày đại kiết năm qua
Thần đây được lệnh nhạc gia mời vào
Thần cùng Ngọc Bảo duyên trao
Quê nhà hai trẻ cùng nhau học hành
Võ văn thao lược đều rành
Cúi xin bệ hạ lòng đành đoái thương.
Chiêu Tông nghe tấu tỏ tường
Sai quân túc vệ thẳng đường Nghệ An
Vào thôn Vĩnh Lộc gia trang
1470. Rước hai công tử hội tràng tuyển quân.
Trịnh Kiểm nghe lệnh lòng mừng
Trịnh Tùng, Trịnh Cối trung quân ứng hầu.
Đình Ái nói với Bảo Châu
Bá phụ đã định nên câu xích thằng
Mai đây thi võ thi văn
Khá tua cẩn thận cho bằng Trịnh gia,
Đây là người ở một nhà
Nhường nhau phúc chút chớ mà hại nhau,
Vua đang trông đợi anh hào
1480. Nếu nàng mà đủ lược thao gồm tài
Nếu Vua khán trận dở hay
Thì nàng tua khá trổ tài nữ nhi,
Còn như Trịnh Kiểm chủ trì
Nàng nên giả chước nương tùy nhẹ tay.
Châu rằng Đình Ái hỡi ngài
Lẽ nào Vua bắt thi tài Trịnh gia,
Tôi là phận gái quần thoa
Thì cùng nam tử khó mà xử phân
Nếu nhân thì thiếp lòng nhân
1490. Nếu cường thiếp trị trước sân võ đài,
Nếu không thi thố hết tài
Trận đồ ra đánh với trai đặng nào
Định chen vai với anh hào
Đình huynh lo ngại má đào chi đây.
Đình Ái mới nói như vầy:
Sợ nàng sức khỏe chưa đầy bao nhiêu
Trịnh gia mạnh bạo quá nhiều
Con nhà võ tướng học nhiều lược thao,
Nàng cùng chị Thượng má đào
1500. Con quan ngự sử văn hào xưa nay
Mẹ cha mất sớm cả hai
Bá phụ thì lại tuổi ngoài bảy mươi,
Văn thần vốn thiệt là người
Lấy ai dạy võ tuyệt vời cháu thơ
Những điều chém tướng đoạt cờ
Lòng tôi còn mãi ngẩn ngơ chưa bàn,
Đến đây to nhỏ với nàng
Giữ thân làm trọng ngàn vàng chẳng qua
Thân nàng như thể thân ta
1510. Cho nên ta phải lo xa trước ngày
Biết là thời vận rủi may
Phải đề phòng trước tương lai của mình,
Bá phụ định nghĩa bố kình (4)
Ta luôn lo sợ việc mình chẳng nên
Tướng thì gánh vác cung tên
Lời ta to nhỏ đừng quên hỡi nàng.
Châu rằng Đình Ái đừng bàn
Cái điều chồng vợ buộc ràng hai ta
Tuy là bá phụ lệnh ra
1520. Ba sanh đây đó cũng là nên duyên,
Những điều xã tắc mối giềng
Còn dân khóc khổ chưa yên nơi nào
Tôi còn lo giúp đồng bào
Trừ gian dẹp loạn giặc Tàu giặc ta
Ngày nào bình trị sơn hà
Là ngày sum hiệp hai ta sắc cầm (5),
Nếu còn giặc dã lấn xâm
Thì duyên để lại ngàn năm nối dài
Đừng ai nhắc nhở tới ai
1530. Để tâm lo các việc ngoài núi sông,
Nếu chàng khát nghĩa vợ chồng
Vui cùng gái khác hiệp lòng lửa hương
Ngày nào bình trị biên cương
Chánh nương dành sẵn Châu nương sẽ về.
Đình Ái nghe nói cười hề
Phúc đâu được lệnh Vua Lê đòi hầu.
Ái cùng Thế Thượng Bảo Châu
Trịnh Tùng, Trịnh Cối cũng hầu Vua Lê
Uông, Hoàng hai gã vào kề
1540. Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm hội về ba quân
Trống chiêng vui vẻ tưng bừng
Bảo Ngọc xem thấy lòng mừng chả cha
Vua phong Đình Ái thủ khoa
Bảo Ngọc ngự sử coi mà việc văn
Nguyễn Kim nguyên soái tài năng
Tổng binh Trịnh Kiểm võ văn đủ đầy
Uông, Hoàng Thái Úy cả hai
Trịnh Tùng, Trịnh Cối chức rày tiên phương,
Hai nàng Châu Thượng nên tuồng
1550. Trẫm ban hai ấn tiên phương chỉnh tề
Hai nam hai nữ khó bề
Khá tua diễn võ thử nghề Trẫm xem,
Trịnh Tùng, Trịnh Cối anh em
Bảo Châu, Thế Thượng phải đem hết tài
Tại đây làm thí võ đài
Ai hơn thì lãnh ấn rày tiên phương
Ai thua làm đội vận lương
Cũng là lương đống cột rường quốc gia,
Giỏi thì dẹp loạn gần xa
1560. Dở thì lương phạn nuôi mà quân binh.
Trịnh Tùng liếc mắt ngó nhìn
Hai nàng này quá lịch xinh mặn mà
Để ta thưa lại với cha
Cưới nàng làm vợ thì là hay hơn
Hơi đâu đánh kiếm đánh quyền
Hơi đâu tranh kém tranh hơn với nàng.
Nghĩ rồi quỳ xuống vội vàng:
Muôn tâu bệ hạ hai nàng nữ nhi
Thần là một kẻ tu mi
1570. Tiên phương nhường ấn nữ nhi đi đầu,
Một nhà nào mất đi đâu
Cũng lo dẹp loạn mà thâu sơn hà
Một Vua một Chúa một nhà
Tranh phân chi đó thành ra mất lòng,
Ngày nào về đến Thăng Long
Thần xin liều mạng thẳng xông dẹp loàn
Tranh tài với Mạc mới can
Giết được họ Mạc mới gan anh hùng,
Đây là một đóa phù dung
1580. Một lòng phò Chúa ngồi chung một nhà
Muôn tâu bệ hạ thứ tha
Thần xin thua trước gọi là làm duyên.
Trịnh Kiểm ông mới nói liền:
Lịnh Vua đã dạy chỉ truyền phải vâng
Quân xử thần tử cũng ưng
Sao con nghịch mạng con đừng trách cha,
Chữ rằng tiên trị kỳ gia
Hậu trị kỳ quốc con mà đã hay
Cha là một tướng thị oai
1590. Con như thế ấy trị ai buổi này,
Dù cho nát thịt tan thây
Lệnh Vua đã dạy con đây vâng lời
Có đâu con nghịch mạng trời
Bêu đầu làm lệnh tức thời cho ta
Gọi là tiên trị kỳ gia
Túi cơm giá áo để mà làm chi
Thứ đồ bội chúa nghịch nhi
Bêu đầu làm lệnh người thì biết danh,
Bấy lâu dạy dỗ học hành
1600. Nay như thế ấy chết đành chớ than
Thứ đồ con nghịch tôi loàn
Trừ cho tiệt nọc kẻo mang tiếng cười
Ai đi cho cái con người
Con nhà võ tướng thua người nữ nhân.
Nguyễn Kim liền nói thiệt hơn
Trị binh nghĩa tế ra ơn với nào,
Mình đang chiêu mộ anh hào
Con mà chém giết ai mà dám theo
Nhân tâm lắm kẻ ngặt nghèo
1610. Trị cho phải phép ai theo với mình,
Biết rằng hiền tế chấp kinh
Nhưng vì trong lúc bại binh tùng quyền
Trước đây bệ hạ chỉ truyền
Vậy thì các cháu có quyền tranh nhau
Ai mà đầy đủ lược thao
Vua ban khôi giáp chiến bào oai nghi,
Có tài cứ việc ra thi
Chẳng nên danh tướng cũng vì hùng anh
Nay Vua hạ lịnh ban hành
1620. Vì dân vì nước phân tranh sức hùng
Danh riêng mà lợi thì chung
Trước đây có lệnh cửu trùng chứng minh.
Kiểm rằng trong việc trị binh
Phải lo nghiêm lệnh mới gìn thế công
Nay vì có mặt bệ rồng
Tạm tha chuộc tội đoái công mới là
Này nghe trống lệnh điểm ba
Cối cùng Thế Thượng, Tùng là với Châu
Đánh quyền mười hiệp giáo đầu
1630. Sau thì đánh kiếm Vua âu xem tài.
Nguyễn Hoàng xem thấy cười dài
Trai hơn thì quý thua rày hổ ngươi
Ta nên lưu ý những người
Học thêm võ nghệ vẹn mười về sau.
Bảo Châu Thế Thượng cùng nhau
Nghiêng mình bái mạng cúi chào Quân vương
Rồi ra đứng giữa võ trường
Trịnh Cối thì chẳng kính nhường một ai
Lúc nào thì cũng mạnh tay
1640. Thế Thượng là gái đại tài sợ chi
Ra tài thục nữ tức thì
Nắm giò chàng Cối liệng đi ra ngoài
Reo hò quân sĩ vỗ tay
Vua khen Thế Thượng gái tài nam giao.
Tùng dù mạnh bạo là bao
Sẵn lòng yêu quý má đào Châu nương
Lúc nào đánh đỡ cũng nhường
Vua cho nam nữ tài đương ngang hàng.
Cối xin Lê chúa lệnh tràng
1650. Cho đi đường kiếm với nàng Thượng nhi
Vua ban áo giáp chinh y
Đặng cho Trịnh Cối ra thi cùng nàng
Thế Thượng cũng lãnh gươm vàng
Đình Ái tâu lịnh Thánh Hoàng xót thương,
Đây là cảnh diễn võ trường
Tranh nhau mà có đao thương chẳng vì
Nếu mà có chuyện chi chi
Ai làm bảo trạng cho thì cả hai,
Phạm tông còn chút gái tài
1660. Chết vì loạn giặc chết ngoài biên cương
Thì là còn có lửa hương (6)
Chết trong cảnh diễn võ trường vô danh
Đao thương là việc chẳng lành
Thần e sẽ có tử sanh chốn này.
Đức Vua mới phán lời này
Khanh làm bảo trạng (7) Trẫm đây ngự tường (8)
Đình Ái tay thảo một chương
Trình Vua Chiêu Tông ngự tường phải chăng
Chiêu Tông người mới phán rằng
1670. Thiệt là Đình Ái thảo văn tuyệt vời.
Trịnh khanh phải ký tên thời
Với Phạm Bảo Ngọc y lời ký tên
Nếu mà tranh chấp đôi bên
Sa trường bạc mạng chẳng đền được ai.
Nguyễn Hoàng tâu lệnh bệ giai:
Diễn chơi hay thiệt mà gay thế này!
Chiêu Tông phán rõ đủ đầy
Tuyển quan thiệt gỉa Trẫm đây đã tường
Nhưng mà trong cuộc đao thương
1680. Lỡ tay cũng khó định phương dữ lành.
Cối cùng Thế Thượng phân tranh
Cối luôn tính quyết sát sanh cho rồi
Thứ đồ son điểm phấn dồi
Thế mà võ nghệ ôi thôi quá tài,
Chàng hăng đánh đỡ liền tay
Lúc nào cũng muốn chém ngay mặt nàng
Thượng đà hiểu ý ác gian
Mới xoay cán giáo gạt ngang Cối liền
Cối đành té ngựa xuống yên
1690. Trận cười tướng sĩ ngả nghiêng võ trường.
Chiêu Tông rằng hỡi Phạm nương
Gái mà như thế cột rường giang sơn
Trịnh khanh xin chớ phiền hờn
Tranh tài có kém có hơn là thường,
Trẫm phong cho Phạm cô nương
Tiên phương là chức dẫn đường Thăng Long
Trịnh Cối khanh chớ phiền lòng
Vận lương cho Trẫm là công đứng đầu.
Còn phần Tùng với Bảo Châu
1700. Có thi đao kiếm hay hầu lại thôi
Trịnh Kiểm đặt gối tâu dồi
Phải thi cho biết con tôi thế nào.
Bảo Châu quỳ xuống tâu vào
Muôn tâu bệ hạ trùm bao ơn dày
Nếu đem đao kiếm thử tài
Thiếp xin đi đánh giặc ngoài biên cương,
Còn đây là diễn võ trường
Chi cho khỏi chuyện nhịn nhường lẫn nhau
Thà rằng giáp trận binh đao
1710. Đánh ra chẳng uổng đường đao tập rèn
Tranh hùng chi với người quen
Được không phải thắng mà hèn bên trong.
Kiểm rằng nàng nói vị lòng
Chết ai nấy chịu vốn không vị tình
Lẽ nào hai gái nữ xinh
Hai người nam tử tài kình chẳng qua.
Vua truyền Tùng với Châu ra
Đánh bằng kiếm pháp cho mà Vua ghi,
Tùng thì càng đánh càng nghi
1720. Thua Châu thân phụ tức thì lắm đa
Anh mình thua chị nàng mà
Mình thua nàng nữa cũng là khó coi,
Nghĩ rồi ra sức hẳn hòi
Châu xin đình thủ mà coi giáp nhà
Tướng binh lớn nhỏ cười xòa
Áo Tùng đã bị Châu đà chém rơi
Từ vai chí ngực tả tơi
Dây đai đã đứt Tùng thời chưa hay,
Chiêu Tông khen gái có tài
1730. Tiên phương ban ấn đường rày Sầm Châu.
Nguyễn Kim ông mới quỳ tâu
Hai nàng Thế Thượng Bảo Châu một nhà
Thần xin bệ hạ truyền ra
Đem binh trấn thủ thành mà Nghệ An,
Thăng Long đã có Nguyễn Hoàng
Sầm Châu giao lại hai chàng Trịnh gia,
Quân nhờ lương phạn nước nhà
Nghệ An đồng ruộng thiệt là phì nhiêu
Châu cùng Thế Thượng tài nhiều
1740. Giữ nền kho tảng chi tiêu quân tình
Nếu trong cái việc chiến chinh
Không lương thì chắc binh mình mòn hao
Hai nàng này thiệt tài cao
Đồn lương thảo mã cho giàu thêm lên,
Thì là xã tắc vững nền
Muôn tâu bệ hạ lệnh trên nghiệm tường
Hai nàng thủ việc đồn lương
Có Hoàng Đình Ái văn chương giúp vào,
Vua y lời tấu phán mau
1750. Hai nàng ba lược sáu thao gồm tài
Thâu thành Thanh Hóa đêm nay
Lập đô để Trẫm chọn ngày ngự sang
Bảo Ngọc tâu lịnh Thánh hoàng
Một thành Thanh Hóa Nghệ An báu mầu
Anh hùng nhiều kẻ xúm âu
Đang dành đồng ruộng mà thâu nhân tài
Từ khi họ Mạc cướp ngai
Anh hùng xứ xứ trổ tài tranh danh
Hàng trăm anh dũng tài lành
1760. Hâm he sẽ lấy được thành Nghệ An
Bệ hạ nên kéo binh sang
Cờ Lê đi trước bốn phan tựu về
Nơi này non núi tư bề
Nửa phần Nam Việt nửa bề Ai Lao
Đàng đi khó nổi ra vào
Núi rừng của mọi Ai Lao lạ kỳ
Đàng đi ngải nghệ rậm ri
Tuông nhầm ngải độc lâm nguy thân mình.
Kiểm rằng họ Mạc bại binh
1770. Cũng nhờ rừng ngải quân mình mới hơn
Nơi này là chỗ tạm chân
Biên thùy ba bước giang sơn là nhà.
Chiêu Tông liền phán lệnh ra
Ai về dinh nấy mai mà phân quân
Chư nhân tướng sĩ đều mừng
Chờ mai Chúa thượng ra quân thế nào.
Trịnh Tùng lòng ngán dạ ngao
Cha làm quan võ hùng hào trị binh
Ta đây phụ tử chi tình
1780. Thưa cho cha rõ ý mình từ lâu
Con đành cô Phạm Bảo Châu
Xin cha mai sáng vào chầu Lê vương
Nhờ người xuống chỉ chủ trương
Cho con với ả Phạm nương một nhà.
Trịnh Kiểm mới nói hay a
Ý con mới nghĩ chớ cha định rồi
Con cùng Châu nữ xứng đôi
Cha đây đã quyết định rồi từ lâu
Tùng nghe cha nói cúi đầu
1790. Mừng thầm sẽ được Bảo Châu về mình.
Đình Ái thơ thẩn hậu dinh
Nghĩ người rồi lại nghĩ mình thở than
So Châu lại với Oanh Vàng
Châu nên võ tướng hai hàng ba quân
Mày Châu như một ven rừng
Tướng như nguyên soái tiến quân phất cờ
Đi như nước đổ vỡ bờ
Nói như lệnh vỡ tay rờ đầu lâu
Tùng còn thua kém Bảo Châu
1800. Văn hào ta sánh lại đâu bằng nàng
E khi đồng tịch đồng sàng
Bất đồng ý kiến rồi nàng ra tay
Nghĩ điều vơ vẩn không hay
Sắc nàng tuyệt sắc mà tài quá cao
Nếu mà có nợ nần nhau
Kiếp này không hiệp kiếp sau sẽ gần.
Còn đang suy nghĩ ngán ngần
Nguyễn Kim mời đến ân cần thông qua
Này ông Đình Ái thủ khoa
1810. Ông nên thám thính tại tòa Thăng Long.
-
CHÚ THÍCH
1. Cậu Uông, cậu Hoàng: Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng, hai người con trai của Nguyễn Kim.
2. Trịnh Cối là con cả của Trịnh Kiểm, anh cùng cha khác mẹ của Trịnh Tùng.
3. Hồng Đăng Dung: Mạc Đăng Dung.
4. Bố kình: cưới gả, Phạm Bảo Ngọc ngỏ ý gả Phạm Bảo Châu cho Hoàng Đình Ái.
5. Sắc cầm: kết duyên vợ chồng.
6. Lửa hương: ý nói được ghi công trạng liệt sĩ.
7. Bảo trạng: cam đoan.
8. Ngự tường: nhân chứng.
-
SÁCH THÁI ẤT THẦN KINH CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Đoạn này nhắc chuyện bệ rồng
Chúa Mạc (1) lo nghĩ trong lòng xót xa
Mới đòi Tiết Chế (2) vào tòa
Bỉnh Khiêm được lệnh ông mà vào ngay
Cúi đầu phẩm phục lạy dài
Chúa Mạc đỡ dậy tỏ bày sạ duyên:
Trẫm từ bờ cõi trị yên
Vẫn lo vẫn ngại các miền gần xa
Có điều chẳng phục Mạc gia
1820. Thì non nước Việt sơn hà lung lay
Các quan lớn nhỏ trong ngoài
Trẫm luôn kính mến chẳng sai xót nào,
Riêng quan Thái Uý (3) anh hào
Vì sao bỏ Trẫm tẩu đào đi đâu,
Ba trăng chẳng có vào chầu
Lại đem áo mão treo vào giữa dinh
Lính hầu chẳng rõ sự tình
Đi đâu Đình Ái chẳng trình Trẫm hay,
Hoặc là Trẫm có chi sai
1830. Khanh cho Trẫm biết Trẫm rày ăn năn
Cả trào đầy đủ võ văn
Trẫm mà có lỗi Trẫm nhìn nhận ngay
Làm Vua tuy có quyền oai
Có khi cũng phải làm sai luật nhà
Trẫm luôn ái ngại lo xa
Sao quan Thái Uý bỏ tòa Thăng Long,
Hỏi khanh coi có rõ thông
Xin cho Trẫm biết kẻo lòng ngại nghi.
Bỉnh Khiêm tâu trước đơn trì
1840. Bệ hạ tha thứ tội thì khi quân
Hạ thần đây đã định chừng
Vì thần vâng lệnh Thánh quân chỉ tràng
Nên thần phải cưới Oanh Vàng
Đình Ái tủi phận mất nàng tình chung (4)
Không hề cãi lệnh cửu trùng
Nên buồn mới bỏ trào trung lên đàng,
Có khi thần gặp Oanh Vàng
Cùng quan Thái Uý thở than tâm tình
Làm trai mình biết lấy mình
1850. Với người thần cũng cảm tình thông qua
Đôi khi đánh mất tình nhà
Thần hồn suy kém hết ba bảy phần (5).
Đã là chọn ý trung nhân
Chưa chi mà đã hụt chân trễ đò
Nên lòng trắc ẩn buồn xo
Lỡ làng thần biết cân đo cách nào,
Thương quan Thái Uý biết bao
Bấy lâu gần gũi bên nhau chuyện trò
Oanh Vàng danh tiết thơm tho
1860. Thần luôn kính trọng giữ cho trọn đời.
Chúa Mạc ông mới phán lời:
Trẫm nhờ khanh hãy chân dời phương xa
Tầm quan Thái Úy về tòa
Trẫm xin chịu phép gọi là bất minh
Xin quan Thái Úy niệm tình
Tứ hôn như thế bất minh rõ ràng
Trẫm còn công chúa nhành vàng
Tên Mạc Ngọc Điệp dung nhan mặn mà
Vốn con của Trẫm sanh ra
1870. Trẫm xin đền lại cũng là như nhau
Khanh dùm phụng chỉ mau mau
Rước Hoàng Đình Ái về trào Thăng Long.
Bỉnh Khiêm cúi lạy bệ rồng
Nghiêng mình khép nép thẳng xông lên đàng,
Vừa đi vừa nghĩ mênh mang
Làm người sống giữa thế gian đất trời
Sang giàu thì được thảnh thơi
Nghèo hèn quần tả áo tơi dãi dầu,
Như ta đeo ấn công hầu
1880. Việc Vua việc nước lo rầu nào an
Làm Vua lên ngự ngai vàng
Lòng hằng suy lượng tính toan công bình
Bình thời quan chính Vua minh
Loạn thời cậy tướng dùng binh hằng hà,
Dân đen đau khổ khóc la
Bắt phu bắt lính nhà nhà hãi kinh
Khi cần lương phạn nuôi binh
Thuế điền thuế đất muôn nghìn tốn hao,
Ta làm quan với Mạc trào
1890. Mà lòng luôn nhớ dạt dào Vua Lê
Thánh Tông (6) xưa rất nặng nề
Sửa sang cơ nghiệp vỗ về muôn dân
Làm Vua hiếu để vẹn phần
Còn Vua Thái Tổ (7) lắm lần thân chinh
Ra tài đánh đuổi quân Minh
Nên non nước Việt thanh bình nhờ ông
Xây tòa ngọc điện Thăng Long
Biên thùy ba cõi ngoài trong như tờ,
Nay nhà Đại Việt lu mờ
1900. Sanh ra nội loạn hiện giờ mà ghê <8>
Lòng dân còn mến nhà Lê
Cho nên họ Mạc đủ bề ngại lo
Khắp nơi anh dũng hẹn hò
Kẻ lo luyện võ người lo đồn điền
Sơn hà biến động chẳng yên
Tiểu nhi bỏ việc bút nghiên sách đèn
Làm cho đồ thán dân đen
Làm sao cứu được cảnh hèn lưu lai.
Về đi về lại than dài
1910. Phúc đâu Đình Ái thưa ngài Quận Công:
Đi đâu mà mắt ngó mông
Chẳng hay ngài đã thẳng xông việc gì?
Bỉnh Khiêm mừng rỡ xiết chi:
Chúa Mạc lệnh dạy tôi đi tìm ngài
Khi không lại bỏ cân đai
Đúng ra là tội của ngài khi quân
Cứ theo phép nước mà trừng
Hội này khắp chốn lẫy lừng lắm đa
Khi không ngài bỏ triều ca
1920. Thì tội loạn nghịch có tha được nào,
Nhưng mà bệ hạ ân cao
Đã không bắt tội lại trao lời lành
Mời ngài về chốn Long thành
Vua đưa Ngọc Điệp duyên lành sánh đôi
Tức là phò mã chánh ngôi
Xin ngài hãy khá theo tôi về trào.
Đình Ái liền mới nói mau:
Tôi cũng hồi trào nhưng chẳng làm quan
Bấy lâu tôi định rỗi nhàn
1930. Thong dong mấy bước cho an tháng ngày
Long thành trở lại hôm nay
Vì tôi cảm nghĩa với ngài thênh thang,
Có lần ngài đã cải trang
Gặp tôi lại với Oanh Vàng đứng chung
Ngài nên danh tướng anh hùng
Không hề đố kỵ thung dung như thường
Thật là dũng cảm đáng thương
Nên tôi thầm phục kính nhường mến yêu,
Nay tôi trở lại Mạc triều
1940. Cũng vì Tiết Chế có nhiều đức ân
Nếu ngài như kẻ tiểu nhân
Oanh Vàng ắt đã mạng vong pháp tràng
Còn tôi đây có nào an
Chẳng vào ngục đá cũng mang án hình
Lòng ngài đại độ thênh thênh
Tôi đây nhớ mãi thịnh tình Quận công,
Thần Kinh Thái Ất (9) gia phong
Của Tiên sư dạy môn tông họ hàng
Cám ơn Tiết Chế vô vàn
1950. Tôi xin hiến tặng Nguyễn quan thâu dùng,
Ngài xem sẽ rõ thủy chung
Bá niên tiền hậu kiết hung hành tàng
Hay hơn bộ sách cẩm nang
Binh thơ Tiên trưởng chưa ngang sách này,
Gia truyền kiến họ tôi đây
Xem Kinh Thái Ất đủ đầy Thiên cơ
Người Trung nguyên vẫn phụng thờ
Thần Kinh Thái Ất Thiên thơ nhà Trời,
Nay tôi xem khắp nơi nơi
1960. Chẳng ai xứng đáng xem thời sách ni
Có ngài là kẻ cao kỳ
Nên tôi kính tặng vậy thì làm duyên,
Ngài coi theo phép chân truyền
Thì là độn thổ thăng thiên đủ tài
Bỉnh Khiêm vui vẻ tỏ bày
Ái huynh đã có sách hay gia truyền
Sao không học phép Thần Tiên
Đặng cho thông việc Địa Thiên Đất Trời
Hầu sau giúp ích cho đời
1970. Phải là danh tướng rạng ngời tổ tông,
Thôi thì về đến Thăng Long
Tôi ngài cùng ở thơ phòng chung nhau
Xem Kinh Thái Ất đổi trao
Hai ta cùng học với nhau sách này
Nếu mà tôi có đủ đầy
Thì ngài cũng thế ta đây thông đồng,
Ái rằng tôi chẳng dối lòng
Sách này vốn của tổ tông lưu truyền
Học xong biết bá niên tiền (10)
1980. Thêm bá niên hậu cơ thiên đều rành (11)
Từ bên Trung Quốc công khanh
Đều nhờ sách ấy mà thành giỏi hay,
Trận đồ chiến thuật xưa nay
Nhà Minh vốn thiệt nhiều tay anh hào
Từ bên Trung Quốc tôi vào
Chỉ đem Thái Ất lúc nào cũng xem
Bạc vàng châu báu chẳng đem
Chỉ đem Thái Ất mà xem ngày ngày,
Vận thời dù rủi dù may
1990. Cũng nhờ Thái Ất đổi thay dần dần
Lẽ thì tôi để hộ thân
Nhưng vì tôi cám nghĩa ân của ngài
Nên dâng Thái Ất tặng ngay
Gọi là gia bảo cho ngài xem qua.
Bỉnh Khiêm tiếp lấy cười xòa
Hoàng thiên Hậu thổ (12) chứng mà cho tôi
Anh em thiết nghĩa nhau rồi
Ngàn năm nghĩa cả lòng tôi nhớ hoài,
Tôi về dinh thất hôm nay
2000. Chầu Vua hay chẳng tùy ngài ở đi,
Dinh tôi cả thảy nữ tỳ
Đều do Công Chúa chủ qui trong ngoài
Bốn nàng kia vốn hiền thay
Thong dong thi họa tối ngày ngâm thơ
Việc nhà bốn ả ngẩn ngơ
Quân tình lính gác chẳng ngờ đến ai.
Đình Ái nghe nói vui thay
Về dinh Tiết Chế luận bàn nước non
Khiêm rằng nghĩa cả muốn tròn
2010. Tôi ngài nhân nghĩa vốn còn ngàn năm
Xin đừng ái ngại nghi thầm
Một năm kết nghĩa tình thâm đời đời.
Vào dinh Tiết Chế nghỉ ngơi
Bốn bà vui vẻ đón mời trà chuyên
Rượu trà hoa qủa mời khuyên
Bốn bà thuần hậu nhu hiền đáng khen.
Khiêm rằng có khách mới quen
Văn nhân này chẳng phải hèn mà khinh.
Oanh Vàng còn ở hậu dinh
2020. Đang ngồi than thở một mình ngán ngao
Bỉnh Khiêm nhẹ gót bước vào
Hiền thê mau hãy ra chào khách xa
Người này là khách của ta
Văn nhân thêm lại hào hoa đẹp hình,
Nàng nên ra tận trước dinh
Vợ quan Tiết Chế tài tình đoan trang
Lẽ nào khách đến dinh quan
Lại không thấy mặt vợ quan như hà
Xin nàng hãy khá bước ra
2030. Nên làm đẹp mặt cho ta với nào.
Oanh Vàng cất tiếng nói mau
Phận tôi là vợ dinh sau sắp bày
Nữ tỳ chàng cứ việc sai
Bắt tôi tiếp khách trái tai lạ đời,
Nếu mà bạn tác đến chơi
Phu quân cứ việc khuyên mời trà chuyên
Phận tôi là gái thuyền quyên
Ra chi nơi trước dinh tiền môn nha,
Đã rằng là khách phương xa
2040. Đem khoe đủ mặt năm bà hay chi.
Khiêm rằng chẳng phải thế ni
Tôi muốn Công Chúa nên vì chồng quan
Để chân ra trước công đàng
Chuyện trò với khách luận bàn núi sông,
Nếu nàng mà chẳng tùy lòng
Tôi nguyền tự tử cho xong một đời
Nói ra vợ chẳng nghe lời
Chết đi cho khỏe sống đời mỉa mai.
Oanh Vàng nghe nói sợ thay
2050. Xin chàng bớt giận thiếp rày xin vâng,
Bước đi một bước lại dừng
Trông ra nàng đã biết chừng việc xa
Khoan thai trong trướng bước ra
Chào Hoàng Thái Úy đến nhà vui chơi
Chẳng hay việc nước thảnh thơi
Ngài mang áo bả dạo chơi các miền
Mới trông ngỡ khách sĩ hiền
Nhìn lâu mới biết bệ tiền gia phong,
Đây là hai bát rượu nồng
2060. Phu quân mời khách giãi lòng khát khao
Rượu này của nước Ai Lao
Nó đem cống hiến Vua trao thiếp dùng
Thái Úy xin chớ ngại ngùng
Uống vào bổ khỏe anh hùng thêm xinh.
Khiêm rằng: hiền phụ thiệt tình
Đứng đây chuốc rượu ta nhìn xem sao
Truyền cho bốn ả kia vào
Oanh Vàng ngồi lại cùng nhau luận bàn,
Ái huynh không có Oanh Vàng
2070. Cho nên treo ấn từ quan giã chày
Nay ngài để gót đến đây
Chẳng vì tình ái gió mây nô đùa
Vốn lòng mến nước thương Vua
Phu nhân đừng ngại mà mua lấy phiền
Tôi thề chứng có Hoàng thiên
Ngàn năm nhân nghĩa nối liền không phai,
Lòng tôi từ ấy đến nay
Lắm khi nghĩ đến chảy dài giọt châu
Trách thay ông tạo cơ cầu
2080. Tôi riêng dạ cảm nghĩ câu ân tình,
Nếu tôi như thể Ái huynh
Cũng chưa định chắc là mình thế nao
Khen ngài dũng cảm rất cao
Không hề có chút núng nao ra ngoài,
Tôi đà rõ việc cả hai
Nghĩ non nghĩ nước lo ngày loạn ly
Không lòng nghĩ việc chi chi
Đáng trang quân tử ai bì được đâu,
Hiền thê nên rót rượu hầu
2090. Ta cùng Thái Úy cạn bầu cho vui
Nước non đang lúc rối nùi
Tôi cùng Công Chúa tuy vui một nhà
Không hề bắt bướm kề hoa
Xin Hoàng Thái Uý đừng mà ngại nghi,
Tôi ngài như kẻ nữ tỳ
Đồng phò Công Chúa phòng khi nghiêng nghèo
Giòng Lê đang lúc nạn eo
Tùng quyền chúa Mạc tôi theo chỉ truyền
Lúc nào tôi cũng như nhiên
2100. Tùy theo Công Chúa lệnh truyền khiến sai
Không hề đòi hỏi trúc mai
Băng trăng vẫn vẹn chẳng phai đâu là.
Ái rằng ngài khó bỏ qua
Nhắc làm chi nữa nghe ra cũng kỳ.
Khiêm rằng từ bấy đến ni
Mong ngày hội ngộ cố tri tỏ bày
Rằng hay thì giữ điều hay
Nhưng lời vàng đá trình bày phôi pha,
Một là rõ mặt hai ta
2110. Hai là nghị việc quốc gia buổi này.
Đình Ái mới nói như vầy:
Ngổn ngang trăm mối khó khuây được lòng
Mạc làm Vua đất Thăng Long
Vua Lê Trang Tông long đong cõi ngoài (13)
Nghĩ rằng áo mão cân đai
Phò Vua giúp nước râu mài phải toan
Dù cho trải mật phơi gan
Hy sinh nào nệ lửa than ngài à,
Nếu như Lê Mạc can qua (14)
2120. Cũng con Hồng Lạc một nhà Nam Giao
Thế mà trở giáo đánh nhau
Vì danh vì lợi mà hao nhân tài
Vua Lê Vua Mạc cả hai
Nào ai có nhịn một ai đâu là
Đánh nhau xáo thịt nhồi da
Bắt phu bắt lính gần xa kêu trời
Dân tình than khóc khắp nơi
Đánh nhau có lợi cho thì chư bang,
Minh trào lắm nỗi bất an
2130. Nên tôi mới có trốn sang nước này
Ngỡ rằng yên ổn trời mây
Binh đao nội loạn cấn gay như Tàu,
Lòng tôi luôn mãi ngán ngao
Thương cho dân dại đồng bào mà thôi
Trách người lòng bạc như vôi
Dân chung một nước cứ ngồi đánh nhau.
Oanh Vàng rằng: chẳng núng nao
Là vì khác chủng mới trao những lời,
Còn tôi tâm trí rụng rời
2140. Ngồi buồn nhớ lại mấy đời đã qua
Công lao tiên tổ hằng hà
Sang qua nội tổ cũng là dày công
Nội tổ là đức Thánh Tông
Xây thành đắp luỹ daỳ công từ nào,
Họ Mạc chẳng có công lao
Khi không mà được nhảy nhào làm Vua
Lòng tôi đau thắt bốn mùa
Ngài cùng Tiết Chế chẳng hùa giúp vô
Nói năng như khách giang hồ
2150. Lòng từ như lão nam mô nhà thiền
Ngày nay về Phật về Tiên
Mà phân như thể nhà thiền niệm kinh,
Chúa Mạc có lắm bất bình
Cựu thù tôi vẫn đinh ninh báo thù
Từ nay cho đến thiên thu
Vẫn lo trả được phục thù mới thôi
Nếu vui Thái Uý cứ ngồi
Tự nhiên ngài để một tôi liệu lường
Phu quân đây cũng một phường
2160. Cũng quan nhà Mạc nào nhường nhà Lê
Nói mà nước mắt dầm dề
Cũng vì tệ bạc cho Lê Cung Hoàng (15)
Mới gây lắm nỗi giặc loàn
Giang sơn cũng mất họ hàng cũng tiêu.
Bỉnh Khiêm nhỏ nhẹ nuông chiều
Hiền thê đừng nói lắm điều chẳng hay
Sợ e bên vách có tai
Mạc trào hay đặng đầu bay cả nhà.
Đình Ái vui vẻ phôi pha:
2170. Việc Vua việc nước sơn hà rối nhăng
Muốn cho yên lặng thẳng bằng
Phải nhờ nhiều kẻ tài năng mới mầu,
Lòng tôi đã sẵn lo âu
Một mình lo khắp hoàn cầu khó lo
Tin lành tôi sẽ bảo cho
Cha con Trịnh Kiểm dài dò khả nghi
E là e việc thế ni
Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm hiềm nghi nhau rồi (16)
E Vua Chiêu Tông lôi thôi
2180. Sẽ bị Trịnh Kiểm giết thôi chẳng còn,
Tôi đà đoán việc nước non
Biết trong nội bộ vẫn còn ghét nhau
Chưa đem quân đánh Mạc trào
Mà nhà danh tướng nghi nhau đủ bề,
Mới đây Châu Thượng quy về
Phò Trang hoàng đế (17) định bề ra quân
Trịnh Tùng, Trịnh Cối tưng bừng
Tiên phương tranh ấn cầm quân đi đầu
Đóng quân tại tỉnh Sầm Châu
2190. Ai Lao giáp với địa đầu Xiêm La,
Chưa chi đã muốn bất hòa
Luận điều xã tắc sơn hà ngán ngao
Làm tướng đức độ anh hào
Mới mong nước mạnh dân giàu trị an
Làm tướng như Trịnh chẳng ngoan
Vua Lê đâu được luận bàn việc chi <18>
Vua truyền phán dạy chuyện ni
Trịnh liền tâu hỏi đơn trì chuyện kia,
Khóa then mà Trịnh cầm chìa
2200. Nguyễn Kim nhân ái chuyện kia khó thành,
Đời Vua Trang Tông mỏng manh
Tôi buồn nên mới nói rành nàng nghe
Kẻo công nương chẳng có dè
Khắp nơi anh dũng lâm le sơn hà,
Tôi dù Tiết Chế có ra
Chẳng làm chi nổi việc nhà công nương
Hoặc là niệm định giới hương (19)
Cầu cho chốn chốn bốn phương hiền hòa
Muốn tu giải thoát ái hà
2210. Cầu cho trăm họ nhà nhà thương nhau.
Bỉnh Khiêm liền mới nói mau:
Tôi đây suy nghĩ ngán ngao trong lòng
Nhìn dân rơi giọt máu hồng
Tranh danh đoạt lợi đành lòng giết nhau
Mạc dành ngồi ngự ngôi cao
Giết Vua chém tướng biết bao mạng rồi
Nhà Lê yếu thế mất ngôi
Nay chiêu binh mộ nhiều hồi cấn gay,
Dân đen bỏ ruộng không cày
2220. Công thương giải nghệ lưới chài ngẩn ngơ
Vẫn lo loạn lạc bơ vơ
Đêm mơ giặc đến ngày mơ binh loàn
Khắp nơi đều cất tiếng than
Cũng vì danh vọng Vua quan các người
Muôn dân thảm chín sầu mười
Cụ già ngơ ngáo như người chết đi
Thanh niên thanh sĩ sầu bi
Chết đây sống đấy ai bi não nề
Nhìn dân nước mắt dầm dề
2230. Lòng nào nghĩ việc Mạc Lê tranh tài,
Cũng vì ngôi vị cả hai
Mà dân trăm họ than dài thở ra
Công nương nên để gót hoa
Dạo xem lê thứ cửa nhà ra sao
Cũng nên dẹp bỏ binh đao
Lo cho giải nghiệp trần lao kiếp này
Vàng trau ngọc chuốt đủ đầy
Mão cao áo rộng lầu tây ngồi kề
Một người vui vẻ thỏa thuê
2240. Mà dân trăm họ dầm dề như mưa,
Kẻ thì ngựa lộc xe lừa
Người thì dãi gió dằm mưa nhọc nhằn
Nay trời ảm đạm mây giăng
Luận bàn gia đạo nói năng việc nhà,
Tôi, nàng, Đình Ái thông qua
Xem kinh Thái Ất cả ba thông quyền
Lòng tôi luôn mải lo riêng
Dạ nàng có muốn về Tiên không là (20)
Nếu luôn lăn lộn ái hà
2250. E cho sau nữa đọa sa tuyền đài
Lợi danh danh lợi đeo tay
Vàm danh khóa lợi đọa đày tấm thân
Quẩn quanh ba bước phong trần
Vinh đây nhục đấy lắm lần đắng cay
Thử xem trong cõi trần ai
Những nhà vương tướng xưa nay cũng là,
Khi thì lăn lộn ái hà
Khi thì quyền thế cao xa tột vời
Quẩn quanh quanh quẩn cõi đời
2260. Cái thân chìm đắm biết đời nào an
Chi bằng lánh cuộc thế gian
Tu tâm dưỡng tánh cho an thân hình
Tạo chi lắm nỗi tội tình
Con dân thì cũng Trời sinh loài người,
Mảng lo cao cả tuyệt vời
Tranh danh tranh lợi của đời Vua quan
Bắt dân cho trăm họ khóc than
Cho mình làm chúa làm quan lẫy lừng,
Lòng tôi ảo não lụy rưng
2270. Càng suy càng nghĩ mắt gừng nhỏ sa
Lợi danh như gió thổi qua
Đưa vầng mây bạc tan ra tức thì
Này là sách sử có ghi
Làm quan làm tướng chắc gì thiên thu
Thôi đành khoát áo đi tu
Thoát nơi địa ngục diêm phù thế gian
Nay tôi bàn chuyện với nàng
Định đi ẩn dật lâm san tu trì.
-
CHÚ THÍCH
1. Chúa Mạc: Mạc Đăng Doanh (1503-1540), nối ngôi Mạc Đăng Dung, trị vì từ năm 1530 đến 1540.
2. Tiết chế: chức quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Thái Úy: chức quan của Hoàng Đình Ái (1527-1607), ông có học thức rộng, thông binh pháp, cầm quân nghiêm chỉnh, trong thì tham mưu cho vua, ngoài thì đánh dẹp binh biến, tự mình trải vài trăm trận, đánh đâu được đấy, làm cả tướng võ, tướng văn, không phân biệt thứ bậc, uy quyền, ưu đãi sĩ phu, giữ gìn pháp độ. Mọi người đều phục.
4. Hoàng Đình Ái thương thầm nhớ trộm công chúa Lê Oanh Vàng.
5. Phần miêu tả tính cách Nguyễn Bỉnh Khiêm rất chính xác, ông là người sống rất chuẩn mực, kinh nghiệm đối nhân xử thế, biết người biết ta.
6. Lê Thánh Tông (1442 – 1497), là vị vua thứ năm thời Lê, trị vì từ 1460 đến 1497. Ông đưa ra nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông cũng đã mở mang bờ cõi nước Đại Việt. Ông là một trong những vị vua tài ba trong lịch sử Việt Nam, mang lại nền thái bình, thịnh trị cho nước nhà.
7. Lê Thái Tổ: Vua Lê Lợi (1385-1433), khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh, lên ngôi hoàng đế năm 1428, lập nên vương triều nhà Lê.
8. Thời kỳ chiến tranh Lê – Mạc.
9. Thái Ất Thần Kinh: là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn Giáp, Lục Nhâm đại độn). Thái Ất về Thiên, nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất, đến con người. Theo một số sách kinh điển, Thái Ất là tôn thần của Thiên đế, ở trước sao Bắc thần, chủ sai khiến 16 thần. Sao Thái Ất chủ về dự đoán gió mưa, hạn hán lụt lội, chiến tranh, đói rét, bệnh tật, xem tình hình trong nước, sao Thái Ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn.
Theo sử sách ghi rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm học Nho, Y, Lý, Số từ thầy dạy là cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Cụ Lương Đắc Bằng là người nổi tiếng văn chương quán thế, từng được đi sứ sang nhà Minh, và cụ đã học được sách Thái Ất Thần Kinh của Trung Hoa.
Tuy nhiên ở đây cung cấp thêm một chi tiết nữa về sách Thái Ất Thần Kinh do Hoàng Đình Ái trao cho Nguyễn Bỉnh Khiêm để tỏ lòng qúy mến và kết nghĩa huynh đệ. Đây là sách bảo bối gia truyền của gia đình Hoàng Đình Ái, được mang từ Trung Hoa sang. Bộ sách đã giúp ích cho Nguyễn Bỉnh Khiêm rất nhiều sau này, mà có lẽ Sấm Trạng Trình do ông biên soạn cũng bắt đầu từ đây.
10, 11. Bá niên tiền, bá niên hậu: xem sách có thể luận đoán sự việc trước 100 năm, sau 100 năm.
12. Hoàng thiên Hậu thổ: cha Trời, mẹ Đất.
13. Vào năm 1533, Nguyễn Kim bí mật lập Lê Duy Ninh, con rốt của vua Lê Chiêu Tông lên làm vua, là vua Lê Trang Tông, xây dựng căn cứ tại Ai Lao (nước Lào ngày nay).
14. Can qua: chiến tranh.
15. Mạc Đăng Dung phản bội, phế truất vua Chiêu Tông, đưa em của vua là Lê Cung Hoàng lên ngôi vua bù nhìn, mọi quyền hành trong tay Mạc Đăng Dung.
16. Trịnh Kiểm tuy đầu quân với Nguyễn Kim để phò nhà Lê, được làm con rể, nhưng luôn có ý định tranh công với những người con trai của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng.
17. Trang Hoàng đế: vua Lê Trang Tông.
18. Vua Lê Trang Tông còn nhỏ tuổi, mọi việc thao lược, quân cơ đều do Thái sư Nguyễn Kim và Hữu tuớng Trịnh Kiểm sắp đặt.
19. Niệm định giới hương: ăn chay niệm Phật.
20. Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan cho nhà Mạc được 7 năm, sau đó ông xin cáo quan năm 1542.
Nguyên nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan, theo sử sách ghi rằng do ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua Mạc nghe nên xin cáo quan. Nhưng sau khi đọc những lời tâm sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta được biết nguyên nhân sâu xa hơn, là do Nguyễn Bỉnh Khiêm còn nặng ân nghĩa với nhà Lê, và ngán ngẩm cảnh đua tranh quyền lực của quan lại, gây ra cảnh nhồi da xáo thịt và nỗi khổ cho dân chúng thời chiến tranh Lê Mạc.
Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học cạnh sông Hàn Giang, do đó còn có tên Tuyết Giang và học trò gọi ông là "Tuyết Giang Phu tử". Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan một nhà ngoại giao, Nguyễn Dữ tác giả Truyền kỳ mạn lục, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền.
-
NGUYỄN BỈNH KHIÊM VÀ BẠCH VÂN AM
Thương dân nên phải ra đi
2280. Lòng tôi chẳng có phụ thì nhà Lê,
Tính toan khó cả trăm bề
Phò Lê đánh Mạc nặng nề cho dân,
Theo Mạc là đứa bất nhân (1)
Phụ tình tấm mẳn (2) lỗi phần phu thê,
Vì nàng nòi giống Vua Lê (3)
Phụ đi thì tội nặng nề khó dung
Lỡ bề báo hiếu báo trung
Chẳng nên trung hiếu thì tùng cơ thiên (4),
Tu cho dứt não tan phiền
2290. Hầu xem Thái Ất Thần Tiên (5) chỉ đường
Tu cho thoát kiếp đoạn trường
Tu cho thấy rõ con đường Bồng Lai
Nếu không phủi kiếp đọa đày
Trả vay vay trả biết ngày nào xong,
Nàng coi hầu tước thong dong
Có ai sống mãi trần hồng này chăng
Dù cho tên tuổi bủa giăng
Trăm năm thì cũng mãn căn cõi trần
Lưu truyền oan nghiệt oán ân
2300. Chung quy rồi cũng đem thân ra mồ,
Nước non có mấy cơ đồ
Máu xương nhân loại đắp tô sơn hà
Đây rồi một kiếp người ta
Tội gây nghiệp quả trả ba bốn đời.
Oanh Vàng nghe nói rụng rời
Phu quân định lánh cõi đời tu riêng
Ấy là cũng bực tiền hiền
Thiếp nào cản trở làm phiền chuyện chi,
Nhưng mà lòng thiếp ngại nghi
2310. Sợ cho chúa Mạc (6) chẳng thì vị tha
Nếu không cho đó đi ra
Làm sao tu được đến già mà tu,
Nước non đang lúc rối bù
Anh hùng bỏ chúa đi tu dễ nào.
Khiêm rằng non nước Nam giao
Vẫn còn nhiều kẻ anh hào hăng say,
Mạc trào này chẳng anh tài
Không tôi xã tắc lấy ai đỡ đần
Đình Ái ngài cũng lui chân
2320. Thì là nhà Mạc lần lần suy vong,
Đó là Trời cũng chiều lòng
Hậu Lê con cháu giống giòng trung hưng,
Thân tôi là kẻ trầm luân
Nên tu giải thoát chớ đừng gây thêm
Cầu Trời sóng lặng gió êm
Cầu cho trăm họ mỏng mềm thương nhau,
Bề nào tôi cũng lòng đau
Nhồi da xáo thịt mòn hao người hiền
Lòng tôi nào phải tư riêng
2330. Những điều xét kỹ nên phiền mà đi,
Trần là tục lụy hay chi
Cười đây khóc đấy nhiều khi lo lường
Tôi về ngồi tỉnh Hải Dương
Đọc kinh Thái Ất cho tường Cơ Thiên,
Xin nàng dinh nội ở yên
Khá nuôi Thái Tử (7) thành niên mới là.
Đình Ái liền mới hỏi qua:
Chẳng hay Thái Tử tuổi đà bao nhiêu?
Oanh Vàng rằng tuổi chẳng nhiều
2340. Nay cho đi học sớm chiều rất ngoan
Sau này định cuộc giang san
Mong sao cho được tử hoàng ngôi Vua,
Bấy lâu tám tiết tứ mùa <8>
Hãy còn ấn tín Lê trào truyền gia
Khi Lê Chiêu Tông thoát ra
Ấn an Nam quốc còn mà hậu cung,
Cũng nhờ phu tướng chí trung (9)
Nên nuôi Hoàng Tử mà dùng làm con.
Đình Ái nghe nói cười dòn
2350. Giòng Lê như thế thì còn hưng bang
Ngày nào trong cõi thế gian
Còn Hoàng Đình Ái giang san Lê còn,
Bấy lâu vẫn ngỡ tiêu mòn
Một Lê Chiêu Tông tánh còn chân nhu (10)
Tôi dù không phải trượng phu
Cũng xin đem hết tài bù giúp vô
Họ Lê thâu lại cơ đồ
Nước non bốn biển năm hồ thảnh thơi,
Nói rồi từ giã tách rời
2360. Vợ chồng Tiết Chế luận lời nước non
Tính sao thì tính cho tròn
Kẻo Vua nhà Mạc lòng còn nghi nan.
Khiêm rằng trả ấn từ quan
Tôi đi ẩn dật lâm san một mình.
Nói rồi sắm sửa lộ trình
Oanh Vàng nàng hãy nghĩ tình của ta
Hãy đem áo mão vào tòa
Tâu cùng chúa Mạc rằng ta tu hành
Nên đem trả ấn công khanh
2370. Xin Vua chọn kẻ tài lành thưởng ban,
Bốn cô (11) gửi lại trào đàng
Vào ra đây có Oanh Vàng làm vui.
Nói rồi liền bước chân lui
Vai mang Thái Ất đi xuôi lên đường,
Mười hôm đến tỉnh Hải Dương
Lập am tu niệm dầu hương luận đàm
Biển đề là Bạch Vân Am (12)
Đêm ngồi đọc sách ngày làm ruộng nương,
Ngọ về ngồi nguyện ngũ hương
2380. Cầu cho trăm họ mười phương thuận hòa.
-
CHÚ THÍCH
1. Năm 1518, Mạc Đăng Dung được vua Lê Chiêu Tông tin cậy giao cầm quân dẹp loạn binh biến ở kinh thành. Lập được công lớn, lại nắm quyền bính trong tay, về sau Mạc Đăng Dung phản bội, phế truất vua Chiêu Tông, đưa em của vua là Lê Cung Hoàng lên ngôi.
Vua Chiêu Tông được các tướng đưa vào Thanh Hoá, đến năm 1526, Mạc Đăng Dung bắt được vua Chiêu Tông mang về Thăng Long giết chết.
Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất luôn vua Lê Cung Hoàng, lên ngôi vua lập ra nhà Mạc, niên hiệu Minh Đức. Nhà Mạc trị vì cho đến năm 1592.
Những ai phò nhà Lê đều coi nhà Mạc là bất nhân.
2. Tấm mẳn: tấm là hạt vỡ, mẳn là hạt gạo nát, luôn đi đôi với nhau. Ý nói chỗ thân tình, ân nghĩa có nhau.
3. Công chúa Oanh vàng là em gái vua Lê Chiêu Tông.
4. Trung hiếu ý nói phò vua, cơ thiên ý nói đạo giáo.
5. Sách Thái Ất Thần Kinh do Hoàng Đình Ái trao tặng, có thể dự đoán gió mưa, hạn hán lụt lội, chiến tranh, đói rét, bệnh tật, xem tình hình trong nước, sao Thái Ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn.
6. Chúa Mạc: vua nhà Mạc.
7. Thái Tử: Thái tử Lê Duy Bang, con vua Lê Chiêu Tông, được công chúa Oanh Vàng và Nguyễn Bỉnh Khiêm bí mật đem về nuôi dưỡng chờ thời cơ phục hưng nhà Lê, tránh bị nhà Mạc giết hại.
8. Tám tiết tứ mùa: mỗi mùa có hai tiết gồm đầu tiết (Lập, ví dụ Lập Xuân) và giữa tiết (Phân, ví dụ Xuân phân), 8 tiết 4 mùa ý nói là một năm.
9. Phu tướng chí trung: Nguyễn Bỉnh Khiêm, phu quân của Oanh Vàng.
10. Lê Chiêu Tông: vì lo ngại thanh thế của tướng Mạc Đăng Dung đang nắm quyền bính trong tay, bỏ kinh thành trốn chạy và được các tướng thân cận đưa vào Thanh Hoá.
11. Bốn cô: bốn người vợ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Người vợ thứ năm là công chúa Oanh Vàng.
12. Bạch Vân Am: Sau khi cáo quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm về quê nhà xã Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, dựng Trung Tân Quán là nơi đàm đạo thơ văn và Bạch Vân Am để tụng kinh niệm Phật.
Thời gian này Nguyễn Bỉnh Khiêm viết một tập thơ chữ Hán "Bạch Vân Am Thi Tập" và tập thơ Nôm "Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập". Ngoài ra, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho con cháu một quyển Sấm Ký Trường Thiên, gọi là Sấm Trạng Trình.
Nhờ học sách Thái Ất Thần Kinh mà ông tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là "An Nam lý học hữu Trình Tuyền" (Nước An Nam giỏi nhất về lý số có Trình Tuyền Nguyễn Bỉnh Khiêm).
-
HOÀNG ĐÌNH ÁI TAN MỘNG ÁI TÌNH LẦN HAI
Luận bàn chưa được an phần
Ba quân tướng sĩ rộ rần hét la,
Bảo Châu người đã trốn ra
Trịnh Kiểm truyền lệnh quân gia truy tầm,
Bên ngoài vang tiếng ù ầm
Nguyễn Hoàng liền bảo Châu nằm trướng loan
Tại phòng hoa chúc Nguyễn Hoàng (1)
2860. Bốn người nằm nghĩ luận bàn nhỏ to.
Hoàng rằng nhị vị đừng lo
Phòng tôi đóng chặt chẳng cho ai vào
Ngỡ là loạn giặc binh nào
Chớ quân của Trịnh chẳng nao Nguyễn Hoàng.
Bên ngoài dậy tiếng la vang
Trịnh Tùng, Trịnh Cối lên đàng tầm Châu
Quân tầm đã hết canh thâu
Vẫn không thấy bóng Bảo Châu nơi nào.
Nguyễn Kim ngơ ngẩn ra vào
2870. Liền mời Bảo Ngọc âm hao tỏ bày:
Chúng ta đang cuộc vui say (1)
Bảo Châu vượt ngục hôm nay mất rồi!
Bảo Ngọc mới nói: Ối thôi!
Ắt là Trịnh Kiểm giết rồi ngài a,
Ngài tin Trịnh Kiểm thiệt thà
Nó đà giết cháu của già còn chi
Già còn ở tại chốn ni
Cháu già chẳng lẽ bỏ đi chốn nào?
Bảo Ngọc ông cứ thét gào
2880. Trịnh Kiểm túng phải ngọt ngào nỉ năn:
Tôi vì thương cháu võ văn
Ra oai cho cháu lòng bằng làm dâu
Nhà tôi mà mất Bảo Châu
Coi như cái xác không đầu ngài ôi!
Nay đà cháu trốn đi rồi
Truy binh thủng thẳng để tôi tầm về.
Trịnh Tùng lòng ủ dạ ê
Tại cha vội vã giam về ngục môn
Nên nàng mới có sợ nôn
2890. Thừa cơn chè chén chúc hôn cậu Hoàng (1)
Không ai canh ngục nghiêm trang
Bảo Châu được thế nên nàng mới đi
Nói rồi vào trướng nằm ì
Nguyễn Kim gióng trống gọi thì quân gia,
Nguyễn Hoàng nghe lệnh của cha
Bảo Châu, Thế Thượng đừng ra khỏi phòng.
Nắm tay Đình Ái đi vòng
Tiền quân đứng trước nhìn trông tư bề,
Bảo Ngọc nước mắt dầm dề
2900. Đình Ái xem thấy đứng kề rỉ tai:
Bá phụ đừng có bi ai
Bảo Châu với cháu vui say chén huỳnh
Tại phòng hoa chúc Nguyễn huynh
Châu còn ngơi nghỉ báo tin bác mừng,
Nhưng còn thử ý ba quân
Cha con Trịnh Kiểm lẫy lừng thế nao.
Bảo Ngọc nghe rõ âm hao
Ông càng dùng kế thét gào khóc la:
Nếu tầm chẳng được cháu ta
2910. Cha con họ Trịnh phải ra pháp trường!
Tội chi lại hạ ngục đường?
Tội chi giết lén Châu nương cháu già?
Nguyễn Hoàng đầu cúi thưa qua:
Trống quân cha gọi con ra việc gì?
Nguyễn Kim ông mới nói thì:
Bảo Châu nó đã trốn đi nơi nào
Quân tầm ngõ trước ngõ sau
Vẫn chưa thấy mặt nơi nào hết đa,
Con thì vui cuộc đuốc hoa
2920. Nên cha gọi trống giục ra tiền đường.
Nguyễn Hoàng rằng việc phi thường
Từ nay cha chớ nhún nhường làm chi,
Cha con họ Trịnh lạ kỳ
Cha coi có phải vô nghì (2) hay không?
Biết bao là gái má hồng
Ước ao họ Trịnh làm chồng cho vinh
Gái xinh gái đẹp muôn nghìn
Tại sao không khứng (3) ép tình Bảo Châu?
Thật là loạn nghịch chém đầu
2930. Cha làm nguyên soái không câu nghiêm hình
Tránh sao cho khỏi loạn binh
Nếu con nói thẳng mất tình chị em (4)
Thấy Tùng muôn gái ước thèm
Sao cha không bảo Tùng đem về nhà,
Lạ gì cô Phạm tiểu thơ
Nửa đêm khuya khoắt kéo cờ tầm truy,
Ngỡ là ngăn giặc biên thùy
Nào hay tầm gái cho vì tướng quân,
Xưa nay tôi chẳng có từng
2940. Binh thơ chiến lược ba quân giãi bày
Chưa hề dạy chuyện hôm nay
Thế mà cha vẫn lệnh sai đi tầm,
Đêm về bờ bụi tối tăm
Ba quân tướng sĩ lọt hầm té hang
Làm cho cực khổ muôn ngàn
Cũng vì họ Trịnh quân than khổ hình,
Nửa đêm rần rộ kéo binh
Dân đang yên giấc hãi kinh khóc òa
Bồng con dắt vợ chạy ra
2950. Ngỡ đâu giặc đến đốt nhà giết dân
Nào hay tầm kiếm mỹ nhân
Cha xem như thế có phần nên chăng?
Ỷ quyền ỷ thế hung hăng
Muốn giam muốn phạt muốn răn một mình
Lộng quyền khắp cả tướng binh
Cha mà có chết Trịnh huynh gồm quyền,
Hai con đây chắc chẳng yên
Chị con lòn cúi làm duyên với chồng
Ích chi cho giống Lạc Hồng
2960. Nghĩ mà con bắt mủi lòng lắm đa (5).
Nguyễn Kim liền mới nói ra:
Vì cha mới kết thông gia với người
Bảo Ngọc tuổi đã bảy mươi
Bảo Châu mà mất thì người sầu bi,
Lại là em vợ hiếu nhi
Con là anh rể (6) phải đi tầm nàng!
Uông (7) rằng hiền đệ Nguyễn Hoàng
Hẵy vào trướng phụng nghỉ an em à
Kẻo khi Thế Thượng hay ra
2970. Mất Châu thì Thượng lệ nhòa rớt rơi
Làm cho nội thất rã rời
Việc ngoài chưa ổn đến thời việc trong.
Nguyễn Hoàng mới trở vào phòng
Bảo Châu cứ việc ngồi trong phòng này
Thượng thì hãy khá ra đây
Làm cho họ Trịnh bớt gây oai hùm.
Bỗng nghe quân sĩ la um
Xác nàng mỹ nữ bên lùm cây kia
Chúng tôi không dám đem về
2980. Bởi vì nhìn rõ xác kia không đầu,
Biết là có phải Bảo Châu
Mong nhờ Chúa tướng đến âu coi là.
Bảo Ngọc giả chước khóc la:
Trịnh Kiểm nó giết cháu ta đã rồi!
Phải đem xác lại cho tôi!
Trịnh Kiểm nhỏ nhẹ ỉ ôi phân trần:
Tôi xem Châu tựa thiên thần
Không hề động đến bản thân nàng mà,
Gái này là gái lạ xa
2990. Có khi hạng gái điêu ngoa lăng loàn
Nên người giết bỏ dọc đàng
Hoặc là bị cướp giựt vàng giết đi
Chớ không có phải Châu nhi
Xin ngài đừng có ngại nghi mất lòng.
Kim truyền quân sĩ thẳng xông
Khiêng thây mỹ nữ vào trong coi là
Ngón tay mũi viết nõn nà
Gót chân đỏ tựa son thoa khác gì,
Nguyễn Kim nhìn kỹ thây thi
3000. Trong lòng hồi hộp nghi thì Bảo Châu
Ngặt vì không có chiếc đầu
Mặt mày không có lấy đâu mà nhìn
Thây thi mới chết chưa sình
Mới kêu Thế Thượng lại nhìn tay chân,
Thế Thượng liền bước lại gần
Cái thây này chết có phần giống Châu
Thắt lưng thon nhỏ rất mầu
Ngón tay mũi viết thật âu đẹp hình
Bàn chân âu cũng quá xinh
3010. Nhân sao mà chết đầu mình hai nơi.
Trịnh Kiểm xem thấy rụng rời
Làm thinh mà chịu không lời phôi pha
Nguyễn Kim rằng: lão thông gia
Ông nhìn coi phải cháu nhà hay không?
Đình Ái khẽ nhỏ với ông:
Để cháu thay mặt nhìn hồng thế cho.
Ái liền lại nắm đôi giò
Gót son tuy đỏ nhưng đo quá dài
Cô Châu tặng cháu đôi hài
3020. Để đeo vào thử coi rày tới đâu
Nếu vừa thì thật Bảo Châu
Không vừa thì chẳng phải đâu bác à.
Bảo Ngọc liền mới nói ra
Sống thì thon nhỏ chết mà dài hơn,
Cha con nhà Trịnh bất nhơn
Giết Châu cho chết giả cơn la làng,
Lão không làm mạng kêu oan
Cha con nhà Trịnh để tang cháu già
Phải mua quan quách đèn hoa
3030. Đưa linh đánh trống giống ba ra mồ,
Lão không la hét hồ đồ
Lỡ rồi dù nói thế mô cũng là.
Trịnh Kiểm rằng thật oan mà
Bảo Châu tôi quý ngọc ngà còn thua
Có đâu giết đại giết đùa
Cha con tôi chẳng quê mùa ngu si,
Xác này chẳng phải Châu nhi
Thủ khoa <8> nhìn kỹ giúp thì cho tôi.
Bảo Ngọc mới nói thôi thôi
3040. Tôi đà chắc chắn cháu tôi xác này
Nếu người đem nó ra đây
Mới là không phải xác này cháu ta,
Không Châu lại có thây nhà
Hỏi sao không phải cháu ta chớ gì
Phải thường nhơn mạng tức thì
Không thường nhân mạng nói gì được đâu!
Giết rồi làm bộ lo âu
Tri hô rằng đã mất Châu đi tầm
Quân reo dậy đất ù ầm
3050. Tìm về một xác lại nằm như ma.
Đình Ái rằng mới nói ra
Con xin bá phụ hải hà rộng suy
Quân đem chôn xác này đi
Bảo Châu võ giỏi dễ gì thủ tiêu
Giết Châu tổn sức thật nhiều
Gái nên danh tướng đường siêu như thần
Dễ gì mà hại được thân
Bá phụ hãy mở lòng nhân từ hòa,
Để cho họ Trịnh tầm tra
3060. Xác thây chôn phứt để mà hôi tanh,
Châu là một gái tài lành
Khó mà yểu mạng tử sanh bất kỳ
Cha con Trịnh Kiểm mến nghì
Thương Châu ai nỡ giết đi bác à.
Trịnh Kiểm rằng thiệt thế a
Cám ơn lời của Thủ khoa phân trần
Cho quân chôn xác mỹ nhân
Bảo Ngọc giả chước tố trần rạch đôi (9):
Phải tầm cho được cháu tôi
3070. Nếu tầm không được lôi thôi đến ngài!
Trịnh Kiểm liền mới nói rày:
Phạm ông đình lại ít ngày cho tôi,
Hỡi này Đình Ái ngài ôi
Trịnh Tùng vốn thiệt con tôi ngài à
Mất Châu nó cứ thở ra
Chẳng ăn chẳng uống chẳng mà nói năng,
Ngài nên vì nghĩa kim bằng (10)
Nhường Châu cho nó hiệp hằng lửa hương
Ngài nhìn Châu thị đã thường
3080. Tướng đi tướng đứng ngài tường rồi đa
Phiền ngài thượng lộ xông pha
Tầm Châu rước lại giúp mà cho tôi,
Mẹ Tùng thì đã chết rồi
Thương con nên mới ỉ ôi với ngài.
Đình Ái liền mới nói rày:
Nếu mà đi kiếm tôi ngài cùng đi
Sau này có chuyện chi chi
Trịnh Tùng khỏi phải ngại nghi điều tà
Mình tôi tôi chẳng đi a
3090. Trịnh Kiểm mới bảo Tùng mà cùng đi.
Tùng đang sầu não lâm ly
Đình Ái vào tận chốn ni loan phòng
Gọi Tùng mau hãy thẳng xông,
Buổi này rày đã rạng đông ban ngày
Nên đi cho kịp gái tài
Kẻo xa xôi bước khó rày nối theo,
Tùng còn ngơ ngẩn nằm queo
Ái bèn thúc giục gọi kêu lên đường
Tùng nằm lăn lóc trên gường
3100. Ái đành ra trước tiền đường thưa qua
Tùng không sốt sắng bôn ba
Ắt lòng chẳng có tiếc hoa thương nàng.
Nói rồi về với Nguyễn Hoàng
Vào phòng Hoàng mới luận bàn văn vi:
Châu đừng ra mặt làm chi
Để coi họ Trịnh xử thì ra sao?
Ái rằng tôi biết từ nào
Trịnh Tùng sẽ chết vì đau thất tình.
Thượng rằng những thứ vô minh
3110. Chết đâu chết phứt nhẹ mình quốc gia
Nếu như trong nước non nhà
Muôn người thế ấy còn ra thứ gì,
Làm trai cho có trí tri
Có đâu gặp gái tương si ngu đần
Vì gái mà bỏ muôn dân
Ham mê tửu sắc nên thân chẳng là.
Cùng nhau vui vẻ cười xòa
Nguyễn Hoàng mới kể do hà sự duyên
Ái huynh lòng dạ như nhiên
3120. Không hề tủi phận buồn duyên là gì!
Đình Ái rằng chẳng có chi
Trong đời chẳng có việc gì đáng lo
Tại mình lòng dạ dày vò
Cho nên cứ giữ bo bo thói nhà,
Này con này vợ nhởn nha
Không hề nhìn rộng thấy xa cõi ngoài
Những nhà áo mão cân đai
Vua ban quyền thế khen tài đảm đang
Hoặc là văn võ lưỡng toàn
3130. Vua nào khen thứ nhẹ nhàng tương si,
Trong đời quý nhất thứ gì
Phải là đức tính tu mi anh hào
Cũng tình cũng nghĩa quý cao
Tình đây duyên đấy làm sao cho tròn
Phải vì Vua Chúa Nước Non
Có đâu vì chút cỏn con của mình
Nghĩ tình non nước thinh thinh
Nghĩ chi chút nghĩa chút tình én anh,
Chí mong dựng lũy xây thành
3140. Đừng vì gái sắc nằm khoanh trong nhà
Cũng không phải phụ đàn bà
Đàn bà gìn giữ cửa nhà mới nên.
Châu rằng Đình Ái lập nền
Lúc nào cũng muốn đứng lên hơn người.
Nguyễn Hoàng nghe nói liền cười
Ngẫm tôi thú thiệt thua người quá xa
Nếu tôi lâm cảnh như hà
Phải hy sinh được cũng là hy sinh.
Ái rằng tôi chẳng phụ tình
3150. Thương Châu tôi phải hy sinh hết lòng
Nếu tôi hai một cũng không
Đem Châu nhẹ gót thẳng xông Minh trào (11)
Thì là có hại chi nào
Minh trào tôi sẵn ngôi cao đang chờ
Cái ngôi Hình bộ Thượng thơ (12)
Không hư không mất vẫn chờ tôi đây
Nhưng tôi đã mến nước này
Vốn tôi rày đã có thầy Bửu Sơn
Canh khuya thanh vắng khải đờn
3160. Tôi ngồi ngoạn nguyệt Bửu Sơn đến kề
Ông rằng Đại Việt nhà Lê
Hiện còn nội loạn nhiều bề chẳng an
Có nhiều danh tướng mệnh quan
Tiền căn trời đọa gian nan khổ hình,
Thầy trao Thái Ất Thần Kinh (13)
Bảo tôi hãy khá thẳng trình Thăng Long
Xem ai là kẻ chí công
Trao cho sách ấy để phòng hậu lai,
Thầy rằng chẳng mốt thì mai
3170. Sẽ vào Đại Việt gặp rày tôi đây
Nếu tôi mà đến nước này
Chưa gặp mặt thầy thề chẳng hồi hương
Ba năm ôm sách du phương
Gặp quan Tiết Chế (14) trào đường Mạc gia (15)
Người này đức độ hải hà
Tên Khiêm họ Nguyễn vốn nhà Trạng Nguyên (16)
Tôi trao bộ sách thần quyền
Mới là để bước khắp miền dạo chơi,
Đến đây tạm ở một thời
3180. Gặp nhà họ Trịnh tức thời tùy cơ
Vào đây lưu ý phòng hờ
Hoàng huynh sau có trở cờ nhớ chăng
Nếu sau sóng dậy đất bằng
Khiêm không kiêu hãnh nói năng ngọt ngào
Người đang trả ấn Mạc trào (17)
Định tu giải thoát cho mau an hồn
Tôi tuy chẳng phải đồng môn
Cũng noi theo chút gọi hồn đàn ma
Muốn mang chuỗi hột áo dà <18>
3190. Lâm thiền dưa muối Di Đà công phu
E là nhân sự hiềm thù
Nhi nhăng luận biện rằng tu thất tình
Phải đành luôn niệm tâm kinh
Cầu Trời khấn Phật nhẹ mình về Tiên
Tâm luôn nhớ chữ định thiền
Trí luôn lo việc mối giềng vua quan
Dạ luôn nhắn gửi tình lang
Mối giềng ba thứ buộc ràng Nam mô.
Nguyễn Hoàng nghe nói liền phô:
3200. Rượu đây sư cậu sư cô khá dùng
Dùng cho nung chí anh hùng
Chí trung cũng thể tình chung khác nào
Bốn người vui vẻ cùng nhau...
Trịnh Kiểm năn nỉ ngọt ngào Nguyễn Kim
Con xin nhạc phụ oai nghiêm
Vì con nhạc phụ lệnh tìm Châu nương,
Trịnh Tùng nó cũng đảm đương
Võ văn gồm đủ oai cường lắm đa
Khi không biến cố việc nhà
3210. Nó đòi cưới gấp con nhà Phạm tông
Con nghe nên mới chiều lòng
Chẳng dè lắm chuyện lòng vòng chẳng an
Châu đi đã mất bóng nàng
Bảo Ngọc thì cứ nghi nan nọ này,
Trịnh Tùng nó quá dại ngây
Chết đi tội nghiệp con đây cha à
Cúi đầu con lạy nhạc gia
Có phương nào dạy con mà làm theo.
Kim rằng hiền tế ngặt nghèo
3220. Muốn thì thủng thẳng tùy lèo ngược ngang,
Phải cơn sóng gió thuyền nan
Chơi vơi giữa biển khó toan vào bờ
Nay đà mất Phạm tiểu thơ
Biết bơi biết kiếm biết quơ nơi nào,
Trịnh Tùng chẳng phải anh hào
Chưa chi mà ốm mà đau thế này
Xưa nay từng trải gió mây
Sao còn tư tưởng làm vầy người khi
Mai này nghĩa tế hãy đi
3230. Với Hoàng Đình Ái kiếm thì Bảo Châu.
Nói rồi ông mới truyền âu:
Nguyễn Hoàng, Thế Thượng mau mau lên đàng
Phải tầm cho được Châu nàng
Đình Ái, Nguyễn Hoàng, Thế Thượng đồng ra
Truyền quân lục khắp gần xa
Mười hôm chẳng đặng về nhà nghỉ binh.
Trịnh Tùng ra trước tiền đình
Cám ơn Đình Ái vì mình nhọc công
Nhìn Tùng ai cũng ngại lòng
3240. Mặt mày nhợt nhạt nhìn không đặng nào,
Nguyễn Hoàng mới nói rỉ rao
Cháu Tùng đừng có ủ sầu làm chi
Xưa nay nhiều gái nữ nhi
Làm cho anh dũng tương si quá nhiều,
Cháu đừng ủ dột nằm liều
Sĩ binh hay đặng lắm nhiều mỉa mai
Cháu là nam tử râu mày
Đừng vì một gái chảy dài giọt châu,
Đã là nam tử mày râu
3250. Thiếu chi là gái kết câu ân tình.
Tùng rằng cậu dạy đinh ninh
Ấy lời vàng ngọc cháu xin cúi đầu
Cháu mà thiếu Phạm Bảo Châu
Ra binh đánh có lại đâu Mạc trào.
Nói rồi thui thủi đi vào
Đình Ái xem thấy ngọt ngào phân qua:
Tôi mà như thể Trịnh gia
Làm sao đi đặng khỏi tòa Thăng Long.
Nguyễn Hoàng dắt Ái vào trong
3260. Thuật cho Châu rõ cõi lòng Trịnh gia,
Mười hôm tôi gióng mã la
Đi chơi cho biết gần xa cõi ngoài
Bây giờ mưu kế sắp bày
Đưa Châu vào ngục như ngày mới giam
Châu nên giả chước nói sàm
Gặp ai đánh nấy cứ làm lôi thôi
Phải chừa Đình Ái với tôi
Châu đừng la hét kéo lôi làm gì,
Còn nhà họ Trịnh kể chi
3270. Gặp ai đánh nấy chẳng gì chẳng tha
Trịnh Tùng, Trịnh Cối, Trịnh gia
Trịnh nào cũng đánh chẳng tha nghe nàng
Nếu mà nhà Trịnh nổi gan
Thì là đã có Nguyễn Hoàng chở che.
Kế mưu sắp sẵn dặt dè
Đưa Châu vào ngục rồi te ra ngoài.
Quân tuần lính gác không hay
Trịnh Cối (19) giữ việc tuần ngoài ngục quan
Bảo Châu hò hét ca san
3280. Trịnh Cối bước đến coi nàng là ai
Bảo Châu xem thấy cười dài
Cha con mày vốn là tay gian hùng
Nếu mày không phải Trịnh Tùng
Cũng là Trịnh Cối ở chung một nhà,
Từ ngày ngục thất giam ta
Chẳng cho cơm nước gọi là đức nhân
Ta không phải kẻ gian thần
Cũng không có phải người thân Mạc trào
Bắt ta ngục thất giam vào
3290. Cha con mày ác hại tao thế này.
Nói rồi nàng mới nhảy ra
Đến thoi Trịnh Cối xoay qua nắm đầu
Cối nhìn biết Phạm Bảo Châu
Người hay là quỷ hung âu thế này
Nghĩ rồi gọi hỡi quân bay
Khá mời binh bộ lại đây coi là.
Châu rằng mày chớ có la
Mày đừng kêu mẹ kêu cha làm gì
Tao không còn kể chi chi
3300. Đầu tao chưa đứt mày đi được nào
Mày mang đoản kiếm đại đao
Dám kình lại với tay tao đây này
Tao không đeo kiếm như mày
Tay không có thể xé thây muôn người,
Nói rồi nàng vẫn tươi cười
Đánh thoi Trịnh Cối tơi bời đớn đau,
Phần thì mình kẻ anh hào
Lẽ nào đánh gái má đào tay không
Lại nghe giọng nói như ngông
3310. Cối dùng sức mạnh lại bồng Bảo Châu
Châu luôn bứt tóc nắm đầu,
Trịnh Tùng vừa đến thấy Châu rõ ràng
Trịnh Kiểm bước đến liền can
Trịnh Cối rằng thật là nàng dâu cưng
Đánh tôi đầu cổ đều sưng
Mặt mày ngơ ngác áo quần nhăn nheo
Xô ra nàng vẫn đánh theo,
Bảo Châu cứ việc nắm đeo trên đầu
Nàng rằng cơm áo tao đâu
3320. Cha con mày ác hại sầu tao đây
Trịnh Kiểm mới nói này này
Đừng thoi đấm đá lão đây ngỏ lời,
Châu buông Trịnh Cối tức thời
Nắm lưng Trịnh Kiểm hỏi thời áo cơm
Mày giam tao quá mười hôm
Chẳng cho uống nước ăn cơm là gì
Tao nào mà có tội chi
Cha con mày lại hại thì mạng tao
Miệng chửi tay giựt đoản đao
3330. Trịnh Tùng xem thấy chạy nhào gỡ ra
Bảo Châu đừng động cha già
Chuyện chi thủng thẳng nói ra rõ ràng,
Châu buông Trịnh Kiểm vội vàng
Lại gần nhè nhẹ gọi chàng Tùng ơi
Tai nghe bụng đã rụng rời
Chẳng xơi cơm sốt tao xơi thịt mày
Nói rồi dã dượi ngất ngây,
Nguyễn Hoàng, Đình Ái đủ đầy lại xem
Ái rằng Châu mặt lấm lem
3340. Trịnh Tùng hãy khá mau đem thuốc vào
Hãy cho Châu uống xem sao
Bảo Châu nàng ở nơi nào đến đây?
Trịnh Cối mới nói như vầy:
Đi tuần nghe tiếng ngục này hát ca
Tôi vào cho tận nhìn qua
Mới hay Phạm thị còn mà ngục môn,
Tại sao quân sĩ mất hồn
Mấy hôm đến báo ngục môn mất nàng
Nhọc lòng tìm kiếm tứ phan
3350. Tự nhiên trong ngục có nàng Bảo Châu,
Gặp tôi nàng lại nắm đầu
Lôi cha tôi đến nàng đâu kể gì
Nhìn xem vóc dáng thể ni
Chẳng đau ma bịnh cũng suy tinh thần
Nếu không điều trị thuốc thần
Nếu sanh loạn óc thêm phần lo riêng.
Tùng rằng tôi lắm ngạc nhiên
Gia huynh (21) chắc có ý riêng với nàng
Trước sau vắng vẻ ngục đàng
3360. Nay sao bỗng lại có nàng tại đây?
Tôi vừa để bước chốn này
Gia huynh đang lúc đưa tay bế nàng,
Người tầm khắp cả bốn phan
Không ai biết rõ là nàng nơi đâu
Đêm chày đã trở canh thâu
Nơi này huynh trưởng với Châu làm gì?
Bên trong chắc có ý gì
Lòng tôi quả quyết chẳng thì sai ngoa!
Cối rằng đừng nói bậy a
3370. Anh đi thì có quân gia hộ phò.
Tùng rằng tôi nói phải cho
Lính anh thì nó phải phò bên anh
Chuyện chi nó cũng dấu quanh
Lẽ nào nó dám nói anh dại tà!
Kiểm rằng cốt nhục một nhà
Tùng đừng nghĩ quấy thành ra mếch lòng.
Cối rằng khi khổng khi không
Lại nghi quấy quá cho lòng trượng phu
Thật là hổ mặt danh nhu,
3380. Thượng rằng Châu đói đã bù bằng chi
Đói lòng nên nói tứ di
Châu nghe hiểu ý mới thì nói ra:
Trên trời có một tiên nga
Dưới trần chỉ có một ta đi đầu
Rạng ngời như hột minh châu
Ai mà phạm đến thì đầu phải rơi,
Còn non còn nước còn trời
Còn cô Châu sống trong đời thế gian
Chẳng kỳ tôi tớ vua quan
3390. Có Châu thì có ngọc vàng núi sông,
Thằng nào chồng mỏng chồng mong
Thì là thằng đó xuống sông mà ngồi
Tao về tiên cảnh cao ngôi
Cha con cũng chết chúa tôi chẳng còn,
Vừa nói nàng lại cười dòn,
Thượng rằng Châu vốn hãy còn nói điên
Tôi đem nàng lại dinh tiền
Tầm thầy cầu thuốc chữa chiên coi là.
Trịnh Kiểm liền mới nói ra
3400. Phu nhơn Ngọc Bảo (21) có mà thuốc linh
Đem Châu về để hậu dinh
Đặng cho Ngọc Bảo tận tình dưỡng nuôi.
Nguyễn Hoàng liền mới cáo lui
Thế Thượng hiểu ý đi xuôi về phòng,
Đình Ái nhẹ gót thong dong
Lén ra do thám Thăng Long coi là.
Kiểm đem Phạm thị về nhà
Phu nhơn Ngọc Bảo liền ra rước mời.
-
CHÚ THÍCH
1. Oanh Vàng: công chúa Lê Oanh Vàng, em gái vua Lê Chiêu Tông, vợ thứ năm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2. Bốn bà: bốn vợ trước của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng ở chung với nhau.
3. Trào: triều đình, phép cưỡng âm đạt vần.
4. Chúa Mạc: vua nhà Mạc. Theo sử sách ghi Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan về tu ở Bạch Vân Am, tỉnh Hải Dương vào năm 1542. Đối chiếu với lịch sử thì vua nhà Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải, cháu nội Mạc Đăng Dung, con của Mạc Đăng Doanh, lên ngôi vua từ 1541-1546.
5. Âm hao: tin tức.
6. Tiết Chế: chức quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
7. Mạc Phúc Hải mới lên ngôi vua, chưa hiểu rõ con người Nguyễn Bỉnh Khiêm, nghĩ rằng có thể thuyết phục, can gián được Nguyễn Bỉnh Khiêm ở lại triều đình.
8. Dinh tiền: dinh quan Tiết Chế Nguyễn Bỉnh Khiêm.
9. Đế kinh: kinh thành Thăng Long.
10. Tứ hôn: cưới gả.
11. Trịnh Tùng (1550-1623): con trai thứ của Trịnh Kiểm.
12. Phạm Bảo Châu: cháu gái quan Bộ Lễ Phạm Bảo Ngọc.
13. Nguyễn Kim (1468-1545), tướng giỏi nhà Hậu Lê, giúp vua Lê chống lại nhà Mạc nên được phong chức Thái Sư Hưng Quốc Công. Nguyễn Kim là thủy tổ của chín đời Chúa Nguyễn, về sau nhà Nguyễn truy tôn ông là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế.
14. Trang Tông: vua Lê Trang Tông, con vua Lê Chiêu Tông. Năm 1533, Nguyễn Kim bí mật lập hậu duệ của nhà Lê là vua Lê Trang Tông lên ngôi, xây dựng căn cứ tại Ai Lao (nước Lào ngày nay), chuẩn bị chiêu quân mãi mã đánh nhà Mạc, phục hưng nhà Lê.
15. Nguyễn Hoàng (1525–1613): con trai thứ của Nguyễn Kim.
16. Thế Thượng: chị gái Phạm Bảo Châu, cháu gái quan Bộ Lễ Phạm Bảo Ngọc.
17. Kinh thành Thăng Long do nhà Mạc đang trị vì, hiện tại vua Lê Trang Tông đang xây dựng căn cứ kháng chiến tại Ai Lao (nước Lào ngày nay).
18. Bảo Ngọc: Phạm Bảo Ngọc, quan Lễ bộ nhà Lê, phò vua Lê Trang Tông tại căn cứ kháng chiến.
19. Hoàng Đình Ái (1527-1607): Quan Thái Úy, ông có học thức rộng, thông binh pháp, cầm quân nghiêm chỉnh, trong thì tham mưu cho vua, ngoài thì đánh dẹp binh biến, tự mình trải vài trăm trận, đánh đâu được đấy, làm cả tướng võ, tướng văn, không phân biệt thứ bậc, uy quyền, ưu đãi sĩ phu, giữ gìn pháp độ. Mọi người đều phục.
20. Trịnh Kiểm (1503–1570), con rể Nguyễn Kim, về sau dựng nên dòng Chúa Trịnh, thời kỳ Vua Lê - Chúa Trịnh.
21. Hiền tế: cao nhân.
22. Nguyên soái: Đại nguyên soái Nguyễn Kim.
23. Truyền thống nhà Mạc được sử sách ghi nhận đã mạnh dạn sử dụng quan lại cũ của nhà Lê, điển hình là 4 trạng nguyên thời Lê sơ như: Nguyễn Giản Thanh, Hoàng Văn Tán, Ngô Miên Thiệu, Trần Văn Tất, ngoài ra cũng thu phục nhiều tướng giỏi của nhà Lê như Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Vũ Hộ, Phạm Gia Mô... Các cung phi nhà Lê vẫn được đãi ngộ như trước.
24. Oanh thị công nương: công chúa Lê Oanh Vàng.
25. Sự thực không phải con ruột, mà công chúa Oanh Vàng và Nguyễn Bỉnh Khiêm bí mật đưa con trai của vua Lê Chiêu Tông là thái tử Lê Duy Bang về nhận là con mình, để dễ bề chăm sóc.
26. Mạc Kính Điển (? - 1580): là con thứ ba của Mạc Đăng Doanh, cháu Mạc Đăng Dung, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong tước Khiêm vương.
27. Nguyễn Trịnh: ý nói quân kháng chiến do Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm đứng đầu, đang phò vua Trang Tông.
28. Năm 1518, Mạc Đăng Dung được vua Lê Chiêu Tông tin cậy giao cầm quân dẹp loạn binh biến ở kinh thành. Lập được công lớn, lại nắm quyền bính trong tay, về sau Mạc Đăng Dung phản bội, phế truất vua Chiêu Tông, đưa em của vua là Lê Cung Hoàng lên ngôi.
Vua Chiêu Tông được các tướng đưa vào Thanh Hoá, đến năm 1526, Mạc Đăng Dung bắt được vua Chiêu Tông mang về Thăng Long giết chết.
Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất luôn vua Lê Cung Hoàng, lên ngôi vua lập ra nhà Mạc, niên hiệu Minh Đức. Nhà Mạc, trị vì được 2 năm thì nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh vào năm 1530 để lui về làm Thái Thượng hoàng.
29. Sầm thành: vùng Sầm Châu của nước Lào, núi non hiểm trở, căn cứ địa của nghĩa quân kháng chiến của Nguyễn Kim, phò vua Lê Trang Tông đang ẩn náu nơi đây.
30. Đăng Doanh: Mạc Đăng Doanh (1503-1540), nối ngôi Mạc Đăng Dung, trị vì từ năm 1530 đến 1540.
31. Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng Nguyên năm 1535, khoa thi do nhà Mạc tổ chức, thời Mạc Đang Doanh đang ở ngôi vua.
32. Nguyễn Kim trước đây thường đến thăm công chúa Oanh Vàng, nên biết rõ công chúa chưa thể khai hoa nở nhụy, quả là Nguyễn Kim rất giỏi mưu lược, am hiểu tình hình.
33. Châu nương: Phạm Bảo Châu.
34. Tổ Đường thiên niên: cha Phạm Bảo Châu là quan Binh bộ nhà Lê mới chết khi đánh trận.
35. Nệm chích: gối nghiêng, nệm chích, ý nói không màng đến.
36. Thủ Khoa: Hoàng Đình Ái.
37. Trịnh Cối (?-1584): là con cả của Trịnh Kiểm, anh cùng cha khác mẹ của Trịnh Tùng.
38. Gia gia: Nguyện Kim.
39. Muội nhà: Phạm Bảo Châu.
40. Minh quốc: Hoàng Đình Ái vốn dòng tộc nhà Minh của nước Trung Hoa sang nước Nam; Tây bang ý nói phương Tây.
41. Xích thằng se dây: kết duyên vợ chồng.
42. Gia Cát: Gia Cát Lượng (181–236), là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu ngựa gỗ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.
-
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU NHỮNG VẦN THƠ NGOẠI CẢM
THƠ NGOẠI CẢM LÀ GÌ
Những vần thơ ngoại cảm đã được giới thiệu trên đây là những bài thơ tự nhiên xuất hiện và được một nông dân ở An Giang chấp bút ghi chép lại. Những câu thơ lục bát gieo vần rất đúng niêm luật, phản ánh một bức tranh lịch sử bằng thơ rất trung thực với kho tàng lịch sử chính thống, phản ánh rất sát với tính cách nhân vật lịch sử, do đó chúng tôi cho rằng những thông tin này không phải do người viết tự sáng tác mà là những thông tin từ bên ngoài tác động vào, người nông dân ấy chỉ là người chắp bút viết lại mà thôi.
Những thông tin, những tác phẩm vượt quá khả năng ngũ quan của con người sáng tạo ra, chúng tôi gọi là Những Vần Thơ Ngoại Cảm.
Hiện tượng này không phải lần đầu tiên được gặp. Chúng ta đã biết cuốn Kinh Koran của Hồi Giáo tương truyền do nhà tiên tri Mohammad chắp bút viết từ những lời sấm truyền.
Tham khảo:
http://www.danangpt.vnn.vn/vanhoa/de...hp?id=216&a=80
Việc nghiên cứu tác giả Những Vần Thơ Ngoại Cảm vẫn được tiếp tục thực hiện bởi CLB Tiềm Năng Con Người Phía Nam, chúng tôi sẽ có dịp giới thiệu trong thời gian tới.
NỘI DUNG NHỮNG VẦN THƠ NGOẠI CẢM
Qua những tư liệu đã đăng vừa qua, chúng tôi đã đối chiếu với những tư liệu lịch sử chính thống như: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí để viết phần chú thích, giúp người xem theo dõi được diễn biến các sự kiện trong nội dung Những Vần Thơ Ngoại Cảm này. Chúng tôi có nhận xét rằng có 90% những tư liệu lịch sử là trùng khớp với lịch sử về mặt thời gian, về địa điểm và về nhân vật lịch sử.
Giai đoạn lịch sử diễn ra trong bối cảnh điêu tàn nhất trong lịch sử các triều đại Việt Nam, là thời kỳ suy tàn của nhà Lê, thời kỳ đất nước vừa có ngai vua Lê, vừa có phủ Chúa (chúa Trịnh, chúa Nguyễn), và cuộc chiến tranh nhồi da xáo thịt của các thế lực phong kiến nhằm tranh giành quyền lực.
Những nhân vật lịch sử trong những vần thơ là những bậc vua chúa quý tộc, những bậc thánh hiền sống các đây 500 năm, đã đi vào lịch sử như: Mạc Đăng Dung, Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm, Chúa Nguyễn Hoàng, Hoàng Đình Ái và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nội dung và cách dẫn chuyện cho thấy đây là một câu chuyện lịch sử có thật, được kể lại từ những người trong cuộc. Có nhiều giả thuyết ai là người kể những câu chuyện này, có giả thuyết là do Nguyễn Kim kể lại, có giả thuyết là do Nguyễn Bỉnh Khiêm kể, và cũng có thể là từ Công chúa Oanh Vàng. Các giả thuyết vẫn chỉ là giả thuyết, và người xem cũng có thể có nhận dđịnh của riêng mình. Nhưng dù ai là người kể câu chuyện này, thì phải có những điểm chung là người ấy phải có xuất hiện trong nội dung thơ ngoại cảm này, và người đó chính là người truyền thông tin ngoại cảm cho người nông dân ở An Giang ghi chép lại.
KỶ LỤC CỦA NHỮNG VẦN THƠ NGOẠI CẢM
Những truyện thơ đã được mọi người biết đến như:
Truyện thơ Thạch Sanh - Lý Thông dài 1.822 câu thơ lục bát.
Truyện thơ Lục Vân Tiên có 2.060 câu thơ lục bát.
Truyện Kiều của Nguyễn Du gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát.
Truyện thơ Phạm Công Cúc Hoa gồm 4.610 câu thơ lục bát.
Trong khi đó, Những Vần Thơ Ngoại Cảm chúng tôi đang giới thiệu có độ dài bằng tổng độ dài của những truyện thơ nói trên cộng lại. Sau khi công bố đầy đủ tác phẩm này trên diễn đàn TGBN, chúng ta hy vọng sẽ có được một truyện thơ có kỷ lục về độ dài.